- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,192
- Điểm
- 113
tác giả
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HỌC SINH TIẾP THU CHẬM MÔN TOÁN Ở LỚP 4 được soạn dưới dạng file word gồm 22 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong Tiếng Việt, các từ Hán Việt chiếm một phần khá lớn. Các từ Hán Việt được hình thành do sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, những từ ngữ Hán Việt đã khác xa so với ngôn ngữ Trung Hoa hiện đại. Nó trở thành một bộ phận của tiếng Việt. Vì vậy, việc dạy học các từ Hán Việt rất quan trọng không những giúp học sinh hiểu thêm về sự phong phú của tiếng Việt mà còn giúp các em sử dụng từ ngữ một cách tinh tế.
Ở tiểu học, việc dạy các từ Hán Việt được lồng ghép trong phân môn Luyện từ và câu trong các bài Mở rộng vốn từ qua các chủ điểm như: Nhân dân, Hoà bình, Hữu nghị - Hợp tác…Vậy, làm thế nào để giúp các em hiểu và biết cách dùng các từ Hán Việt một cách phù hợp mà không quá nặng về kiến thức lí luận?. Thực tế thì từ Hán Việt là một đối tượng khó dạy bởi nó liên quan đến mặt ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài này để việc dạy học từ Hán Việt cho học sinh lớp 4 thực sự có hiệu quả.
Liên quan đến đề tài này có nhiều công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, sách tham khảo, tạp chí chuyên ngành bàn luận về từ Hán Việt trên nhiều khía cạnh khác nhau. Những công trình đó chủ yếu đề cập đến những vấn đề chung về cấu tạo và ngữ nghĩa của từ Hán Việt nhằm cung cấp những tri thức để dùng đúng lớp từ và quan trọng nhất là giữ gìn, phát huy sức mạnh của Tiếng Việt, đáp ứng tốt yêu cầu của thời đại. Sự quan tâm nghiên cứu về từ Hán Việt tương đối phong phú, đều khắp các mặt, nhưng về phương pháp giảng dạy từ Hán Việt cho học sinh Tiểu học trong phân môn Luyện từ và câu và khảo sát khả năng nhận biết, giải nghĩa từ Hán Việt qua phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 là một vấn đề chưa ai bàn đến. Để hiểu hơn về từ Hán Việt, cách giải nghĩa từ Hán Việt, để thấy được cái hay cái đẹp của việc sử dụng từ Hán Việt, tôi xin mạnh dạn được tìm hiểu về đề tài “Phương pháp dạy học từ Hán Việt trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ:
1. Đối tượng:
- Phương pháp dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4.
2. Khách thể:
- Học sinh lớp 4 lớp tôi chủ nhiệm
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng vấn đề dạy và học từ Hán Việt là một vấn đề hết sức phức tạp, phức tạp ở chỗ năng lực truyền đạt của giáo viên và khả năng hiểu của học sinh về lớp từ này. Nên tôi đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 hiểu và sử dụng tốt từ Hán Việt trong phân môn Luyện từ và câu góp phần nâng cao chất lượng, tạo niềm tin, phát huy tính ham học, thích khám phá điều mới lạ cho học sinh.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4 ở Tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp đọc sách, tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp lí luận thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thống kê, phân loại và so sánh tư liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
V. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Giới hạn:
- Do điều kiện có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu tại trường nơi tôi công tác.
2. Phạm vi:
- Nghiên cứu một số biện pháp dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Trước đây trên địa bàn của nước Văn Lang cổ đại có một ngôn ngữ bản địa, từ vựng của ngôn ngữ này có nhiều đặc tính chung của từ vựng của nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á lân cận như tiếng Thái, tiếng Khme… Đó là những vốn từ thuần Việt cho đến nay vẫn còn được sử dụng. Tiếp đó do cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc kéo dài hàng ngàn năm với một khối lượng lớn từ Hán đã du nhập vào và được dân tộc Việt Nam tiếp thu, làm phong phú thêm nhưng không làm mất đi bản sắc của mình. Có thể chia quá trình thâm nhập của tiếng Hán thành hai thời kì thời kì trước và sau sự đô hộ của phong kiến nhà Đường. Các từ thâm nhập vào Tiếng Việt vào thời kì trước được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ khác với ngữ âm Hán Việt thâm nhập vào thời kì sau. Ở thời kì trước, từ gốc Hán xâm nhập vào kho từ vựng chủ yếu bằng khẩu ngữ tự nhiên (lời nói hằng ngày). Ở thời kì sau, từ gốc Hán xâm nhập vào kho từ vựng Tiếng Việt bằng cả hai con đường khẩu ngữ tự nhiên và con đường sách vở. Dù bằng con đường nào thì từ gốc Hán khi nhập vào vốn từ Tiếng Việt cũng phải chịu sự chi phối của quy luật ngữ âm Tiếng Việt. Do đó chúng có sự thay đổi về mặt ngữ âm, đó là điều kiện để tạo nên lớp từ Hán Việt trong Tiếng Việt.
Từ Hán đã được Việt hoá là lớp từ mượn ở tiếng Hán nhưng đã được Việt hoá hoàn toàn. Hiện nay trong Tiếng Việt tồn tại song song cả từ gốc Hán lẫn từ thuần Việt đồng nghĩa, nhưng có sắc thái biểu cảm khác nhau. Chẳng hạn: phụ nữ - đàn bà, nhi đồng – trẻ con, hoả xa – xe lửa, lực – sức, đao – dao, sang – giường, không phận – vùng trời, đại – đời, ấn – in, long – rồng.
Ngoài những từ thâm nhập thời kì thứ hai đã được Việt hoá, đại bộ phận những yếu tố Hán Việt còn lại vẫn giữ cách phát âm cũ, chưa được Việt hoá, còn mang đậm màu sắc ngoại lai. Ví dụ: xá xíu, sủi cảo, tào phớ, xì dầu, vằn thắn, bát bảo lường xà…
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong Tiếng Việt, các từ Hán Việt chiếm một phần khá lớn. Các từ Hán Việt được hình thành do sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt. Tuy nhiên, theo thời gian, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, những từ ngữ Hán Việt đã khác xa so với ngôn ngữ Trung Hoa hiện đại. Nó trở thành một bộ phận của tiếng Việt. Vì vậy, việc dạy học các từ Hán Việt rất quan trọng không những giúp học sinh hiểu thêm về sự phong phú của tiếng Việt mà còn giúp các em sử dụng từ ngữ một cách tinh tế.
Ở tiểu học, việc dạy các từ Hán Việt được lồng ghép trong phân môn Luyện từ và câu trong các bài Mở rộng vốn từ qua các chủ điểm như: Nhân dân, Hoà bình, Hữu nghị - Hợp tác…Vậy, làm thế nào để giúp các em hiểu và biết cách dùng các từ Hán Việt một cách phù hợp mà không quá nặng về kiến thức lí luận?. Thực tế thì từ Hán Việt là một đối tượng khó dạy bởi nó liên quan đến mặt ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài này để việc dạy học từ Hán Việt cho học sinh lớp 4 thực sự có hiệu quả.
Liên quan đến đề tài này có nhiều công trình nghiên cứu, sách giáo khoa, sách tham khảo, tạp chí chuyên ngành bàn luận về từ Hán Việt trên nhiều khía cạnh khác nhau. Những công trình đó chủ yếu đề cập đến những vấn đề chung về cấu tạo và ngữ nghĩa của từ Hán Việt nhằm cung cấp những tri thức để dùng đúng lớp từ và quan trọng nhất là giữ gìn, phát huy sức mạnh của Tiếng Việt, đáp ứng tốt yêu cầu của thời đại. Sự quan tâm nghiên cứu về từ Hán Việt tương đối phong phú, đều khắp các mặt, nhưng về phương pháp giảng dạy từ Hán Việt cho học sinh Tiểu học trong phân môn Luyện từ và câu và khảo sát khả năng nhận biết, giải nghĩa từ Hán Việt qua phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 là một vấn đề chưa ai bàn đến. Để hiểu hơn về từ Hán Việt, cách giải nghĩa từ Hán Việt, để thấy được cái hay cái đẹp của việc sử dụng từ Hán Việt, tôi xin mạnh dạn được tìm hiểu về đề tài “Phương pháp dạy học từ Hán Việt trong phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ:
1. Đối tượng:
- Phương pháp dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4.
2. Khách thể:
- Học sinh lớp 4 lớp tôi chủ nhiệm
III. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng vấn đề dạy và học từ Hán Việt là một vấn đề hết sức phức tạp, phức tạp ở chỗ năng lực truyền đạt của giáo viên và khả năng hiểu của học sinh về lớp từ này. Nên tôi đề xuất một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 hiểu và sử dụng tốt từ Hán Việt trong phân môn Luyện từ và câu góp phần nâng cao chất lượng, tạo niềm tin, phát huy tính ham học, thích khám phá điều mới lạ cho học sinh.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4 ở Tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp đọc sách, tài liệu.
- Phương pháp tổng hợp lí luận thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thống kê, phân loại và so sánh tư liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
V. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Giới hạn:
- Do điều kiện có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu tại trường nơi tôi công tác.
2. Phạm vi:
- Nghiên cứu một số biện pháp dạy từ Hán Việt trong giờ học Luyện từ và câu lớp 4.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Trước đây trên địa bàn của nước Văn Lang cổ đại có một ngôn ngữ bản địa, từ vựng của ngôn ngữ này có nhiều đặc tính chung của từ vựng của nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á lân cận như tiếng Thái, tiếng Khme… Đó là những vốn từ thuần Việt cho đến nay vẫn còn được sử dụng. Tiếp đó do cuộc xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc kéo dài hàng ngàn năm với một khối lượng lớn từ Hán đã du nhập vào và được dân tộc Việt Nam tiếp thu, làm phong phú thêm nhưng không làm mất đi bản sắc của mình. Có thể chia quá trình thâm nhập của tiếng Hán thành hai thời kì thời kì trước và sau sự đô hộ của phong kiến nhà Đường. Các từ thâm nhập vào Tiếng Việt vào thời kì trước được phát âm theo hệ thống ngữ âm Hán cổ khác với ngữ âm Hán Việt thâm nhập vào thời kì sau. Ở thời kì trước, từ gốc Hán xâm nhập vào kho từ vựng chủ yếu bằng khẩu ngữ tự nhiên (lời nói hằng ngày). Ở thời kì sau, từ gốc Hán xâm nhập vào kho từ vựng Tiếng Việt bằng cả hai con đường khẩu ngữ tự nhiên và con đường sách vở. Dù bằng con đường nào thì từ gốc Hán khi nhập vào vốn từ Tiếng Việt cũng phải chịu sự chi phối của quy luật ngữ âm Tiếng Việt. Do đó chúng có sự thay đổi về mặt ngữ âm, đó là điều kiện để tạo nên lớp từ Hán Việt trong Tiếng Việt.
Từ Hán đã được Việt hoá là lớp từ mượn ở tiếng Hán nhưng đã được Việt hoá hoàn toàn. Hiện nay trong Tiếng Việt tồn tại song song cả từ gốc Hán lẫn từ thuần Việt đồng nghĩa, nhưng có sắc thái biểu cảm khác nhau. Chẳng hạn: phụ nữ - đàn bà, nhi đồng – trẻ con, hoả xa – xe lửa, lực – sức, đao – dao, sang – giường, không phận – vùng trời, đại – đời, ấn – in, long – rồng.
Ngoài những từ thâm nhập thời kì thứ hai đã được Việt hoá, đại bộ phận những yếu tố Hán Việt còn lại vẫn giữ cách phát âm cũ, chưa được Việt hoá, còn mang đậm màu sắc ngoại lai. Ví dụ: xá xíu, sủi cảo, tào phớ, xì dầu, vằn thắn, bát bảo lường xà…