Chào mừng!

ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN MỚI TẢI ĐƯỢC TÀI LIỆU! Đăng ký ngay!

KHÁCH VÀ THÀNH VIÊN CÓ THỂ TẢI MIỄN PHÍ HƯỚNG DẪN ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN VÀ TẢI » THƯ MỤC MIỄN PHÍYOPOVN
ĐĂNG KÝ NÂNG CẤP THÀNH VIÊN VIP ĐĂNG KÝ NÂNG CẤP THÀNH VIÊN VIP » ĐĂNG KÝ NGAYĐĂNG KÝ NÂNG CẤP THÀNH VIÊN VIP

Yopovn

Ban quản trị Team YOPO
Thành viên BQT
Tham gia
28/1/21
Bài viết
82,193
Điểm
113
tác giả
Một số biện pháp rèn kỹ năng tạo lập văn bản cho học sinh lớp 8 Trường THCS Thiệu Chính, Thiệu Hóa được soạn dưới dạng file word gồm 28 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
MỤC LỤC


STT
NỘI DUNG
TRANG
1​
MỤC LỤC
1​
2​
1. MỞ ĐẦU
2​
1.1. Lí do chọn đề tài
2​
1.2. Mục đích nghiên cứu
3​
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3​
1.4. Phương pháp nghiên cứu
4​
3​
2. NỘI DUNG
5​
2.1. Cơ sở lí luận
5​
2.2.Thực trạng vấn đề nghiên cứu
6​
2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện
7​
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
18​
4​
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19​
3.1. Kết luận
19​
3.2. Kiến nghị
19​













































1. MỞ ĐẦU​

1.1. Lí do chọn đề tài

M.Gooki đã từng nói “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò quan trọng trong đời sống và sự phát triển tư duy của loài người. Là một môn học thuộc nhóm KHXH, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời môn Ngữ văn còn là môn học thuộc nhóm công cụ[5].Vị trí đó nói lên mối quan hệ giữa Ngữ văn và các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác dụng tích cực đến kết quả học tập của các môn khác và các môn khác cũng có thể góp phần giúp học tốt môn Ngữ văn. Vị trí đó tự nó cũng toát lên yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lý thuyết, gắn với đời sống[1]

Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt trong việc thể hiện mục tiêu chung của trường THCS: Góp phần hình thành những con người có trình độ, học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời, hoặc tiếp tục học lên ở bậc cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật [1]. Trước hết, là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó cũng là những con người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ mục tiêu tổng quát trên, người giáo viên nói chung, giáo viên dạy văn nói riêng cần phải tìm ra cho riêng mình những phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh yêu văn, thích học văn làm được những bài văn hay.

Trong quá trình giảng dạy những kiến thức học sinh lĩnh hội được sẽ được phản ánh cụ thể trong những bài tập làm văn. Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình nắm vững được trình tự của các bước làm một bài văn, làm được những bài văn hay, nhưng điều này quả là một điều rất khó khăn. Bài văn hay trước hết là phải viết đúng (đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày…)

Xác định đúng và thực hiện tuần tự các bước trong một bài văn là rất cần thiết. Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất quan trọng, bước này giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của đề cũng giúp người viết tìm ra các ý và lập một dàn ý tốt. Từ một dàn ý tốt người viết sẽ triển khai viết các phần, các đoạn rồi viết thành một bài viết (hay còn gọi là một văn bản) hoàn chỉnh, tránh được sự dài dòng, lộn xộn các ý tạo được sự thống nhất, hài hòa giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó còn phải viết đúng kiến thức cơ bản của kiểu bài, của các tác phẩm văn chương mới tạo nên được một văn bản hay[4].

Trong quá trình giảng dạy bản thân tôi nhận thấy đa số học sinh chưa biết cách làm một bài văn đúng, đủ. Bài văn của các em vẫn còn hiện tượng lạc đề, xa đề do các em đã bỏ qua hầu hết các bước :Tìm hiểu đề, tìm ý và lập dàn ý. Các em cho rằng đây là những bước phụ không quan trọng, khi giáo viên ra đề bài các em viết luôn bài viết hoàn chỉnh, thậm chí nhiều em viết xong bỏ qua cả bước “Đọc và sửa chữa” nộp bài luôn.

Là một giáo viên nhiều năm trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, tôi luôn suy nghĩ và trăn trở làm sao để các em học sinh ham học văn và viết văn tốt. Chính vì thế tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh làm bài tập làm văn đạt hiệu quả cao. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng cho đến nay tôi đã tìm được cho mình một cách làm mà bản thân thấy hiệu quả rõ rệt. Đó chính là hình thành cho các em dần từ thói quen rồi trở thành kỹ năng, kỹ năng trong khi làm bài tập làm văn đó là kỹ năng tìm hiểu đề, phân tích đề, kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, kỹ năng diễn đạt, kỹ năng trình bày. Chính vì vậy năm học này tôi đã quyết định thực hiện sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp rèn kỹ năng tạo lập văn bản cho học sinh lớp 8 Trường THCS Thiệu Chính, Thiệu Hóa”.

1.2. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài: “Một số biện pháp rèn kỹ rèn kỹ năng tạo lập văn bản cho học sinh lớp 8 Trường THCS Thiệu Chính, Thiệu Hóa”, tôi mong muốn nâng cao kết quả học tập, chất lượng làm văn nghị luận của học sinh. Khi đưa đề tài này vào trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở nhà trường THCS, học sinh sẽ hứng thú hơn, hiệu quả giáo dục của bộ môn sẽ được nâng cao.

1.3. Đối tượng nghiên cứu

Trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm, đối tượng tôi lựa chọn nghiên cứu là kỹ năng viết bài ; với đối tượng áp dụng đề tài là học sinh lớp 8 trường THCS Thiệu Chính; hy vọng đề tài này sẽ trở thành tài liệu hữu ích giúp giáo viên và học sinh đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giảng dạy và học tập.

1.4. Phương pháp nghiên cứu

GV đọc tài liệu tham khảo, sách giáo khoa, biên soạn đề cương, sử dụng những phương pháp nghiên cứu khoa học. Đồng thời kết hợp một số phương pháp đặc trưng bộ môn:

- Phương pháp điều tra, khảo sát.

- Phương pháp phân tích,tổng hợp.

- Phương pháp giải thích, chứng minh.

- Phương pháp so sánh đối chiếu số liệu.[5]

























































2. NỘI DUNG​

2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề​

Môn Ngữ văn trong chương trình THCS nói chung và môn Ngữ văn 8 nói riêng, trọng tâm là rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho HS, làm cho HS có kỹ năng nghe, nói, đọc viết Tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm thụ và bình giá văn học. Trong môn Ngữ văn, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp các phân môn khác[5]. Qua tiết Tập làm văn HS có khả năng xây dựng một văn bản đó là bài nói, bài viết, nhưng để hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nó phụ thuộc rất lớn vào năng lực của thầy và cả của học sinh.

Năng lực có quan hệ chặt chẽ với tri thức, kỹ năng. Để phát triển một năng lực nào đó cần có một số kỹ năng nhất định. Tri thức, kỹ năng tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy năng lực phát triển. Ngược lại, năng lực lại giúp học sinh nắm vững những kỹ năng, tri thức cần thiết. Từ những kiến thức được trang bị, học sinh cần phải có khả năng vận dụng chúng vào thực tế. Khả năng ứng dụng đó gọi là kỹ năng. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là: Người giáo viên dạy tập làm văn như thế nào để học sinh viết tốt bài văn của mình. Cách thức tổ chức, tiến hành dạy tiết tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.

Một bài văn của học sinh trong nhà trường phổ thông bao giờ cũng phải hướng tới 2 yêu cầu cơ bản là: nội dung và hình thức. Nội dung bài văn do 2 yếu tố cơ bản tạo nên là ý và văn. Muốn có ý cần phân tích thật kỹ đề bài, phải biết tìm ý và lập dàn ý cho bài viết. Bài văn có ý chưa đủ mà từ ý phải biết diễn đạt thành văn; diễn đạt phải chặt chẽ, sáng sủa và phản ánh được đúng ý. Hình thức bài văn chủ yếu thể hiện ở việc trình bày nội dung bài viết trên trang giấy (bố cục, chữ viết, chính tả …). Có thể nói làm kiểu văn bản nào cũng phải rèn luyện theo các yêu cầu vừa nêu. Các yêu cầu ấy có thể xếp thành các nhóm kỹ năng lớn sau đây:

- Nhóm 1: Kỹ năng tìm hiểu đề, phân tích đề

- Nhóm 2: Kỹ năng tìm ý, lập dàn ý

- Nhóm 3: Kỹ năng diễn đạt

- Nhóm 4: Kỹ năng trình bày[5]

Trong mỗi nhóm kỹ năng ấy có thể hình thành các kỹ năng bộ phận (còn gọi là tiểu kỹ năng) khác nhau. Chẳng hạn, trong nhóm kỹ năng diễn đạt có thể chia ra các tiểu kỹ năng như: kỹ năng mở bài và kết bài, kỹ năng viết có hình ảnh, kỹ năng dùng từ và viết câu, kỹ năng so sánh…..

Bốn nhóm kỹ năng trên có mối quan hệ mật thiết với nhau chúng tạo thành một quy trình thống nhất theo trật tự. Từ phân tích, tìm hiểu đề tiếp đến tìm ý, lập dàn ý sau đó diễn đạt và cuối cùng là trình bày. Phải phân tích đề tốt thì mới có thể viết đúng hướng và mới tìm được ý. Có ý rồi phải biết sắp xếp theo một thứ tự hợp lý (để có bài văn đúng); có dàn ý hợp lý rồi mới diễn đạt thành văn (để có bài văn hay) và cuối cùng là trình bày thành bài văn (để có bài văn đẹp).[4]

Nhưng qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy mặc dù SGK đã có những tiết dạy cách làm một bài văn phải như thế nào; giáo viên cũng đã truyền thụ đầy đủ kiến thức song phần đa các em học sinh bỏ qua các kỹ năng hoặc có thì cũng chỉ qua loa đại khái, chỉ viết rồi nộp một cách đối phó không nghĩ mình làm được gì qua những bài tập làm văn đó. Với học sinh lớp 8 – trường THCS Thiệu Chính”, nhiều em đã đi qua nửa chặng đường của cấp THCS mà chưa hình thành cho mình được những kỹ năng cần thiết khi làm một bài văn . Trong quá trình tham gia vào các hoạt động này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói (tiết luyện nói), ngại viết (tiết viết bài).

2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu​

2.2.1. Thuận lợi

- Được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát và kịp thời của BGH, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ tương đối đầy đủ giúp cho việc dạy và học.

- Đa số học sinh ngoan, chăm chỉ học tập.

2.2.2. Khó khăn

- Về phía giáo viên: Bản thân tôi là GV trong diện đi nghĩa vụ, mới về trường công tác từ đầu năm học 2018-2019, nên việc tiếp cận học sinh ở môi trường mới cũng còn nhiều bỡ ngỡ.

- Về phía học sinh:

+ Học sinh trường THCS Thiệu Chính nói chung và học sinh lớp 8 nói riêng, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt. Khối 8 có 52 học sinh thì hơn 30% số học sinh ở với ông bà hoặc người thân. Đời sống kinh tế của xã nhà còn nhiều khó khăn. Thêm vào đó nhiều phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con cái, mải lo làm kinh tế (nhiều gia đình để con ở nhà cho ông bà đi làm ăn xa).

+ Nhiều học sinh ý thức chưa cao, chưa chú ý đến việc học, trên lớp hay nói chuyện riêng không nghe thầy cô giảng, về nhà không làm bài nên khi làm văn (viết văn) thường lúng túng, vụng về …Học văn đòi hỏi học sinh phải chịu khó viết nhiều, đọc nhiều nhưng hầu như học sinh không mặn mà với việc học văn vì thế vốn từ càng trở nên nghèo nàn.

+ Mặt khác, môn Ngữ văn có đặc trưng riêng mang tính nghệ thuật ngôn từ , khi làm văn học sinh không chỉ "hiểu" mà còn phải "cảm " thì bài văn mới có " hồn". Vậy nên nếu các em không nắm được gốc, rễ, không hiểu cặn kẽ, không tuân thủ đầy đủ các bước tạo lập một văn bản thì các em sẽ khó lòng viết tốt một bài văn. Qua bài kiểm tra KSCL đầu năm và bài Tập làm văn số 1 của HS lớp 8A, tôi thu được kết quả như sau:

Năm học
2018-2019
Số học sinh

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL​
%​
SL​
%​
SL​
%​
SL​
%​
8A​
27​
0​
0
6​
22,2
15​
55,6
6​
22,2
8B​
25​
0​
0
1​
4
12​
48
12​

48
TỔNG SỐ​
52​
0​
0
7​
13,5
27​
51,9
18​

34,6
Từ thực trạng trên, bản thân tôi được phân công dạy môn Ngữ văn khối 8 và phân công dạy đội tuyển HS giỏi lớp 8, tôi luôn trăn trở phải làm gì để để tìm ra giải pháp giúp các em hứng thú với việc học văn và có kĩ năng tạo viết một bài văn nghị luận đúng, đủ mang đậm "chất văn". Cũng chính từ sự băn khoăn, trăn trở đó qua nhiều năm tích lũy, đúc rút tìm tòi tôi đã mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn kỹ năng tạo lập văn bản cho học sinh lớp 8 Trường THCS Thiệu Chính, Thiệu Hóa” nhằm mục đích cung cấp cho HS một con đường nhanh và dễ khi viết bài. Đồng thời giúp cho học sinh tìm hiểu sâu hơn về các vấn đề: Tìm hiểu - phân tích đề, tìm ý – lập dàn ý, diễn đạt và trình bày.Từ đó hình thành cho các em kinh nghiệm để góp phần làm tốt bài văn nghị luận. Ngoài ra với mục đích để trao đổi với đồng nghiệp để cùng bổ khuyết, xây dựng cho các giải pháp ngày càng hoàn thiện hơn trong quá trình áp dụng.

2.3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện​

2.3.1. Giải pháp 1: Kỹ năng tìm hiểu, phân tích đề​

- Giáo viên cần giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng hướng làm bài.

- Kỹ năng tìm hiểu, phân tích đề là kỹ năng định hướng làm bài cho toàn bộ quá trình thực hiện 1 bài tập làm văn, bước này nhằm đáp ứng yêu cầu mà đề bài đặt ra. Nhiệm vụ của kỹ năng này là xác định được vấn đề trọng tâm mà bài viết cần làm sáng tỏ và hướng giải quyết.

Tuy nhiên, có một thực tế mà hầu hết giáo viên bộ môn văn cũng như bản thân tôi đều nhận thấy những học sinh chưa có nhiều kinh nghiệm hoặc trây lười trong học tập thường không chú ý đến các bước này. Vì vậy mà đa số các em trong quá trình làm bài các em thường mắc các lỗi lạc đề, lệch đề nên bài văn thường không có điểm cao.

Khi gặp đề tập làm văn, mới đọc qua đề chưa cần tìm hiểu gì đã vội viết ngay, làm ngay, gặp gì viết nấy. Ví dụ cứ thấy đề về Nam Cao là viết tất cả những gì mình biết về tác giả này. Thực ra thì hoàn toàn không phải như vậy, mỗi đề văn nhất là đề văn hay, người ra đề ngoài những yêu cầu bình thường, luôn luôn “cài đặt” trong đó một ẩn ý mà chỉ có học sinh chịu khó tìm hiểu, suy nghĩ mới có thể phát hiện và đáp ứng được. Chính vì lẽ đó hướng dẫn cho các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh tránh được các lỗi lạc đề, lệch đề từ đó bài văn sẽ tốt hơn.

Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mọi bài văn viết cũng như trước các đề trong bài học trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kỹ năng cần thiết trước khi viết bài…

Ví dụ: Sắp đến các tiết bài viết số 1, số 2, bài kiểm tra văn làm tại lớp giáo viên ra đề (chọn một trong các đề sẵn trong SGK tiết viết bài) rồi yêu cầu học sinh về nhà thực hiện trước bước tìm hiểu đề với các đề bài trên rồi sau đó giáo viên kiểm tra kết quả của các em (yêu cầu làm ra giấy).

Để giúp học sinh tìm hiểu, phân tích đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh đọc đi đọc lại nhiều lần, xác định những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm nổi bật các yêu cầu của đề.

Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các yêu cầu của đề.

- Đề ra thuộc kiểu bài nào?

- Lời yêu cầu về kiểu bài: trực tiếp (đề mở) hay gián tiếp (đề vòng).

- Đề bài và giới hạn: Học sinh cần tìm hiểu rõ qua từng từ ngữ để xác định giới hạn của đề bài. Chỉ 1 sơ suất nhỏ trong việc xác định giới hạn của đề bài cũng có thể dẫn các em từ tản mạn, xa đề đến lạc đề.

Ví dụ: Cho đề bài: Em hãy kể lại một kỷ niệm sâu sắc với người mà em thấy thân thiết nhất.

Trước đề này có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm nhưng không có kỷ niệm nào được kể một cách đầy đủ. Rồi đến đang kỷ niệm về mẹ lại chuyển sang bố. (Học sinh mắc lỗi này nguyên nhân là do các em xác định chưa đúng yêu cầu của đề, chưa tìm ra được từ “khóa” trong đề đó là: “Một kỷ niệm sâu sắc” và “người mà em thấy thân thiết nhất”).

Tìm hiểu, phân tích đề là bước quan trọng, tuy nhiên trong chương trình học thời gian dành cho khâu này còn quá ít. Để khắc phục được khó khăn trên và cho HS thực hiện tốt bước này bản thân đã kết hợp thời gian trên lớp, thời gian ở nhà của các em để hướng dẫn cho các em thực hành.

Ví dụ 1:

Khi dạy xong bài “Xây dựng đoạn văn trong văn bản” (tiết 10 – bài 3 Ngữ Văn 8 ) giáo viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị tốt các điều kiện để làm bài các em về nhà hãy thực hiện trước bước tìm hiểu đề với 2 đề (đề 1, 2) có trong phần viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự (SGK-tr.37)[2]

Đến tiết 11 – 12 Ngữ văn 8 (tiết viết bài tại lớp) trước khi giao bài kiểm tra đã phô tô cho các em. Giáo viên yêu cầu 1 -> 2 em học sinh trình bày kết quả của việc tìm hiểu đề trước ở nhà, 1 -> 2 học sinh nhận xét, giáo viên kết luận rồi mới cho các em viết bài.

Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại:

Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học[2]

- Kiểu bài: Kể (tự sự)

- Yêu cầu: Trực tiếp (có lệnh đề)

- Giới hạn: Những kỷ niệm trong ngày đầu tiên đi học (chỉ trong ngày đầu tiên mà thôi.)

Đề 2: Người ấy (bạn, thầy, người thân …) sống mãi trong lòng tôi[2]

- Kiểu bài: Kể (tự sự)

- Yêu cầu: Gián tiếp (không có lệnh đề)

- Giới hạn: Chỉ chọn kể về một người thân (có thể là một kỷ niệm khó quên với người đó).

Cuối cùng giáo viên chọn đề 1 cho bài kiểm tra tại lớp (2 tiết).

Trong các tiết trả bài tôi đã chỉ ra cho học sinh thấy một cách nghiêm túc rằng trong các lỗi các em mắc lỗi lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập làm văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt điểm số cần thiết.

Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản nhưng đối với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy trước bất cứ một đề văn nào giáo viên luôn yêu cầu học sinh chú trọng thực hiện bước này. Có thể nói rằng đây là một bước mất rất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang lại hiệu quả cao trong quá trình làm bài của học sinh. Giáo viên phải luôn luôn nhắc nhở các em muốn làm được một bài văn hay trước hết phải nhận thức đề cho “đúng” và cho “trúng

2.3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách tìm ý, lập dàn ý cho các đề văn (kỹ năng tìm ý, lập dàn ý)​

- Trước một đề văn hay, phân tích, tìm hiểu cho kỹ càng, sâu sắc đã khó, xây dựng cho được một dàn ý, cho tương đối hoàn chỉnh và đúng đắn lại càng khó hơn. Bởi trước một vấn đề của cuộc sống xã hội hoặc văn chương không ít cách tiếp cận, cách tìm hiểu và do vậy, ít khi có một lời đáp duy nhất, đặc biệt là loại đề phân tích, bình giảng một tác phẩm. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là trước một đề văn ai thích nói gì thì nói mà phải có lý, phải có sức thuyết phục. Vì thế, trước 1 đề văn dù muốn hay không người ra đề cũng như người viết bài cũng phải nêu lên được cách hiểu (nhận thức đề) và những ý cơ bản cần phải đạt được trong bài viết tức là phải hình thành được hệ thống ý đáp ứng được yêu cầu của đề.

* Tìm ý

Trước hết giáo viên cần cho học sinh thấy ý ở đây là ý của đề bài đặt ra chứ không phải ý của các văn bản (tác phẩm) được phân tích. Tất nhiên, có khi ý của đề trùng với ý của tác phẩm được phân tích.

Ví dụ: Em hãy phân tích truyện ngắn “ Lão Hạc” của Nam Cao thì ý của đề gần như trùng với ý của tác phẩm được phân tích.

Cũng là truyện ngắn trên, nhưng với đề “Em có suy nghĩ gì về cái chết của Lão Hạc” thì ý của đề lại khác và do vậy xây dựng luận điểm cũng như cách phân tích lập luận cho 2 đề là rất khác nhau.[4]

Để tìm được ý cho một đề văn một trong những cách tương đối hiệu quả là giáo viên giúp học sinh biết đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời. Việc đặt ra các câu hỏi thực chất là giúp học sinh biết soi sáng đối tượng dưới nhiều góc độ, biết lật đi lật lại vấn đề để tìm hiểu, xem xét cho kĩ càng và thấu đáo hơn.

Ví dụ: Trước khi giáo viên cho học sinh viết bài tập làm văn số 7 ( Tiết 123- 124 văn nghị luận lớp 8) giáo viên giao trước cho các em một đề bài để các em luyện tập, rèn kỹ năng, tìm hiểu đề, tìm ý.

Đề bài: Trái đất sẽ ra sao nếu thiếu đi màu xanh của những cánh rừng.[5]

Tìm hiểu và phân tích đề văn trên, học sinh sẽ nhận ra vấn đề trọng tâm cần làm sáng tỏ ở đây là: Vai trò to lớn của rừng đối với đời sống con người.

Để tìm ý cho bài viết, học sinh có thể đặt ra những câu hỏi như:

- Rừng mang lại những lợi ích gì?

- Hiện nay rừng đang bị tàn phá ra sao?

- Những nguyên nhân nào khiến rừng bị tàn phá?

- Những hậu quả to lớn do rừng bị tàn phá là gì?

- Cần phải làm gì để cứu lấy rừng?

- Những suy nghĩ và tình cảm của bản thân em trước cảnh rừng bị tàn phá và ước mơ về tương lai của rừng như thế nào?....

Trong những câu hỏi lớn trên học sinh có thể đặt tiếp các câu hỏi nhỏ để triển khai các ý lớn. Chẳng hạn để triển khai những lợi ích của rừng có thể đặt tiếp các câu hỏi:

+ Rừng mang lại lợi ích kinh tế chỗ nào?

+ Rừng có mang lại lợi ích về văn hóa không?

+ Rừng có vai trò như thế nào đối với môi trường và sức khỏe của con người?

Tương tự cách làm bài như trên giáo viên có thể chỉ ra cho học sinh cách xác định và tìm ý cho hàng loạt đề văn theo các yêu cầu khác nhau.

Ví dụ: Tiết 51 “ Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh” với 12 đề văn đã cho trong SGK[2]. Sau khi học xong lý thuyết của tiết học này. Giáo viên chọn 1 đề trong số các đề đã cho giao cho học sinh về nhà tìm ý theo hình thức đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời các câu hỏi. Giáo viên thu bài tập về nhà và kiểm tra, nhận xét.

Đề bài: Giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam[2]

Đề văn này danh giới giữa miêu tả và thuyết minh rất gần. Nếu không nắm vững lý thuyết về văn thuyết minh, học sinh rất dễ bị lạc đề. Để có hệ thống ý cho bài viết cần trả lời các câu hỏi như:

- Chiếc nón lá có từ bao giờ?

- Nó dùng để làm gì? (công dụng)?

- Được làm từ vật liệu nào?

- Cách làm ra sao?

- Yêu cầu kỹ thuật, mĩ thuật ?

- Nét đẹp và duyên dáng của chiếc nón ở chỗ nào?

- Nó có ý nghĩa như thế nào trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam?

Với cách đặt ra các câu hỏi và tìm cách trả lời câu hỏi dần dần sẽ hình thành cho các em kỹ năng tìm ý một cách thành thục.

* Lập dàn ý:

Như trên đã trình bày, có ý rồi, học sinh cần biết tổ chức, sắp xếp các ý ấy thành một hệ thống nhằm làm nổi bật đối tượng, vấn đề. Công việc này gọi là lập dàn ý hoặc xây dựng bố cục, kết cấu cho bài viết. Thông thường bài văn có 3 phần, mỗi phần có một nhiệm vụ cụ thể.

+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng hoặc vấn đề trọng tâm cần làm sáng tỏ.

+ Thân bài: Triển khai, cụ thể hóa đối tượng và vấn đề trọng tâm đã nêu ở mở bài bằng hệ thống ý được sắp xếp một cách hợp lý.

+ Kết bài: Chốt lại vấn đề, nêu suy nghĩ, bài học cho bản thân.

Tiết 32: Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.[2]

Sau khi học xong lý thuyết giáo viên củng cố kiến thức, kỹ năng lập dàn bài cho học sinh bằng cách hướng dẫn HS luyện tập nhiều lần theo các bài tập SGK trang 95)

Ví dụ 1: Lập dàn ý cho văn bản “Cô bé bán diêm” của A-đéc-xen

(Bài tập 1 – SGK ngữ văn 8 – tr.95)

Giáo viên gọi 1 học sinh đọc yêu cầu của bài tập. Sau đó hướng dẫn học sinh cách lập dàn ý theo các gợi ý trong SGK, tìm cách trả lời các câu hỏi. Học sinh làm việc độc lập trong khoảng 10 phút. Giáo viên cho 2 -> 3 học sinh đứng tại chỗ trả lời; lớp nhận xét, bổ sung. (Giáo viên yêu cầu học sinh làm ra giấy sau đó thu lai để kiểm tra kết quả làm việc của từng em tránh tình trạng nhiều em không chịu làm bài tập mà chỉ làm đối phó với giáo viên).

Cuối cùng giáo viên chiếu dàn bài mẫu để học sinh đối chiếu với dàn bài của mình để rồi rút kinh nghiệm.

a. Mở bài

- Giới thiệu quang cảnh đêm giao thừa và gia cảnh em bé bán diêm

b. Thân bài

- Không bán được diêm không dám về sợ bố đánh; tìm góc tường tránh rét.

- Liều đánh diêm

+ Que 1 (lần 1): Tưởng ngồi trước lò sưởi (vì rét)

+ Que 2 (lần 2): Tưởng là bữa tiệc (vì đói)

+ Que 1 (lần 3): Tưởng cây thông nô-en (đêm giao thừa)

+ Que 4 (lần 4): Thấy bà đang cười với em (người thân yêu nhất)

+ Que còn lại: Cùng bà bay lên cao… đón niềm vui đầu năm.

- Các yếu tố tả và biểu cảm được đan xen trong quá trình kể chuyện về cô bé bán diêm, đặc biệt sau những lần quẹt diêm thì cảnh thực và mộng được miêu tả sinh động cùng những suy nghĩ và tâm trạng của em bé.

c. Kết bài

- Em bé chết vì giá rét trong đêm giao thừa

- Không ai biết điều kì diệu mà em trông thấy, được gặp bà và cùng bà bay lên cao đón niềm vui đầu năm.[3]

Ví dụ 2: (Bài tập 2 – SGK ngữ văn 8, tr.95)[2]

Lập dàn ý cho đề bài: “Hãy kể về một kỷ niệm với người bạn tuổi thơ khiến em xúc động và nhớ mãi”.

- Giáo viên hướng dẫn các em lập dàn ý cho đề văn này bằng cách đặt ra các câu hỏi cho những phần rồi sẽ tìm ra câu trả lời trong quá trình viết bài cụ thể.

a. Mở bài

- Giới thiệu người bạn đó là ai? Kỷ niệm đó như thế nào khiến mình xúc động và nhớ mãi ?

b. Thân bài

- Tập trung kể về kỷ niệm xúc động ấy gồm các ý sau:

+ Kỷ niệm xảy ra ở đâu ? Lúc nào, với ai (hoàn cảnh, thời gian, nhân vật)

+ Chuyện xảy ra như thế nào ? (Mở đầu, diễn biến, kết quả)

c. Kết bài

- Suy nghĩ về người bạn và kỷ niệm ấy đối với em bây giờ.

Khi làm bài nhiều em hay mắc lỗi lạc đề bởi vì khâu lập dàn bài các em thường bỏ qua hoặc làm không tốt, không có sự chuẩn bị. Vì vậy giáo viên phải cho học sinh làm thuần thục khâu này. Đồng thời chỉ ra cho các em thấy trong việc tìm ý và lập dàn ý các em thường mắc một số lỗi cần lưu ý rút kinh nghiệm để tránh mắc phải:

- Lỗi lạc ý (lạc đề).

* Biểu hiện: Các ý lớn không tập trung làm sáng tỏ cho vấn đề trọng tâm của đề bài (luận điểm bộ phận không phù hợp với luận điểm trung tâm).

+ Các ý nhỏ không tập trung làm sáng tỏ cho ý lớn (lạc đề bộ phận không phù hợp với lạc đề trung tâm hoặc luận cứ không phù hợp với luận đề bộ phận). Chẳng hạn đề ra: Phải chăng “cái nết đánh chết cái đẹp” đang trình bày ý tại sao cái nết đánh chết cái đẹp thì lại phân tích giá trị của cái đẹp.

+ Các dẫn chứng không liên quan gì đến ý cần làm sáng tỏ.

- Lỗi thiếu ý (sót ý)

+ Không đủ ý lớn để làm sáng tỏ vấn đề trọng tâm.

+ Không đủ ý nhỏ để làm sáng tỏ các ý lớn.

+ Không có hoặc không đủ các dẫn chứng để làm sáng tỏ cho các ý nhỏ

- Lỗi lặp ý

Bài viết bị coi là phạm lỗi lặp ý khi các ý sau (ý lớn và ý nhỏ) lặp lại hoàn toàn hoặc lặp lại một phần ý trước. Chẳng hạn: ý trước trình bày vì sao cái nết đánh chết cái đẹp; ý sau lại phân tích tại sao cái đẹp lại bị cái nết đánh chết.

- Lỗi sắp xếp ý lộn xộn

* Biểu hiện: Không phân biệt được ý lớn với ý nhỏ, ý phải trình bày trước với ý phải trình bày sau:

Ví dụ: Lẽ ra phải trình bày cái nết là gì? Cái đẹp là gì trước rồi sau đó mới trình bày tại sao cái nết lại đánh chết cái đẹp thì lại làm ngược lạ.

Trình bày ý 1 chưa hết đã chuyển sang ý 2 sau đó lại quay về ý 1.

2.3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh kỹ năng diễn đạt​

Sau khi đã có ý rồi, thì vấn đề quan trọng hơn cả là biết diễn đạt hay. Tức là biết diễn đạt một cách khéo léo những ý của bài viết thành lời văn cụ thể. Nhiều khi giáo viên đưa ra cùng 1 ý nhưng do cách hiểu, cách diễn đạt khác nhau mà một đằng thì hay một đằng thì chỉ bình thường. Diễn ý hay phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sau đây tôi xin đưa ra một số yếu tố giáo viên có thể dựa vào đây để hướng dẫn học sinh tạo nên cách diễn đạt ý hay.

2.3.3.1. Giọng văn và thay đổi giọng văn trong bài viết

- Trong một bài văn người viết bao giờ cũng thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng của mình trước một vấn đề mình đang bàn bạc. Giọng văn là sự thể hiện màu sắc biểu cảm đó. Qua bài viết mà nhận ra người viết tán thành hay phản đối, ngợi ca hay châm biếm … Hơn nữa để tránh nhàm chán, để bài viết sinh động, phong phú người viết phải rất linh hoạt trong việc hành văn. Trước hết, cần sử dụng thật linh hoạt hệ thống từ nhân xưng phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng. Ví dụ: Khi viết về nhà thơ Tố Hữu ta có thể dùng khi thì Tố Hữu, khi thì nhà thơ, rồi tác giả, ông, người chiến sĩ, nghệ sĩ, người con xứ Huế…. Hay khi biểu thị ý kiến của riêng mình học sinh thường viết: Tôi cho rằng, tôi nghĩ rằng, theo tôi được biết … Nhưng để lôi kéo sự đồng tình, đồng cảm, để vấn đề đang bàn bạc trở nên khách quan hơn thì người viết nên xưng: Chúng tôi, chúng ta, như mọi người đều biết, như mọi người đã thấy.

Không phải chỉ ở cách dùng từ xưng hô, giọng văn linh hoạt còn thể hiện ở cách dùng các tiểu từ như: vâng, đúng thế, không, điều ấy đã rõ, như vậy, như thế, chẳng lẽ … Những từ này tạo ấn tượng như người viết đang tranh luận và đối thoại trực tiếp với người đọc, giáo viên hướng dẫn học sinh dùng một loại thao tác tư duy nên học sinh luôn luôn thay đổi. Khi thì dùng diễn dịch, khi thì dùng quy nạp, khi thì phân tích trước, dẫn chứng sau, khi thì dẫn chứng trước, phân tích sau, khi thì liên hệ, khi so sánh cũng là để bài viết có giọng văn sinh động phong phú, không đơn điệu một chiều.

Giọng văn còn được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau như: dùng từ đặt câu, nêu ý, cách lập luận, cách dùng hình ảnh, cách sử dụng dấu câu, từ cảm thán … Đây cũng chính là những biện pháp giúp người viết diễn đạt hay.

2.3.3.2. Dùng từ độc đáo

Từ ngữ là vốn chung của cộng đồng nhưng trong thực tế có những từ không phải ai cũng biết sử dụng, dùng đúng, dùng hay.

Trong viết văn cũng vậy, viết phải dùng được những từ hay, đoạn hay thì mới có bài hay. Dùng từ hay là một trong những yếu tố quyết định để có cách diễn đạt hay. Một trong những yếu tố của văn hay là bài văn đó đọc lên từ ngữ cứ như “găm” vào tâm khảm người đọc, từ ngữ linh hoạt, dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được thần thái của sự vật, sự việc … Muốn thế, một mặt người viết vừa phải tích lũy cho mình một vốn từ ngữ phong phú (đọc, giao tiếp, học hỏi qua văn mẫu). Mặt khác người viết phải có ý thức sử dụng khi viết. Bởi vì từ độc đáo thường mang tính 2 mặt: Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ ta có đoạn văn, câu văn hay, ngược lại dễ rơi vào sáo rỗng, khoe chữ, đó là chưa kể nhiều học sinh không hiểu đúng từ mà vẫn dùng bừa, dùng ẩu.

2.3.3.3. Viết câu linh hoạt

Tính linh hoạt trong việc sử dụng câu thể hiện ở chỗ: Tùy từng lúc, từng nơi, tùy vào giọng văn của từng đoạn mà học sinh chọn những loại câu tương ứng để diễn đạt cho phù hợp.

+ Để diễn đạt tình cảm và thái độ của mình, người viết trực tiếp dùng câu cảm thán.

+ Khi muốn gây sự chú ý cho người đọc, người viết trực tiếp dùng câu nghi vấn. Câu nghi vấn ở đây như là đặt ra vấn đề rồi sau đó tự trả lời, tự làm sáng tỏ.

+ Một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng văn trong bài nghị luận là loại câu có 2 mệnh đề hô - ứng. Chúng thường theo lối kết cấu: Tuy … nhưng, càng … càng, không những … mà còn, vì thế …. cho nên …. Khi luyện tập viết loại câu này giáo viên cần lưu ý học sinh viết đủ cả 2 vế rồi mới chấm câu. Tránh tình trạng chấm câu chỉ mới có 1 vế.

Tóm lại, trong một bài văn nghị luận viết câu phải thật linh hoạt. Từ và câu là những đơn vị mà người đọc dễ nhận thấy cái hay của sự diễn đạt.

2.3.3.4. Viết văn có hình ảnh

- Với học sinh cấp THCS chương trình xây dựng theo cấu trúc “đồng quy” nên các em học về văn nghị luận từ lớp 7 lên lớp 8 và tiếp tục có ở lớp 9 (chiếm thời lượng nhiều).[5]

- Trong các kiểu văn bản như tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh …. đương nhiên là cần có hình ảnh. Văn nghị luận nói chung là loại văn của tư duy logic. Ý, từ cần chặt chẽ, sáng sủa, lập luận phải chắc chắn bảo đảm độ chính xác cao, giàu sức thuyết phục đối với trí tuệ. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là văn nghị luận chỉ trình bày vấn đề một cách khô khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc và hình ảnh. Ngôn ngữ văn nghị luận cũng cần phải hấp dẫn, lôi cuốn bằng từ ngữ có tính hình tượng và có sức biểu cảm cao.

Biện pháp cơ bản nhất để tạo nên bài viết có hình ảnh là người viết dùng phép so sánh, liên hệ, đối chiếu.

Ví dụ: Cho luận điểm “Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống”. Em hãy phát triển luận điểm trên bằng một đoạn văn ngắn.

Đoạn văn mẫu: Văn Nguyên Hồng bao giờ cũng lấp lánh sự sống. Những dòng chữ đầy chi tiết cứ cựa quậy phập phồng. Một thứ văn bám riết lấy cuộc đời, quấn quýt lấy con người. Người ta thường nói nhà thơ, nhà văn cần có 3 yếu tố chủ quan: tài, trí và tâm. Có cây bút chỉ mạnh về tài và trí. Đọc Nguyên Hồng ta thấy có tài và có tâm nhất là tâm nổi lên hàng đầu[6]

2.3.3.5. Phân tích dẫn chứng

Trong văn nghị luận, dẫn chứng thường là linh hồn của bài viết. Dẫn chứng phải được phân tích cho hay và gắn nó với lý lẽ mà nó cần làm sáng tỏ. Một bài văn có nhiều dẫn chứng la liệt chỉ mới chứng tỏ người viết chăm học và có trí nhớ tốt, nhưng những dẫn chứng đó không được phân tích thì người đọc hầu như không hiểu được dẫn chứng nhằm phục vụ gì cho lý lẽ, có ý nghĩa gì với lý lẽ. Như vậy phân tích dẫn chứng còn quan trọng hơn cả bản thân dẫn chứng. Vì thế, khi chọn dẫn chứng giáo viên lưu ý học sinh: Ngoài yêu cầu chính xác, đa dạng, cần chú ý đến những dẫn chứng mà tự mình thấy có khả năng phân tích được sắc sảo và hay.

Ví dụ: Nêu cảm nhận của em về 3 câu thơ mở đầu bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. (Có thể thay bằng đoạn văn miêu tả tâm trạng của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng (“mặt lão đột nhiên...con nít”)

Giáo viên cho học sinh tham khảo đoạn văn mẫu phần thân bài:

Bài thơ mở ra là hình ảnh bếp lửa. Đó là một bếp lửa ở làng quê Việt Nam:

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm​

Chờn vờn” là từ láy gợi hình ảnh một bếp lửa trong sương sớm, ánh lửa chập chờn lung linh như nhảy múa, “ấp iu” là cách dùng từ sáng tạo của thi nhân. Nó được ghép bởi 2 từ “ấp ủ” và “nâng niu”, diễn tả chính xác hành động nhóm lửa chi chút, nâng niu, giữ gìn từng ánh lửa hồng, khơi lên bếp lửa nồng đượm. Hình ảnh bếp lửa ấy gợi cảm giác ấp áp, thân thuộc với khung cảnh 1 gia đình nơi vùng quê nghèo yên tĩnh…

( Có thể thay bằng đoạn văn miêu tả tâm trạng của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng ( “ mặt lão đột nhiên...con nít”)

2.3.4. Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh kỹ năng trình bày​

Trình bày là sự thể hiện nội dung, câu chữ, bố cục bằng hình thức cụ thể của bài viết trên trang giấy. Không cần đọc kỹ và suy ngẫm, giáo viên cũng có thể kiểm tra, đánh giá được ngay kỹ năng trình bày của học sinh. Hai yêu cầu của việc trình bày là: trình bày đúng và trình bày đẹp.

Thực tế là qua nhiều năm chấm bài của học sinh tôi thấy đáng buồn một điều là vốn từ của các em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng, trình bày cẩu thả,… Bài văn dù có ý tốt, có giọng văn hay nhưng trình bày không khoa học nhưng đẹp mắt thì bài văn đó cũng không gây được thiện cảm tốt cho người đọc. Mặc dù đã học đến lớp 8 nhưng rất nhiều học sinh vẫn chưa nhận ra được điều cơ bản này. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn cho các em trình bày một bài văn như thế nào là đẹp và khoa học. Các yếu tố của trình bày khá phong phú, nhưng tôi xin đưa ra một số cách mà bản thân tôi đã áp dụng hướng dẫn học sinh sau đây:

+ Chữ viết và chính tả sáng sủa, sạch sẽ: Chữ viết cần đúng, đủ nét, không mắc lỗi chính tả, rõ ràng, dễ đọc …Chữ viết đẹp thì càng tốt, nhưng trước hết phải đúng. Không nên tẩy xóa nhiều, nếu có tẩy xóa thì cũng phải tẩy xóa đúng cách (thường là gạch 1 gạch chéo chữ viết sai và viết chữ khác), tránh tình trạng tẩy xóa cẩu thả, bừa bãi, làm trang giấy nhàu, bẩn thiếu tính thẩm mỹ. Đặc biệt hiện nay học sinh rất nhiều em lạm dụng việc dùng bút xóa trong bài viết, giáo viên nên nhắc nhở các em điều này, thậm chí không nên cho các em sử dụng.

- Lề và bố cục các phần rõ rệt: Bài viết phải chừa lề, viết thẳng lề. Các phần mở bài, thân bài và kết bài cũng như các phần các đoạn lớn trong thân bài phải xuống dòng và lùi vào một khoảng xác định. Nhìn vào trang giấy có thể thấy ngay đâu là mở bài và thân bài bắt đầu từ đâu. Trong thân bài có mấy đoạn, có mấy luận điểm …

- Quy cách trích dẫn: Các dẫn chứng (thơ văn, ý kiến…) nếu đúng nguyên vẹn cần đặt trong dấu ngoặc kép (“”). Kết thúc lời dẫn cần ghi xuất xứ câu dẫn và để trong ngoặc đơn.

- Trình bày dẫn chứng: Nếu dẫn chứng là thơ thì cần ghi vào giữa trang giấy để khoảng trắng 2 bên cân đối; nếu là văn xuôi thì xuống dòng và lùi vào một chút trước khi mở ngoặc kép.

Ở kỹ năng diễn đạt và trình bày giáo viên vận dụng tối đa trong các tiết của phân phối chương trình Ngữ văn lớp 8.

+ Tiết 8: Bố cục của văn bản

+ Tiết 10: Xây dựng đoạn văn trong văn bản

+ Tiết 16: Liên kết các đoạn trong văn bản.

Có thể nói rằng để viết được một bài văn hay và đúng là rất khó, bởi ngoài việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kỹ năng khác nhau. Nhìn chung các kỹ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm lứa tuổi cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên giáo viên phải có biện pháp hữu hiệu để giúp các em thành thạo những kỹ năng đó mới mong các em vận dụng tốt được.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm​

Kết quả bài kiểm tra KSCL cuối học kì 1 và qua các bài kiểm ta định kì ở học kì 2 ở lớp 8 (Năm học 2018 – 2019) Trường THCS Thiệu Chính, tôi thấy chất lượng đã có sự chuyển biến cụ thể như sau:

Năm học
2018-2019
Số học sinh

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL​
%​
SL​
%​
SL​
%​
SL​
%​
8A​
27​
5​
18,5
15​
55,6
7​
25,9
0​
0
8B​
25​
2​
8
7​
28
16​
64
0​
0
TỔNG SỐ​
52​
7​
13,4
22​
42,3
23​
44,3
0​
0




Đối với bản thân: Bản thân tôi vững vàng hơn về phương pháp, cách thức tiến hành. Tôi đã tìm ra nguyên nhân, tìm ra các giải pháp của cá nhân với mong muốn chất lượng bài làm của các em từng bước được nâng lên. Tuy kết quả ở trên như vậy chưa phải là cao nhưng đó cũng là một sự thay đổi về ý thức làm bài của các em.

Đối với đồng nghiệp: Có thể áp dụng đề tài này vào việc dạy học của mình, đồng thời đây sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích.

Phía nhà trường: Đề tài đã góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đồng thời làm tài liệu cho cán bộ giáo viên, đặc biệt là giáo viên bộ môn Ngữ văn.





























3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ​

1. Kết luận​

Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng, đặc biệt là việc rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản (kỹ năng viết văn) cho học sinh THCS là yêu cầu cấp thiết trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Hơn 15 năm trực tiếp giảng dạy bản thân đã tích lũy được một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài văn trong chương trình Ngữ văn 8. Để áp dụng có hiệu quả những biện pháp này, người giáo viên phải thực sự tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành nhiều thời gian luyện tập cho học sinh. Do học sinh phải thực hiện phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học sinh làm bài. Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến khích, tuyên dương đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh điểm số rất quan trọng nên khi chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo viên nên cho học sinh điểm số và có điểm tinh thần tự giác.

Bên cạnh việc động viên, khuyến khích, giáo viên cũng cần có biện pháp đối với những học sinh có tính trây lười, trông chờ, ỷ lại…Nếu giáo viên làm tốt điều đó thì các em sẽ rất tự giác và có hứng thú làm bài tập ở nhà cũng như trên lớp.

Trên đây là một số giải pháp rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản cho học sinh lớp 8A Trường THCS Thiệu Chính, Thiệu Hóa của bản thân được đúc rút qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp thông qua các lớp học chuyên đề, qua các tiết dự giờ thăm lớp, qua tài liệu tham khảo… Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy sau một thời gian chất lượng bài viết của học sinh lớp 8A trường THCS Thiệu Chính đã được nâng lên rõ rệt, giảm tối đa học sinh có chất lượng làm bài yếu kém, số bài tốt cũng tăng lên.

Do thời gian, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và trình độ của bản thân có lẽ không tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu, Hội đồng khoa học các cấp, các bạn đồng nghiệp để từ đó tôi có thể rút ra nhiều kinh nghiệm giúp bản thân nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Ngữ văn THCS.

2. Kiến nghị​

- Nên tổ chức thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm công tác viết SKKN để giáo viên làm SKKN có tính thực tiễn và hiệu quả hơn.

- Nhµ trêng bè trÝ m¸y chiÕu hîp lÝ h¬n ®Ó nh÷ng giê häc Tập làm văn cña häc sinh ®îc hiÖu qu¶.

- Thư viện nhà trường nên bổ sung thêm các tài liệu tham khảo, các loại sách nâng cao cho giáo viên và học sinh.

- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học tích cực để giáo viên có cơ hội trao đổi, thảo luận kinh nghiệm dạy học tốt hơn.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường, tổ KHXH trường THCS Thiệu Chính đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thiệu Hóa, ngày 25tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác

Người thực hiện



Nguyễn Thị Hà
















































DANH MỤC

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP

LOẠI TỪ C TRỞ LÊN




Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hà

Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Thiệu Chính



TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh giá xếp loại (Phòng, Sở, Tỉnh...)
Kết quả đánh giá xếp loại (A, B, hoặc C)
Năm học đánh giá xếp loại
1Rèn kỹ năng sửa lỗi chính tả cho học sinh lớp 6 trường THCS Thiệu Tâm
PGD&ĐT Thiệu Hóa​
B​
2006 - 2007​
2Nâng cao hứng thú học tập môn Ngữ văn qua phương phương pháp giảng bình ở trường THCS Thiệu Tâm
PGD&ĐT Thiệu Hóa​

B​

2007 - 2008​
3Rèn kỹ năng làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cho học sinh lớp 9 trường THCS Thiệu Tâm
PGD&ĐT Thiệu Hóa​

C​

2010 - 2011​
4Rèn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh lớp 6 trường THCS Thiệu Tâm thông qua 1 số tiết Tiếng Việt
PGD&ĐT Thiệu Hóa​

C​

2016 - 2017​
5Phương pháp dạy các thể văn cổ “chiếu”, “tấu” cho học sinh lớp 8 ở trường THCS Thiệu Tâm
PGD&ĐT Thiệu Hóa​
C​
2017-2018​


















TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Sách giáo viên Ngữ văn 6, tập 1- Nguyễn Khắc Phi ( Tổng Chủ biên)- NXBGD- Năm 2006.

[2]. Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1, 2 - Nguyễn Khắc Phi ( Tổng Chủ biên)- NXBGD- Năm 2008.

[3]. Giúp em học tốt Ngữ văn 8, tập 1,2 - Trần Nga( Chủ biên)-NXB ĐHQG- Năm 2012

[4]. Bí quyết giỏi văn - Nguyễn Khắc Phi ( Tổng Chủ biên) - NXBGD- Năm 2004

[5]. Phương pháp dạy học văn- Trần Đình Sử( Tổng Chủ biên)- NXBGD Năm 1999

[6]. Sách giáo viên Ngữ văn 8, tập 1- Nguyễn Khắc Phi ( Tổng Chủ biên)- NXBGD- Năm 2008.

1681788160645.png
 

DOWNLOAD FILE

  • YOPOVN.COM---SKKN- NGA.docx
    52.8 KB · Lượt xem: 1
CHỦ ĐỀ LIÊN QUAN
CHỦ ĐỀ MỚI NHẤT
Nếu bạn cảm thấy nội dung chủ đề bổ ích , Hãy LIKE hoặc bình luận để chủ đề được sôi nổi hơn
  • Từ khóa
    ôn thi lớp 8 học kì 2 sách giáo khoa lớp 8 môn toán tập 1 sách giáo khoa môn toán lớp 8 tập 1 sách giáo khoa toán lớp 8 giải bài tập sách giáo khoa toán lớp 8 online sách lớp 8 online sách tiếng anh lớp 8 file pdf sách tiếng anh lớp 8 giáo viên sách tiếng anh lớp 8 sách mới sách tiếng anh lớp 8 unit 11 sách tiếng anh lớp 8 unit 4 sách tiếng anh lớp 8 unit 6 sách tiếng anh lớp 8 unit 8 sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 3 sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 3 violet sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 4 sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 4 violet sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 5 violet sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 6 sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm công tác chủ nhiệm lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm dạy nói tiếng anh lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm elearning sáng kiến kinh nghiệm hình học 8 sáng kiến kinh nghiệm hóa 8 violet sáng kiến kinh nghiệm lịch sử 8 violet sáng kiến kinh nghiệm lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm lớp 8 môn toán sáng kiến kinh nghiệm lớp lá sáng kiến kinh nghiệm mẫu mới sáng kiến kinh nghiệm môn hóa học lớp 8 9 sáng kiến kinh nghiệm môn thể dục lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm môn toán 8 sáng kiến kinh nghiệm môn toán lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm môn văn lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm môn vật lý 8 thcs sáng kiến kinh nghiệm ngữ văn 8 violet sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng làm văn thuyết minh ở trường thcs sáng kiến kinh nghiệm sinh học 8 sáng kiến kinh nghiệm tin học lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm toán 8 sáng kiến kinh nghiệm toán 8 mới nhất sáng kiến kinh nghiệm toán 8 violet 2018 sáng kiến kinh nghiệm toán 8 violet 2019 sáng kiến kinh nghiệm toán 8 violet 2020 sáng kiến kinh nghiệm văn 8 sáng kiến kinh nghiệm văn thuyết minh lớp 8 sáng kiến kinh nghiệm vật lý 8 sáng kiến kinh nghiệm vật lý 8 violet sáng kiến lớp 1 sáng kiến lớp 2 sáng kiến lớp 3 sáng kiến lớp 5 sáng kiến lớp 8 sáng kiến lớp học hạnh phúc sinh học lớp 8 bài bộ xương sinh học lớp 8 bài sinh sản sinh học lớp 8 sách bài tập sinh học lớp 8 sách giáo khoa soạn bài lớp 8 quê hương soạn văn 8 ôn tập tổng hợp soạn văn lớp 8 bài 11 soạn văn lớp 8 bài ông đồ soạn văn lớp 8 dấu ngoặc kép soạn văn lớp 8 giáo án soạn văn lớp 8 lời giải hay soạn văn lớp 8 loigiaihay soạn văn lớp 8 ôn tập tiếng việt soạn văn lớp 8 quê hương văn thuyết minh lớp 8 học kì 1
  • HỖ TRỢ ĐĂNG KÝ VIP

    Liên hệ ZALO để được tư vấn, hỗ trợ: ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN VIP
    ZALO:0979702422

    BÀI VIẾT MỚI

    Thống kê

    Chủ đề
    36,024
    Bài viết
    37,493
    Thành viên
    139,396
    Thành viên mới nhất
    thelinh

    BQT trực tuyến

    • Yopovn
      Ban quản trị Team YOPO

    Thành viên Online

    Top