- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,145
- Điểm
- 113
tác giả
TÀI LIỆU Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi văn 9 PHẦN VĂN BẢN được soạn dưới dạng file word gồm các file trang. Các bạn xem và tải Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi văn 9 về ở dưới.
MỤC LỤC
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Kiến thức chung
1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời.
2. Tác phẩm:
a. “Truyền kì mạn lục”:
- Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.
- Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” (áng văn hay ngàn đời).
- Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.
- Nhân vật:
+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.
+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh cao.
b. Văn bản:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.
- So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
3. Tóm tắt văn bản:
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, chàng lập đàn giải oan cho nàng.
4. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
5. Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
II. Kiến thức trọng tâm
1. Nhân vật Vũ Nương:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.
- Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng:
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
- Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.” Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng
- Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.
- Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
* Vũ Nương còn là một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con.
- Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
* Nàng còn là người phụ nữ giàu lòng vị tha.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
* Nàng có số phận oan nghiệt, bất hạnh:
. Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do.
- Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.
. Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
- Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.
- Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
. Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.
- Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.
- Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
- Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
. Cái kết thúc tưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch trong thân phận Vũ Nương.
+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”
=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.
=> Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
* Những lí do dẫn đến bi kịch oan khuất mà Vũ Nương phải chịu.
- Lời nói ngây thơ của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hăt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ. (Trực tiếp)
- Do bản tính Trương Sinh đa nghi hay ghen, phòng ngừa vợ quá mức và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả mọt chế độ nam quyền trọng nam khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phải ngẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực là thượng đế có thể "nặn" ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. (Gián tiếp)
- Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên. (Gián tiếp)
- Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh - Mạc, Lê - Trịnh kéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tố cáo của tác phẩm rất sâu sắc.
2. Các chi tiết kì ảo:
a. Những chi tiết kì ảo:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến và gặp, trò chuyện với Vũ Nương; được trở về dương thế.
- Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.
b. Ý nghĩa:
- Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phong phú.
- Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.
- Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
a. Cách kể chuyện:
- Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
- Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:
- Bé Đản ngây thơ
- Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
- Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến xung tàn, khiến hạnh phúc của người phụ nữ hết sức mong manh.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
2. Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
ĐỀ SỐ 1:
Nhận xét về “Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nhà phê bình Đồng Thị Sáo cho rằng: “Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn“. Em hãy phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ nhận xét trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, yêu cầu của đề bài.
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
- Nhận xét của nhà phê bình Đồng Thị Sáo đã đề cập đến hạnh phúc. Đó là một khái niệm trừu tượng. Mỗi người có những cách cảm nhận khác nhau về hạnh phúc. Song có thể hiểu hạnh phúc là một trạng thái tinh thần mà con người thoả mãn những ước mơ, hy vọng của mình.
- Hạnh phúc mong manh và ngắn ngủi: Hạnh phúc không tồn tại bền vững, không tồn tại lâu dài. Nó chỉ thoáng qua trong cuộc đời con người rồi tan vỡ nhanh chóng.
=> Ý kiến khẳng định rằng: hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn.
2. Chứng minh lời nhận xét
* Khẳng định nhận xét trên là đúng, vì “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ kể về người phụ nữ - Vũ Nương có nhan sắc, đức hạnh nhưng cuộc đời của nàng lại không được hưởng niềm hạnh phúc lâu dài, bền vững.
LĐ1. Trước hết, niềm hạnh phúc của Vũ Thị Thiết trong cuộc sống dương thế thật mong manh, ngắn ngủi:
+ Vũ Thị Thiết tên thường gọi là Vũ Nương. Người con gái đẹp người, đẹp nết nhưng lại lấy phải Trương Sinh người chồng ít học, đa nghi. Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Vũ Nương không được quyền tự quyết định hạnh phúc của mình.
+ Cuộc sum vầy chưa được bao lâu Trương Sinh phải lên đường tòng quân. Vũ Nương chưa được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn đã phải sớm sống trong cảnh chia li.
+ Những ngày vắng chồng Vũ Nương chỉ chiếc bóng của mình trên tường nói là cha Đản- đây là cách nói sơn cùng thủy tận về chữ “đồng” trong đạo vợ chồng. Vậy mà đời Vũ Nương tan nát hạnh phúc lại bắt đầu từ đấy.
+ Bé Đản - ngây thơ, trong trắng lầm tưởng cái bóng của mẹ là cha thật của mình- bé hoàn toàn vô tội nhưng lại là tác nhân trực tiếp gây ra sự tan nát hạnh phúc của cuộc đời người mẹ thân yêu của nó.
+ Cuộc đời làm dâu, làm vợ, làm mẹ của Vũ Nương thật ngắn ngủi. Trương Sinh trở về tưởng rằng nàng sẽ được hưởng niềm vui hạnh phúc sum họp bên chồng con, gia đình. Nhưng Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên chàng đã nghe lời con trẻ nghi oan cho Vũ Nương. Trương Sinh đã mắng nhiếc, đánh, đuổi Vũ Nương đi, buộc nàng phải tìm đến cái chết. Trương Sinh là một kẻ giết vợ vô tình và tự tàn phá niềm hạnh phúc mong manh của gia đình.
+ Nguyên nhân của niềm hạnh phúc mong manh, ngắn ngủi: Nguyên nhân trực tiếp là lời nói hồn nhiên vô tư của đứa con, là tính đa nghi, hay ghen của anh chồng Trương Sinh; Nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh phong kiến và chế độ nam quyền đã cướp đi quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Đó chính là giá trị hiện thực của truyện.
LĐ2. Thứ 2, niềm hạnh phúc của Vũ Thị Thiết trong cuộc sống ở thuỷ cung cũng mong manh, chỉ là ảo ảnh.
+ Sau khi gieo mình xuống bến Hoàng Giang, Vũ Nương được các nàng tiên rẽ một được nước đưa xuống thuỷ cung sống sung sướng. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa giữa dòng nói những lời từ biệt với Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết kì ảo tạo một kết thúc có hậu cho câu chuyện, thể hiện ước mơ về lẽ công bằng. Nhưng hạnh phúc đó cũng chỉ mong manh, hư vô không có thật trong cuộc đời.
+ Những yếu tố kì ảo, hoang đường về cuộc sống sung sướng, hạnh phúc của Vũ Nương ở thuỷ cung vừa thể hiện giá trị nhân đạo vừa thể hiện giá trị hiện thực.
=> Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã gửi đến chúng ta một bức thông điệp có được hạnh phúc gia đình đã khó, gìn giữ hạnh phúc hạnh phúc ấy càng khó hơn. Nếu ta không biết trân trọng, nâng niu, gìn giữ hạnh phúc thì hạnh phúc thật mong manh, ngắn ngủi.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Ý kiến trên hoàn toàn đúng.
- Tác phẩm đã gửi điệp chúng ta một thông điệp ý nghĩa: có được hạnh phúc đã khó, giữ gìn hạnh phúc lại càng khó hơn, hạnh phúc là mong muốn khát khao của mỗi người vậy nên cần biết trân trọng giữ gìn vun đắp, nâng niu đừng để khi mất đi mới thấy ân hận hối tiếc.
III. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề, đánh giá thành công của tác phẩm.
- Rút ra bài học liên hệ.
ĐỀ SỐ 2: "Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu thương con người"(Đặng Thai Mai – "Trên đường học tập và nghiên cứu" - NXB Văn học 1969).
Chứng minh ý kiến trên qua tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. (SGK, Ngữ văn 9, tập I).
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích
- Nhân đạo là những nguyên tắc đạo lý, đạo đức, cách đối xử giữa người với người.
- Tinh thần nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng của nhà văn trước những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin vào khả năng vươn dậy của con người trong hoàn cảnh khốn cùng. Đồng thời, đó là sự xót thương đồng cảm, sẻ chia với số phận đau khổ; là sự lên án tố cáo những thế lực bất công chà đạp lên quyền sống của con người; là những ước mơ khát vọng về một xã hội công bằng bác ái, tôn trọng phẩm giá của con người.
=> Ý kiến khẳng định: giá trị sức sống của một tác phẩm chính là tình yêu thương giành cho con người.
2. Chứng minh qua tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
LĐ1. Trước hết tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người Nguyễn Dữ thể hiện rất rõ ở sự trân trọng, ngợi ca, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình tượng nhân vật Vũ Nương: Vũ Nương có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: công, dung, ngôn, hạnh. Xét về phương diện nào cũng đẹp:
- Vai trò là một người vợ: Đối với chồng, nàng là người vợ rất mực dịu dàng, đằm thắm, giàu tình yêu thương chồng và thuỷ chung nhất mực. (d/c)
- Vai trò là một người con: Đối với mẹ chồng, nàng hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng, là người con hiếu thảo. (d/c)
- Vai trò người mẹ đối với con: Là người mẹ tốt giàu lòng yêu thương con...
- Vai trò là một người phụ nữ: Nàng là người phụ nữ đảm đang, trọng danh dự và nhân phẩm, tình nghĩa và giàu lòng vị tha. (d/c)
LĐ2. Hơn nữa, tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người: thể hiện ở thái độ cảm thông đau xót, am hiểu tâm lí nhân vật, thương cảm cho nỗi đau của người phụ nữ nên nhà văn đã thể hiện nỗi đau đớn của nhân vật thật sâu sắc.
- Nàng Vũ có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tụy vun đắp hạnh phúc lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng.
- Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ.
- Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng ... mà người chồng vẫn không động lòng. (d/c)
- Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất (d/c).
LĐ3. Chưa hết tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người còn được thể hiện qua thái độ lên án những thế lực đen tối chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người.
- Tố cáo cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
- Những tư tưởng lạc hậu của xã hội phong kiến suy tàn (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu,...) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông hồ đồ, mù quáng, gia trưởng, vũ phu.
LĐ4. Tinh thần nhân đạo - lòng yêu thương con người chính còn là khát vọng và ước mơ về một cuộc sống công bằng, quyền được hưởng hạnh phúc gia đình của con người đặc biệt là người phụ nữ.
- Khát vọng hạnh phúc của con người.
- Ước mơ về cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, quyền được hưởng hạnh phúc của con người:
LĐ5. Cuối cùng phải kể đến tinh thần nhân đạo của truyện còn thể hiện ở bài học nhân sinh sâu sắc mà Nguyễn Dữ muốn gửi đến bạn đọc muôn đời:
- Bài học giữ gìn và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Có hạnh phúc đã là sự may mắn nhưng giữ gìn, duy trì hạnh phúc còn khó hơn. Vợ và chồng dù có yêu nhau đến mấy mà chẳng biết tính của nhau thì bi kịch sớm muộn cũng xảy ra. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc.
- Bài học về lòng tin, sự cẩn trọng sáng suốt khi nhìn nhận, đánh giá kết luận một vấn đề sự việc nào đó.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Bằng tấm lòng nhân đạo cao cả, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói có giá trị lớn cho nền văn học trung đại một bản tố cáo xã hội phong kiến bất công tàn bạo coi thường nhân phẩm, tính mạng con người. Đem lại giá trị tư tưởng và giá trị nhân văn cao cả, nuôi dưỡng sức sống lâu bền cho tác phẩm.
- Làm được điều đó quả không hề đơn giản, ND đã thành công trong việc lựa chọn tình huống cho câu chuyện, khắc học nhân vật rõ nét qua hành động ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo trong cách kể chuyện, sử dụng hiệu quả các chi tiết kỳ ảo.
II. Kết bài:
- Khẳng định vấn đề nghị luận, thành công của tác phẩm.
- Bài học, liên hệ bản thân.
ĐỀ SỐ 3: Nhà văn Nguyễn Dữ đã kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương bằng chi tiết Vũ Nương hiện về gặp chồng rồi sau đó biến mất.
Có ý kiến cho rằng: “Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn”. Có người lại nhận xét: “cách kết thúc của tác giả như vậy là hợp lí”. Suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn cả hai ý kiến.
II. Thân bài:
1. Nêu tình huống và những tình tiết chính dẫn đến kết thúc của truyện.
2. Bàn luận về 2 ý kiến:
LĐ1. Về ý kiến: "Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn"
- Đây là cách kết thúc thường gặp trong các truyện cổ dân gian, thể hiện quan niệm ở hiền gặp lành, cái thiện thắng cái ác của người lao động, thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của họ. Đó cũng là truyền thống nhân đạo của dân tộc, cũng là một trong những nội dung của văn học trng đại Việt Nam.
- Cách kết thúc truyện như vậy có thể chấp nhận được vì không trái với tinh thần nhân đạo của văn học. Tuy nhiên điều này sẽ ảnh hưởng tới giá trị hiện thực và logic phát triển của cốt truyện
LĐ2. Về kết thúc của nhà văn
- Kết thúc truyện Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện được tinh thần nhân đạo và khát vọng của con người về cuộc sống: Vũ Nương không chết, nàng được sống một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, nàng hiện hồn về gặp Trương Sinh là để minh oan, để khẳng định tình cảm thủy chung của mình.
- Kết thúc truyện còn cho thấy sự vận dụng sáng tạo truyện dân gian của nhà văn. Tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường kì ảo và lối kể chuyện dân gian để thể hiện tư tưởng của mình. Bên cạnh giá trị nhân đạo, truyện còn có giá trị hiện thực sâu sắc. Nếu tác giả để cho Vũ Nương trở về với cuộc sống thực tại thì nàng cũng không thể có được hạnh phúc với một người chồng đa nghi, độc đoán cùng những định kiến nặng nề của xã hội đương thời.
- Kết thúc truyện như vậy là hoàn toàn hợp lí vì nó vừa thể hiện được tư tưởng của tác giả, vừa đảm bảo tính lôgic của cốt truyện đồng thời phản ánh một cách chân thực, khách quan số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Cách kết thúc câu chuyện của nhà văn không chỉ góp phần tạo nên sức sống của tác phẩm mà còn khẳng định tài năng của tác giả.
- Lựa chọn kết thúc truyện như vậy chứng tỏ hiểu biết thực tế, vốn sống phong phú, tình cảm sâu sắc với nhân vật của mình và hơn hết nữa đó nó thể hiện tài năng nghệ thuật đỉnh cao của Nguyễn Dữ.
III. Kết bài:
- Đánh giá khái quát lại hai ý kiến trên.
- Đánh giá sự thành công và sức sống của tác phẩm một phần nhờ vào cách lựa chọn kết thức truyện như trên.
ĐỀ SỐ 4: Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ qua hai văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và các đoạn trích văn bản “Truyện Kiều” của Nguyễn Du?
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ ở trên hai phương diện đó là vẻ đẹp và số phận bi kịch.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu sơ lược về 2 tác phẩm về hai nhân vật người phụ nữ.
2. Chứng minh làm rõ hình ảnh người phụ nữ.
LĐ1. Trước hết họ là những người phụ nữ đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn.
- Là những người con hiếu thảo.
+ Vũ Nương (phân tích- dẫn chứng).
+ Kiều(phân tích- dẫn chứng).
- Là những người vợ thuỷ chung son sắt.
+ Vũ Nương ( dẫn chứng-phân tích)
Là những người phụ nữ bao dung, độ lượng, giàu lòng vị tha. ( phân tích- dẫn chứng).
LĐ2. Họ đẹp như thế nhưng lại có số phận bi kịch.
- Nhân vật Vũ Nương: đau khổ, bất hạnh, oan khuất, tài hoa bạc mệnh, hồng nhan đa truân: không được sum họp vợ chồng hạnh phúc, một mình nuôi già dạy trẻ, bị chồng nghi oan, phải tìm đến cái chết (phân tích- dẫn chứng).
- Nhân vật Thúy Kiều: Bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ, phải bán mình chuộc cha, bị coi là một món hàng, bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích trong hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp, đối diện với một tương lai lênh đênh vô định (phân tích- dẫn chứng ).
*Lưu ý: học sinh có thể phân tích theo lần lượt từng luận điểm hoặc phân tích theo từng nhân vật: Ví dụ phân tích nhân vật Vũ Nương rồi phân tích nhân vật Thúy Kiều song ở mỗi nhân vật đều phải nổi bật rõ hai vấn đề là: vẻ đẹp và số phận bi kịch.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Vũ Nương và Thuý Kiều chính là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Bằng tài năng nghệ thuật cùng với tình yêu thương trân trọng giành hco người phụ nữ, Nguyến Dữ và Nguyễn Du đã dựng lên cho mình những hình tượng nhân vật để đời những tác phẩm văn học sống mãi với thời gian.
III. Kết bài:
- Khẳng định vấn đề: Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ: Hồng nhan bạc mệnh, đúng như lời nhận xét của Nguyễn Du:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều)
- Bài học, liên hệ người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
ĐỀ SỐ 5: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài…
(Ý nghĩa văn chương – Hoài Thanh, Ngữ văn 7, T2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, Tr.60)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề nghị luận:
+ Vấn đề trung tâm của văn chương là vấn đề con người và nguồn gốc cốt yếu của văn chương chính là lòng thương người.
+ Lòng thương người hay nói rộng ra là giá trị nhân đạo là phẩm chất cốt lõi, là tiêu chuẩn cho một tác phẩm văn học chân chính.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Hoài Thanh đã đưa ra vấn đề quan trọng, bản chất của văn chương, được coi là nguồn gốc cốt yếu của văn chương: lòng thương người mà rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. Văn chương chính là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc, chỉ bật ra khi trong tim cuộc sống tràn đầy. Nói chuyện văn chương chính là chuyện của những tâm hồn đồng điệu.
- Lòng thương người, thậm chí thương cả muôn vật, muôn loài là tình cảm rộng lớn, cao cả, mang tầm nhân loại. Tình cảm ấy không chỉ là cội nguồn của văn chương mà còn là thước đo giá trị của tác phẩm văn chương chân chính. Giá trị đó chính là giá trị nhân đạo, là những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
- Giá trị nhân đạo là một phẩm chất cao quý của tác phẩm văn học chân chính. Nói đến giá trị nhân đạo, đến ý nghĩa nhân văn là nói đến vấn đề con người, vấn đề nhân sinh đặt ra trong tác phẩm. Ở đó, con người luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, trong mối quan hoài thường trực của các nhà văn.
- Biểu hiện của giá trị nhân đạo rất đa dạng song thường tập trung vào những mặt cụ thể sau: lòng thương yêu, sự cảm thông, xót xa trước những hoàn cảnh, những số phận bất hạnh; lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người; ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp, phẩm giá cao quý; trân trọng, nâng niu khát vọng sống, khát vọng tình yêu và hạnh phúc của con người.
2. Giá trị nhân đạo qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
LĐ1. Tấm lòng yêu thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời: số phận của Kiểu bị ném vào nhà chứa, rồi giam lỏng trong lầu Ngưng Bích với nỗi cô đơn, buồn tủi, thương thân, xót phận; là tình cảnh oan khiên nghiệt ngã của Vũ Nương, đến mức nàng phải dùng cái chết để chứng tỏ tấm lòng trong trắng, tiết hạnh của mình.
LĐ2. Qua bi kịch thân phận của Kiều và Vũ Nương, cả hai nhà văn lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người. Đó là chiến tranh phi nghĩa, là chế độ nam quyền (Chuyện người con gái Nam Xương), là bọn quan lại tham lam, là lũ buôn thịt bán người không từ một thủ đoạn chỉ vì đồng tiền (Truyện Kiều).
LĐ3. Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của họ truân chuyên, nhục nhằn. Đó là lòng chung thủy, sự hiếu hạnh, giàu tình yêu thương, luôn sống vì người khác, nghĩ cho người khác của Kiều và Vũ Nương.
LĐ4. Trân trọng, đề cao những khát vọng nhân văn của người phụ nữ: khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy.
3. Đánh giá, mở rộng.
- Ý kiến của Hoài Thanh về nguồn gốc, phẩm chất của văn chương là ý kiến đúng đắn, khoa học bởi nó đã nói lên đặc trưng, thuộc tính quan trọng nhất của văn học: Văn học là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc; văn học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
- “Văn học là nhân học” (M. Gorki).
- Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét quan niệm văn học của Hoài Thanh. Bởi cả hai đều là những tác phẩm mang giá trị nhân đạo cao cả, hướng tới con người, vì con người.
III. Kết bài:
Khái quát lại vấn đề, khẳng định gia strij của tác phẩm.
Bài học, liên hệ bản thân.
ĐỀ SỐ 6: Văn học luôn quan tâm số phận con người, nhưng mỗi tác giả lại có một cách khám phá, thể hiện riêng.
Bằng cảm nhận của mình về hình ảnh cái bóng trên vách trong Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) và hình ảnh chiếc lá trên tường trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng (O. Hen-ri), em hãy làm sáng rõ nhận định trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài: Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả và tác phẩm.
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn nhận định.
II. Thân bài:
1. Giải thích, khẳng định ý kiến
- Khẳng định ý kiến đúng đắn vì xuất phát từ bản chất của sự sáng tạo văn chương.
- Văn học luôn quan tâm số phận con người: Đối tượng của văn học là con người, trong đó văn học quan tâm nhất vẫn là vấn đề số phận.
- Mỗi nhà văn có cách khám phá, thể hiện riêng: Bản chất của văn học là sáng tạo, mỗi hình tượng cũng như tác phẩm bao giờ cũng là sự sáng tạo mang dấu ấn riêng của cá nhân nhà văn; thể hiện một cách nhìn, cách nghĩ, cách lí giải riêng về thân phận con người bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo.
2. Cảm nhận các hình ảnh để làm sáng rõ ý kiến
LĐ1. Hình ảnh chiếc bóng trên vách trong Chuyện người con gái Nam Xương:
* Tái hiện hình ảnh chiếc bóng trên vách
* Ý nghĩa:
- Chiếc bóng - hiện thân của lòng tốt, tình mẹ con, đạo vợ chồng
- Chiếc bóng cũng là nguyên nhân tạo nên bi kịch thê thảm đối với nhân vật Vũ Nương và đối với cái gia đình bé nhỏ của nàng.
- Chiếc bóng thức tỉnh Trương Sinh, giúp chàng nhận ra nỗi oan của vợ.
- Chiếc bóng thể hiện tư tưởng, tình cảm và quan niệm của tác giả đối với con người:
+ Sự thấu hiểu, cảm thương sâu sắc số phận những con người bất hạnh, nhất là người phụ nữ.
+ Gửi gắm những triết lí sâu sắc, thấm đẫm tinh thần nhân văn: Cuộc sống luôn đầy những yếu tố bất thường, con người không thể lường trước; thân phận con người
nói chung và người phụ nữ nói riêng: thân phận mỏng manh như chiếc bóng- mong manh dễ tan vỡ, khi còn, khi mất. Hạnh phúc, sự sống, … có thể bị hủy hoại vì bất cứ lí do gì, bất cứ lúc nào….
* Về nghệ thuật: Tạo nên sự hàm súc, đa nghĩa đồng thời vừa thắt nút, mở nút tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm, làm hoàn chỉnh hơn nét đẹp của nhân vật Vũ Nương.
LĐ2. Hình ảnh chiếc lá trên tường trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng:
*Tái hiện hình ảnh chiếc lá trên tường
* Ý nghĩa:
- Thể hiện tình cảnh đáng thương của Giôn-xi: nghèo đói, bệnh tật nên tuyệt vọng, mất niềm tin vào cuộc sống
- Là kết tinh của hành động cao đẹp, vô tư, quên mình của người họa sĩ già.
- Là biểu tượng của lòng nhân ái, đức hi sinh, sức mạnh của của niềm tin yêu cuộc sống.
- Thể hiện tư tưởng, tình cảm và quan niệm của tác giả về con người, cuộc sống,
- Sự thấu hiểu, yêu thương của O.Hen-ri với số phận những nghệ sĩ nghèo nước Mỹ nói riêng và con người nói chung.
+ Đề cao lẽ sống nhân ái.
+ Khẳng định sức mạnh của nghệ thuật chân chính: Hướng về con người, nuôi dưỡng niềm tin, khát vọng sống, cứu rỗi con người…
* Về nghệ thuật: Chi tiết này tạo nên tình huống đảo ngược và một kết thúc bất ngờ cho tác phẩm, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, khắc học rõ nhân vật.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Chiếc bóng trên vách và chiếc lá trên tường là những hình ảnh có thực từ đời sống được các tác giả đưa vào tác phẩm theo những cách riêng, thể hiện quá trình lao động nghệ thuật công phu, sáng tạo với dụng ý nghệ thuật riêng. Qua đó thể hiện sự quan tâm đến số phận con người, tấm lòng nhân đạo của các tác giả …
- Chiếc bóng trên vách và chiếc lá trên tường là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của hai nhà văn. Dù xa nhau về khoảng cách địa lý nhưng 2 nhà văn đã bắt gặp nhau ở điểm sáng tạo chung về nghệ thuật. Điều đó chứng tỏ, dù ở đâu thời kỳ nào tình yêu nghệ thuật tình yêu với cuộc sống, với con người, với nhân vật văn học của mình cũng sẽ tạo nên điểm đồng điệu.
III. Kết bài:
- Khái quát khẳng định lại ý kiến, tài năng tấm lòng của 2 nhà văn.
- Suy nghĩ của bản thân.
ĐỀ SỐ 7: Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua các tác phẩm văn học trung đại : Chuyện người con gái Nam Xương của nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài: Nêu vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua ba tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương của nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu.
II. Thân bài
1. Giải thích: Vẻ đẹp tâm hồn: là vẻ đẹp thuộc về phẩm chất bên trong của người phụ nữ - vẻ đẹp không dễ gì nhìn thấy được.
2. Chứng minh vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua các tác phẩm.
* Người phụ nữ trong ba văn bản mang những nét đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ: Công, dung, ngôn, hạnh.
LĐ1. Trước hết họ là những người phụ nữ đẹp, dịu dàng, hiền hậu:
+ Vũ Nương “tính tình thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”;
+ Thuý Kiều “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”... (Học sinh phân tích để thấy được vẻ đẹp của họ).
LĐ2. Không những thế họ là những người phụ nữ đảm đang, tháo vát:
+ Khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình vừa lo chuyện gia đình, nuôi dạy con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng chu đáo.
+ Thúy Kiều bán mình chuộc cha - phận nữ nhi nhưng gánh vác việc gia đình....
(Học sinh phân tích để thấy được vẻ đẹp của họ).
LĐ3. Hơn thế nữa họ còn là những người phụ nữ thuỷ chung, nhân hậu và đầy tình yêu thương....
+ Vũ Nương: Là người con hiếu thảo, Là người vợ thuỷ chung, thương yêu chồng
con tha thiết.
. Đối với mẹ chồng: Là người hiếu thảo với mẹ chồng, nàng luôn “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, lo thuốc thang, lễ bái thần phật khi mẹ ốm; lo “ma chay tế lễ” chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình khi mẹ mất.
(Học sinh phân tích đươc lời trăng trối của mẹ chồng trước khi chết để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người con dâu hiếu thảo).
. Đối với chồng: Khi Trương Sinh ở nhà ‘Giữ gìn khuôn phép” khi Trương sinh đi
lính” gót liễu tường hoa chưa hề bén gót” . Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày, đau khổ đến cùng cực, nàng đành nhảy xuống sông tự vẫn để bày tỏ tấm lòng trong trắng của mình
. Đối với con: Chăm sóc con chu đáo, yêu thương con hết mực, bù đắp tình cảm cho con khi chồng vắng nhà( nàng thường chỉ bóng mình trên vách...)
- Thuý Kiều:
+ Là người con hiếu thảo: Gia đình bị vu oan, cha và em bị đánh đập, Kiều đã quyết định hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để bán mình chuộc cha và em. Thúy Kiều đã đặt “chữ” hiếu lên trên chữ “tình”. Và khi bị Lừa vào lầu xanh nàng không nguôi nỗi nhớ về gia đình: “Xót người tựa cửa hôm mai: quạt nồng áp lạnh những ai đó giờ”. Nàng đã hình hung thấy hình bóng cha mẹ già cứ tựa cửa ngóng tin nàng. Kiều rất kính trọng tấm lòng cao cả ấy của mẹ dành cho mình. Bởi thế nàng lại càng day dứt tự trách mình. Không chăm lo phụng dưỡng cha mẹ già. Qua đó người đọc cảm nhận được tấm lòng hiếu thảo , lòng vị tha củu nàng . Nàng như quên hẳn nỗi đau khổ trong hiện tại để sống trong tâm tưởng với người yêu với mẹ già.
+ Là người con gái trong trắng, thuỷ chung, giàu lòng vị tha: dù phải mười lăm năm lưu lạc, nàng không lúc nào nguôi nỗi nhớ chàng Kim, lúc nào cũng cảm thấy mình có lỗi khi tình yêu của hai người bị tan vỡ. Khi ở lầu Ngưng Bích Kiều đã “ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng; tin sương luống những rày trông mai chơ”- Kiều nhớ lại những kỉ niệm đẹp của mối tình đầu trong sáng giữa nàng và Kim Trong. Lời hen ước và hén rượu thề dưới đêm trăng sáng vằng vặc: Vầng trăng vằng vặc giữa trời; Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Chén rượu thề còn đó mà nay mỗi người một ngả. Nàng còn hình dung thấy ở nơi Lưu Dương cách trở, chàng Kim Trọng cũng đang hướng về nàng “tin sương luống những rày trông mai chờ”. Đây chính là tiếng nói từ trong sâu thẳm trái tim của nàng. Trong lời thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỏ máu . Nhớ thương tha thiết người mà mình yêu dấu. Càng nhớ về kỉ niệm của mối tình đầu trong sáng nàng lại càng đau đớn, xót xa.
- Kiều Nguyệt Nga.
+ Một cô gái thùy mị, nết na, có học thức, cách xưng hô khiêm nhườngquân tử- tiện thiếp), cách nói năng văn vẻ, mực thước, khuôn phép( làm con đâu dám cãi cha, chút tôi liễu yếu đào tơ...), cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc triết vừa đáp ứng đầy đủ những lời thăm hỏi an cần của Vân Tiên, vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.
+ Một con người đằm thắm, ân tình, cư xử có trước có sau. Với nàng Vân Tiên không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng:” Lâm nguy chẳng gặp giải nguy- Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.”Nguyệt Nga coi đó là ơn trọng và áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn dù biết rằng có đền đáp bao nhiêu cũng chưa đủ:” Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Bởi vậy cuối cùng nàng đã tự nguyện gắn bó suốt đời với chàng hào hiệp ấy, dám liều mình để giữ trọn ân tình thủy chung với chàng.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Các tác giả văn học trung đại đều rất thành công khi khắc học về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là cái nhìn tiến bộ , mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Dữ, Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu những người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp chuẩn mực của xã hội xưa. Họ là hiện thân của những người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại.
III. Kết bài:
- Khẳng định, đánh giá lại vấn đề.
+ Ngày nay vẻ đẹp đó luôn được tôn thờ và phát triển phù hợp với thời đại
+ Nhà văn Nga A.Sê-khốp nhận định: Sắc đẹp tâm hồn là sắc đẹp lâu dài và được quý trọng nhất”.
Suy nghĩ của bản thân, liên hệ hình ảnh người phụ n ữ trong XH hiện đại.
ĐỀ SỐ 8: Thạch Lam từng nói: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn”.
Hãy làm rõ nhận định trên qua Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2011)
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Thiên chức nhà văn: “chức vụ thiêng liêng” của người cầm bút
- Nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn - giá trị mà tác phẩm văn chương hướng tới người đọc...
2. Chứng minh qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Yêu quý, ngợi ca, bảo vệ những phẩm giá, phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương – của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến (yêu chồng, thương con, trinh tiết, thủy chung, hiếu thảo...).
LĐ2. Lên án, tố cáo chế độ nam quyền, xã hội phong kiến bất công tàn bạo
LĐ3. Đấu tranh đến cùng để cái đẹp luôn vĩnh hằng, vĩnh cửu dù ở bất cứ thế giới nào...
3. Đánh giá, mở rộng
- Đây là một nhận định đúng đắn về thiên chức nhà văn và giá trị của văn chương.
- Tác phẩm được lựa chọn là minh chứng rõ nét cho nhận định của nhà văn Thạch Lam.
- Ngoài thiên chức cao cả này, nhà văn còn có những thiên chức khác (phát hiện những rung động tinh tế của cuộc sống, thanh lọc đời sống tinh thần, văn còn là họa là nhạc...)
- Giá trị của văn chương còn tùy thuộc vào độc giả, tùy thuộc quá trình tiếp nhận văn học...
III. Kết bài
- Khẳng định lại ý kiến, đánh giá sự thành công của tác phẩm.
- Suy nghĩ, cảm nhận liên hệ rút ra bài học.
ĐỀ SỐ 9: Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên? Làm rõ ý kiến trên qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Dân dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích:
- Ý kiến trên nói về vai trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Trong tác phẩm tự sự có rất nhiều chi tiết, và trong đó có những chi tiết được coi là chi tiết nghệ thuật.
- Những chi tiết nghệ thuật đôi khi là những chi tiết rất nhỏ, nhưng nó lại chưa đựng ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được tầm vóc tư tưởng, quan điểm, thể hiện được cả sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, thể hiện được tài năng của người nghệ sĩ
=> Chính vì vậy mới nói: chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
2. Phân tích chứng minh ý nghĩa sâu sắc, cái hay, sự khéo léo của chi tiết "chiếc bóng" trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ
LĐ1. Chi tiết chiếc bóng tô đậm thêm những nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò làm vợ, làm mẹ:
+ Yêu thương con, muốn bù đắp tình cảm cho con khi vắng cha,
+ Yêu thương, thủy chung với chồng, luôn mong ngóng và nhớ chồng da diết nên Vũ Nương phải mượn chiếc bóng của mình để khỏa lấp nõi lòng...
+ Khát khao gia đình, được sum họp, được hạnh phúc.
LĐ2. Chiếc bóng chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của nàng.
+ Nó là bằng chứng oan nghiệt đẩy nàng vào cái chết.
+ Là nguyên nhân trực trực tiếp dẫn chết cái chết oan nghiệt của nàng.
+ Chiếc bóng xuất hiện lần thứ hai lại là bằng chứng minh oan cho sự trong sạch của nàng.
LĐ3. Chiếc bóng là ẩn dụ cho số phận mong manh của người phụ nữ trong chế độ nam quyền.
+ Chỉ là chiếc bóng vô hình nhưng cũng dẫn tới bi kịch, đẩy một người phụ nữ đức hạnh đến cái chết oan ức.
+ Chiếc bóng Vũ Nương vô tình đem ra đùa với con, nhưng chính trò đùa ấy lại hại nàng, phải chăng Nguyễn Dữ muốn gửi gắm một triết lí: ở đời làm sao học hết được chữ "ngờ".
LĐ4. Chi tiết Chiếc bóng để lại một thông điệp sâu sắc: phải yêu thương, tin tưởng, tôn trọng nhau, đừng để cho những điều vô hình, mong manh (như chiếc bóng) giết chết tình yêu, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình hiển hiện vốn có của mình.
- Với trương Sinh :
+ Chiếc bóng chính là bằng chứng kết tội vợ vợ mình mất nết lăng loàn không chung thuỷ.
+ Nó cũng là bằng chứng cho tội ác tày trời của Trương Sinh: hồ đồ, độc đoán, đa nghi, gia trưởng, đa nghi của Trương Sinh giết chết người vợ hiền hiếu thảo đảm đang thuỷ chung của mình.
+ Nó là vật vô hình mà giá trị thức tỉnh lương tâm Trương Sinh, khiến Trương Sinh ân hận giày vò, đâu khổ vì sự hồ đò đa nghi thiếu tin tưởng vợ.
LĐ5. "Chiếc bóng" xuất hiện ở cuối tác phẩm: "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất". Chi tiết này thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so với tích cũ (Vợ chàng Trương), tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm và đem đến cho câu chuyện một kết thúc tưởng như có hậu nhưng lại càng tô đậm thêm bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ.
=> Như vậy một chi tiết nhỏ này đã hàm chứa những tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Dữ, góp phần làm nên giá trị nhân đạo, tính nhân văn của tác phẩm.
=> Khái quát: Như vậy chi tiết này thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo (thương xót, đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh, bênh vực người phụ nữ, phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng, ích kỉ của những người đàn ông trong xã hội phong kiến...), đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả.
=> Tất cả những điều này đã chứng minh chi tiết chiếc bóng - một chi tiết nhỏ trong truyện nhưng đã làm nên tầm vóc một "nhà văn lớn" - Nguyễn Dữ.
LĐ6. Về giá trị nghệ thuật:
+ Chi tiết chiếc bóng tạo sự bất ngờ, tính hấp dẫn của tình huống, sự chặt chẽ cho cốt truyện, tạo sự thắt nút, mở nút rất hợp lí. Chi tiết này được để xuống cuối phần thứ hai của truyện, sau khi Vũ Nương không còn nữa, chuyện đau xót nhất đã xảy ra và sai lầm không thể làm lại, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Do đó tính tố cáo cũng sâu sắc, mạnh mẽ hơn.
+ Tạo kịch tính, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện.
=> Điều này thể hiện dấu ấn sáng tạo và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ.
3. Đánh giá, mở rộng
- Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù vì thế tầm vóc của người nghệ sỹ có thể được làm nên từ những yếu tố nhỏ nhất ấy. Những nhà văn lớn thường có khả năng sáng tạo được những chi tiết nhỏ nhưng giàu giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Để làm nên một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật và Nguyễn Dữ đã làm nên điều đó.
III. Kết bài:
- Khái quát khẳng định lại ý kiến.
- Suy nghĩ, liên hệ, bài học.
ĐỀ SỐ 10: Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh”. Làm sáng tỏ ý kiến trên qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ?
GỢI Ý LÀM BÀI:
I. Mở bài:
- Dẫn dắt giới thiệu vấn đề:
+ Truyện ngắn là thể loại được ưa thích của cả người sáng tác và người tiếp nhận.
+ Sức hấp dẫn của truyện ngắn chính là chiều sâu nghệ thuật, sự độc đáo của nó mà nhà văn đã dệt nên của tác phẩm của mình.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- “Một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của một nhân vật nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh”: Có tính chất ước lệ nó chỉ cái số ít của truyện ngắn so với thế giới phức tạp, đồ sộ và bề bộn của tiểu thuyết. Có nghĩa là truyện ngắn có khuôn khổ ngắn, ít nhân vật, ít sự kiện. Nó chỉ là mảnh nhỏ, một lát cắt của đời sống.
+ Tác giả truyện ngắn thường hướng đến phát hiện và khắc họa một hiện tượng, một nét bản chất nhất trong quan hệ nhân sinh hoặc trong đời sống tâm hồn của con người.
+ Nhân vật trong truyện ngắn không phải là một cá tính điển hình đầy đặn và phức tạp. Nhiều khi đó chỉ là một mảnh đời, một khoảnh khắc của một số phận. “Là một lát cắt, một khúc của một của đời sống. Nhứng qua lát cắt ấy, qua khúc ấy người thấy được trăm năm của đời thảo mộc” ( Nguyễn Minh Châu)
2. Thông qua truyện Người con gái Nam Xương sáng tỏ nhận định trên:
LĐ1. Qua tác phẩm Nguyễn Dữ muốn đối thoại với bạn đọc về số phận người phụ nữ qua nhân vặt Vũ Nương.
+ Bị hạ thấp, được xem như một món hàng mua bán (Lúc mà Trương Sinh đem tiền đến rước dâu. Dù không muôn đăng hộ đối cũng phải cúi đầu nghe theo).
+ Bèo bọt, không có tiếng nói trong xã hội (giãy bày nhưng không thể thay đổi được gì).
LĐ3. Qua tác phẩm Nguyễn Dữ muốn đối thoại với bạn đọc về vấn đề nhân sinh nữa đó là tố cáo xã hội phong kiến nam quyền, bất công, vô lí.
+ Con trai là người nắm giữ quyền lực và dù đúng dù sai vẫn luôn có quyền phán xét, hành xử người khác.
+ Đàn ông có quyền quyết định mọi thứ kể cả sự sống cái chất của người phụ nữ.
LĐ3. Qua tác phẩm Nguyễn Dữ muốn đối thoại với bạn đọc về ván đề nhân sinh nữa ấy là lời lên án tố cáo chiến tranh phi nghĩa.
+ Ngăn cách tình vợ chồng.
+ Tạo bức màn khiến người phụ nữ phải chịu cảnh chờ đợi, không thể làm được điều gì.
+ Khiến nề nếp, lề thói một tay người phụ nữ gây dựng, bỗng chốc tan vào hư vô
3. Đánh giá, mở rộng:
- Con người và cuộc sống hiện thực là chất liệu quan trọng nhất của văn học. Một truyện ngắn có giá trị là qua đó nhà văn không chỉ giới thiệu đến độc giả một câu chuyện, một tình huống mà còn thể hiện được những đánh giá, phát hiện và những quan niệm chủ quan về nhân sinh và cuộc sống con người.
- Rõ ràng “thông qua một truyện ngắn nhà văn bao giờ cũng muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh” là ý kiến đúng.
- Để sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật cho một tác phẩm nhà văn phải trải qua bao dằn vặt, trăn trở, hy vọng, đau đớn từ đó hình thành nên một quan niệm, một niềm tin nhất định của mình.
- Đằng sau bức tranh cuộc sống được tái hiện, miêu tả bao giờ cũng chứa đựng một quan niệm, một khát vọng thiết tha muốn bạn đọc đồng tình, sẻ chia , cùng suy ngẫm và sáng tạo.
III. Kết bài
- Đánh giá khái quát lại.
- Suy nghĩ cảm xúc bản thân, liên hệ.
ĐỀ SỐ 11: Nhà văn Nguyễn Khải quan niệm: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích giá trị tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ ý kiến trên
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề:
+ Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ.
+ Giới thiệu về tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”.
- Trích dẫn ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Giá trị tư tưởng của tác phẩm văn học là nội dung tư tưởng, là thế giới quan, là ước mơ, lí tưởng, tình cảm…của người sáng tác thể hiện trong tác phẩm.
- Tác phẩm văn học phản ánh hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Đằng sau bức tranh hiện thực được khắc họa trong tác phẩm bao giờ cũng là tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan niệm của nhà văn đối cuộc sống. Tác phẩm chỉ có thể lay động trái tim độc giả, trường tồn với thời gian khi nó mang chở những tư tưởng đúng đắn, tiến bộ, tình cảm nhân ái, chan hòa.
-> Tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chính là những tư tưởng đúng đắn, tiến bộ, tình cảm cao đẹp trong tác phẩm.
2. Phân tích - Chứng minh giá trị nhân đạo biểu hiện trong tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”
a. Khái quát về giá trị nhân đạo trong văn học:
- Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người. Nhà văn chân chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người.
- Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống con người được miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người... Đồng thời, tư tưởng nhân đạo được thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu...
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng. “Người con gái Nam Xương” là tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của văn học trung đại Việt Nam.
b. Giá trị nhân đạo biểu hiện trong tác phẩm “Người con gái Nam Xương”
* Trước hết giá trị nhân đạo trong tác phẩm được Nguyễn Dữ thể hiện ở thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của con người, đặc biệt là vẻ đẹp người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương:
- Người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát…
- Thủy chung, son sắt.
- Hiếu thảo với mẹ chồng, hết mình vì gia đình…
- Nàng là người phụ nữ hoàn hảo, lý tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ.
LĐ1. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm được Nguyễn Dữ thể hiện ở lòng đồng cảm, xót thương, đau đớn trước số phận bi kịch của nàng Vũ Nương nói riêng và của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung:
- Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất đáng quý, nàng xứng đáng được sống hạnh phúc, nhưng số phận nàng lại đầy bất hạnh:
+ Chờ chồng đằng đẵng bao ngày tháng.
+ Bị chồng nghi ngờ lòng thủy chung.
+ Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị vùi dập tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan uổng…
+ Bi kịch đời nàng là tấn bi kịch cho cái đẹp bị chà đạp phũ phàng.
LĐ2. Hơn nữa giá trị nhân đạo trong tác phẩm còn được Nguyễn Dữ thể hiện ở lời lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên quyền sống và khát vọng sống của con người:
- Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình.
- Lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa tước đoạt hạnh phúc của con người.
- Xã hội phong kiến với những hủ tục như: Trọng nam khinh nữ, lễ giáo hà khắc, …gây bao bất công cho người phụ nữ.
LĐ3.Cuối cùng phải kể đến giá trị nhân đạo trong tác phẩm được Nguyễn Dữ thể hiện ở những biểu hiện cao đẹp nhất đó chính là: Nguyễn Dữ đã không để cho nhân vật của mình phải chết oan khuất, bênh vực, bảo vệ phẩm hạnh Vũ Nương, đó cũng là khát vọng nhân văn chân chính trong truyền thống đạo đức của người Việt Nam:
- Mượn yếu tố kì ảo của thể loại Truyền kì, nhà văn diễn tả Vũ Nương được trở về, để rửa sạch nỗi oan khuất, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa.
3. Đánh giá, mở rộng
- Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn, khẳng định giá trị tư tưởng trường tồn trong các tác phẩm văn học nói chung và “ Chuyện người con gái Nam Xương” nói riêng.
- Tác phẩm đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đặc biệt hơn thông điệp nhân văn của Nguyễn Dữ được xây dựng bởi các yếu tố nghệ thuật đặc sắc như: Xây dựng tình huống truyện độc đáo; Dẫn dắt tình huống truyện hợp lý. Khắc họa các chi tiết ấn tượng như chi tiết chiếc bóng tạo sự bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc và tăng tính bi kịch cho câu chuyện. Thể loại truyền kì với các yếu tố kì ảo cũng góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
III. Kết bài
- Khái quát, khẳng định lại ý kiến.
- Đánh giá thành công của tác phẩm, tài năng và tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
ĐỀ SỐ 12: Nhận xét về kết thúc của truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng: “Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”.
Qua một số tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyến Dữ, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề: Đối với nghệ thuật viết truyện ngắn phần mở đầu và kết thúc bao giờ cũng được các nhà văn đặc biệt lưu ý, trong đó một kết thúc ám ảnh, giàu ý nghĩa luôn luôn được xem trọng.
- Trích dẫn ý kiến: Bàn về phần kết thúc của truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng: Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng.
- Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) là một trong số những tác phẩm thành công trong việc xây dựng phần kết thúc.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Ý kiến đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của phần kết thúc trong truyện ngắn: Kết thúc nào cũng nhằm tái hiện dòng chảy nghệ thuật phức tạp của đời sống. Sau mỗi một kết thúc, người đọc có thể thấu hiểu được chân lý đời sống, nhận thức được những quy luật đời sống, những dự cảm về tương lai và khẳng định sự tất thắng của cái đẹp.
- Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến xuất phát từ đặc trưng của truyện ngắn:
+ Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, có lối hành văn mang đầy ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Để thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đề tác phẩm, đòi hỏi nhà văn phải có khả năng dồn nén, sáng tạo chi tiết, lời văn nghệ thuật. Trong đó, đoạn kết đóng vai trò có ý nghĩa quan trọng. Viết truyện ngắn, cốt nhất là phải tô đậm phần mở đầu và kết luận (Chekhov), Sức mạnh của cú đấm nghệ thuật là thuộc về đoạn cuối.
+ Nếu như phần mở có ý nghĩa như một khúc dạo đầu thì phần kết thúc có vai trò như một khúc vĩ thanh, nó giải quyết những mâu thuẫn đặt ra trong tác phẩm. Vì thế, phần kết chứa đựng thông điệp của nhà văn, chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Kết thúc là khép lại, nhưng mở ra cánh cửa cuối cùng để khám phá tác phẩm, đồng thời mở ra trong lòng bạn đọc những suy nghĩ, liên tưởng mới mẻ, đánh thức, khơi gợi ở người đọc khả năng đồng sáng tạo.
2. Chứng minh: Phần kết của tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ):
LĐ1. Bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, tác phẩm còn đạt được nhiều thành công về mặt nghệ thuật.
- Nguyễn Dữ đã tạo nên một thiên truyện giàu kịch tính, hấp dẫn từ đầu đến cuối qua các mâu thuẫn.
- Xung đột được đẩy đến mức căng thẳng khi Trương Sinh nghe lời con trẻ, trút bỏ mọi oán trách lên đầu Vũ Nương, khi Vũ Nương không thể thanh minh cho mình và phải tìm đến cái chết, sự vỡ lẽ của Trương Sinh đã mở nút cho mâu thuẫn. Việc mở nút cho kịch tính bằng cái chết của nhân vật chính đã tạo nên âm hưởng bi kịch của số phận con người. Và lẽ ra câu chuyện có thể kết thúc ở đó, nhưng tác giả đã sáng tạo thêm đoạn kết.
LĐ2. Một cái kết có hậu: Vũ Nương không chết, nàng được sống một cuộc sống khác bình yên và tốt đẹp dưới thủy cung, nỗi oan tình của Vũ Nương được hóa giải, chàng Trương lập đàn giải oan và gặp nàng. Vậy cái kết như vậy có ý nghĩa như thế nào, sáng tạo ra kết thúc đó Nguyễn Dữ muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp gì? Trước hết, phần kết thúc với nhiều chi tiết kì ảo sẽ thể hiện được đặc trưng của thể loại truyện truyền kì, hấp dẫn người đọc bởi những yếu tố hoang đường.
LĐ3. Hơn nữa, phần kết thúc có hậu giống như nhiều truyện cổ tích đã thể hiện triết lí ở hiền gặp lành của nhân dân lao động. Bản thân Nguyễn Dữ luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những người phụ nữ có số phận éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, nếu như Tấm sau nhiều lần hóa thân, chết đi sống lại đã được trở về vị trí hoàng hậu, sống hạnh phúc trọn đời thì Vũ Nương chỉ thoáng hiện về rồi vĩnh viễn biến mất. Điều đó đã làm tăng ý nghĩa phê phán hiện thực, cảnh tỉnh đối với những kẻ như Trương Sinh: Hạnh phúc rất mong manh, nếu để mất đi sẽ không bao giờ lấy lại được, để có được hạnh phúc con người phải sống với nhau bằng niềm tin, bằng sự nhân hậu bao dung.
LĐ4. Kết thúc này còn góp phần vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật, thể hiện thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác giả trước phẩm hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ta thấy chi tiết Phan Lang trở thành ân nhân của con rùa, sau lại được rùa đền ơn, cứu thoát trên đường chạy giặc đã thể hiện đạo lí đền ơn đáp nghĩa, một truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc. Việc Vũ Nương trở về gặp chồng, nhưng không đồng ý ở lại chốn nhân gian, nàng nguyện ở lại thủy cung để báo đáp ơn nghĩa với Linh Phi.
3. Đánh giá mở rộng.
- Phần kết thúc có vai trò quan trọng nhưng không phải là yếu tố duy nhất làm nên thành công của tác phẩm. Ngoài phần kết, cần chú ý đến vai trò của các phần khác như: mở đầu, cốt truyện, xây dựng tình huống, nhân vật…
- Quá trình viết truyện ngắn là một quá trình lao động sáng tạo công phu đầy vất vả, gian nan của người nghệ sĩ. Một truyện ngắn hay cũng đồng thời phải là một truyện ngắn có cách kết thúc hay, ấn tượng, sáng tạo. Từ đó, người đọc có khả năng liên tưởng, khái quát, khám phá được những vấn đề lớn lao, sâu sắc của hiện thực đời sống, con người, vượt ra khỏi khuôn khổ ít ỏi của truyện ngắn.
- Điều này đặt ra yêu cầu đối với người nghệ sĩ sáng tác trong việc trau dồi tài năng, phong cách nghệ thuật. Và người đọc cũng phải sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mỹ của tác giả gửi gắm ở phần kết qua đó có thể sẻ chia, cảm thông, tri âm với tác giả.
III. Kết bài
- Thực tế đã chứng minh những tác phẩm có giá trị, trường tồn với thời gian là những tác phẩm có kết thúc để lại nhiều dư ba trong lòng bạn đọc.
- Chuyện người con gái Nam Xương, Bến quê là những tác phẩm mãi còn xanh, những tác phẩm đi cùng năm tháng.
ĐỀ SỐ 13: Khi bàn về các tác phẩm truyện, nhà văn Chingiz Ajmatov đã nêu ý tưởng: “Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện.” Em hiểu như thế nào về ý tưởng đó. Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, em hãy làm sáng tỏ ý tưởng trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt nêu vấn đề nghị luận từ ý kiến.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài.
1. Giải thích ý kiến
- Giới thiệu, khẳng định ý kiến của nhà văn Chingiz Ajmatov là xác đáng.
- Tác phẩm nghệ thuật chân chính là tác phẩm có gái trị lớn lao, đích thực thể hiện được chức chức và sứ mệnh cao cả của văn chương với cuộc đời.
- Không chấm dứt ở trang cuối cùng nghĩa dù kết thúc ở trên trang sách nhưng không bao giờ kết thức chấm dứt ở trang đời, những tác phẩm lón nó có sức gợi mạnh mẽ có sức sống lâu bến trong lòng người đọc.
- Không bao giờ hết khả năng kể chuyện nghĩa là không chấm dứt khi gấp trang sách lại mà có sức sống lâu bền với thời gian.
2. Chứng minh, làm rõ ý kiến qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
LĐ1. Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng:
+ Tác giả đã gieo vào lòng người đọc sự trân trọng, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống thông qua vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương…
+ Tác phẩm lay động lòng người, ám ảnh lòng người bởi số phận mỏng manh của người phụ nữ trong chế độ phong kiến nam quyền thông qua số phận của Vũ Nương. Họ có thể gặp bất hạnh bởi bất cứ một nguyên nhân vô lý nào mà không lường trước được. Tác phẩm gieo vào lòng người đọc sự đồng cảm, sẻ chia, ước mơ, khát vọng giải phóng người phụ nữ.
LĐ2. Tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ hết khả năng kể chuyện: bởi sự sáng tạo của Nguyễn Dữ
- Cốt truyện thêm vào phần 3: Vũ Nương ở Thuỷ cung và được giải oan.
- Chi tiết hoang đường: thể hiện tính truyền kì, nhấn mạnh giá trị hiện thực: số phận bất hạnh, mong manh của người phụ nữ; giá trị nhân đạo: hoàn thiện vẻ đẹp thuần hậu, dịu dàng, hướng về chồng con với khát vọng cháy bỏng hạnh phúc của Vũ Nương; thể hiện khát vọng của người xưa là “ ở hiền gặp lành”; tố cáo xã hội phong kiến trong buổi suy tàn với những thế lực đen tối đày đọa người phụ nữ: Hôn nhân bất bình đẳng, không tình yêu, không niềm tin, xã hội với thế lực nam quyền độc đoán, gia trưởng, xã hội có chiến tranh loạn ly và cơ bản nhất là xã hội coi thường, rẻ rúng người phụ nữ…
- Cách xây dựng nhân vật:
+ Tính cách có sự biến đổi: Vũ Nương không nhẫn nhịn, chịu đựng mãi mà biết phản ứng để bảo vệ nhân phẩm, Trương Sinh không hẳn thuộc phe ác, chàng đã biết hối hận, nhận ra sai lầm của mình thể hiện qua việc lập đàn tràng giải oan cho vợ.
+ Bước đầu khắc hoạ nội tâm: Những lời thoại của Vũ Nương thực chất là tâm trạng, sự giãi bày của nàng...
- Cách xây dựng chi tiết kịch tính, nghệ thuật thắt nút, mở nút: Dụng công xây dựng chi tiết chiếc bóng.
- Kết thúc có hậu nhưng chứa đầy bi kịch
+ Có hậu: Vũ Nương được minh oan, được sống ở Thuỷ cung.
+ Bi kịch: Thực chất Vũ Nương đã chết, sự sống của nàng chỉ là chốn làn mây, cung nước; Suốt đời khao khát hạnh phúc mà không có được, gia đình tan nát, bé Đản không còn mẹ, Trương Sinh không còn vợ và phần đời còn lại chàng phải sống trong ân hận dày vò vì là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho vợ…
-> Chính sự sáng tạo của Nguyễn Dữ là yếu tố cơ bản làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, làm nên sức sống vượt thời gian cho tác phẩm.
3. Đánh giá, mở rộng
- Bằng tài năng và tấm lòng của mình, Nguyễn Dữ cất lên tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước số phận mong manh, bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Câu chuyện kết thúc nhưng lại mở ra khoảng trống khiến chúng ta phải suy ngẫm. Đó là: phải biết trân trọng hạnh phúc gia đình, biết kiềm chế phân tích khi nóng giận, biết yêu thương tin tưởng lẫn nhau, đừng bao giờ để xảy ra bi kịch lứa đôi như cặp Trương Sinh, Vũ Nương. Câu chuyện mãi là bài học ngàn đời cho hạnh hạnh phúc lứa đôi.
- Quan điểm của nhà văn Chingiz Ajmatov là khẳng định sức sống của văn học chân chính trong lòng người đọc, đồng thời là bài học cho người nghệ sĩ:tác phẩm nghệ thuật là nơi kết tinh cái tài, cái tâm của người sáng tác.
III. Kết bài.
- Đánh giá lại ý kiến.
- Suy nghĩ bản thân, rút ra bài học.
ĐỀ SỐ 14: Có ý kiến cho rằng Trương Sinh cũng chính là nạn nhân của chế độ XHPK nam quyền đầy nghiệt ngã, bởi thế cuộc đời chàng cũng là một chuỗi bi kịch. Em hãy làm rõ bi kịch của Trương Sinh trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Truyền Kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ)
GỢI Ý LÀM BÀI:
I. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn nhận định.
II. Thân bài:
1. Giải thích:
- Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục, nguồn gốc của truyện bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân gian có tên là Vợ chàng Trương. Tuy nhiên chuyện đã được Nguyễn Dữ đã sáng tạo cả nội dung và nghệ thuật.
- Nhân vật Trương Sinh cũng chính là một sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Dữ. Chàng là sản phẩm của xã hội phong kiến mang tư tưởng nam quyền nên ít nhiều chàng cũng chịu không ít bi kịch từ xã hội ấy. Trương Sinh Tuy luôn bị lên án trong cái chết của Vũ Nương nhưng bản thân Trương Sinh cũng là nhân vật người đàn ông có nhiều bi kịch.
2. Chứng minh làm rõ bi kịch của Trương Sinh trong tác phẩm.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Trước hết ở Trương Sinh là bi kịch về khát vọng tề gia không thành.
- Từ một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc bên gia đình, bên mẹ, bên vợ, Trương Sinh đã phải thực hiện nghĩa vụ công dân của mình - phải đi lính khi đất nước có chiến tranh. Dễ thấy, Trương Sinh không phải là kiểu nhân vật “nam nhi chí lớn”: chàng không có những khát vọng lớn lao mang tầm vóc vũ trụ, không thể hiện được chân dung và tư cách của một trang nam nhi, anh hùng chí lớn.
- Trương Sinh thuộc tip nhân vật người đàn ông tề gia - an phận, chủ tâm trong việc xây dựng, tề chỉnh gia đình. Chàng luôn chăm chút giữ gìn cho gia đình hòa thuận. Chàng tuổi trẻ, con nhà giàu có nhưng không được học hành, phải đi lính trong lúc hương lửa đang nồng. Chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ để đi ra chiến trường khi tổ quốc lâm nguy...
- Có biết bao cuộc chia ly nhưng chia ly khi người thân ra trận để lại trong tâm trí con người nhiều suy nghĩ và lo lắng hơn bao giờ hết. Bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn có câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai về) như một chân lý khắc sâu vào tâm khảm người đọc. Đi vào nơi mũi tên, hòn đạn, chết chóc là điều không tránh khỏi. Số phận người lính trong chiến tranh thật mong manh. Người lính biết mình xung trận thì mười phần chết chỉ có một phần sống và cái cảnh “mấy ai về” như một định mệnh khắc nghiệt lâu nay.
- Khi đi lính trở về, Trương Sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, đứa con vừa học nói. Tình mẫu tử thiêng liêng, nguồn an ủi vô bờ đối với Trương Sinh không còn nữa. Mẹ mất không được đội tang, Trương Sinh cảm thấy mình mắc tội bất hiếu - một thứ tội lớn nhất đời người. Bởi lẽ, hiếu vốn là tinh thần, là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam hình thành từ rất xa xưa. Tư tưởng của đạo Nho là đề cao chữ “hiếu”, “Hiếu là gốc của đức, là nguồn của giáo…”(Hiếu kinh). Theo Khổng Tử, sự sống của mỗi người không phải do tạo hóa sinh ra, càng không phải do bản thân tự tạo, mà nhờ cha mẹ. Hiếu thuận được coi là nền tảng của đạo làm người. Chính vì thế, trong truyện, ngay khi trở về, Trương Sinh hỏi mồ mẹ rồi bế đứa con nhỏ ra thăm mộ mẹ trước tiên. Qua lời nói của chàng với đứa con “Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi” cho thấy rõ nỗi đau của người đàn ông, một người con không thể làm tròn bổn phận của mình. Nhưng dù vậy, Trương Sinh vẫn là một người con không tròn đạo hiếu.
-> Khát vọng tề gia của Trương Sinh chẳng khác nào bọt nước chiều mưa.
LĐ2. Bi kịch của người biết yêu cái đệp, trân trọng cái đẹp nhưng lại vô tình làm vỡ nó.
- Tuy không được học hành nhưng Trương Sinh là một người biết yêu, biết nâng niu và trân trọng cái đẹp. Trong tác phẩm, chi tiết Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới Vũ Thị Thiết - một cô gái nhà nghèo nhưng đủ công dung ngôn hạnh - về làm vợ đã chứng minh cho điều đó. Hơn nữa, trong cuộc sống, vợ chồng họ rất hạnh phúc.
- Lấy nhau đã lâu mà không có lúc nào có chuyện thất hòa. Đó không chỉ do cố gắng của một mình Vũ Nương. Hạnh phúc gia đình phải do tất cả các thành viên cùng vun trồng xây đắp mới trở nên tốt đẹp được, một người dù có cố gắng đến mức nào cũng không thể cứu vãn được nếu người còn lại không ủng hộ.
+ Chàng hết lòng chăm chút và nâng niu tổ ấm của mình. Có thể nói, tình cảm của Trương Sinh dành cho Vũ Nương hoàn toàn hồn nhiên, trong sáng, và đáng trân trọng. Đặt vào hoàn cảnh của Trương Sinh vừa đi chinh chiến về, quá mệt mỏi, con người ta rất cần một chỗ dựa là gia đình, bên mẹ, bên vợ và bên con. Còn Trương Sinh thì sao?
- Vừa về đến nhà đã gặp bao khổ đau: chàng không có được giây phút hồi hộp, thiêng liêng đón giọt máu của mình chào đời; mẹ già đã khuất núi… Mẹ mất, niềm hạnh phúc gia đình nhỏ còn lại của Trương Sinh là vợ và con trai. Vậy nhưng, đứa con nhất định không chịu nhận mình làm cha “Ô hay! thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít” khiến chàng đau đớn. Hơn nữa, lời bé Đản rất có lý khiến chúng ta không thể không tin có “điều gì đó” mờ ám diễn ra: “Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Nguyễn Dữ đã khéo léo đặt những lời nói đó vào miệng của một đứa trẻ ngây thơ. Hơn ai hết, lời của bé Đản đã kích động tính ghen tuông của Trương Sinh, khiến Trương Sinh nghi ngờ Vũ Nương thất tiết. Không thể làm chủ được bản thân, Trương Sinh đã mắng mỏ, nhiếc móc và đánh đuổi Vũ Nương đi mặc cho nàng biện bạch. Rõ ràng, Trương Sinh khao khát có gia đình hạnh phúc, ra sức vun đắp gia đình nhưng lại chính mình làm tan vỡ tổ ấm đó.
- Chàng trân trọng, nâng niu tình cảm với Vũ Nương thì lại lầm lẫn đến nỗi đẩy vợ yêu vào chỗ chết… Bản thân chàng phải tiếp tục sống trên cõi đời, ngày đêm đối diện với con thơ, với cái bóng oan khiên với nỗi đớn đau, dằn vặt khôn nguôi. Nhưng đó vẫn chưa phải là đỉnh điểm khổ đau của cuộc đời người đàn ông chồng chéo bi kịch này.
LĐ3. Bi kịch của chàng TS nữa đó là bi kịch của sự ghen tuông.
- Người đọc không khỏi xót xa, phẫn uẫn trước cái chết của Vũ Nương -một người phụ nữ thủy chung, trong trắng, đức hạnh vẹn toàn, trọn hiếu, vẹn tình… Nhiều người cho rằng cái chết của Vũ Nương trong truyện do ảnh hưởng từ hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không ổn định, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt làm cho các tầng lớp trong xã hội bị phân hóa mạnh mẽ, cuộc sống của nhân dân điêu đứng, đổi thay. Biết bao gia đình phải chia ly, phân tán khi người thân của họ phải bước ra chiến trận ác liệt. Chiến tranh đã khiến con người không được hưởng trọn hạnh phúc lứa đôi. Lẽ ra, cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến không xảy ra, Trương Sinh không phải đi lính thì chàng đã có một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình, cùng vợ đẹp, con ngoan. Trương Sinh đã làm tròn trách nhiệm của một người con, người chồng, người cha và chàng đã không rơi vào bi kịch.
- Tuy vậy, nguyên nhân chính và sâu xa dẫn đến bi kịch của Trương Sinh là do bản tính “hay ghen” của chàng. Bởi, giả sử Trương Sinh không phải đi lính ba năm mà là đi du học thì khi trở về, với tính hay ghen - một thuộc tính bản năng của con người, lại có “điều kiện” là câu nói ngây thơ của đứa con về sự ngoại tình của vợ, Trương Sinh vẫn sẽ rơi vào bi kịch đau lòng vì gây ra cái chết cho vợ mình. Như vậy, việc ghen tuông của Trương Sinh là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết đau lòng của Vũ Nương.
- Hay ghen là một hiện tượng tâm lý có liên quan đến sinh lý, đến giới tính thuộc phạm vi tính người mà tạo hóa đã phát riêng cho nhân loại. Ghen tuông còn là một thuộc tính của con người, khi có điều kiện thuộc tính này sẽ bùng phát lên nhanh chóng và hậu quả của những cơn ghen thường rất ghê gớm và khó lường. Còn yêu là còn ghen. Sự ra đi của Vũ Nương là một hậu quả nghiêm trọng nhất cho việc ghen tuông nông nổi của Trương Sinh.
+ Trong tình yêu, ghen tuông là điều khó tránh khỏi. Cơn ghen khiến con người ta mất khả năng kiểm soát hành vi của bản thân. Khi ghen tuông, không đủ tỉnh táo tất sẽ dẫn đến những hành động thiếu suy nghĩ. Nhà tâm lí Hauch cho rằng “Biểu hiện chung của đàn ông ghen tuông là sẵn sàng lớn tiếng, quát nạt đối phương, bàng quan với mọi thứ xung quanh. Có một số người thì đập phá đồ đạc hoặc trút giận bằng cách đấm vào tường”. Hơn nữa mẹ vừa mất, vợ lại ngoại tình còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau ấy. Do vậy, việc Trương Sinh đánh đuổi Vũ Nương đi là hoàn toàn có thể giải thích được.
+ Khi Vũ Nương quyên sinh, Trương Sinh vẫn động lòng thương xót“tìm vớt thây nàng”. Đó là một hành động đáng trân trọng, nó thể hiện tình cảm của chàng với người vợ bất hạnh. Sau khi Vũ Nương chết, một mình chàng lầm lũi nuôi con. Chính từ cái bóng của chàng và qua câu nói của đứa con thơ, mà hiểu ra mình đã lầm mà gây tội ác với vợ, con mồ côi mẹ, chồng mất vợ, chàng dằn vặt, hối hận, nhưng đã quá muộn màng. Trương Sinh đã lập đàn tràng giải oan cho Vũ Nương tại bến Hoàng Giang. Đây là cố gắng cuối cùng của chàng để níu kéo hạnh phúc đã mất. Vũ Nương đã trở về trong niềm mơ ước của Trương Sinh và của người đời nhưng chỉ là chốc lát rồi lại tan biến vào khói mây. Mái ấm gia đình của chàng đã mãi mãi không còn nữa. Có lẽ nỗi cô đơn, ân hận về hành động của mình sẽ theo chàng đến hết cuộc đời. Đây chính là một vấn đề lớn của bi kịch gia đình.
- Có thể thấy, bi kịch của Trương Sinh là do nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ những tình tiết đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Điểm mấu chốt trong bi kịch này đó chính là những mâu thuẫn, giằng xé diễn ra ngay trong chính bản thân con người chàng, đó là sự hối hận, dằn vặt vì đã gây ra cái chết của vợ dưới dòng nước lạnh. Trong những truyện Nôm sau này, có kiểu kết cấu: Gặp gỡ - Tai biến - Lưu lạc - Đoàn viên, có nghĩa là chia ly, từ biệt rồi sẽ gặp lại, là gương vỡ có thể lành. Trước thời điểm đó, Nguyễn Dữ đã nhận thức được vấn đề rằng thực tế cuộc sống không phải như vậy, không phải mọi chuyện diễn ra có “tai biến”, “lưu lạc” rồi sẽ lại được “đoàn tụ”. Điều đó thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Nguyễn Dữ về cuộc sống. Qua bi kịch của Trương Sinh, Nguyễn Dữ muốn nói rằng gương vỡ không thể lành, bát nước đổ đi không thể lấy lại được. Người ta cứ đi tìm hạnh phúc nhưng không biết hạnh phúc ở trong tay mình, để khi mất đi rồi, mới biết đó là hạnh phúc.
3. Ý đồ của tác giả khi để nhân vật của mình ghánh chịu những bi kịch.
- Việc xây dựng những bi kịch của Trương Sinh trong Chuyện người con gái Nam Xương đã góp phần phản ánh và tô đậm hiện thực xã hội Việt Nam thế kỷ XVI - một thời kỳ lịch sử đầy biến động.
- Là một nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lời chia sẻ, đồng cảm lớn lao và lòng cảm thông sâu sắc trước số phận con người, trước nỗi khổ của nhân dân. Thông qua việc thể hiện số phận bi kịch của người đọc có thể hình dung ra nhiều loại bi kịch với những hậu quả nghiêm trọng của nó. Bi kịch của Trương Sinh chính là những mâu thuẫn, giằng xé “chủ quan” diễn ra ngay trong chính bản thân con người, do thuộc tính nội tại của con người vì nhầm lẫn, thiếu hiểu biết, ghen tuông để rồi tự chuốc lấy sự ân hận, dằn vặt suốt cuộc đời. Quan trọng hơn, dù có rất nhiều nguyên nhân lớn nhỏ khác nhau, khách quan hay chủ quan, nhưng tất cả bi kịch đều gây ra nỗi đớn đau cho con người.
- Thông qua đó, người đọc không chỉ có thêm một góc nhìn mới về “thiên cổ kỳ bút”, về tác giả Nguyễn Dữ mà còn có thể chia sẻ, cảm thông với nỗi khổ của những người đàn ông trong chính chế độ xã hội nam quyền của họ. Mỗi con người có một nỗi đau riêng nhưng nỗi đau chung nhất vẫn là những bất hạnh trong cuộc sống tình duyên. Hạnh phúc gia đình là niềm mơ ước, là chỗ dựa vững chắc cho cả người đàn ông và người phụ nữ.
- Bên cạnh việc phản ánh hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ muốn tìm những giải pháp cho con người nói chung và người đàn ông nói riêng. Ông đã đề xuất quan niệm về hạnh phúc: Hạnh phúc thực sự là gì? Hạnh phúc tồn tại ở đâu: trên trần gian này hay miền tiên giới, cõi thiên tào hay nơi thủy cung? Vấn đề đặt ra là con người phải sống làm sao, sống thế nào mới có hạnh phúc, hạnh phúc tìm thấy ở nơi đâu và dành cho ai? Đối với người đàn ông, hạnh phúc là gì và đối với người phụ nữ như thế nào là hạnh phúc? Hạnh phúc có lúc ở ngay trước mắt, có lúc phải kiếm tìm, điều quan trọng là con người phải dám ước mơ, khao khát và nhận ra được hạnh phúc đó. Hạnh phúc thuộc về tinh thần. Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, không thể có hạnh phúc trọn vẹn.
- Qua đó, Nguyễn Dữ khuyên con người cần phải biết trân trọng những niềm vui, hạnh phúc mà mình đang có vì nó một đi không trở lại. Rộng ra là hãy biết trân trọng những giá trị của cuộc sống.
III. Kết bài.
- Khái quát, đánh giá lại ý kiến trên.
- Suy nghĩ, cảm xúc, liên hệ.
ĐỀ SỐ 15: Nhận xét cách kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: "Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời", song ý kiến khác lại khẳng định: " Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo". Hãy trình bày suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI:
I. Mở bài.
- Dấn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài.
1. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
2. Tóm tắt kết thúc truyện.
- Không thể thanh minh, không thể giải toả được Vũ Nương đã tắm rửa chay sạch ra bến Hoàng Giang gieo mình tự vẫn. Nàng được các tiên nữ ở thuỷ cung cứu và đưa về thuỷ cung. Ở dó nàng được sống cuộc sống sung sướng. Nàng đã gặp Phan Lang, khi Phan Lang được Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế nàng đã gửi trâm cài hoa vàng về cho Trương Sinh. Nàng nhắn nhủ TS lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang nàng sẽ trở về. Phan Lang làm theo, nàng đã trở về trong võng lọng cờ hoa rực rỡ rồi nàng nói lời từ biệt và biến mất.
- Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời, bởi vì người nói đã thấy được giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm: người tốt dù có gặp bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại thanh danh và phẩm giá. Cách kết đó mang dáng dấp một kết thúc có hậu của truyện cổ tích.
3. Chứng minh làm rõ hai nhận định trên.
LĐ1. Nhận xét rằng "Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời" là đúng.
- Cách kết thúc ấy gửi gắm những dụng ý, tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du và Nguyễn Dữ – những nhà nhân đạo chủ nghĩa. Vũ Nương sau một đời khổ cực, hi sinh vì chồng con, lại phải tìm đến với cái chết oan ức. Nguyễn Dữ không muốn người con gái “tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” ấy phải chịu số kiếp “hẩm hiu”. Vì thế, ông đã sáng tạo thêm phần kết thúc mang tính chất kì ảo. Vũ Nương không chết mà được sống ở động tiên dưới thuỷ cung.
- Nhà văn để cho nàng được sống những ngày tháng vui vẻ trong tình yêu thương của các nàng tiên. Sống ở đó, nàng phần nào vợi được nỗi khổ trên trần thế. Nhưng Vũ Nương là một người vợ chung thuỷ, một người mẹ hết mực yêu con. Vì vậy mà cảnh sống sung sướng, đủ đầy không làm nàng nguôi vơi đi nỗi lòng vương vấn trần thế. Nàng luôn hướng về quê hương, nhớ tới phần mộ tổ tiên, nhớ chồng, thương con. Và trong trái tim của người phụ nữ tiết hạnh ấy luôn khắc khoải, canh cánh bởi nỗi oan chưa được giải. Vì vậy việc được gặp Phan Lang với nàng là cơ hội để được minh oan, chiêu tuyết. Hình ảnh nàng xuất hiện trên sông Hoàng Giang, “trên một chiếc kiệu hoa”, với “cờ tán, võng lọng đầy sông” là lời khẳng định mạnh mẽ về tấm lòng son sắt, thuỷ chung như nhất của người con gái ấy. Dẫu khôn được trở về dương gian, nhưng với một người có tấm lòng trong trắng thì việc Vũ Nương được giải oan, không chi làm vợi bớt đi nỗi day dứt của người chồng cả ghen, đa nghi, mà còn thoả nguyện ước mong tha thiết của quần chúng có oan phải được giải oan.
LĐ2. Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo, bởi ý kiến đó xuất phát từ việc nắm bắt giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Tuy nhân vật Vũ Nương vẫn được miêu tả với kiếp sống ở chốn thuỷ cung và sự trở về lung linh kì ảo để thể hiện ước mơ của con người về sự công bằng trong cuộc đời, nhưng tính bi kịch cũng tiềm ẩn ngay từ cái kết này bởi sự trở về và ước mơ hạnh phúc của Vũ Nương mang màu sắc ảo ảnh, hư vô, con người chỉ biết tìm đến cho mình hạnh phúc ở một thế giới không hiện hữu.
- Vũ Nương trở về nhưng chỉ “đứng ở giữa dòng”, “lúc ẩn, lúc hiện”. Nàng và chồng con sẽ mãi mãi chia lìa đôi ngả, âm dương cách biệt. Hạnh phúc trần thế đã vĩnh viễn rời xa nàng. Nguyễn Dữ đã ru người đọc trong cảm giác thoả mãn vì Vũ Nương được giải oan, nhưng rồi ngay lập tức kéo chúng tạ trở về thực tại. Màn sương khói huyền ảo như một giấc mơ tan đi cũng là lúc sự thật càng trở nên cay đắng, bẽ bàng. Nỗi oan của người phụ nữ không có đàn tràng nào giải nổi, dù là sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn cầu siêu của tôn giáo. Đó là giấc mơ, nhưng cũng là một lời tố cáo đanh thép. Nó lắng lại trong lòng ta những dư vị ngậm ngùi. Dù nó chỉ là ảo ảnh, nhưng nếu không có ảo ảnh này thì nỗi đau của người bất hạnh sẽ không được xoa dịu, trái tim người đọc sẽ mãi day dứt khôn nguôi.
=> Hai ý kiến trên tưởng chừng là mâu thuẫn, đối lập nhưng thực chất là bổ sung, soi sáng trong việc khám phá dụng ý nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Dữ, nó được xem là hai mặt của một vấn đề.
4. Đánh giá, mở rộng.
- Mỗi ý kiến trên đều xuất phát từ một góc nhìn, cách khám phá và tiếp cận ở phần kết của tác phẩm
- Lí giải cách kết thúc tác phẩm cần phải có cái nhìn toàn vẹn và những cơ sở để phát hiện ra những dụng ý mà nhà văn Nguyễn Dữ gửi gắm qua phần kết. Vì vậy, không nên tuyệt đối hoá một trong hai ý kiến trên mà cần phải thấy được sự bổ sung, thống nhất, nhằm soi sáng hai mặt của một vấn đề.
- Từ hai ý kiến trên, người đọc sẽ thấy được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ trong việc “dồn nén tư tưởng và cảm xúc” ở một cái kết độc đáo.
- Từ việc tìm hiểu những ý kiến bàn về dụng ý cách kết của một tác phẩm văn học đã đặt ra trách nhiệm, vai trò cho độc giả trong quá trình tiếp cận, giải mã văn bản văn học.
III. Kết bài.
- Khái quát khẳng định lại giá trị của kết thúc truyện. Khẳng định cả 2 ý kiến đều hoàn toàn đúng, không đói lập mà bổ sung cho nhau, thể hiện tính hai mặt của một vấn đề.
- Khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn.
ĐỀ SỐ 16: Bàn về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng: “ Một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời” Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, hãy làm sáng tỏ điều đó.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dấn dắt nêu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn nhận định.
II. Thân bài
1. Giải thích vấn đề
- Chứng tích của một thời: Phản ánh được hiện thực của thời đại với những vấn đề đời sống nổi cộm, bức thiết của nó.
- Hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: Thể hiện được những vấn đề bản chất, cốt lõi của nhân sinh, những chân lí muôn đời, vượt qua giới hạn của thời đại.
- Ý kiến của Nguyễn Kiên không chỉ chia sẻ kinh nghiệm sáng tác của nhà văn mà còn nêu lên một yêu cầu cốt tử đối với nội dung truyện ngắn, nó quyết định sức sống và giá trị tư tưởng của một tác phẩm.
2. Chứng minh nhận định.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Tác phẩm là chứng tích của một thời
- Là bức tranh hiện thực xã hội phong kiến:
+ Cuộc chiến tranh phi nghĩa.
+ Tư tưởng nam quyền bất nhân tàn ác, trong nam khinh nữ.
+ Hôn nhân ép buộc, không tình yêu, mua bán không hạnh phúc.
+ Số phận bé mọn bất hạnh oan trái của người phụ nữ.
+ Quy luật hà khắc, tàn bạo cho người phụ nữ.
+ Bi kịch của người đàn ông bởi tư tưởng nam quyền.
LĐ2. Tác phẩm còn là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời.
- Thể hiện những những vấn đề muôn thuở không hề cũ:
+ Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Xót xa trăn trở về số phận con người, người phụ nữ.
+ Tiếng nói phản kháng tố cáo những thế lực tàn bạo, những cổ tục hà khắc đẩy con người tới bát hạnh oan trái.
+ Gửi gắm trong tác phẩm những triết lý nhân sinh về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc, về niềm tin, về gia đình, về tình người…
- Nghệ thuật kể chuyện sáng tạo: vừa mang màu sắc cổ điển vừa của áng thiên cổ kỳ bút lại vừa mang trong đó màu sắc hơi hướng của thời đại.
+ Cách dựng chuyện độc đáo, sáng tạo.
+ Kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, trữ tình và nghị luận.
+ Khắc hoạ rõ nét nhân vật qua ngôn ngữ, hành động, suy nghĩ.
+ Sử dụng yếu tố kỳ ảo phù hợp có hiệu quả.
3. Đánh giá, mở rộng.
- “Vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời” không chỉ là yêu cầu nội dung của một truyện ngắn hay, mà còn là phẩm chất của mọi tác phẩm văn học đích thực. Vì thế văn học luôn giàu giá trị nhận thức.
- “Chứng tích của một thời” “chân lí giản dị của mọi thời” cần được gửi gắm trong nghệ thuật truyện ngắn độc đáo, ấn tượng: tình huống truyện bất ngờ, chi tiết đắt, kết cấu đặc sắc…Nhà văn phải có vốn sống phong phú, phải đào sâu tìm tòi mới có được một truyện ngắn hay như thế.
III. Kết bài
- Khái quát đánh giá lại ý kiến.
- Suy nghĩ, đánh giá về thành công của tác phẩm, liên hệ.
ĐỀ SỐ 17: Có ý kiến cho rằng: Cuộc sống trong tác phẩm văn học có cả cái đẹp, cái nên thơ lẫn niềm đau và nước mắt.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích được ý kiến
- Cái đẹp, nên thơ: là niềm vui, hạnh phúc, là những điều đẹp đẽ.
- Niềm đau và nước mắt: là những khổ đau, cay đắng bất hạnh trong cuộc đời.
- Tác phẩm văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống với tất cả mọi chiều, vừa có những hạnh phúc vừa có những đau khổ bất tận, vừa có nụ cười tươi vui vừa có giọt nước mắt đắng cay.
2. Chứng minh qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Cuộc sống tuyệt vời với cái đẹp, cái nên thơ chính là những giá trị tốt đẹp của cuộc sống: là lòng yêu thương, thủy chung, hiếu thảo, giàu lòng tự trọng, nhân hậu vị tha của Vũ Nương; là nỗi oan được giải, được trở về của nàng.
* Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, son sắt
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
- Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.” Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng
- Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.
- Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
* Vũ Nương còn là một người mẹ hiền giàu tình yêu thương con.
- Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
* Nàng còn là người phụ nữ giàu lòng vị tha.
- Dù biết cuộc đời của mình bạc bẽo, hạnh phúc đỗ vỡ, nhân cách bị chà đạp là vì chồng nhưng nàng không một chút oán hận. Nàng vẫn luôn mong được trở về sống bên chồng con, vẫn hiện về gặp chồng nói lời tạ từ.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
LĐ2. Cuộc sống với niềm đau và nước mắt trong tác phẩm là thói ghen tuông mù quáng, gia trưởng của Trương Sinh, là tất cả những bi kịch của một người phụ nữ, của một gia đình, một cuộc đời oan khuất, bất hạnh của Vũ Nương.
- Chôn vùi tuổi xuân trong cuộc hôn nhân không có tình yêu:
+ Xinh đẹp, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng chỉ vì nghèo khó mà cha mẹ gả cho con nhà hào phú lắm tiền nhưng thiếu tình yêu.
+ Luôn bị chồng phòng ngừa quá mức, vẫn phải nhịn nhục để không bất hòa.
- Luôn phải chịu gánh nặng gia đình:
+ Một mình nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già đau ốm.
+ Một mình lo tang, ma chay khi mẹ mất không có ai san sẻ, động viên.
- Bị nghi oan và đối xử tệ bạc:
+ Thời gian xa chồng, một mình nuôi con, nàng những mong muốn chồng về sẽ vỗ về, an ủi động viên nhưng chồng nghe lười đứa trẻ mà sinh ra nghi ngờ, đối xử tàn nhẫn, chửi mắng, đánh đập nàng, mặc cho hàng xóm khuyên can.
+ Mặc cho Vũ Nương can ngăn thanh minh ( là con kẻ khó được nương tựa nhà giàu) thế nhưng Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai những lời hết sức chân tình của nàng.
- Phải chịu cái chết oan nghiệt:
+ Vũ Nương để biện minh cho mình đành phải tự vẫn ở sông Hoàng Giang để chứng minh danh tiết, trở thành nạn nhân của thói quen ghen tuông mù quáng.
+ Cái chết cho thấy Vũ Nương bị đẩy đến bước đương cùng không còn lối thoát, do sự thô bạo của kẻ hào phú, ít học mà đồng tiến làm đen thói đời.
+ Cái chết của Vũ Nương khiến bé Đản thành đứa bé mồ côi, Trương Sinh là kẻ góa vợ day dứt trong nỗi ân hận, dày vò lương tâm.
+ Phản ánh quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công ngang trái.
+ Số phận của Vũ Nương cũng là số phận của biết bao người phụ nữ lúc bấy giờ thấp cổ bé họng, luôn chịu oan ức và khổ hạnh.
LĐ3. Cuộc sống với niềm đau và nước mắt trong tác phẩm còn là sự trở về trong chốc lát còn ra đi là mãi mãi.
- Mong ước khát khao được sống bên chồng con của Vũ Nương không thể toại nguyện. Cuộc sống ở thuỷ cung dù lung linh sung tcs nàng cũng không nguôi nhớ chồng con.
- Nàng mong được trở về nhìn mặt chồng con lần cuối để an ủi phần nào cho nổi đau của mình. Nguyễn Dữ đã cho Vũ Nương trở về lung linh trên đàn giải oan được Trương Sinh chuẩn bị. Điều đó an ủi phần nào cho cái chết oan nghiệt của nàng.
- Song cho dù nàng trở về có lung linh bao nhiêu thì cũng chỉ trong chốc lát không thể thoả mong ước khát khao của một người phụ nữ cả đời cho gia đình. Rồi cũng phải từ biệt dương thế. Thế giới này vẫn không có chổ cho nàng, không giành cho người phụ nữ hiền thục thuỷ chung hiếu thảo như nàng! Không nước mắt sao được! Sự trở về chỉ là chốc lát còn ra đi là mãi mãi. Điều đó là nổi đau là nước mất là sự thật!
3. Đánh giá, mở rộng
- Nguyễn Dữ trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, thấu hiểu, thương cảm cho số phận oan nghiệt của họ trong xã hội phong kiến.
- Để người đọc yêu thương trận trọng, xót xa cho nhân vật của mình, Nguyễn Dữ phải là người có ngòi bút truyền kì điêu luyện.
- Thông điệp mà Nguyễn Dữ để lại có giá trị vượt thời gian: Đó là bài học về gìn giữ hạnh phúc gia đình…
III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận, giá trị của tác phẩm.
- Liên hệ, rút ra bài học.
ĐỀ SỐ 18: Bàn về sứ mệnh của người cầm bút, Ai-ma-tốp cho rằng: Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, hãy làm sáng tỏ ý kiến đó.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Ý kiến của nhà văn Ai-ma-tốp khẳng định sứ mệnh của nhà văn là thông qua tác phẩm của mình phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn tốt đẹp ở người đọc như: sự đồng cảm với cảnh ngộ của con người, lay thức những tình cảm yêu thương, sự thấu hiểu chia sẻ hay sự bất bình, lên án, phê phán, đấu tranh với cái xấu, cái ác để bênh vực cái tốt, cái đẹp, cái lương thiện…
- Đề cao sứ mệnh cao cả của văn chương là cảm hoá, nhân đạo hoá con người. Đó cũng là những giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc, cao đẹp làm nên sức sống trường tồn cho tác phẩm mà người nghệ sĩ chân chính nào cũng muốn hướng tới.
2. Phân tích, chứng minh qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Với Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả Nguyễn Dữ đã khơi dậy trong lòng người đọc nỗi niềm cảm thương trước thân phận bất hạnh, oan ức của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
LĐ2. Tác phẩm gợi lên trong người đọc, người nghe nỗi bất bình, sự căm phẫn đối với xã hội phong kiến nam quyền độc đoán đã dồn đẩy người phụ nữ tới tận cùng đau khổ, bất hạnh.
LĐ3. Thông qua tác phẩm, tác giả cũng khơi lên khát vọng bênh vực, bảo vệ, mong ước hạnh phúc cho người phụ nữ.
3. Đánh giá, mở rộng
- Thông qua nghệ thuật xây dựng, khắc hoạ nhân vật ; cốt truyện có kịch tính, sự đan xen yếu tố thực và yếu tố truyền kì, tác phẩm đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, lay thức những tình cảm nhân văn tốt đẹp, « gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện những tình cảm ta sẵn có » (Hoài Thanh)
- Tác phẩm là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Thông qua tác phẩm, nhà văn Nguyễn Dữ đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tư tưởng tiến bộ : bênh vực người phụ nữ. Chính tấm lòng và tư tưởng đó của ông đã là cầu nối đến với trái tim của bạn đọc, khơi gợi những rung động mãnh liệt, những tình cảm nhân văn sâu sắc trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ.
- Khẳng định sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ là làm cầu nối yêu thương của văn chương với cuộc đời. Đồng thời khẳng định sức sống trường tồn của một tác phẩm văn học chính là những cảm xúc, tình cảm, tư tưởng tốt đẹp, tích cực, nhân ái mà tác phẩm, tác giả đã gieo vào trong tâm trí của người đọc.
III. Kết bài
- Khẳng định lại ý kiến, đánh gia ssuwj thành cocong của tác phẩm.
- Suy nghĩ, liên hệ rút ra bài học.
ĐỀ SỐ 19: Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. (Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9, tập 2, NXBGD, 2005)
Qua việc cảm nhận (có chọn lọc) tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và đoạn trích Làng của Kim lân, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích
- Tác phẩm văn nghệ nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại: Văn học luôn soi bóng thời đại mà nó ra đời, văn học phản ánh hiện thực, nhà văn không thể ngồi trong tháp ngà nghệ thuật mà luôn luôn phải va chạm với cuộc đời, sống cùng cuộc đời để có những chất liệu sáng tác.
- Nhưng hiện thực trong tác phẩm văn học không ngồn ngộn như trong cuộc đời thật, nhà văn sẽ như côn trùng dùng cái râu của mình để thăm dò không khí thời đại như ý kiến của nhà văn Nguyễn Minh Châu nên sẽ phản ánh hiện thực ở lát cắt bản chất nhất, từ đó nêu lên những trăn trở, suy tư của mình về con người và cuộc đời.
- Nhà văn luôn ghi lại một điều gì mới mẻ: đó là tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ.
=> Ý kiến cho thấy bản chất của văn học là phản ánh cuộc sống nhưng để đem đến những ý nghĩa, những tiếng nói cá nhân của tác giả. Từ đó tác động vào tâm hồn người đọc, tạo ra cái nhìn đối thoại.
2. Phân tích, chứng minh qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1.Tác phẩm phản ánh hiện thực cuộc đời
- Chuyện người con gái Nam Xương là hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI: là cuộc chiến tranh phi nghhiax tranh giành quyền lực, là những cổ tục trọng nam khinh nữ, là cuộc sống …
LĐ2. Điều mới mẻ mà Nguyễn Dữ đem đến cho người đọc là lời ngợi ca những phẩm chất tốt đệp của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương.
- Thùy mị, nết na:
+ Dù bị phòng ngừa quá mức nhưng vẫn biết giữ gìn khuôn phép để gia đình yên ấm
- Thủy chung:
+ Không mong chồng trở về mang ấn phong hầu. quan to chức lớn mà chỉ mong hai chữ bình yên. Thời gian xa chồng, luôn nhớ về chồng da diết, thương chồng thiếu thốn nơi chến trận ác liệt.
+ Một lòng một dạ đợi chờ chồng, nuôi con. Nơi ngõ liễu tường hoa, chưa hề bén gót, việc tô son điểm phấn, đã từng nguôi lòng.
+ Những đêm côi cút một mình càng mong nhớ, chỉ biết tâm sự với con : Chỉ bóng mình trên vách, nói với con đó là cha Đản.
- Đảm đang hiếu thảo:
+ Nuôi con nhỏ. chăm sóc mẹ già khi ốm đau ( Lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, thuốc thang lễ bái, khi mẹ chồng chết lo tang lễ bái chu đáo như cha mẹ đẻ)
+ Đó là cử chỉ dịu dàng, đáng mến, xuất phát từ cái tâm trong sáng, hiền lành, từ lương tâm, trách nhiệm mỗi người có hiếu và biết đạo làm con.
- Giàu lòng vị tha:
+ Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức mà không hề oán trách, hận thù.
+ Thấy Phan Lang kể về gia đình, vẫn thương nhớ chồng con và muốn tìm về gặp mặt.
+ Khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông thì vẫn hiện về ơ lời nói “ Đa tạ tình chàng”..
Tuy chỉ là chi tiết kì ảo, hoang đường nhuốm màu sắc thần thoại nhưng tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu để ca ngơin Vũ Nương- một người phụ nữ thật là đức hạnh, nhân từ, biết hi sinh bản thân mình cho người khác mà không hề đòi quyền lợi.
LĐ2. Điều mới mẻ mà Nguyễn Dữ muốn gửi đến người độc còn là tiếng nói về thân phận, cuộc đời cbất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa và thái độ của nhà văn trước những cuộc đời bất hạnh, số phận oan nghiệt ấy.
- Chôn vùi tuổi xuân trong cuộc hôn nhân không có tình yêu:
+ Xinh đẹp, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng chỉ vì nghèo khó mà cha mẹ gả cho con nhà hào phú lắm tiền nhưng thiếu tình yêu.
+ Luôn bị chồng phòng ngừa quá mức, vẫn phải nhịn nhục để không bất hòa.
- Luôn phải chịu gánh nặng gia đình:
+ Một mình nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già đau ốm.
+ Một mình lo tang, ma chay khi mẹ mất không có ai san sẻ, động viên.
- Bị nghi oan và đối xử tệ bạc:
+ Thời gian xa chồng, một mình nuôi con, nàng những mong muốn chồng về sẽ vỗ về, an ủi động viên nhưng chồng nghe lười đứa trẻ mà sinh ra nghi ngờ, đối xử tàn nhẫn, chửi mắng, đánh đập nàng, mặc cho hàng xóm khuyên can.
+ Mặc cho Vũ Nương can ngăn thanh minh ( là con kẻ khó được nương tựa nhà giàu) thế nhưng Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai những lời hết sức chân tình của nàng.
- Phải chịu cái chết oan nghiệt:
+ Vũ Nương để biện minh cho mình đành phải tự vẫn ở sông Hoàng Giang để chứng minh danh tiết, trở thành nạn nhân của thói quen ghen tuông mù quáng.
+ Cái chết cho thấy Vũ Nương bị đẩy đến bước đương cùng không còn lối thoát, do sự thô bạo của kẻ hào phú, ít học mà đồng tiến làm đen thói đời.
+ Cái chết của Vũ Nương khiến bé Đản thành đứa bé mồ côi, Trương Sinh là kẻ góa vợ day dứt trong nỗi ân hận, dày vò lương tâm.
+ Phản ánh quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công ngang trái.
+ Số phận của Vũ Nương cũng là số phận của biết bao người phụ nữ lúc bấy giờ thấp cổ bé họng, luôn chịu oan ức và khổ hạnh.
- Tình cảm nhân đạo của tác giả: đau xót, cảm thông chia sẽ với nổi đau bất hạnh của người phụ nữ.
LĐ3. Điều mới mẻ trong tác phẩm mà Nguyễn Dữ muốn gửi đến bạn đọc nữa chính là lời tố cáo phản kháng xã hội phong kiến với những cổ tục đày đoạ coi thường nhân phẩm, thân phận người phụ nữ.
3. Đánh giá, mở rộng
- Những điều mới mẻ là sức hấp dẫn của văn chương. Nhà văn lớn trước hết phải là nhà tư tưởng lớn.
- Bài học sáng tạo: nhà văn phải đi vào cuộc đời thực, phải sống rồi mới viết.
- Bài học tiếp nhận: nâng tầm đón nhận lên để hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả.
ĐỀ SỐ 20:
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
- Nguyễn Dữ -
==========&=========
- Nguyễn Dữ -
==========&=========
MỤC LỤC
PHẦN ĐỀ | NỘI DUNG | TRANG |
A | KIẾN THỨC CƠ BẢN Kiến thức chungKiến thức trọng tâm | 5-14 |
B | ĐỀ THAM KHẢO, LUYỆN THI HSG | |
ĐỀ 1 | Nhận xét về “Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nhà phê bình Đồng Thị Sáo cho rằng: “hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn“. Em hãy phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ nhận xét trên. | 14 |
ĐỀ 2 | "Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu thương con người" (Đặng Thai Mai – "Trên đường học tập và nghiên cứu" - NXB Văn học 1969). Chứng minh ý kiến trên qua tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. (SGK, Ngữ văn 9, tập I) | 16 |
ĐỀ 3 | Nhà văn Nguyễn Dữ đã kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương bằng chi tiết Vũ Nương hiện về gặp chồng rồi sau đó biến mất. Có ý kiến cho rằng: “Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn”. Có người lại nhận xét: “cách kết thúc của tác giả như vậy là hợp lí”. Suy nghĩ của em về hai ý kiến trên. | 19 |
ĐỀ 4 | Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ qua hai văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và các đoạn trích văn bản “Truyện Kiều” của Nguyễn Du? | 21 |
ĐỀ 5 | Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài… (Ý nghĩa văn chương – Hoài Thanh, Ngữ văn 7, T2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, Tr.60) Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du. | 23 |
ĐỀ 6 | Văn học luôn quan tâm số phận con người, nhưng mỗi tác giả lại có một cách khám phá, thể hiện riêng. Bằng cảm nhận của mình về hình ảnh cái bóng trên vách trong Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) và hình ảnh chiếc lá trên tường trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng (O. Hen-ri), em hãy làm sáng rõ nhận định trên. | 25 |
ĐỀ 7 | Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua các tác phẩm văn học trung đại: Chuyện người con gái Nam Xương của nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu. | 28 |
ĐỀ 8 | Thạch Lam từng nói: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn”. Hãy làm rõ nhận định trên qua Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2011) | 31 |
ĐỀ 9 | Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên? Làm rõ ý kiến trên qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ. | 33 |
ĐỀ 10 | Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh”. Làm sáng tỏ ý kiến trên qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ? | 36 |
ĐỀ 11 | Nhà văn Nguyễn Khải quan niệm: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích giá trị tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ ý kiến trên | 38 |
ĐỀ 12 | Nhận xét về kết thúc của truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng: “Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”. Qua một số tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyến Dữ, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. | 41 |
ĐỀ 13 | Khi bàn về các tác phẩm truyện, nhà văn Chingiz Ajmatov đã nêu ý tưởng: “Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện.” Em hiểu như thế nào về ý tưởng đó. Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, em hãy làm sáng tỏ ý tưởng trên. | 45 |
ĐỀ 14 | Có ý kiến cho rằng Trương Sinh cũng chính là nạn nhân của chế độ XHPK nam quyền đầy nghiệt ngã, bởi thế cuộc đời chàng cũng là một chuỗi bi kịch. Em hãy làm rõ bi kịch của Trương Sinh trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Truyền Kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ) | 47 |
ĐỀ 15 | Nhận xét cách kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: "Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời", song ý kiến khác lại khẳng định: " Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo". Hãy trình bày suy nghĩ của em về hai ý kiến trên. | 55 |
16 | Bàn về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng: “ Một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời” Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, hãy làm sáng tỏ điều đó. | 58 |
17 | Có ý kiến cho rằng: Cuộc sống trong tác phẩm văn học có cả cái đẹp, cái nên thơ lẫn niềm đau và nước mắt. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. | 61 |
18 | Bàn về sứ mệnh của người cầm bút, Ai-ma-tốp cho rằng: Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, hãy làm sáng tỏ ý kiến đó. | 67 |
19 | Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. (Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9, tập 2, NXBGD, 2005) Qua việc cảm nhận (có chọn lọc) tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và đoạn trích Làng của Kim lân, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên. | 69 |
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Kiến thức chung
1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời.
2. Tác phẩm:
a. “Truyền kì mạn lục”:
- Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.
- Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” (áng văn hay ngàn đời).
- Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.
- Nhân vật:
+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.
+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh cao.
b. Văn bản:
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.
- So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.
3. Tóm tắt văn bản:
“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, chàng lập đàn giải oan cho nàng.
4. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
5. Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
II. Kiến thức trọng tâm
1. Nhân vật Vũ Nương:
a. Vẻ đẹp phẩm chất:
- Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.
- Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
* Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, son sắt trong tình nghĩa vợ chồng:
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
- Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.” Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng
- Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.
- Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
* Vũ Nương còn là một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con.
- Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
* Nàng còn là người phụ nữ giàu lòng vị tha.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
* Nàng có số phận oan nghiệt, bất hạnh:
. Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do.
- Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.
. Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:
- Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.
- Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
. Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.
- Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.
- Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.
- Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.
. Cái kết thúc tưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch trong thân phận Vũ Nương.
+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.
+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”
=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.
=> Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
* Những lí do dẫn đến bi kịch oan khuất mà Vũ Nương phải chịu.
- Lời nói ngây thơ của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hăt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ. (Trực tiếp)
- Do bản tính Trương Sinh đa nghi hay ghen, phòng ngừa vợ quá mức và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả mọt chế độ nam quyền trọng nam khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phải ngẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực là thượng đế có thể "nặn" ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. (Gián tiếp)
- Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên. (Gián tiếp)
- Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh - Mạc, Lê - Trịnh kéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tố cáo của tác phẩm rất sâu sắc.
2. Các chi tiết kì ảo:
a. Những chi tiết kì ảo:
- Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
- Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến và gặp, trò chuyện với Vũ Nương; được trở về dương thế.
- Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.
b. Ý nghĩa:
- Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phong phú.
- Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.
- Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
a. Cách kể chuyện:
- Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
- Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:
- Bé Đản ngây thơ
- Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
- Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến xung tàn, khiến hạnh phúc của người phụ nữ hết sức mong manh.
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
2. Nghệ thuật:
Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
==================================================
ĐỀ THAM KHẢO, LUYỆN THI HSG
ĐỀ THAM KHẢO, LUYỆN THI HSG
ĐỀ SỐ 1:
Nhận xét về “Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Nhà phê bình Đồng Thị Sáo cho rằng: “Hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn“. Em hãy phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ nhận xét trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, yêu cầu của đề bài.
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
- Nhận xét của nhà phê bình Đồng Thị Sáo đã đề cập đến hạnh phúc. Đó là một khái niệm trừu tượng. Mỗi người có những cách cảm nhận khác nhau về hạnh phúc. Song có thể hiểu hạnh phúc là một trạng thái tinh thần mà con người thoả mãn những ước mơ, hy vọng của mình.
- Hạnh phúc mong manh và ngắn ngủi: Hạnh phúc không tồn tại bền vững, không tồn tại lâu dài. Nó chỉ thoáng qua trong cuộc đời con người rồi tan vỡ nhanh chóng.
=> Ý kiến khẳng định rằng: hạnh phúc trong cuộc đời Vũ Thị Thiết là một thứ hạnh phúc vô cùng mong manh, ngắn ngủi. Mong manh như sương như khói và ngắn ngủi như kiếp sống của đoá phù dung sớm nở, tối tàn.
2. Chứng minh lời nhận xét
* Khẳng định nhận xét trên là đúng, vì “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ kể về người phụ nữ - Vũ Nương có nhan sắc, đức hạnh nhưng cuộc đời của nàng lại không được hưởng niềm hạnh phúc lâu dài, bền vững.
LĐ1. Trước hết, niềm hạnh phúc của Vũ Thị Thiết trong cuộc sống dương thế thật mong manh, ngắn ngủi:
+ Vũ Thị Thiết tên thường gọi là Vũ Nương. Người con gái đẹp người, đẹp nết nhưng lại lấy phải Trương Sinh người chồng ít học, đa nghi. Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng cưới về làm vợ. Vũ Nương không được quyền tự quyết định hạnh phúc của mình.
+ Cuộc sum vầy chưa được bao lâu Trương Sinh phải lên đường tòng quân. Vũ Nương chưa được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn đã phải sớm sống trong cảnh chia li.
+ Những ngày vắng chồng Vũ Nương chỉ chiếc bóng của mình trên tường nói là cha Đản- đây là cách nói sơn cùng thủy tận về chữ “đồng” trong đạo vợ chồng. Vậy mà đời Vũ Nương tan nát hạnh phúc lại bắt đầu từ đấy.
+ Bé Đản - ngây thơ, trong trắng lầm tưởng cái bóng của mẹ là cha thật của mình- bé hoàn toàn vô tội nhưng lại là tác nhân trực tiếp gây ra sự tan nát hạnh phúc của cuộc đời người mẹ thân yêu của nó.
+ Cuộc đời làm dâu, làm vợ, làm mẹ của Vũ Nương thật ngắn ngủi. Trương Sinh trở về tưởng rằng nàng sẽ được hưởng niềm vui hạnh phúc sum họp bên chồng con, gia đình. Nhưng Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên chàng đã nghe lời con trẻ nghi oan cho Vũ Nương. Trương Sinh đã mắng nhiếc, đánh, đuổi Vũ Nương đi, buộc nàng phải tìm đến cái chết. Trương Sinh là một kẻ giết vợ vô tình và tự tàn phá niềm hạnh phúc mong manh của gia đình.
+ Nguyên nhân của niềm hạnh phúc mong manh, ngắn ngủi: Nguyên nhân trực tiếp là lời nói hồn nhiên vô tư của đứa con, là tính đa nghi, hay ghen của anh chồng Trương Sinh; Nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh phong kiến và chế độ nam quyền đã cướp đi quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Đó chính là giá trị hiện thực của truyện.
LĐ2. Thứ 2, niềm hạnh phúc của Vũ Thị Thiết trong cuộc sống ở thuỷ cung cũng mong manh, chỉ là ảo ảnh.
+ Sau khi gieo mình xuống bến Hoàng Giang, Vũ Nương được các nàng tiên rẽ một được nước đưa xuống thuỷ cung sống sung sướng. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa giữa dòng nói những lời từ biệt với Trương Sinh rồi biến mất. Đây là những chi tiết kì ảo tạo một kết thúc có hậu cho câu chuyện, thể hiện ước mơ về lẽ công bằng. Nhưng hạnh phúc đó cũng chỉ mong manh, hư vô không có thật trong cuộc đời.
+ Những yếu tố kì ảo, hoang đường về cuộc sống sung sướng, hạnh phúc của Vũ Nương ở thuỷ cung vừa thể hiện giá trị nhân đạo vừa thể hiện giá trị hiện thực.
=> Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã gửi đến chúng ta một bức thông điệp có được hạnh phúc gia đình đã khó, gìn giữ hạnh phúc hạnh phúc ấy càng khó hơn. Nếu ta không biết trân trọng, nâng niu, gìn giữ hạnh phúc thì hạnh phúc thật mong manh, ngắn ngủi.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Ý kiến trên hoàn toàn đúng.
- Tác phẩm đã gửi điệp chúng ta một thông điệp ý nghĩa: có được hạnh phúc đã khó, giữ gìn hạnh phúc lại càng khó hơn, hạnh phúc là mong muốn khát khao của mỗi người vậy nên cần biết trân trọng giữ gìn vun đắp, nâng niu đừng để khi mất đi mới thấy ân hận hối tiếc.
III. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề, đánh giá thành công của tác phẩm.
- Rút ra bài học liên hệ.
----------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 2: "Tinh thần nhân đạo trong văn học trước hết là tình yêu thương con người"(Đặng Thai Mai – "Trên đường học tập và nghiên cứu" - NXB Văn học 1969).
Chứng minh ý kiến trên qua tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. (SGK, Ngữ văn 9, tập I).
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận, trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích
- Nhân đạo là những nguyên tắc đạo lý, đạo đức, cách đối xử giữa người với người.
- Tinh thần nhân đạo là giá trị cơ bản của một tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng của nhà văn trước những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin vào khả năng vươn dậy của con người trong hoàn cảnh khốn cùng. Đồng thời, đó là sự xót thương đồng cảm, sẻ chia với số phận đau khổ; là sự lên án tố cáo những thế lực bất công chà đạp lên quyền sống của con người; là những ước mơ khát vọng về một xã hội công bằng bác ái, tôn trọng phẩm giá của con người.
=> Ý kiến khẳng định: giá trị sức sống của một tác phẩm chính là tình yêu thương giành cho con người.
2. Chứng minh qua tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.
LĐ1. Trước hết tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người Nguyễn Dữ thể hiện rất rõ ở sự trân trọng, ngợi ca, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình tượng nhân vật Vũ Nương: Vũ Nương có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: công, dung, ngôn, hạnh. Xét về phương diện nào cũng đẹp:
- Vai trò là một người vợ: Đối với chồng, nàng là người vợ rất mực dịu dàng, đằm thắm, giàu tình yêu thương chồng và thuỷ chung nhất mực. (d/c)
- Vai trò là một người con: Đối với mẹ chồng, nàng hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng, là người con hiếu thảo. (d/c)
- Vai trò người mẹ đối với con: Là người mẹ tốt giàu lòng yêu thương con...
- Vai trò là một người phụ nữ: Nàng là người phụ nữ đảm đang, trọng danh dự và nhân phẩm, tình nghĩa và giàu lòng vị tha. (d/c)
LĐ2. Hơn nữa, tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người: thể hiện ở thái độ cảm thông đau xót, am hiểu tâm lí nhân vật, thương cảm cho nỗi đau của người phụ nữ nên nhà văn đã thể hiện nỗi đau đớn của nhân vật thật sâu sắc.
- Nàng Vũ có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tụy vun đắp hạnh phúc lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng.
- Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ.
- Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng ... mà người chồng vẫn không động lòng. (d/c)
- Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất (d/c).
LĐ3. Chưa hết tinh thần nhân đạo - tình yêu thương con người còn được thể hiện qua thái độ lên án những thế lực đen tối chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người.
- Tố cáo cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
- Những tư tưởng lạc hậu của xã hội phong kiến suy tàn (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu,...) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông hồ đồ, mù quáng, gia trưởng, vũ phu.
LĐ4. Tinh thần nhân đạo - lòng yêu thương con người chính còn là khát vọng và ước mơ về một cuộc sống công bằng, quyền được hưởng hạnh phúc gia đình của con người đặc biệt là người phụ nữ.
- Khát vọng hạnh phúc của con người.
- Ước mơ về cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, quyền được hưởng hạnh phúc của con người:
LĐ5. Cuối cùng phải kể đến tinh thần nhân đạo của truyện còn thể hiện ở bài học nhân sinh sâu sắc mà Nguyễn Dữ muốn gửi đến bạn đọc muôn đời:
- Bài học giữ gìn và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Có hạnh phúc đã là sự may mắn nhưng giữ gìn, duy trì hạnh phúc còn khó hơn. Vợ và chồng dù có yêu nhau đến mấy mà chẳng biết tính của nhau thì bi kịch sớm muộn cũng xảy ra. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc.
- Bài học về lòng tin, sự cẩn trọng sáng suốt khi nhìn nhận, đánh giá kết luận một vấn đề sự việc nào đó.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Bằng tấm lòng nhân đạo cao cả, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói có giá trị lớn cho nền văn học trung đại một bản tố cáo xã hội phong kiến bất công tàn bạo coi thường nhân phẩm, tính mạng con người. Đem lại giá trị tư tưởng và giá trị nhân văn cao cả, nuôi dưỡng sức sống lâu bền cho tác phẩm.
- Làm được điều đó quả không hề đơn giản, ND đã thành công trong việc lựa chọn tình huống cho câu chuyện, khắc học nhân vật rõ nét qua hành động ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo trong cách kể chuyện, sử dụng hiệu quả các chi tiết kỳ ảo.
II. Kết bài:
- Khẳng định vấn đề nghị luận, thành công của tác phẩm.
- Bài học, liên hệ bản thân.
--------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 3: Nhà văn Nguyễn Dữ đã kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương bằng chi tiết Vũ Nương hiện về gặp chồng rồi sau đó biến mất.
Có ý kiến cho rằng: “Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn”. Có người lại nhận xét: “cách kết thúc của tác giả như vậy là hợp lí”. Suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn cả hai ý kiến.
II. Thân bài:
1. Nêu tình huống và những tình tiết chính dẫn đến kết thúc của truyện.
2. Bàn luận về 2 ý kiến:
LĐ1. Về ý kiến: "Giá như nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc cùng chồng con thì kết thúc của truyện sẽ có ý nghĩa hơn"
- Đây là cách kết thúc thường gặp trong các truyện cổ dân gian, thể hiện quan niệm ở hiền gặp lành, cái thiện thắng cái ác của người lao động, thể hiện niềm tin, niềm lạc quan của họ. Đó cũng là truyền thống nhân đạo của dân tộc, cũng là một trong những nội dung của văn học trng đại Việt Nam.
- Cách kết thúc truyện như vậy có thể chấp nhận được vì không trái với tinh thần nhân đạo của văn học. Tuy nhiên điều này sẽ ảnh hưởng tới giá trị hiện thực và logic phát triển của cốt truyện
LĐ2. Về kết thúc của nhà văn
- Kết thúc truyện Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện được tinh thần nhân đạo và khát vọng của con người về cuộc sống: Vũ Nương không chết, nàng được sống một cuộc sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, nàng hiện hồn về gặp Trương Sinh là để minh oan, để khẳng định tình cảm thủy chung của mình.
- Kết thúc truyện còn cho thấy sự vận dụng sáng tạo truyện dân gian của nhà văn. Tác giả đã sử dụng yếu tố hoang đường kì ảo và lối kể chuyện dân gian để thể hiện tư tưởng của mình. Bên cạnh giá trị nhân đạo, truyện còn có giá trị hiện thực sâu sắc. Nếu tác giả để cho Vũ Nương trở về với cuộc sống thực tại thì nàng cũng không thể có được hạnh phúc với một người chồng đa nghi, độc đoán cùng những định kiến nặng nề của xã hội đương thời.
- Kết thúc truyện như vậy là hoàn toàn hợp lí vì nó vừa thể hiện được tư tưởng của tác giả, vừa đảm bảo tính lôgic của cốt truyện đồng thời phản ánh một cách chân thực, khách quan số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Cách kết thúc câu chuyện của nhà văn không chỉ góp phần tạo nên sức sống của tác phẩm mà còn khẳng định tài năng của tác giả.
- Lựa chọn kết thúc truyện như vậy chứng tỏ hiểu biết thực tế, vốn sống phong phú, tình cảm sâu sắc với nhân vật của mình và hơn hết nữa đó nó thể hiện tài năng nghệ thuật đỉnh cao của Nguyễn Dữ.
III. Kết bài:
- Đánh giá khái quát lại hai ý kiến trên.
- Đánh giá sự thành công và sức sống của tác phẩm một phần nhờ vào cách lựa chọn kết thức truyện như trên.
-----------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 4: Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ qua hai văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ và các đoạn trích văn bản “Truyện Kiều” của Nguyễn Du?
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ ở trên hai phương diện đó là vẻ đẹp và số phận bi kịch.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu sơ lược về 2 tác phẩm về hai nhân vật người phụ nữ.
2. Chứng minh làm rõ hình ảnh người phụ nữ.
LĐ1. Trước hết họ là những người phụ nữ đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn.
- Là những người con hiếu thảo.
+ Vũ Nương (phân tích- dẫn chứng).
+ Kiều(phân tích- dẫn chứng).
- Là những người vợ thuỷ chung son sắt.
+ Vũ Nương ( dẫn chứng-phân tích)
Là những người phụ nữ bao dung, độ lượng, giàu lòng vị tha. ( phân tích- dẫn chứng).
LĐ2. Họ đẹp như thế nhưng lại có số phận bi kịch.
- Nhân vật Vũ Nương: đau khổ, bất hạnh, oan khuất, tài hoa bạc mệnh, hồng nhan đa truân: không được sum họp vợ chồng hạnh phúc, một mình nuôi già dạy trẻ, bị chồng nghi oan, phải tìm đến cái chết (phân tích- dẫn chứng).
- Nhân vật Thúy Kiều: Bi kịch tình yêu, mối tình đầu tan vỡ, phải bán mình chuộc cha, bị coi là một món hàng, bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích trong hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp, đối diện với một tương lai lênh đênh vô định (phân tích- dẫn chứng ).
*Lưu ý: học sinh có thể phân tích theo lần lượt từng luận điểm hoặc phân tích theo từng nhân vật: Ví dụ phân tích nhân vật Vũ Nương rồi phân tích nhân vật Thúy Kiều song ở mỗi nhân vật đều phải nổi bật rõ hai vấn đề là: vẻ đẹp và số phận bi kịch.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Vũ Nương và Thuý Kiều chính là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Bằng tài năng nghệ thuật cùng với tình yêu thương trân trọng giành hco người phụ nữ, Nguyến Dữ và Nguyễn Du đã dựng lên cho mình những hình tượng nhân vật để đời những tác phẩm văn học sống mãi với thời gian.
III. Kết bài:
- Khẳng định vấn đề: Hình ảnh người phụ nữ trong văn học cổ: Hồng nhan bạc mệnh, đúng như lời nhận xét của Nguyễn Du:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều)
- Bài học, liên hệ người phụ nữ trong xã hội hiện đại.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 5: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài…
(Ý nghĩa văn chương – Hoài Thanh, Ngữ văn 7, T2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011, Tr.60)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề nghị luận:
+ Vấn đề trung tâm của văn chương là vấn đề con người và nguồn gốc cốt yếu của văn chương chính là lòng thương người.
+ Lòng thương người hay nói rộng ra là giá trị nhân đạo là phẩm chất cốt lõi, là tiêu chuẩn cho một tác phẩm văn học chân chính.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Hoài Thanh đã đưa ra vấn đề quan trọng, bản chất của văn chương, được coi là nguồn gốc cốt yếu của văn chương: lòng thương người mà rộng ra thương cả muôn vật, muôn loài. Văn chương chính là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc, chỉ bật ra khi trong tim cuộc sống tràn đầy. Nói chuyện văn chương chính là chuyện của những tâm hồn đồng điệu.
- Lòng thương người, thậm chí thương cả muôn vật, muôn loài là tình cảm rộng lớn, cao cả, mang tầm nhân loại. Tình cảm ấy không chỉ là cội nguồn của văn chương mà còn là thước đo giá trị của tác phẩm văn chương chân chính. Giá trị đó chính là giá trị nhân đạo, là những ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
- Giá trị nhân đạo là một phẩm chất cao quý của tác phẩm văn học chân chính. Nói đến giá trị nhân đạo, đến ý nghĩa nhân văn là nói đến vấn đề con người, vấn đề nhân sinh đặt ra trong tác phẩm. Ở đó, con người luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, trong mối quan hoài thường trực của các nhà văn.
- Biểu hiện của giá trị nhân đạo rất đa dạng song thường tập trung vào những mặt cụ thể sau: lòng thương yêu, sự cảm thông, xót xa trước những hoàn cảnh, những số phận bất hạnh; lên án, tố cáo các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người; ngợi ca, đề cao những vẻ đẹp, phẩm giá cao quý; trân trọng, nâng niu khát vọng sống, khát vọng tình yêu và hạnh phúc của con người.
2. Giá trị nhân đạo qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
LĐ1. Tấm lòng yêu thương, đồng cảm, xót xa cho những số phận người phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, gặp nhiều bi kịch trong cuộc đời: số phận của Kiểu bị ném vào nhà chứa, rồi giam lỏng trong lầu Ngưng Bích với nỗi cô đơn, buồn tủi, thương thân, xót phận; là tình cảnh oan khiên nghiệt ngã của Vũ Nương, đến mức nàng phải dùng cái chết để chứng tỏ tấm lòng trong trắng, tiết hạnh của mình.
LĐ2. Qua bi kịch thân phận của Kiều và Vũ Nương, cả hai nhà văn lên án, tố cáo xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đã tước đi quyền sống, chà đạp lên con người. Đó là chiến tranh phi nghĩa, là chế độ nam quyền (Chuyện người con gái Nam Xương), là bọn quan lại tham lam, là lũ buôn thịt bán người không từ một thủ đoạn chỉ vì đồng tiền (Truyện Kiều).
LĐ3. Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của người phụ nữ, dù cuộc đời của họ truân chuyên, nhục nhằn. Đó là lòng chung thủy, sự hiếu hạnh, giàu tình yêu thương, luôn sống vì người khác, nghĩ cho người khác của Kiều và Vũ Nương.
LĐ4. Trân trọng, đề cao những khát vọng nhân văn của người phụ nữ: khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, về một mái ấm gia đình bình dị, sum vầy.
3. Đánh giá, mở rộng.
- Ý kiến của Hoài Thanh về nguồn gốc, phẩm chất của văn chương là ý kiến đúng đắn, khoa học bởi nó đã nói lên đặc trưng, thuộc tính quan trọng nhất của văn học: Văn học là tiếng nói của tâm hồn, cảm xúc; văn học mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
- “Văn học là nhân học” (M. Gorki).
- Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục) của Nguyễn Dữ và đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét quan niệm văn học của Hoài Thanh. Bởi cả hai đều là những tác phẩm mang giá trị nhân đạo cao cả, hướng tới con người, vì con người.
III. Kết bài:
Khái quát lại vấn đề, khẳng định gia strij của tác phẩm.
Bài học, liên hệ bản thân.
---------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 6: Văn học luôn quan tâm số phận con người, nhưng mỗi tác giả lại có một cách khám phá, thể hiện riêng.
Bằng cảm nhận của mình về hình ảnh cái bóng trên vách trong Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) và hình ảnh chiếc lá trên tường trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng (O. Hen-ri), em hãy làm sáng rõ nhận định trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài: Giới thiệu vài nét tiêu biểu về tác giả và tác phẩm.
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn nhận định.
II. Thân bài:
1. Giải thích, khẳng định ý kiến
- Khẳng định ý kiến đúng đắn vì xuất phát từ bản chất của sự sáng tạo văn chương.
- Văn học luôn quan tâm số phận con người: Đối tượng của văn học là con người, trong đó văn học quan tâm nhất vẫn là vấn đề số phận.
- Mỗi nhà văn có cách khám phá, thể hiện riêng: Bản chất của văn học là sáng tạo, mỗi hình tượng cũng như tác phẩm bao giờ cũng là sự sáng tạo mang dấu ấn riêng của cá nhân nhà văn; thể hiện một cách nhìn, cách nghĩ, cách lí giải riêng về thân phận con người bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo.
2. Cảm nhận các hình ảnh để làm sáng rõ ý kiến
LĐ1. Hình ảnh chiếc bóng trên vách trong Chuyện người con gái Nam Xương:
* Tái hiện hình ảnh chiếc bóng trên vách
* Ý nghĩa:
- Chiếc bóng - hiện thân của lòng tốt, tình mẹ con, đạo vợ chồng
- Chiếc bóng cũng là nguyên nhân tạo nên bi kịch thê thảm đối với nhân vật Vũ Nương và đối với cái gia đình bé nhỏ của nàng.
- Chiếc bóng thức tỉnh Trương Sinh, giúp chàng nhận ra nỗi oan của vợ.
- Chiếc bóng thể hiện tư tưởng, tình cảm và quan niệm của tác giả đối với con người:
+ Sự thấu hiểu, cảm thương sâu sắc số phận những con người bất hạnh, nhất là người phụ nữ.
+ Gửi gắm những triết lí sâu sắc, thấm đẫm tinh thần nhân văn: Cuộc sống luôn đầy những yếu tố bất thường, con người không thể lường trước; thân phận con người
nói chung và người phụ nữ nói riêng: thân phận mỏng manh như chiếc bóng- mong manh dễ tan vỡ, khi còn, khi mất. Hạnh phúc, sự sống, … có thể bị hủy hoại vì bất cứ lí do gì, bất cứ lúc nào….
* Về nghệ thuật: Tạo nên sự hàm súc, đa nghĩa đồng thời vừa thắt nút, mở nút tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm, làm hoàn chỉnh hơn nét đẹp của nhân vật Vũ Nương.
LĐ2. Hình ảnh chiếc lá trên tường trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng:
*Tái hiện hình ảnh chiếc lá trên tường
* Ý nghĩa:
- Thể hiện tình cảnh đáng thương của Giôn-xi: nghèo đói, bệnh tật nên tuyệt vọng, mất niềm tin vào cuộc sống
- Là kết tinh của hành động cao đẹp, vô tư, quên mình của người họa sĩ già.
- Là biểu tượng của lòng nhân ái, đức hi sinh, sức mạnh của của niềm tin yêu cuộc sống.
- Thể hiện tư tưởng, tình cảm và quan niệm của tác giả về con người, cuộc sống,
- Sự thấu hiểu, yêu thương của O.Hen-ri với số phận những nghệ sĩ nghèo nước Mỹ nói riêng và con người nói chung.
+ Đề cao lẽ sống nhân ái.
+ Khẳng định sức mạnh của nghệ thuật chân chính: Hướng về con người, nuôi dưỡng niềm tin, khát vọng sống, cứu rỗi con người…
* Về nghệ thuật: Chi tiết này tạo nên tình huống đảo ngược và một kết thúc bất ngờ cho tác phẩm, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, khắc học rõ nhân vật.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Chiếc bóng trên vách và chiếc lá trên tường là những hình ảnh có thực từ đời sống được các tác giả đưa vào tác phẩm theo những cách riêng, thể hiện quá trình lao động nghệ thuật công phu, sáng tạo với dụng ý nghệ thuật riêng. Qua đó thể hiện sự quan tâm đến số phận con người, tấm lòng nhân đạo của các tác giả …
- Chiếc bóng trên vách và chiếc lá trên tường là sáng tạo nghệ thuật độc đáo của hai nhà văn. Dù xa nhau về khoảng cách địa lý nhưng 2 nhà văn đã bắt gặp nhau ở điểm sáng tạo chung về nghệ thuật. Điều đó chứng tỏ, dù ở đâu thời kỳ nào tình yêu nghệ thuật tình yêu với cuộc sống, với con người, với nhân vật văn học của mình cũng sẽ tạo nên điểm đồng điệu.
III. Kết bài:
- Khái quát khẳng định lại ý kiến, tài năng tấm lòng của 2 nhà văn.
- Suy nghĩ của bản thân.
------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 7: Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ qua các tác phẩm văn học trung đại : Chuyện người con gái Nam Xương của nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài: Nêu vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua ba tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương của nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu.
II. Thân bài
1. Giải thích: Vẻ đẹp tâm hồn: là vẻ đẹp thuộc về phẩm chất bên trong của người phụ nữ - vẻ đẹp không dễ gì nhìn thấy được.
2. Chứng minh vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua các tác phẩm.
* Người phụ nữ trong ba văn bản mang những nét đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ: Công, dung, ngôn, hạnh.
LĐ1. Trước hết họ là những người phụ nữ đẹp, dịu dàng, hiền hậu:
+ Vũ Nương “tính tình thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”;
+ Thuý Kiều “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”... (Học sinh phân tích để thấy được vẻ đẹp của họ).
LĐ2. Không những thế họ là những người phụ nữ đảm đang, tháo vát:
+ Khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình vừa lo chuyện gia đình, nuôi dạy con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng chu đáo.
+ Thúy Kiều bán mình chuộc cha - phận nữ nhi nhưng gánh vác việc gia đình....
(Học sinh phân tích để thấy được vẻ đẹp của họ).
LĐ3. Hơn thế nữa họ còn là những người phụ nữ thuỷ chung, nhân hậu và đầy tình yêu thương....
+ Vũ Nương: Là người con hiếu thảo, Là người vợ thuỷ chung, thương yêu chồng
con tha thiết.
. Đối với mẹ chồng: Là người hiếu thảo với mẹ chồng, nàng luôn “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, lo thuốc thang, lễ bái thần phật khi mẹ ốm; lo “ma chay tế lễ” chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình khi mẹ mất.
(Học sinh phân tích đươc lời trăng trối của mẹ chồng trước khi chết để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người con dâu hiếu thảo).
. Đối với chồng: Khi Trương Sinh ở nhà ‘Giữ gìn khuôn phép” khi Trương sinh đi
lính” gót liễu tường hoa chưa hề bén gót” . Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày, đau khổ đến cùng cực, nàng đành nhảy xuống sông tự vẫn để bày tỏ tấm lòng trong trắng của mình
. Đối với con: Chăm sóc con chu đáo, yêu thương con hết mực, bù đắp tình cảm cho con khi chồng vắng nhà( nàng thường chỉ bóng mình trên vách...)
- Thuý Kiều:
+ Là người con hiếu thảo: Gia đình bị vu oan, cha và em bị đánh đập, Kiều đã quyết định hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ để bán mình chuộc cha và em. Thúy Kiều đã đặt “chữ” hiếu lên trên chữ “tình”. Và khi bị Lừa vào lầu xanh nàng không nguôi nỗi nhớ về gia đình: “Xót người tựa cửa hôm mai: quạt nồng áp lạnh những ai đó giờ”. Nàng đã hình hung thấy hình bóng cha mẹ già cứ tựa cửa ngóng tin nàng. Kiều rất kính trọng tấm lòng cao cả ấy của mẹ dành cho mình. Bởi thế nàng lại càng day dứt tự trách mình. Không chăm lo phụng dưỡng cha mẹ già. Qua đó người đọc cảm nhận được tấm lòng hiếu thảo , lòng vị tha củu nàng . Nàng như quên hẳn nỗi đau khổ trong hiện tại để sống trong tâm tưởng với người yêu với mẹ già.
+ Là người con gái trong trắng, thuỷ chung, giàu lòng vị tha: dù phải mười lăm năm lưu lạc, nàng không lúc nào nguôi nỗi nhớ chàng Kim, lúc nào cũng cảm thấy mình có lỗi khi tình yêu của hai người bị tan vỡ. Khi ở lầu Ngưng Bích Kiều đã “ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng; tin sương luống những rày trông mai chơ”- Kiều nhớ lại những kỉ niệm đẹp của mối tình đầu trong sáng giữa nàng và Kim Trong. Lời hen ước và hén rượu thề dưới đêm trăng sáng vằng vặc: Vầng trăng vằng vặc giữa trời; Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Chén rượu thề còn đó mà nay mỗi người một ngả. Nàng còn hình dung thấy ở nơi Lưu Dương cách trở, chàng Kim Trọng cũng đang hướng về nàng “tin sương luống những rày trông mai chờ”. Đây chính là tiếng nói từ trong sâu thẳm trái tim của nàng. Trong lời thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỏ máu . Nhớ thương tha thiết người mà mình yêu dấu. Càng nhớ về kỉ niệm của mối tình đầu trong sáng nàng lại càng đau đớn, xót xa.
- Kiều Nguyệt Nga.
+ Một cô gái thùy mị, nết na, có học thức, cách xưng hô khiêm nhườngquân tử- tiện thiếp), cách nói năng văn vẻ, mực thước, khuôn phép( làm con đâu dám cãi cha, chút tôi liễu yếu đào tơ...), cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc triết vừa đáp ứng đầy đủ những lời thăm hỏi an cần của Vân Tiên, vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.
+ Một con người đằm thắm, ân tình, cư xử có trước có sau. Với nàng Vân Tiên không chỉ cứu mạng mà còn cứu cả cuộc đời trong trắng của nàng:” Lâm nguy chẳng gặp giải nguy- Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.”Nguyệt Nga coi đó là ơn trọng và áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn dù biết rằng có đền đáp bao nhiêu cũng chưa đủ:” Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Bởi vậy cuối cùng nàng đã tự nguyện gắn bó suốt đời với chàng hào hiệp ấy, dám liều mình để giữ trọn ân tình thủy chung với chàng.
3. Đánh giá, mở rộng:
- Các tác giả văn học trung đại đều rất thành công khi khắc học về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là cái nhìn tiến bộ , mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Dữ, Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu những người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp chuẩn mực của xã hội xưa. Họ là hiện thân của những người phụ nữ đẹp trong văn học trung đại.
III. Kết bài:
- Khẳng định, đánh giá lại vấn đề.
+ Ngày nay vẻ đẹp đó luôn được tôn thờ và phát triển phù hợp với thời đại
+ Nhà văn Nga A.Sê-khốp nhận định: Sắc đẹp tâm hồn là sắc đẹp lâu dài và được quý trọng nhất”.
Suy nghĩ của bản thân, liên hệ hình ảnh người phụ n ữ trong XH hiện đại.
-------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 8: Thạch Lam từng nói: “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn”.
Hãy làm rõ nhận định trên qua Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ, Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2011)
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Thiên chức nhà văn: “chức vụ thiêng liêng” của người cầm bút
- Nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn - giá trị mà tác phẩm văn chương hướng tới người đọc...
2. Chứng minh qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Yêu quý, ngợi ca, bảo vệ những phẩm giá, phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương – của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến (yêu chồng, thương con, trinh tiết, thủy chung, hiếu thảo...).
( Dẫn chứng – Phân tích)
LĐ2. Lên án, tố cáo chế độ nam quyền, xã hội phong kiến bất công tàn bạo
( Dẫn chứng – Phân tích)
LĐ3. Đấu tranh đến cùng để cái đẹp luôn vĩnh hằng, vĩnh cửu dù ở bất cứ thế giới nào...
( Dẫn chứng – Phân tích)
3. Đánh giá, mở rộng
- Đây là một nhận định đúng đắn về thiên chức nhà văn và giá trị của văn chương.
- Tác phẩm được lựa chọn là minh chứng rõ nét cho nhận định của nhà văn Thạch Lam.
- Ngoài thiên chức cao cả này, nhà văn còn có những thiên chức khác (phát hiện những rung động tinh tế của cuộc sống, thanh lọc đời sống tinh thần, văn còn là họa là nhạc...)
- Giá trị của văn chương còn tùy thuộc vào độc giả, tùy thuộc quá trình tiếp nhận văn học...
III. Kết bài
- Khẳng định lại ý kiến, đánh giá sự thành công của tác phẩm.
- Suy nghĩ, cảm nhận liên hệ rút ra bài học.
----------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 9: Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên? Làm rõ ý kiến trên qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài:
- Dân dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích:
- Ý kiến trên nói về vai trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Trong tác phẩm tự sự có rất nhiều chi tiết, và trong đó có những chi tiết được coi là chi tiết nghệ thuật.
- Những chi tiết nghệ thuật đôi khi là những chi tiết rất nhỏ, nhưng nó lại chưa đựng ý nghĩa sâu sắc, thể hiện được tầm vóc tư tưởng, quan điểm, thể hiện được cả sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật, thể hiện được tài năng của người nghệ sĩ
=> Chính vì vậy mới nói: chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
2. Phân tích chứng minh ý nghĩa sâu sắc, cái hay, sự khéo léo của chi tiết "chiếc bóng" trong "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ
LĐ1. Chi tiết chiếc bóng tô đậm thêm những nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò làm vợ, làm mẹ:
+ Yêu thương con, muốn bù đắp tình cảm cho con khi vắng cha,
+ Yêu thương, thủy chung với chồng, luôn mong ngóng và nhớ chồng da diết nên Vũ Nương phải mượn chiếc bóng của mình để khỏa lấp nõi lòng...
+ Khát khao gia đình, được sum họp, được hạnh phúc.
LĐ2. Chiếc bóng chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc đời bi kịch của nàng.
+ Nó là bằng chứng oan nghiệt đẩy nàng vào cái chết.
+ Là nguyên nhân trực trực tiếp dẫn chết cái chết oan nghiệt của nàng.
+ Chiếc bóng xuất hiện lần thứ hai lại là bằng chứng minh oan cho sự trong sạch của nàng.
LĐ3. Chiếc bóng là ẩn dụ cho số phận mong manh của người phụ nữ trong chế độ nam quyền.
+ Chỉ là chiếc bóng vô hình nhưng cũng dẫn tới bi kịch, đẩy một người phụ nữ đức hạnh đến cái chết oan ức.
+ Chiếc bóng Vũ Nương vô tình đem ra đùa với con, nhưng chính trò đùa ấy lại hại nàng, phải chăng Nguyễn Dữ muốn gửi gắm một triết lí: ở đời làm sao học hết được chữ "ngờ".
LĐ4. Chi tiết Chiếc bóng để lại một thông điệp sâu sắc: phải yêu thương, tin tưởng, tôn trọng nhau, đừng để cho những điều vô hình, mong manh (như chiếc bóng) giết chết tình yêu, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình hiển hiện vốn có của mình.
- Với trương Sinh :
+ Chiếc bóng chính là bằng chứng kết tội vợ vợ mình mất nết lăng loàn không chung thuỷ.
+ Nó cũng là bằng chứng cho tội ác tày trời của Trương Sinh: hồ đồ, độc đoán, đa nghi, gia trưởng, đa nghi của Trương Sinh giết chết người vợ hiền hiếu thảo đảm đang thuỷ chung của mình.
+ Nó là vật vô hình mà giá trị thức tỉnh lương tâm Trương Sinh, khiến Trương Sinh ân hận giày vò, đâu khổ vì sự hồ đò đa nghi thiếu tin tưởng vợ.
LĐ5. "Chiếc bóng" xuất hiện ở cuối tác phẩm: "Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất". Chi tiết này thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so với tích cũ (Vợ chàng Trương), tạo nên vẻ đẹp lung linh cho tác phẩm và đem đến cho câu chuyện một kết thúc tưởng như có hậu nhưng lại càng tô đậm thêm bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ.
=> Như vậy một chi tiết nhỏ này đã hàm chứa những tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Dữ, góp phần làm nên giá trị nhân đạo, tính nhân văn của tác phẩm.
=> Khái quát: Như vậy chi tiết này thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo (thương xót, đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh, bênh vực người phụ nữ, phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng, ích kỉ của những người đàn ông trong xã hội phong kiến...), đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả.
=> Tất cả những điều này đã chứng minh chi tiết chiếc bóng - một chi tiết nhỏ trong truyện nhưng đã làm nên tầm vóc một "nhà văn lớn" - Nguyễn Dữ.
LĐ6. Về giá trị nghệ thuật:
+ Chi tiết chiếc bóng tạo sự bất ngờ, tính hấp dẫn của tình huống, sự chặt chẽ cho cốt truyện, tạo sự thắt nút, mở nút rất hợp lí. Chi tiết này được để xuống cuối phần thứ hai của truyện, sau khi Vũ Nương không còn nữa, chuyện đau xót nhất đã xảy ra và sai lầm không thể làm lại, mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Do đó tính tố cáo cũng sâu sắc, mạnh mẽ hơn.
+ Tạo kịch tính, tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện.
=> Điều này thể hiện dấu ấn sáng tạo và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ.
3. Đánh giá, mở rộng
- Nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù vì thế tầm vóc của người nghệ sỹ có thể được làm nên từ những yếu tố nhỏ nhất ấy. Những nhà văn lớn thường có khả năng sáng tạo được những chi tiết nhỏ nhưng giàu giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Để làm nên một chi tiết nhỏ có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật và Nguyễn Dữ đã làm nên điều đó.
III. Kết bài:
- Khái quát khẳng định lại ý kiến.
- Suy nghĩ, liên hệ, bài học.
---------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 10: Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh”. Làm sáng tỏ ý kiến trên qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ?
GỢI Ý LÀM BÀI:
I. Mở bài:
- Dẫn dắt giới thiệu vấn đề:
+ Truyện ngắn là thể loại được ưa thích của cả người sáng tác và người tiếp nhận.
+ Sức hấp dẫn của truyện ngắn chính là chiều sâu nghệ thuật, sự độc đáo của nó mà nhà văn đã dệt nên của tác phẩm của mình.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- “Một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của một nhân vật nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh”: Có tính chất ước lệ nó chỉ cái số ít của truyện ngắn so với thế giới phức tạp, đồ sộ và bề bộn của tiểu thuyết. Có nghĩa là truyện ngắn có khuôn khổ ngắn, ít nhân vật, ít sự kiện. Nó chỉ là mảnh nhỏ, một lát cắt của đời sống.
+ Tác giả truyện ngắn thường hướng đến phát hiện và khắc họa một hiện tượng, một nét bản chất nhất trong quan hệ nhân sinh hoặc trong đời sống tâm hồn của con người.
+ Nhân vật trong truyện ngắn không phải là một cá tính điển hình đầy đặn và phức tạp. Nhiều khi đó chỉ là một mảnh đời, một khoảnh khắc của một số phận. “Là một lát cắt, một khúc của một của đời sống. Nhứng qua lát cắt ấy, qua khúc ấy người thấy được trăm năm của đời thảo mộc” ( Nguyễn Minh Châu)
2. Thông qua truyện Người con gái Nam Xương sáng tỏ nhận định trên:
LĐ1. Qua tác phẩm Nguyễn Dữ muốn đối thoại với bạn đọc về số phận người phụ nữ qua nhân vặt Vũ Nương.
+ Bị hạ thấp, được xem như một món hàng mua bán (Lúc mà Trương Sinh đem tiền đến rước dâu. Dù không muôn đăng hộ đối cũng phải cúi đầu nghe theo).
+ Bèo bọt, không có tiếng nói trong xã hội (giãy bày nhưng không thể thay đổi được gì).
LĐ3. Qua tác phẩm Nguyễn Dữ muốn đối thoại với bạn đọc về vấn đề nhân sinh nữa đó là tố cáo xã hội phong kiến nam quyền, bất công, vô lí.
+ Con trai là người nắm giữ quyền lực và dù đúng dù sai vẫn luôn có quyền phán xét, hành xử người khác.
+ Đàn ông có quyền quyết định mọi thứ kể cả sự sống cái chất của người phụ nữ.
LĐ3. Qua tác phẩm Nguyễn Dữ muốn đối thoại với bạn đọc về ván đề nhân sinh nữa ấy là lời lên án tố cáo chiến tranh phi nghĩa.
+ Ngăn cách tình vợ chồng.
+ Tạo bức màn khiến người phụ nữ phải chịu cảnh chờ đợi, không thể làm được điều gì.
+ Khiến nề nếp, lề thói một tay người phụ nữ gây dựng, bỗng chốc tan vào hư vô
3. Đánh giá, mở rộng:
- Con người và cuộc sống hiện thực là chất liệu quan trọng nhất của văn học. Một truyện ngắn có giá trị là qua đó nhà văn không chỉ giới thiệu đến độc giả một câu chuyện, một tình huống mà còn thể hiện được những đánh giá, phát hiện và những quan niệm chủ quan về nhân sinh và cuộc sống con người.
- Rõ ràng “thông qua một truyện ngắn nhà văn bao giờ cũng muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân sinh” là ý kiến đúng.
- Để sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật cho một tác phẩm nhà văn phải trải qua bao dằn vặt, trăn trở, hy vọng, đau đớn từ đó hình thành nên một quan niệm, một niềm tin nhất định của mình.
- Đằng sau bức tranh cuộc sống được tái hiện, miêu tả bao giờ cũng chứa đựng một quan niệm, một khát vọng thiết tha muốn bạn đọc đồng tình, sẻ chia , cùng suy ngẫm và sáng tạo.
III. Kết bài
- Đánh giá khái quát lại.
- Suy nghĩ cảm xúc bản thân, liên hệ.
--------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 11: Nhà văn Nguyễn Khải quan niệm: “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích giá trị tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để làm sáng tỏ ý kiến trên
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề:
+ Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ.
+ Giới thiệu về tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”.
- Trích dẫn ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Giá trị tư tưởng của tác phẩm văn học là nội dung tư tưởng, là thế giới quan, là ước mơ, lí tưởng, tình cảm…của người sáng tác thể hiện trong tác phẩm.
- Tác phẩm văn học phản ánh hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Đằng sau bức tranh hiện thực được khắc họa trong tác phẩm bao giờ cũng là tư tưởng, tình cảm, thái độ, quan niệm của nhà văn đối cuộc sống. Tác phẩm chỉ có thể lay động trái tim độc giả, trường tồn với thời gian khi nó mang chở những tư tưởng đúng đắn, tiến bộ, tình cảm nhân ái, chan hòa.
-> Tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá giá trị của một tác phẩm nghệ thuật chính là những tư tưởng đúng đắn, tiến bộ, tình cảm cao đẹp trong tác phẩm.
2. Phân tích - Chứng minh giá trị nhân đạo biểu hiện trong tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”
a. Khái quát về giá trị nhân đạo trong văn học:
- Nhân đạo là đạo lí hướng tới con người, vì con người, là tình yêu thương giữa người với người. Nhà văn chân chính là những nhà nhân đạo chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng con người và bênh vực quyền sống cho con người.
- Trong tác phẩm văn học, tư tưởng nhân đạo là tình cảm, thái độ của chủ thể nhà văn đối với cuộc sống con người được miêu tả trong tác phẩm thể hiện cụ thể ở lòng xót thương những con người bất hạnh; phê phán những thế lực hung ác áp bức, chà đạp con người; trân trọng những phẩm chất và khát vọng tốt đẹp của con người, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người... Đồng thời, tư tưởng nhân đạo được thể hiện qua các hình tượng nghệ thuật, qua cảm hứng, cảm xúc, giọng điệu...
- Cảm hứng nhân đạo cùng với cảm hứng yêu nước là hai sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nền văn học Việt Nam. Về cơ bản có những biểu hiện chung song ở mỗi thời kì, giai đoạn, do hoàn cảnh lịch sử xã hội, do ý thức hệ tư tưởng của các nhà văn khác nhau nên có những biểu hiện riêng. “Người con gái Nam Xương” là tác phẩm điển hình thể hiện cảm hứng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của văn học trung đại Việt Nam.
b. Giá trị nhân đạo biểu hiện trong tác phẩm “Người con gái Nam Xương”
* Trước hết giá trị nhân đạo trong tác phẩm được Nguyễn Dữ thể hiện ở thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của con người, đặc biệt là vẻ đẹp người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương:
- Người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát…
- Thủy chung, son sắt.
- Hiếu thảo với mẹ chồng, hết mình vì gia đình…
- Nàng là người phụ nữ hoàn hảo, lý tưởng của mọi gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của mọi người phụ nữ.
LĐ1. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm được Nguyễn Dữ thể hiện ở lòng đồng cảm, xót thương, đau đớn trước số phận bi kịch của nàng Vũ Nương nói riêng và của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung:
- Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất đáng quý, nàng xứng đáng được sống hạnh phúc, nhưng số phận nàng lại đầy bất hạnh:
+ Chờ chồng đằng đẵng bao ngày tháng.
+ Bị chồng nghi ngờ lòng thủy chung.
+ Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị vùi dập tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan uổng…
+ Bi kịch đời nàng là tấn bi kịch cho cái đẹp bị chà đạp phũ phàng.
LĐ2. Hơn nữa giá trị nhân đạo trong tác phẩm còn được Nguyễn Dữ thể hiện ở lời lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên quyền sống và khát vọng sống của con người:
- Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình.
- Lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa tước đoạt hạnh phúc của con người.
- Xã hội phong kiến với những hủ tục như: Trọng nam khinh nữ, lễ giáo hà khắc, …gây bao bất công cho người phụ nữ.
LĐ3.Cuối cùng phải kể đến giá trị nhân đạo trong tác phẩm được Nguyễn Dữ thể hiện ở những biểu hiện cao đẹp nhất đó chính là: Nguyễn Dữ đã không để cho nhân vật của mình phải chết oan khuất, bênh vực, bảo vệ phẩm hạnh Vũ Nương, đó cũng là khát vọng nhân văn chân chính trong truyền thống đạo đức của người Việt Nam:
- Mượn yếu tố kì ảo của thể loại Truyền kì, nhà văn diễn tả Vũ Nương được trở về, để rửa sạch nỗi oan khuất, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa.
3. Đánh giá, mở rộng
- Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn, khẳng định giá trị tư tưởng trường tồn trong các tác phẩm văn học nói chung và “ Chuyện người con gái Nam Xương” nói riêng.
- Tác phẩm đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đặc biệt hơn thông điệp nhân văn của Nguyễn Dữ được xây dựng bởi các yếu tố nghệ thuật đặc sắc như: Xây dựng tình huống truyện độc đáo; Dẫn dắt tình huống truyện hợp lý. Khắc họa các chi tiết ấn tượng như chi tiết chiếc bóng tạo sự bất ngờ, bàng hoàng cho người đọc và tăng tính bi kịch cho câu chuyện. Thể loại truyền kì với các yếu tố kì ảo cũng góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
III. Kết bài
- Khái quát, khẳng định lại ý kiến.
- Đánh giá thành công của tác phẩm, tài năng và tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
-----------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 12: Nhận xét về kết thúc của truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng: “Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”.
Qua một số tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyến Dữ, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề: Đối với nghệ thuật viết truyện ngắn phần mở đầu và kết thúc bao giờ cũng được các nhà văn đặc biệt lưu ý, trong đó một kết thúc ám ảnh, giàu ý nghĩa luôn luôn được xem trọng.
- Trích dẫn ý kiến: Bàn về phần kết thúc của truyện ngắn, tác giả Bùi Việt Thắng cho rằng: Điều quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng.
- Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) là một trong số những tác phẩm thành công trong việc xây dựng phần kết thúc.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Ý kiến đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của phần kết thúc trong truyện ngắn: Kết thúc nào cũng nhằm tái hiện dòng chảy nghệ thuật phức tạp của đời sống. Sau mỗi một kết thúc, người đọc có thể thấu hiểu được chân lý đời sống, nhận thức được những quy luật đời sống, những dự cảm về tương lai và khẳng định sự tất thắng của cái đẹp.
- Khẳng định tính đúng đắn của ý kiến xuất phát từ đặc trưng của truyện ngắn:
+ Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, có lối hành văn mang đầy ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Để thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đề tác phẩm, đòi hỏi nhà văn phải có khả năng dồn nén, sáng tạo chi tiết, lời văn nghệ thuật. Trong đó, đoạn kết đóng vai trò có ý nghĩa quan trọng. Viết truyện ngắn, cốt nhất là phải tô đậm phần mở đầu và kết luận (Chekhov), Sức mạnh của cú đấm nghệ thuật là thuộc về đoạn cuối.
+ Nếu như phần mở có ý nghĩa như một khúc dạo đầu thì phần kết thúc có vai trò như một khúc vĩ thanh, nó giải quyết những mâu thuẫn đặt ra trong tác phẩm. Vì thế, phần kết chứa đựng thông điệp của nhà văn, chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Kết thúc là khép lại, nhưng mở ra cánh cửa cuối cùng để khám phá tác phẩm, đồng thời mở ra trong lòng bạn đọc những suy nghĩ, liên tưởng mới mẻ, đánh thức, khơi gợi ở người đọc khả năng đồng sáng tạo.
2. Chứng minh: Phần kết của tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ):
LĐ1. Bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc, tác phẩm còn đạt được nhiều thành công về mặt nghệ thuật.
- Nguyễn Dữ đã tạo nên một thiên truyện giàu kịch tính, hấp dẫn từ đầu đến cuối qua các mâu thuẫn.
- Xung đột được đẩy đến mức căng thẳng khi Trương Sinh nghe lời con trẻ, trút bỏ mọi oán trách lên đầu Vũ Nương, khi Vũ Nương không thể thanh minh cho mình và phải tìm đến cái chết, sự vỡ lẽ của Trương Sinh đã mở nút cho mâu thuẫn. Việc mở nút cho kịch tính bằng cái chết của nhân vật chính đã tạo nên âm hưởng bi kịch của số phận con người. Và lẽ ra câu chuyện có thể kết thúc ở đó, nhưng tác giả đã sáng tạo thêm đoạn kết.
LĐ2. Một cái kết có hậu: Vũ Nương không chết, nàng được sống một cuộc sống khác bình yên và tốt đẹp dưới thủy cung, nỗi oan tình của Vũ Nương được hóa giải, chàng Trương lập đàn giải oan và gặp nàng. Vậy cái kết như vậy có ý nghĩa như thế nào, sáng tạo ra kết thúc đó Nguyễn Dữ muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp gì? Trước hết, phần kết thúc với nhiều chi tiết kì ảo sẽ thể hiện được đặc trưng của thể loại truyện truyền kì, hấp dẫn người đọc bởi những yếu tố hoang đường.
LĐ3. Hơn nữa, phần kết thúc có hậu giống như nhiều truyện cổ tích đã thể hiện triết lí ở hiền gặp lành của nhân dân lao động. Bản thân Nguyễn Dữ luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những người phụ nữ có số phận éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, nếu như Tấm sau nhiều lần hóa thân, chết đi sống lại đã được trở về vị trí hoàng hậu, sống hạnh phúc trọn đời thì Vũ Nương chỉ thoáng hiện về rồi vĩnh viễn biến mất. Điều đó đã làm tăng ý nghĩa phê phán hiện thực, cảnh tỉnh đối với những kẻ như Trương Sinh: Hạnh phúc rất mong manh, nếu để mất đi sẽ không bao giờ lấy lại được, để có được hạnh phúc con người phải sống với nhau bằng niềm tin, bằng sự nhân hậu bao dung.
LĐ4. Kết thúc này còn góp phần vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật, thể hiện thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác giả trước phẩm hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa. Ta thấy chi tiết Phan Lang trở thành ân nhân của con rùa, sau lại được rùa đền ơn, cứu thoát trên đường chạy giặc đã thể hiện đạo lí đền ơn đáp nghĩa, một truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc. Việc Vũ Nương trở về gặp chồng, nhưng không đồng ý ở lại chốn nhân gian, nàng nguyện ở lại thủy cung để báo đáp ơn nghĩa với Linh Phi.
3. Đánh giá mở rộng.
- Phần kết thúc có vai trò quan trọng nhưng không phải là yếu tố duy nhất làm nên thành công của tác phẩm. Ngoài phần kết, cần chú ý đến vai trò của các phần khác như: mở đầu, cốt truyện, xây dựng tình huống, nhân vật…
- Quá trình viết truyện ngắn là một quá trình lao động sáng tạo công phu đầy vất vả, gian nan của người nghệ sĩ. Một truyện ngắn hay cũng đồng thời phải là một truyện ngắn có cách kết thúc hay, ấn tượng, sáng tạo. Từ đó, người đọc có khả năng liên tưởng, khái quát, khám phá được những vấn đề lớn lao, sâu sắc của hiện thực đời sống, con người, vượt ra khỏi khuôn khổ ít ỏi của truyện ngắn.
- Điều này đặt ra yêu cầu đối với người nghệ sĩ sáng tác trong việc trau dồi tài năng, phong cách nghệ thuật. Và người đọc cũng phải sống hết mình với tác phẩm để hiểu được thông điệp thẩm mỹ của tác giả gửi gắm ở phần kết qua đó có thể sẻ chia, cảm thông, tri âm với tác giả.
III. Kết bài
- Thực tế đã chứng minh những tác phẩm có giá trị, trường tồn với thời gian là những tác phẩm có kết thúc để lại nhiều dư ba trong lòng bạn đọc.
- Chuyện người con gái Nam Xương, Bến quê là những tác phẩm mãi còn xanh, những tác phẩm đi cùng năm tháng.
------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 13: Khi bàn về các tác phẩm truyện, nhà văn Chingiz Ajmatov đã nêu ý tưởng: “Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện.” Em hiểu như thế nào về ý tưởng đó. Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, em hãy làm sáng tỏ ý tưởng trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt nêu vấn đề nghị luận từ ý kiến.
- Trích dẫn ý kiến.
II. Thân bài.
1. Giải thích ý kiến
- Giới thiệu, khẳng định ý kiến của nhà văn Chingiz Ajmatov là xác đáng.
- Tác phẩm nghệ thuật chân chính là tác phẩm có gái trị lớn lao, đích thực thể hiện được chức chức và sứ mệnh cao cả của văn chương với cuộc đời.
- Không chấm dứt ở trang cuối cùng nghĩa dù kết thúc ở trên trang sách nhưng không bao giờ kết thức chấm dứt ở trang đời, những tác phẩm lón nó có sức gợi mạnh mẽ có sức sống lâu bến trong lòng người đọc.
- Không bao giờ hết khả năng kể chuyện nghĩa là không chấm dứt khi gấp trang sách lại mà có sức sống lâu bền với thời gian.
2. Chứng minh, làm rõ ý kiến qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
LĐ1. Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng:
+ Tác giả đã gieo vào lòng người đọc sự trân trọng, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống thông qua vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương…
+ Tác phẩm lay động lòng người, ám ảnh lòng người bởi số phận mỏng manh của người phụ nữ trong chế độ phong kiến nam quyền thông qua số phận của Vũ Nương. Họ có thể gặp bất hạnh bởi bất cứ một nguyên nhân vô lý nào mà không lường trước được. Tác phẩm gieo vào lòng người đọc sự đồng cảm, sẻ chia, ước mơ, khát vọng giải phóng người phụ nữ.
LĐ2. Tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ hết khả năng kể chuyện: bởi sự sáng tạo của Nguyễn Dữ
- Cốt truyện thêm vào phần 3: Vũ Nương ở Thuỷ cung và được giải oan.
- Chi tiết hoang đường: thể hiện tính truyền kì, nhấn mạnh giá trị hiện thực: số phận bất hạnh, mong manh của người phụ nữ; giá trị nhân đạo: hoàn thiện vẻ đẹp thuần hậu, dịu dàng, hướng về chồng con với khát vọng cháy bỏng hạnh phúc của Vũ Nương; thể hiện khát vọng của người xưa là “ ở hiền gặp lành”; tố cáo xã hội phong kiến trong buổi suy tàn với những thế lực đen tối đày đọa người phụ nữ: Hôn nhân bất bình đẳng, không tình yêu, không niềm tin, xã hội với thế lực nam quyền độc đoán, gia trưởng, xã hội có chiến tranh loạn ly và cơ bản nhất là xã hội coi thường, rẻ rúng người phụ nữ…
- Cách xây dựng nhân vật:
+ Tính cách có sự biến đổi: Vũ Nương không nhẫn nhịn, chịu đựng mãi mà biết phản ứng để bảo vệ nhân phẩm, Trương Sinh không hẳn thuộc phe ác, chàng đã biết hối hận, nhận ra sai lầm của mình thể hiện qua việc lập đàn tràng giải oan cho vợ.
+ Bước đầu khắc hoạ nội tâm: Những lời thoại của Vũ Nương thực chất là tâm trạng, sự giãi bày của nàng...
- Cách xây dựng chi tiết kịch tính, nghệ thuật thắt nút, mở nút: Dụng công xây dựng chi tiết chiếc bóng.
- Kết thúc có hậu nhưng chứa đầy bi kịch
+ Có hậu: Vũ Nương được minh oan, được sống ở Thuỷ cung.
+ Bi kịch: Thực chất Vũ Nương đã chết, sự sống của nàng chỉ là chốn làn mây, cung nước; Suốt đời khao khát hạnh phúc mà không có được, gia đình tan nát, bé Đản không còn mẹ, Trương Sinh không còn vợ và phần đời còn lại chàng phải sống trong ân hận dày vò vì là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết cho vợ…
-> Chính sự sáng tạo của Nguyễn Dữ là yếu tố cơ bản làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm, làm nên sức sống vượt thời gian cho tác phẩm.
3. Đánh giá, mở rộng
- Bằng tài năng và tấm lòng của mình, Nguyễn Dữ cất lên tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước số phận mong manh, bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Câu chuyện kết thúc nhưng lại mở ra khoảng trống khiến chúng ta phải suy ngẫm. Đó là: phải biết trân trọng hạnh phúc gia đình, biết kiềm chế phân tích khi nóng giận, biết yêu thương tin tưởng lẫn nhau, đừng bao giờ để xảy ra bi kịch lứa đôi như cặp Trương Sinh, Vũ Nương. Câu chuyện mãi là bài học ngàn đời cho hạnh hạnh phúc lứa đôi.
- Quan điểm của nhà văn Chingiz Ajmatov là khẳng định sức sống của văn học chân chính trong lòng người đọc, đồng thời là bài học cho người nghệ sĩ:tác phẩm nghệ thuật là nơi kết tinh cái tài, cái tâm của người sáng tác.
III. Kết bài.
- Đánh giá lại ý kiến.
- Suy nghĩ bản thân, rút ra bài học.
----------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 14: Có ý kiến cho rằng Trương Sinh cũng chính là nạn nhân của chế độ XHPK nam quyền đầy nghiệt ngã, bởi thế cuộc đời chàng cũng là một chuỗi bi kịch. Em hãy làm rõ bi kịch của Trương Sinh trong "Chuyện người con gái Nam Xương" (Truyền Kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ)
GỢI Ý LÀM BÀI:
I. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn nhận định.
II. Thân bài:
1. Giải thích:
- Chuyện người con gái Nam Xương là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục, nguồn gốc của truyện bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân gian có tên là Vợ chàng Trương. Tuy nhiên chuyện đã được Nguyễn Dữ đã sáng tạo cả nội dung và nghệ thuật.
- Nhân vật Trương Sinh cũng chính là một sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Dữ. Chàng là sản phẩm của xã hội phong kiến mang tư tưởng nam quyền nên ít nhiều chàng cũng chịu không ít bi kịch từ xã hội ấy. Trương Sinh Tuy luôn bị lên án trong cái chết của Vũ Nương nhưng bản thân Trương Sinh cũng là nhân vật người đàn ông có nhiều bi kịch.
2. Chứng minh làm rõ bi kịch của Trương Sinh trong tác phẩm.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Trước hết ở Trương Sinh là bi kịch về khát vọng tề gia không thành.
- Từ một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc bên gia đình, bên mẹ, bên vợ, Trương Sinh đã phải thực hiện nghĩa vụ công dân của mình - phải đi lính khi đất nước có chiến tranh. Dễ thấy, Trương Sinh không phải là kiểu nhân vật “nam nhi chí lớn”: chàng không có những khát vọng lớn lao mang tầm vóc vũ trụ, không thể hiện được chân dung và tư cách của một trang nam nhi, anh hùng chí lớn.
- Trương Sinh thuộc tip nhân vật người đàn ông tề gia - an phận, chủ tâm trong việc xây dựng, tề chỉnh gia đình. Chàng luôn chăm chút giữ gìn cho gia đình hòa thuận. Chàng tuổi trẻ, con nhà giàu có nhưng không được học hành, phải đi lính trong lúc hương lửa đang nồng. Chàng từ biệt mẹ già, vợ trẻ để đi ra chiến trường khi tổ quốc lâm nguy...
- Có biết bao cuộc chia ly nhưng chia ly khi người thân ra trận để lại trong tâm trí con người nhiều suy nghĩ và lo lắng hơn bao giờ hết. Bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn có câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai về) như một chân lý khắc sâu vào tâm khảm người đọc. Đi vào nơi mũi tên, hòn đạn, chết chóc là điều không tránh khỏi. Số phận người lính trong chiến tranh thật mong manh. Người lính biết mình xung trận thì mười phần chết chỉ có một phần sống và cái cảnh “mấy ai về” như một định mệnh khắc nghiệt lâu nay.
- Khi đi lính trở về, Trương Sinh tới nhà thì mẹ đã từ trần, đứa con vừa học nói. Tình mẫu tử thiêng liêng, nguồn an ủi vô bờ đối với Trương Sinh không còn nữa. Mẹ mất không được đội tang, Trương Sinh cảm thấy mình mắc tội bất hiếu - một thứ tội lớn nhất đời người. Bởi lẽ, hiếu vốn là tinh thần, là nội dung của đạo đức gia đình truyền thống Việt Nam hình thành từ rất xa xưa. Tư tưởng của đạo Nho là đề cao chữ “hiếu”, “Hiếu là gốc của đức, là nguồn của giáo…”(Hiếu kinh). Theo Khổng Tử, sự sống của mỗi người không phải do tạo hóa sinh ra, càng không phải do bản thân tự tạo, mà nhờ cha mẹ. Hiếu thuận được coi là nền tảng của đạo làm người. Chính vì thế, trong truyện, ngay khi trở về, Trương Sinh hỏi mồ mẹ rồi bế đứa con nhỏ ra thăm mộ mẹ trước tiên. Qua lời nói của chàng với đứa con “Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi” cho thấy rõ nỗi đau của người đàn ông, một người con không thể làm tròn bổn phận của mình. Nhưng dù vậy, Trương Sinh vẫn là một người con không tròn đạo hiếu.
-> Khát vọng tề gia của Trương Sinh chẳng khác nào bọt nước chiều mưa.
LĐ2. Bi kịch của người biết yêu cái đệp, trân trọng cái đẹp nhưng lại vô tình làm vỡ nó.
- Tuy không được học hành nhưng Trương Sinh là một người biết yêu, biết nâng niu và trân trọng cái đẹp. Trong tác phẩm, chi tiết Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới Vũ Thị Thiết - một cô gái nhà nghèo nhưng đủ công dung ngôn hạnh - về làm vợ đã chứng minh cho điều đó. Hơn nữa, trong cuộc sống, vợ chồng họ rất hạnh phúc.
- Lấy nhau đã lâu mà không có lúc nào có chuyện thất hòa. Đó không chỉ do cố gắng của một mình Vũ Nương. Hạnh phúc gia đình phải do tất cả các thành viên cùng vun trồng xây đắp mới trở nên tốt đẹp được, một người dù có cố gắng đến mức nào cũng không thể cứu vãn được nếu người còn lại không ủng hộ.
+ Chàng hết lòng chăm chút và nâng niu tổ ấm của mình. Có thể nói, tình cảm của Trương Sinh dành cho Vũ Nương hoàn toàn hồn nhiên, trong sáng, và đáng trân trọng. Đặt vào hoàn cảnh của Trương Sinh vừa đi chinh chiến về, quá mệt mỏi, con người ta rất cần một chỗ dựa là gia đình, bên mẹ, bên vợ và bên con. Còn Trương Sinh thì sao?
- Vừa về đến nhà đã gặp bao khổ đau: chàng không có được giây phút hồi hộp, thiêng liêng đón giọt máu của mình chào đời; mẹ già đã khuất núi… Mẹ mất, niềm hạnh phúc gia đình nhỏ còn lại của Trương Sinh là vợ và con trai. Vậy nhưng, đứa con nhất định không chịu nhận mình làm cha “Ô hay! thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít” khiến chàng đau đớn. Hơn nữa, lời bé Đản rất có lý khiến chúng ta không thể không tin có “điều gì đó” mờ ám diễn ra: “Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Nguyễn Dữ đã khéo léo đặt những lời nói đó vào miệng của một đứa trẻ ngây thơ. Hơn ai hết, lời của bé Đản đã kích động tính ghen tuông của Trương Sinh, khiến Trương Sinh nghi ngờ Vũ Nương thất tiết. Không thể làm chủ được bản thân, Trương Sinh đã mắng mỏ, nhiếc móc và đánh đuổi Vũ Nương đi mặc cho nàng biện bạch. Rõ ràng, Trương Sinh khao khát có gia đình hạnh phúc, ra sức vun đắp gia đình nhưng lại chính mình làm tan vỡ tổ ấm đó.
- Chàng trân trọng, nâng niu tình cảm với Vũ Nương thì lại lầm lẫn đến nỗi đẩy vợ yêu vào chỗ chết… Bản thân chàng phải tiếp tục sống trên cõi đời, ngày đêm đối diện với con thơ, với cái bóng oan khiên với nỗi đớn đau, dằn vặt khôn nguôi. Nhưng đó vẫn chưa phải là đỉnh điểm khổ đau của cuộc đời người đàn ông chồng chéo bi kịch này.
LĐ3. Bi kịch của chàng TS nữa đó là bi kịch của sự ghen tuông.
- Người đọc không khỏi xót xa, phẫn uẫn trước cái chết của Vũ Nương -một người phụ nữ thủy chung, trong trắng, đức hạnh vẹn toàn, trọn hiếu, vẹn tình… Nhiều người cho rằng cái chết của Vũ Nương trong truyện do ảnh hưởng từ hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không ổn định, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt làm cho các tầng lớp trong xã hội bị phân hóa mạnh mẽ, cuộc sống của nhân dân điêu đứng, đổi thay. Biết bao gia đình phải chia ly, phân tán khi người thân của họ phải bước ra chiến trận ác liệt. Chiến tranh đã khiến con người không được hưởng trọn hạnh phúc lứa đôi. Lẽ ra, cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến không xảy ra, Trương Sinh không phải đi lính thì chàng đã có một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình, cùng vợ đẹp, con ngoan. Trương Sinh đã làm tròn trách nhiệm của một người con, người chồng, người cha và chàng đã không rơi vào bi kịch.
- Tuy vậy, nguyên nhân chính và sâu xa dẫn đến bi kịch của Trương Sinh là do bản tính “hay ghen” của chàng. Bởi, giả sử Trương Sinh không phải đi lính ba năm mà là đi du học thì khi trở về, với tính hay ghen - một thuộc tính bản năng của con người, lại có “điều kiện” là câu nói ngây thơ của đứa con về sự ngoại tình của vợ, Trương Sinh vẫn sẽ rơi vào bi kịch đau lòng vì gây ra cái chết cho vợ mình. Như vậy, việc ghen tuông của Trương Sinh là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết đau lòng của Vũ Nương.
- Hay ghen là một hiện tượng tâm lý có liên quan đến sinh lý, đến giới tính thuộc phạm vi tính người mà tạo hóa đã phát riêng cho nhân loại. Ghen tuông còn là một thuộc tính của con người, khi có điều kiện thuộc tính này sẽ bùng phát lên nhanh chóng và hậu quả của những cơn ghen thường rất ghê gớm và khó lường. Còn yêu là còn ghen. Sự ra đi của Vũ Nương là một hậu quả nghiêm trọng nhất cho việc ghen tuông nông nổi của Trương Sinh.
+ Trong tình yêu, ghen tuông là điều khó tránh khỏi. Cơn ghen khiến con người ta mất khả năng kiểm soát hành vi của bản thân. Khi ghen tuông, không đủ tỉnh táo tất sẽ dẫn đến những hành động thiếu suy nghĩ. Nhà tâm lí Hauch cho rằng “Biểu hiện chung của đàn ông ghen tuông là sẵn sàng lớn tiếng, quát nạt đối phương, bàng quan với mọi thứ xung quanh. Có một số người thì đập phá đồ đạc hoặc trút giận bằng cách đấm vào tường”. Hơn nữa mẹ vừa mất, vợ lại ngoại tình còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau ấy. Do vậy, việc Trương Sinh đánh đuổi Vũ Nương đi là hoàn toàn có thể giải thích được.
+ Khi Vũ Nương quyên sinh, Trương Sinh vẫn động lòng thương xót“tìm vớt thây nàng”. Đó là một hành động đáng trân trọng, nó thể hiện tình cảm của chàng với người vợ bất hạnh. Sau khi Vũ Nương chết, một mình chàng lầm lũi nuôi con. Chính từ cái bóng của chàng và qua câu nói của đứa con thơ, mà hiểu ra mình đã lầm mà gây tội ác với vợ, con mồ côi mẹ, chồng mất vợ, chàng dằn vặt, hối hận, nhưng đã quá muộn màng. Trương Sinh đã lập đàn tràng giải oan cho Vũ Nương tại bến Hoàng Giang. Đây là cố gắng cuối cùng của chàng để níu kéo hạnh phúc đã mất. Vũ Nương đã trở về trong niềm mơ ước của Trương Sinh và của người đời nhưng chỉ là chốc lát rồi lại tan biến vào khói mây. Mái ấm gia đình của chàng đã mãi mãi không còn nữa. Có lẽ nỗi cô đơn, ân hận về hành động của mình sẽ theo chàng đến hết cuộc đời. Đây chính là một vấn đề lớn của bi kịch gia đình.
- Có thể thấy, bi kịch của Trương Sinh là do nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ những tình tiết đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Điểm mấu chốt trong bi kịch này đó chính là những mâu thuẫn, giằng xé diễn ra ngay trong chính bản thân con người chàng, đó là sự hối hận, dằn vặt vì đã gây ra cái chết của vợ dưới dòng nước lạnh. Trong những truyện Nôm sau này, có kiểu kết cấu: Gặp gỡ - Tai biến - Lưu lạc - Đoàn viên, có nghĩa là chia ly, từ biệt rồi sẽ gặp lại, là gương vỡ có thể lành. Trước thời điểm đó, Nguyễn Dữ đã nhận thức được vấn đề rằng thực tế cuộc sống không phải như vậy, không phải mọi chuyện diễn ra có “tai biến”, “lưu lạc” rồi sẽ lại được “đoàn tụ”. Điều đó thể hiện tầm nhìn sâu rộng của Nguyễn Dữ về cuộc sống. Qua bi kịch của Trương Sinh, Nguyễn Dữ muốn nói rằng gương vỡ không thể lành, bát nước đổ đi không thể lấy lại được. Người ta cứ đi tìm hạnh phúc nhưng không biết hạnh phúc ở trong tay mình, để khi mất đi rồi, mới biết đó là hạnh phúc.
3. Ý đồ của tác giả khi để nhân vật của mình ghánh chịu những bi kịch.
- Việc xây dựng những bi kịch của Trương Sinh trong Chuyện người con gái Nam Xương đã góp phần phản ánh và tô đậm hiện thực xã hội Việt Nam thế kỷ XVI - một thời kỳ lịch sử đầy biến động.
- Là một nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lời chia sẻ, đồng cảm lớn lao và lòng cảm thông sâu sắc trước số phận con người, trước nỗi khổ của nhân dân. Thông qua việc thể hiện số phận bi kịch của người đọc có thể hình dung ra nhiều loại bi kịch với những hậu quả nghiêm trọng của nó. Bi kịch của Trương Sinh chính là những mâu thuẫn, giằng xé “chủ quan” diễn ra ngay trong chính bản thân con người, do thuộc tính nội tại của con người vì nhầm lẫn, thiếu hiểu biết, ghen tuông để rồi tự chuốc lấy sự ân hận, dằn vặt suốt cuộc đời. Quan trọng hơn, dù có rất nhiều nguyên nhân lớn nhỏ khác nhau, khách quan hay chủ quan, nhưng tất cả bi kịch đều gây ra nỗi đớn đau cho con người.
- Thông qua đó, người đọc không chỉ có thêm một góc nhìn mới về “thiên cổ kỳ bút”, về tác giả Nguyễn Dữ mà còn có thể chia sẻ, cảm thông với nỗi khổ của những người đàn ông trong chính chế độ xã hội nam quyền của họ. Mỗi con người có một nỗi đau riêng nhưng nỗi đau chung nhất vẫn là những bất hạnh trong cuộc sống tình duyên. Hạnh phúc gia đình là niềm mơ ước, là chỗ dựa vững chắc cho cả người đàn ông và người phụ nữ.
- Bên cạnh việc phản ánh hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ muốn tìm những giải pháp cho con người nói chung và người đàn ông nói riêng. Ông đã đề xuất quan niệm về hạnh phúc: Hạnh phúc thực sự là gì? Hạnh phúc tồn tại ở đâu: trên trần gian này hay miền tiên giới, cõi thiên tào hay nơi thủy cung? Vấn đề đặt ra là con người phải sống làm sao, sống thế nào mới có hạnh phúc, hạnh phúc tìm thấy ở nơi đâu và dành cho ai? Đối với người đàn ông, hạnh phúc là gì và đối với người phụ nữ như thế nào là hạnh phúc? Hạnh phúc có lúc ở ngay trước mắt, có lúc phải kiếm tìm, điều quan trọng là con người phải dám ước mơ, khao khát và nhận ra được hạnh phúc đó. Hạnh phúc thuộc về tinh thần. Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, không thể có hạnh phúc trọn vẹn.
- Qua đó, Nguyễn Dữ khuyên con người cần phải biết trân trọng những niềm vui, hạnh phúc mà mình đang có vì nó một đi không trở lại. Rộng ra là hãy biết trân trọng những giá trị của cuộc sống.
III. Kết bài.
- Khái quát, đánh giá lại ý kiến trên.
- Suy nghĩ, cảm xúc, liên hệ.
------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 15: Nhận xét cách kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: "Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời", song ý kiến khác lại khẳng định: " Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo". Hãy trình bày suy nghĩ của em về hai ý kiến trên.
GỢI Ý LÀM BÀI:
I. Mở bài.
- Dấn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài.
1. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
2. Tóm tắt kết thúc truyện.
- Không thể thanh minh, không thể giải toả được Vũ Nương đã tắm rửa chay sạch ra bến Hoàng Giang gieo mình tự vẫn. Nàng được các tiên nữ ở thuỷ cung cứu và đưa về thuỷ cung. Ở dó nàng được sống cuộc sống sung sướng. Nàng đã gặp Phan Lang, khi Phan Lang được Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế nàng đã gửi trâm cài hoa vàng về cho Trương Sinh. Nàng nhắn nhủ TS lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang nàng sẽ trở về. Phan Lang làm theo, nàng đã trở về trong võng lọng cờ hoa rực rỡ rồi nàng nói lời từ biệt và biến mất.
- Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời, bởi vì người nói đã thấy được giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm: người tốt dù có gặp bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại thanh danh và phẩm giá. Cách kết đó mang dáng dấp một kết thúc có hậu của truyện cổ tích.
3. Chứng minh làm rõ hai nhận định trên.
LĐ1. Nhận xét rằng "Truyện kết thúc có hậu, thể hiện được ước mong của con người về sự công bằng trong cuộc đời" là đúng.
- Cách kết thúc ấy gửi gắm những dụng ý, tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du và Nguyễn Dữ – những nhà nhân đạo chủ nghĩa. Vũ Nương sau một đời khổ cực, hi sinh vì chồng con, lại phải tìm đến với cái chết oan ức. Nguyễn Dữ không muốn người con gái “tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” ấy phải chịu số kiếp “hẩm hiu”. Vì thế, ông đã sáng tạo thêm phần kết thúc mang tính chất kì ảo. Vũ Nương không chết mà được sống ở động tiên dưới thuỷ cung.
- Nhà văn để cho nàng được sống những ngày tháng vui vẻ trong tình yêu thương của các nàng tiên. Sống ở đó, nàng phần nào vợi được nỗi khổ trên trần thế. Nhưng Vũ Nương là một người vợ chung thuỷ, một người mẹ hết mực yêu con. Vì vậy mà cảnh sống sung sướng, đủ đầy không làm nàng nguôi vơi đi nỗi lòng vương vấn trần thế. Nàng luôn hướng về quê hương, nhớ tới phần mộ tổ tiên, nhớ chồng, thương con. Và trong trái tim của người phụ nữ tiết hạnh ấy luôn khắc khoải, canh cánh bởi nỗi oan chưa được giải. Vì vậy việc được gặp Phan Lang với nàng là cơ hội để được minh oan, chiêu tuyết. Hình ảnh nàng xuất hiện trên sông Hoàng Giang, “trên một chiếc kiệu hoa”, với “cờ tán, võng lọng đầy sông” là lời khẳng định mạnh mẽ về tấm lòng son sắt, thuỷ chung như nhất của người con gái ấy. Dẫu khôn được trở về dương gian, nhưng với một người có tấm lòng trong trắng thì việc Vũ Nương được giải oan, không chi làm vợi bớt đi nỗi day dứt của người chồng cả ghen, đa nghi, mà còn thoả nguyện ước mong tha thiết của quần chúng có oan phải được giải oan.
LĐ2. Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái kết lung linh kì ảo, bởi ý kiến đó xuất phát từ việc nắm bắt giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Tuy nhân vật Vũ Nương vẫn được miêu tả với kiếp sống ở chốn thuỷ cung và sự trở về lung linh kì ảo để thể hiện ước mơ của con người về sự công bằng trong cuộc đời, nhưng tính bi kịch cũng tiềm ẩn ngay từ cái kết này bởi sự trở về và ước mơ hạnh phúc của Vũ Nương mang màu sắc ảo ảnh, hư vô, con người chỉ biết tìm đến cho mình hạnh phúc ở một thế giới không hiện hữu.
- Vũ Nương trở về nhưng chỉ “đứng ở giữa dòng”, “lúc ẩn, lúc hiện”. Nàng và chồng con sẽ mãi mãi chia lìa đôi ngả, âm dương cách biệt. Hạnh phúc trần thế đã vĩnh viễn rời xa nàng. Nguyễn Dữ đã ru người đọc trong cảm giác thoả mãn vì Vũ Nương được giải oan, nhưng rồi ngay lập tức kéo chúng tạ trở về thực tại. Màn sương khói huyền ảo như một giấc mơ tan đi cũng là lúc sự thật càng trở nên cay đắng, bẽ bàng. Nỗi oan của người phụ nữ không có đàn tràng nào giải nổi, dù là sự ân hận muộn màng của người chồng hay đàn cầu siêu của tôn giáo. Đó là giấc mơ, nhưng cũng là một lời tố cáo đanh thép. Nó lắng lại trong lòng ta những dư vị ngậm ngùi. Dù nó chỉ là ảo ảnh, nhưng nếu không có ảo ảnh này thì nỗi đau của người bất hạnh sẽ không được xoa dịu, trái tim người đọc sẽ mãi day dứt khôn nguôi.
=> Hai ý kiến trên tưởng chừng là mâu thuẫn, đối lập nhưng thực chất là bổ sung, soi sáng trong việc khám phá dụng ý nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Dữ, nó được xem là hai mặt của một vấn đề.
4. Đánh giá, mở rộng.
- Mỗi ý kiến trên đều xuất phát từ một góc nhìn, cách khám phá và tiếp cận ở phần kết của tác phẩm
- Lí giải cách kết thúc tác phẩm cần phải có cái nhìn toàn vẹn và những cơ sở để phát hiện ra những dụng ý mà nhà văn Nguyễn Dữ gửi gắm qua phần kết. Vì vậy, không nên tuyệt đối hoá một trong hai ý kiến trên mà cần phải thấy được sự bổ sung, thống nhất, nhằm soi sáng hai mặt của một vấn đề.
- Từ hai ý kiến trên, người đọc sẽ thấy được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Dữ trong việc “dồn nén tư tưởng và cảm xúc” ở một cái kết độc đáo.
- Từ việc tìm hiểu những ý kiến bàn về dụng ý cách kết của một tác phẩm văn học đã đặt ra trách nhiệm, vai trò cho độc giả trong quá trình tiếp cận, giải mã văn bản văn học.
III. Kết bài.
- Khái quát khẳng định lại giá trị của kết thúc truyện. Khẳng định cả 2 ý kiến đều hoàn toàn đúng, không đói lập mà bổ sung cho nhau, thể hiện tính hai mặt của một vấn đề.
- Khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn.
------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 16: Bàn về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng: “ Một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời” Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, hãy làm sáng tỏ điều đó.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dấn dắt nêu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn nhận định.
II. Thân bài
1. Giải thích vấn đề
- Chứng tích của một thời: Phản ánh được hiện thực của thời đại với những vấn đề đời sống nổi cộm, bức thiết của nó.
- Hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: Thể hiện được những vấn đề bản chất, cốt lõi của nhân sinh, những chân lí muôn đời, vượt qua giới hạn của thời đại.
- Ý kiến của Nguyễn Kiên không chỉ chia sẻ kinh nghiệm sáng tác của nhà văn mà còn nêu lên một yêu cầu cốt tử đối với nội dung truyện ngắn, nó quyết định sức sống và giá trị tư tưởng của một tác phẩm.
2. Chứng minh nhận định.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Tác phẩm là chứng tích của một thời
- Là bức tranh hiện thực xã hội phong kiến:
+ Cuộc chiến tranh phi nghĩa.
+ Tư tưởng nam quyền bất nhân tàn ác, trong nam khinh nữ.
+ Hôn nhân ép buộc, không tình yêu, mua bán không hạnh phúc.
+ Số phận bé mọn bất hạnh oan trái của người phụ nữ.
+ Quy luật hà khắc, tàn bạo cho người phụ nữ.
+ Bi kịch của người đàn ông bởi tư tưởng nam quyền.
LĐ2. Tác phẩm còn là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời.
- Thể hiện những những vấn đề muôn thuở không hề cũ:
+ Trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Xót xa trăn trở về số phận con người, người phụ nữ.
+ Tiếng nói phản kháng tố cáo những thế lực tàn bạo, những cổ tục hà khắc đẩy con người tới bát hạnh oan trái.
+ Gửi gắm trong tác phẩm những triết lý nhân sinh về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc, về niềm tin, về gia đình, về tình người…
- Nghệ thuật kể chuyện sáng tạo: vừa mang màu sắc cổ điển vừa của áng thiên cổ kỳ bút lại vừa mang trong đó màu sắc hơi hướng của thời đại.
+ Cách dựng chuyện độc đáo, sáng tạo.
+ Kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt: tự sự, trữ tình và nghị luận.
+ Khắc hoạ rõ nét nhân vật qua ngôn ngữ, hành động, suy nghĩ.
+ Sử dụng yếu tố kỳ ảo phù hợp có hiệu quả.
3. Đánh giá, mở rộng.
- “Vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời” không chỉ là yêu cầu nội dung của một truyện ngắn hay, mà còn là phẩm chất của mọi tác phẩm văn học đích thực. Vì thế văn học luôn giàu giá trị nhận thức.
- “Chứng tích của một thời” “chân lí giản dị của mọi thời” cần được gửi gắm trong nghệ thuật truyện ngắn độc đáo, ấn tượng: tình huống truyện bất ngờ, chi tiết đắt, kết cấu đặc sắc…Nhà văn phải có vốn sống phong phú, phải đào sâu tìm tòi mới có được một truyện ngắn hay như thế.
III. Kết bài
- Khái quát đánh giá lại ý kiến.
- Suy nghĩ, đánh giá về thành công của tác phẩm, liên hệ.
-------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 17: Có ý kiến cho rằng: Cuộc sống trong tác phẩm văn học có cả cái đẹp, cái nên thơ lẫn niềm đau và nước mắt.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích được ý kiến
- Cái đẹp, nên thơ: là niềm vui, hạnh phúc, là những điều đẹp đẽ.
- Niềm đau và nước mắt: là những khổ đau, cay đắng bất hạnh trong cuộc đời.
- Tác phẩm văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống với tất cả mọi chiều, vừa có những hạnh phúc vừa có những đau khổ bất tận, vừa có nụ cười tươi vui vừa có giọt nước mắt đắng cay.
2. Chứng minh qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Cuộc sống tuyệt vời với cái đẹp, cái nên thơ chính là những giá trị tốt đẹp của cuộc sống: là lòng yêu thương, thủy chung, hiếu thảo, giàu lòng tự trọng, nhân hậu vị tha của Vũ Nương; là nỗi oan được giải, được trở về của nàng.
* Vũ Nương là người vợ thuỷ chung, son sắt
- Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
- Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.” Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
- Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
- Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
- Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
* Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng
- Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.
- Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
* Vũ Nương còn là một người mẹ hiền giàu tình yêu thương con.
- Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ: để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.
* Nàng còn là người phụ nữ giàu lòng vị tha.
- Dù biết cuộc đời của mình bạc bẽo, hạnh phúc đỗ vỡ, nhân cách bị chà đạp là vì chồng nhưng nàng không một chút oán hận. Nàng vẫn luôn mong được trở về sống bên chồng con, vẫn hiện về gặp chồng nói lời tạ từ.
=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
LĐ2. Cuộc sống với niềm đau và nước mắt trong tác phẩm là thói ghen tuông mù quáng, gia trưởng của Trương Sinh, là tất cả những bi kịch của một người phụ nữ, của một gia đình, một cuộc đời oan khuất, bất hạnh của Vũ Nương.
- Chôn vùi tuổi xuân trong cuộc hôn nhân không có tình yêu:
+ Xinh đẹp, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng chỉ vì nghèo khó mà cha mẹ gả cho con nhà hào phú lắm tiền nhưng thiếu tình yêu.
+ Luôn bị chồng phòng ngừa quá mức, vẫn phải nhịn nhục để không bất hòa.
- Luôn phải chịu gánh nặng gia đình:
+ Một mình nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già đau ốm.
+ Một mình lo tang, ma chay khi mẹ mất không có ai san sẻ, động viên.
- Bị nghi oan và đối xử tệ bạc:
+ Thời gian xa chồng, một mình nuôi con, nàng những mong muốn chồng về sẽ vỗ về, an ủi động viên nhưng chồng nghe lười đứa trẻ mà sinh ra nghi ngờ, đối xử tàn nhẫn, chửi mắng, đánh đập nàng, mặc cho hàng xóm khuyên can.
+ Mặc cho Vũ Nương can ngăn thanh minh ( là con kẻ khó được nương tựa nhà giàu) thế nhưng Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai những lời hết sức chân tình của nàng.
- Phải chịu cái chết oan nghiệt:
+ Vũ Nương để biện minh cho mình đành phải tự vẫn ở sông Hoàng Giang để chứng minh danh tiết, trở thành nạn nhân của thói quen ghen tuông mù quáng.
+ Cái chết cho thấy Vũ Nương bị đẩy đến bước đương cùng không còn lối thoát, do sự thô bạo của kẻ hào phú, ít học mà đồng tiến làm đen thói đời.
+ Cái chết của Vũ Nương khiến bé Đản thành đứa bé mồ côi, Trương Sinh là kẻ góa vợ day dứt trong nỗi ân hận, dày vò lương tâm.
+ Phản ánh quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công ngang trái.
+ Số phận của Vũ Nương cũng là số phận của biết bao người phụ nữ lúc bấy giờ thấp cổ bé họng, luôn chịu oan ức và khổ hạnh.
LĐ3. Cuộc sống với niềm đau và nước mắt trong tác phẩm còn là sự trở về trong chốc lát còn ra đi là mãi mãi.
- Mong ước khát khao được sống bên chồng con của Vũ Nương không thể toại nguyện. Cuộc sống ở thuỷ cung dù lung linh sung tcs nàng cũng không nguôi nhớ chồng con.
- Nàng mong được trở về nhìn mặt chồng con lần cuối để an ủi phần nào cho nổi đau của mình. Nguyễn Dữ đã cho Vũ Nương trở về lung linh trên đàn giải oan được Trương Sinh chuẩn bị. Điều đó an ủi phần nào cho cái chết oan nghiệt của nàng.
- Song cho dù nàng trở về có lung linh bao nhiêu thì cũng chỉ trong chốc lát không thể thoả mong ước khát khao của một người phụ nữ cả đời cho gia đình. Rồi cũng phải từ biệt dương thế. Thế giới này vẫn không có chổ cho nàng, không giành cho người phụ nữ hiền thục thuỷ chung hiếu thảo như nàng! Không nước mắt sao được! Sự trở về chỉ là chốc lát còn ra đi là mãi mãi. Điều đó là nổi đau là nước mất là sự thật!
3. Đánh giá, mở rộng
- Nguyễn Dữ trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, thấu hiểu, thương cảm cho số phận oan nghiệt của họ trong xã hội phong kiến.
- Để người đọc yêu thương trận trọng, xót xa cho nhân vật của mình, Nguyễn Dữ phải là người có ngòi bút truyền kì điêu luyện.
- Thông điệp mà Nguyễn Dữ để lại có giá trị vượt thời gian: Đó là bài học về gìn giữ hạnh phúc gia đình…
III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận, giá trị của tác phẩm.
- Liên hệ, rút ra bài học.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 18: Bàn về sứ mệnh của người cầm bút, Ai-ma-tốp cho rằng: Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, hãy làm sáng tỏ ý kiến đó.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích ý kiến
- Ý kiến của nhà văn Ai-ma-tốp khẳng định sứ mệnh của nhà văn là thông qua tác phẩm của mình phải khơi gợi được những tình cảm nhân văn tốt đẹp ở người đọc như: sự đồng cảm với cảnh ngộ của con người, lay thức những tình cảm yêu thương, sự thấu hiểu chia sẻ hay sự bất bình, lên án, phê phán, đấu tranh với cái xấu, cái ác để bênh vực cái tốt, cái đẹp, cái lương thiện…
- Đề cao sứ mệnh cao cả của văn chương là cảm hoá, nhân đạo hoá con người. Đó cũng là những giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc, cao đẹp làm nên sức sống trường tồn cho tác phẩm mà người nghệ sĩ chân chính nào cũng muốn hướng tới.
2. Phân tích, chứng minh qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1. Với Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả Nguyễn Dữ đã khơi dậy trong lòng người đọc nỗi niềm cảm thương trước thân phận bất hạnh, oan ức của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
(dẫn chứng)
LĐ2. Tác phẩm gợi lên trong người đọc, người nghe nỗi bất bình, sự căm phẫn đối với xã hội phong kiến nam quyền độc đoán đã dồn đẩy người phụ nữ tới tận cùng đau khổ, bất hạnh.
(dẫn chứng)
LĐ3. Thông qua tác phẩm, tác giả cũng khơi lên khát vọng bênh vực, bảo vệ, mong ước hạnh phúc cho người phụ nữ.
(dẫn chứng)
3. Đánh giá, mở rộng
- Thông qua nghệ thuật xây dựng, khắc hoạ nhân vật ; cốt truyện có kịch tính, sự đan xen yếu tố thực và yếu tố truyền kì, tác phẩm đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, lay thức những tình cảm nhân văn tốt đẹp, « gây cho ta những tình cảm ta chưa có, luyện những tình cảm ta sẵn có » (Hoài Thanh)
- Tác phẩm là tiếng nói của tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Thông qua tác phẩm, nhà văn Nguyễn Dữ đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tư tưởng tiến bộ : bênh vực người phụ nữ. Chính tấm lòng và tư tưởng đó của ông đã là cầu nối đến với trái tim của bạn đọc, khơi gợi những rung động mãnh liệt, những tình cảm nhân văn sâu sắc trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ.
- Khẳng định sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ là làm cầu nối yêu thương của văn chương với cuộc đời. Đồng thời khẳng định sức sống trường tồn của một tác phẩm văn học chính là những cảm xúc, tình cảm, tư tưởng tốt đẹp, tích cực, nhân ái mà tác phẩm, tác giả đã gieo vào trong tâm trí của người đọc.
III. Kết bài
- Khẳng định lại ý kiến, đánh gia ssuwj thành cocong của tác phẩm.
- Suy nghĩ, liên hệ rút ra bài học.
--------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 19: Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. (Tiếng nói của văn nghệ, Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9, tập 2, NXBGD, 2005)
Qua việc cảm nhận (có chọn lọc) tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và đoạn trích Làng của Kim lân, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý LÀM BÀI
I. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Trích dẫn ý kiến, đề cập tác phẩm sẽ chứng minh.
II. Thân bài
1. Giải thích
- Tác phẩm văn nghệ nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại: Văn học luôn soi bóng thời đại mà nó ra đời, văn học phản ánh hiện thực, nhà văn không thể ngồi trong tháp ngà nghệ thuật mà luôn luôn phải va chạm với cuộc đời, sống cùng cuộc đời để có những chất liệu sáng tác.
- Nhưng hiện thực trong tác phẩm văn học không ngồn ngộn như trong cuộc đời thật, nhà văn sẽ như côn trùng dùng cái râu của mình để thăm dò không khí thời đại như ý kiến của nhà văn Nguyễn Minh Châu nên sẽ phản ánh hiện thực ở lát cắt bản chất nhất, từ đó nêu lên những trăn trở, suy tư của mình về con người và cuộc đời.
- Nhà văn luôn ghi lại một điều gì mới mẻ: đó là tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ.
=> Ý kiến cho thấy bản chất của văn học là phản ánh cuộc sống nhưng để đem đến những ý nghĩa, những tiếng nói cá nhân của tác giả. Từ đó tác động vào tâm hồn người đọc, tạo ra cái nhìn đối thoại.
2. Phân tích, chứng minh qua tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương.
a. Khái quát tác giả, tác phẩm
- Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
- "Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
b. Chứng minh
LĐ1.Tác phẩm phản ánh hiện thực cuộc đời
- Chuyện người con gái Nam Xương là hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI: là cuộc chiến tranh phi nghhiax tranh giành quyền lực, là những cổ tục trọng nam khinh nữ, là cuộc sống …
LĐ2. Điều mới mẻ mà Nguyễn Dữ đem đến cho người đọc là lời ngợi ca những phẩm chất tốt đệp của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương.
- Thùy mị, nết na:
+ Dù bị phòng ngừa quá mức nhưng vẫn biết giữ gìn khuôn phép để gia đình yên ấm
- Thủy chung:
+ Không mong chồng trở về mang ấn phong hầu. quan to chức lớn mà chỉ mong hai chữ bình yên. Thời gian xa chồng, luôn nhớ về chồng da diết, thương chồng thiếu thốn nơi chến trận ác liệt.
+ Một lòng một dạ đợi chờ chồng, nuôi con. Nơi ngõ liễu tường hoa, chưa hề bén gót, việc tô son điểm phấn, đã từng nguôi lòng.
+ Những đêm côi cút một mình càng mong nhớ, chỉ biết tâm sự với con : Chỉ bóng mình trên vách, nói với con đó là cha Đản.
- Đảm đang hiếu thảo:
+ Nuôi con nhỏ. chăm sóc mẹ già khi ốm đau ( Lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, thuốc thang lễ bái, khi mẹ chồng chết lo tang lễ bái chu đáo như cha mẹ đẻ)
+ Đó là cử chỉ dịu dàng, đáng mến, xuất phát từ cái tâm trong sáng, hiền lành, từ lương tâm, trách nhiệm mỗi người có hiếu và biết đạo làm con.
- Giàu lòng vị tha:
+ Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức mà không hề oán trách, hận thù.
+ Thấy Phan Lang kể về gia đình, vẫn thương nhớ chồng con và muốn tìm về gặp mặt.
+ Khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông thì vẫn hiện về ơ lời nói “ Đa tạ tình chàng”..
Tuy chỉ là chi tiết kì ảo, hoang đường nhuốm màu sắc thần thoại nhưng tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu để ca ngơin Vũ Nương- một người phụ nữ thật là đức hạnh, nhân từ, biết hi sinh bản thân mình cho người khác mà không hề đòi quyền lợi.
LĐ2. Điều mới mẻ mà Nguyễn Dữ muốn gửi đến người độc còn là tiếng nói về thân phận, cuộc đời cbất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa và thái độ của nhà văn trước những cuộc đời bất hạnh, số phận oan nghiệt ấy.
- Chôn vùi tuổi xuân trong cuộc hôn nhân không có tình yêu:
+ Xinh đẹp, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng chỉ vì nghèo khó mà cha mẹ gả cho con nhà hào phú lắm tiền nhưng thiếu tình yêu.
+ Luôn bị chồng phòng ngừa quá mức, vẫn phải nhịn nhục để không bất hòa.
- Luôn phải chịu gánh nặng gia đình:
+ Một mình nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già đau ốm.
+ Một mình lo tang, ma chay khi mẹ mất không có ai san sẻ, động viên.
- Bị nghi oan và đối xử tệ bạc:
+ Thời gian xa chồng, một mình nuôi con, nàng những mong muốn chồng về sẽ vỗ về, an ủi động viên nhưng chồng nghe lười đứa trẻ mà sinh ra nghi ngờ, đối xử tàn nhẫn, chửi mắng, đánh đập nàng, mặc cho hàng xóm khuyên can.
+ Mặc cho Vũ Nương can ngăn thanh minh ( là con kẻ khó được nương tựa nhà giàu) thế nhưng Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai những lời hết sức chân tình của nàng.
- Phải chịu cái chết oan nghiệt:
+ Vũ Nương để biện minh cho mình đành phải tự vẫn ở sông Hoàng Giang để chứng minh danh tiết, trở thành nạn nhân của thói quen ghen tuông mù quáng.
+ Cái chết cho thấy Vũ Nương bị đẩy đến bước đương cùng không còn lối thoát, do sự thô bạo của kẻ hào phú, ít học mà đồng tiến làm đen thói đời.
+ Cái chết của Vũ Nương khiến bé Đản thành đứa bé mồ côi, Trương Sinh là kẻ góa vợ day dứt trong nỗi ân hận, dày vò lương tâm.
+ Phản ánh quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công ngang trái.
+ Số phận của Vũ Nương cũng là số phận của biết bao người phụ nữ lúc bấy giờ thấp cổ bé họng, luôn chịu oan ức và khổ hạnh.
- Tình cảm nhân đạo của tác giả: đau xót, cảm thông chia sẽ với nổi đau bất hạnh của người phụ nữ.
LĐ3. Điều mới mẻ trong tác phẩm mà Nguyễn Dữ muốn gửi đến bạn đọc nữa chính là lời tố cáo phản kháng xã hội phong kiến với những cổ tục đày đoạ coi thường nhân phẩm, thân phận người phụ nữ.
3. Đánh giá, mở rộng
- Những điều mới mẻ là sức hấp dẫn của văn chương. Nhà văn lớn trước hết phải là nhà tư tưởng lớn.
- Bài học sáng tạo: nhà văn phải đi vào cuộc đời thực, phải sống rồi mới viết.
- Bài học tiếp nhận: nâng tầm đón nhận lên để hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả.
-------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ SỐ 20:
===========================HẾT==========================
THẦY CÔ TẢI NHÉ!