- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 81,465
- Điểm
- 113
tác giả
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN 9 THCS: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trên văn bia Văn Miếu – Quốc Tử Giám có viết : “Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long , nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô”. Nghĩa là: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy. Như vậy, rõ ràng nhân tố con người trong mọi thời đại là vô cùng quan trọng.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào xu thế hội nhập. Đảng và Nhà nước vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trước mắt vô cùng bức thiết là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Con người lao động mới phải là con người phát triển toàn diện.
Vậy mà, có một thực trạng đang tồn tại trong nhà trường phổ thông hiện nay là học sinh không thích học môn Ngữ văn. Vì sao lại có thực trạng đó ? Có rất nhiều nguyên nhân. Một phần do xu thế chọn nghề của xã hội; một phần do định hướng của các bậc phụ huynh hướng con em họ ưu tiên các môn học tự nhiên; một phần cũng do bản thân môn Ngữ văn là môn học không dễ và nguyên nhân nữa không thể không kể đến là do kiến thức, phương pháp truyền thụ có phần hạn chế, cách thiết kế nội dung, các bước tổ chức cho học sinh tiếp cận tri thức thiếu sinh động của chính giáo viên.
Hiện nay, việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới ,lạ, cập nhật với cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Có nghĩa là học sinh được rèn nhiều kĩ năng, được phát triển nhiều năng lực tiềm ẩn bên trong các em như : năng lực giao tiếp tiếng Việt; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực cảm thụ thẩm mĩ…Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, như đại văn hào Nga M.Gor- ki đã từng nói: “Giáo dục nhằm phát triển tài năng chứ không tạo ra tài năng”!
Để học sinh yêu thích môn Ngữ Văn thì người thầy đóng một vai trò cực kì quan trọng. Như Hàn Dũ – một học giả Trung Hoa nổi tiếng, đã từng nói : “Thầy là người truyền đạo, trao nghiệp, cởi giải mê hoặc”. Đúng vậy, một giờ học Ngữ văn thành công là sự nỗ lực song song giữa thầy và trò. Thầy đóng vai trò dẫn dắt, chỉ đạo, trò giữ vai trò chủ động, tích cực khám phá, tích luỹ tri thức. Điều này càng thể hiện rõ ở những phần luyện tập giúp cho học sinh được rèn luyện các thao tác, kĩ năng cho thuần thục, mà lại được tự do sáng tạo, được bày tỏ những gì mà mình nghĩ. Được yêu – ghét hồn nhiên mà ít bị lệ thuộc vào sự gò bó nghiêm ngặt. Ở những tiết học ấy, kiến thức về các bài học vẫn được củng cố mà không khí không còn căng thẳng, học sinh hào hứng với tâm thế chủ động, tích cực, say mê sáng tạo.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trên văn bia Văn Miếu – Quốc Tử Giám có viết : “Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long , nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô”. Nghĩa là: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy. Như vậy, rõ ràng nhân tố con người trong mọi thời đại là vô cùng quan trọng.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào xu thế hội nhập. Đảng và Nhà nước vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trước mắt vô cùng bức thiết là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Con người lao động mới phải là con người phát triển toàn diện.
Vậy mà, có một thực trạng đang tồn tại trong nhà trường phổ thông hiện nay là học sinh không thích học môn Ngữ văn. Vì sao lại có thực trạng đó ? Có rất nhiều nguyên nhân. Một phần do xu thế chọn nghề của xã hội; một phần do định hướng của các bậc phụ huynh hướng con em họ ưu tiên các môn học tự nhiên; một phần cũng do bản thân môn Ngữ văn là môn học không dễ và nguyên nhân nữa không thể không kể đến là do kiến thức, phương pháp truyền thụ có phần hạn chế, cách thiết kế nội dung, các bước tổ chức cho học sinh tiếp cận tri thức thiếu sinh động của chính giáo viên.
Hiện nay, việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù còn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới ,lạ, cập nhật với cuộc sống. Không những thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Có nghĩa là học sinh được rèn nhiều kĩ năng, được phát triển nhiều năng lực tiềm ẩn bên trong các em như : năng lực giao tiếp tiếng Việt; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề; năng lực cảm thụ thẩm mĩ…Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất ngờ đối với các em, như đại văn hào Nga M.Gor- ki đã từng nói: “Giáo dục nhằm phát triển tài năng chứ không tạo ra tài năng”!
Để học sinh yêu thích môn Ngữ Văn thì người thầy đóng một vai trò cực kì quan trọng. Như Hàn Dũ – một học giả Trung Hoa nổi tiếng, đã từng nói : “Thầy là người truyền đạo, trao nghiệp, cởi giải mê hoặc”. Đúng vậy, một giờ học Ngữ văn thành công là sự nỗ lực song song giữa thầy và trò. Thầy đóng vai trò dẫn dắt, chỉ đạo, trò giữ vai trò chủ động, tích cực khám phá, tích luỹ tri thức. Điều này càng thể hiện rõ ở những phần luyện tập giúp cho học sinh được rèn luyện các thao tác, kĩ năng cho thuần thục, mà lại được tự do sáng tạo, được bày tỏ những gì mà mình nghĩ. Được yêu – ghét hồn nhiên mà ít bị lệ thuộc vào sự gò bó nghiêm ngặt. Ở những tiết học ấy, kiến thức về các bài học vẫn được củng cố mà không khí không còn căng thẳng, học sinh hào hứng với tâm thế chủ động, tích cực, say mê sáng tạo.