- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,146
- Điểm
- 113
tác giả
TUYỂN TẬP Tài liệu ôn tập ngữ văn 9 theo chuyên đề (word + ppt) được soạn dưới dạng file word, PPTX gồm các file trang. Các bạn xem và tải tài liệu ôn tập ngữ văn 9 theo chuyên đề về ở dưới.
I. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC/ CHỨNG TÍCH MỘT THỜI/ DẤU ẤN THỜI ĐẠI
- Phản ánh hiện thực xã hội nam quyền độc đoán, phi lí, bất công:
Dung túng cho một kẻ gia trưởng, vũ phu với tư tưởng "trọng nam khinh nữ"
Sự ghen tuông của Trương Sinh rất mù quáng, thiếu căn cứ, bỏ ngoài tai lời can ngăn của vợ, xóm làng (thiếu hiểu biết).
Sự ghen tuông của người chồng là hệ quả của xã hội đương thời với tư tưởng lạc hậu
-Tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến gia đình ly tán, vợ chồng hiểu lầm, khiến cho người dân phải chết rất nhiều. "nhiều người chạy trốn ra ngoài bể, thuyền đắm, tất cả đều chết đuối hết".
II. GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO.
Tác giả hết lời ca ngợi vẻ đẹp/ hạt ngọc tiềm ẩn của con người / chân lí của mọi thời đại qua vẻ đẹp của Vũ Nương, một phụ nữ bình dân
- Ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất tâm hồn
+ Vũ Nương là con nhà nghèo: “thiếp vốn con nhà khó”, đó là cái nhìn người khá đặc biệt của tư tưởng nhân văn Nguyễn Dữ.
+ Nàng có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: thuỳ mị, nết na. Đối với chồng rất mực dịu dàng, đằm thắm thuỷ chung; đối với mẹ chồng rất mực hiếu thảo, hết lòng phụ dưỡng; đối với con rất mực yêu thương.
- Đặc biệt, một biểu hiện rõ nhất về cảm hứng nhân văn, nàng là nhân vật để tác giả thể hiện khát vọng về con người, về hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa:
Nàng luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình.
Khi chia tay chồng đi lính, không mong chồng lập công hiển hách để được “ấn phong hầu”, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về.
Lời thanh minh với chồng khi bị nghi oan cũng thể hiện rõ khát vọng đó: “Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất”
=> Dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn đã xuất hiện nhiều trong văn chương, Nguyễn Dữ mới có thể xây dựng một nhân vật phụ nữ bình dân mang đầy đủ vẻ đẹp của con người. Nhân văn là đại diện cho tiếng nói nhân văn của tác giả.
( Chân lí giản đơn của mọi thời đại: Thêm ý: Ước mơ về công lí : VN được cứu sống, Trở về để giải oan)
2. Nguyễn Dữ trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nương bao nhiêu thì càng đau đớn trước bi kịch cuộc đời của nàng bấy nhiêu
- Đau đớn vì nàng có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tụy vun đắp cho hạnh phúc đó lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hy sinh của nàng:
Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ (Người chồng chỉ dựa vào câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã khăng khăng kết tội vợ).
Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng “Nay đã bình rơi trâm gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió… cái én lìa đàn…” mà người chồng vẫn không động lòng.
Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất.
3. Nhưng với tấm lòng yêu thương con người, tác giả không để cho con người trong sáng cao đẹp như nàng đã chết oan khuất
Mượn yếu tố kì ảo của thể loại truyền kỳ, diễn tả Vũ Nương trở về để được rửa sạch nỗi oan giữa thanh thiên bạch nhật, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa.
Nhưng Vũ Nương được tái tạo khác với các nàng tiên siêu thực: nàng vẫn khát vọng hạnh phúc trần thế (ngậm ngùi, tiếc nuối, chua xót khi nói lời vĩnh biệt “thiếp chẳng thể về với nhân gian được nữa”.
Hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực vẫn quá đau đớn (hạnh phúc gia đình tan vỡ, không gì hàn gắn được).
4. Với niềm xót thương sâu sắc đó, tác giả lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người
Xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu…) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu.
Thế lực đồng tiền bạc ác (Trương Sinh con nhà hào phú, một lúc bỏ ra 100 lạng vàng để cưới Vũ Nương). Thời này đạo lí đã suy vi, đồng tiền đã làm đen bạc tình nghĩa con người. Nguyễn Dữ tái tạo truyện cổ Vợ chàng Trương, cho nó mang dáng dấp của thời đại ông, xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI.
BI KỊCH VÀ KHÁT VỌNG MUÔN THUỞ CỦA CON NGƯỜI
1. Giải thích, lí luận:
- Bi kịch:
- Khát vọng:
- Bi kịch và khát vọng luôn có mối quan hệ với nhau. Càng đau khổ, con người càng có khát vọng vươn lên trên đau khổ.
2. Chứng minh:
a.Cuộc đời, số phận của Vũ Nương là một bi kịch
. -Bi kịch của cuộc hôn nhân không bình đẳng
- Đó là bi kịch của lòng ghen tuông do tính.
-> Dân chứng: Khi lấy chồng VN sống khuôn phép, gò bó…
Cuộc sống gia đình của Vũ Nương ngay từ đầu đã ẩn chứa mầm mống bi kịch ( dẫn chứng và phân tích).
+ VN phải giữ gìn khuôn phép, sống không có tự do, thiếu sự che chở và cảm thông của chồng. Đó là bi kịch
- Đó là bi kịch của chiến tranh phi nghĩa: Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương phải một mình chịu gánh nặng gia đình và sống trong cảnh cô đơn, buồn nhớ chồng (dẫn chứng và phân tích). Đó là bi kịch
- Đó là bi kịch của lòng ghen tuông mù quáng: Ngày Trương Sinh trở về, Vũ Nương bị vu oan và chịu sự đối xử tệ bạc (dẫn chứng và phân tích).
- Cuối cùng Vũ Nương chịu cái chết oan ngiệt.
- Khi cuộc sống ở thủy cung: VN vẫn mang theo bi kịch về long thủy chung, son sắt. Đó chỉ là cuộc sống chốn làng mây cung nước hoàn toàn cách biệt, nàng vẫn mãi mãi cách biệt với quê hương, chồng con…
Æ Đánh giá tư tưởng của nhà văn: Phê phán, lên án, tố cáo…
Ng nhân bi kịch
+ Nguyên nhân trực tiếp:
-Do sự hiểu lầm từ nhiều cái ngẫu nhiên: chiến tranh, cha con xa cách nên ngày trở về con không nhận cha, còn nói những lời thơ ngây về một người cha khác khiến Trương Sinh hiểu lầm.
+ Nguyên nhân sâu xa:
-Do Trương Sinh gia trưởng, thất học, đa nghi, độc đoán, vũ phu, ghen tuông mù quáng.
-Do chế phong kiến phụ quyền bất bình đẳng đã tạo cho Trương Sinh cái thế của kẻ giàu có bên cạnh cái thế của người đàn ông gia trưởng.
-Do chiến tranh phong kiến.
->Vũ Nương phải chọn cái chết để chứng minh cho tiết hạnh, thủy chung chính là bi kịch đau đớn của số phận cuộc đời nàng. Kết thúc truyện , nàng dù có được trở về dương thế nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc. Nàng không bao giờ có được hạnh phúc gia đình trọn vẹn ở cõi người.
b. Dù sống trong bi kịch Vũ Nương vẫn ủ ấp khát vọng về hạnh phúc gia đình- một khát vọng bình dị cần có và nên có.
- Đó là khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc:
-> Dẫn chứng: Nàng sống khuôn phép là để giữ gìn, nâng niu, bảo vệ hạnh phúc gia đình, đó cũng là khát vọng của người phụ nữ nói chung.
- Đó là khát vọng được sum vầy, đoàn tụ
-> Dẫn chứng: Nàng chỉ bóng mình in trên vách tường và nói đó là cha của Đản….phân tích
-Vũ Nương theo đuổi và tạo dựng khát vọng ấy trong cõi sống. Nàng chỉ mong được cùng chồng vun đắp hạnh phúc gia đình bình yên, khao khát cảnh vợ chồng, cha con được đoàn tụ khi chiến tranh gây xa cách.
( Nêu dẫn chứng và phân tích xoay quanh những hành động, lời nói của nàng lúc chia tay chồng đi lính “chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”, những lúc “ ngày thường ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo cha Đản”, khi khẳng định với Trương Sinh “ thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì cái thú vui nghi gia nghi thất...”)
-Vũ Nương vẫn không nguôi quên và tha thiết với gia đình cả khi ở dưới thủy cung ( Dẫn chứng và phân tích cụ thể lời của Vũ Nương nói với Phan Lang “ Vả chăng ngựa hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy , tôi tất tìm về có ngày”, ở hành động trở về dương thế, nói lời chia biệt với Trương Sinh “ Đa tạ tình chàng nhưng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa’...).
-Kết thúc truyện, Vũ Nương và chồng con vẫn âm dương cách trở, hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn nhưng khát vọng hạnh phúc gia đình vẫn tha thiết không nguôi.
* Trong bi kịch, Vũ Nương khao khát được minh oan, được bảo toàn danh dự, được lẽ công bằng soi tỏ ( Dẫn chứng và phân tích lời cầu xin chồng “ Dám xin bày tỏ để cởi bỏ mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”, ở lời than với thần sông trước khi chết “ ...thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết , trinh bạch gìn lòng, vào nước làm xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu mĩ...”, ở sự lựa chọn cái chết.)
Æ Đánh giá tư tưởng của nhà văn: ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, là cảm thông, chia sẻ…là bảo vệ, đề cao khát vọng…
Đánh giá chung:
- Nhân vật Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Ở họ hội tụ đáng quý nhưng cuộc đời , số phận của họ đầy bi kịch. Nguyễn Dữ đã thể hiện sự thấu hiểu , đồng cảm với người phụ nữ và bộc lộ thái độ bênh vực họ khi phản ảnh cái hiện thực bất công đó.
- Khát vọng của Vũ Nương không chỉ là của người phụ nữ xưa mà còn là khát vọng của người phụ nữ ở mọi thời đại. Qua đó Nguyễn Dữ đã lên tiếng đấu tranh đòi quyền sống, quyền được hạnh phúc xứng đáng cho họ.
- Ngth: Cái tài của nhà văn là đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn với chi tiết thắt nút, mở nút, cách xây dựng và miêu tả tâm lí, tích cách nhân vật đặc sắc….
PASS GIẢI NÉN: yopo.VN
THẦY CÔ TẢI FILE ĐÍNH KÈM!
NỘI DUNG ÔN LUYỆN VÒNG 2 - QUẬN
CHUYÊN ĐỀ: VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
TÁC PHẨM: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG (Nguyễn Dữ)
CHUYÊN ĐỀ: VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
TÁC PHẨM: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG (Nguyễn Dữ)
I. GIÁ TRỊ HIỆN THỰC/ CHỨNG TÍCH MỘT THỜI/ DẤU ẤN THỜI ĐẠI
- Phản ánh hiện thực xã hội nam quyền độc đoán, phi lí, bất công:
Dung túng cho một kẻ gia trưởng, vũ phu với tư tưởng "trọng nam khinh nữ"
Sự ghen tuông của Trương Sinh rất mù quáng, thiếu căn cứ, bỏ ngoài tai lời can ngăn của vợ, xóm làng (thiếu hiểu biết).
Sự ghen tuông của người chồng là hệ quả của xã hội đương thời với tư tưởng lạc hậu
-Tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến gia đình ly tán, vợ chồng hiểu lầm, khiến cho người dân phải chết rất nhiều. "nhiều người chạy trốn ra ngoài bể, thuyền đắm, tất cả đều chết đuối hết".
II. GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO.
Tác giả hết lời ca ngợi vẻ đẹp/ hạt ngọc tiềm ẩn của con người / chân lí của mọi thời đại qua vẻ đẹp của Vũ Nương, một phụ nữ bình dân
- Ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất tâm hồn
+ Vũ Nương là con nhà nghèo: “thiếp vốn con nhà khó”, đó là cái nhìn người khá đặc biệt của tư tưởng nhân văn Nguyễn Dữ.
+ Nàng có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: thuỳ mị, nết na. Đối với chồng rất mực dịu dàng, đằm thắm thuỷ chung; đối với mẹ chồng rất mực hiếu thảo, hết lòng phụ dưỡng; đối với con rất mực yêu thương.
- Đặc biệt, một biểu hiện rõ nhất về cảm hứng nhân văn, nàng là nhân vật để tác giả thể hiện khát vọng về con người, về hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa:
Nàng luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình.
Khi chia tay chồng đi lính, không mong chồng lập công hiển hách để được “ấn phong hầu”, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về.
Lời thanh minh với chồng khi bị nghi oan cũng thể hiện rõ khát vọng đó: “Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất”
=> Dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn đã xuất hiện nhiều trong văn chương, Nguyễn Dữ mới có thể xây dựng một nhân vật phụ nữ bình dân mang đầy đủ vẻ đẹp của con người. Nhân văn là đại diện cho tiếng nói nhân văn của tác giả.
( Chân lí giản đơn của mọi thời đại: Thêm ý: Ước mơ về công lí : VN được cứu sống, Trở về để giải oan)
2. Nguyễn Dữ trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nương bao nhiêu thì càng đau đớn trước bi kịch cuộc đời của nàng bấy nhiêu
- Đau đớn vì nàng có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tụy vun đắp cho hạnh phúc đó lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hy sinh của nàng:
Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ (Người chồng chỉ dựa vào câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã khăng khăng kết tội vợ).
Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng “Nay đã bình rơi trâm gãy,… sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió… cái én lìa đàn…” mà người chồng vẫn không động lòng.
Con người trong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất.
3. Nhưng với tấm lòng yêu thương con người, tác giả không để cho con người trong sáng cao đẹp như nàng đã chết oan khuất
Mượn yếu tố kì ảo của thể loại truyền kỳ, diễn tả Vũ Nương trở về để được rửa sạch nỗi oan giữa thanh thiên bạch nhật, với vẻ đẹp còn lộng lẫy hơn xưa.
Nhưng Vũ Nương được tái tạo khác với các nàng tiên siêu thực: nàng vẫn khát vọng hạnh phúc trần thế (ngậm ngùi, tiếc nuối, chua xót khi nói lời vĩnh biệt “thiếp chẳng thể về với nhân gian được nữa”.
Hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực vẫn quá đau đớn (hạnh phúc gia đình tan vỡ, không gì hàn gắn được).
4. Với niềm xót thương sâu sắc đó, tác giả lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người
Xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu…) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu.
Thế lực đồng tiền bạc ác (Trương Sinh con nhà hào phú, một lúc bỏ ra 100 lạng vàng để cưới Vũ Nương). Thời này đạo lí đã suy vi, đồng tiền đã làm đen bạc tình nghĩa con người. Nguyễn Dữ tái tạo truyện cổ Vợ chàng Trương, cho nó mang dáng dấp của thời đại ông, xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI.
BI KỊCH VÀ KHÁT VỌNG MUÔN THUỞ CỦA CON NGƯỜI
1. Giải thích, lí luận:
- Bi kịch:
- Khát vọng:
- Bi kịch và khát vọng luôn có mối quan hệ với nhau. Càng đau khổ, con người càng có khát vọng vươn lên trên đau khổ.
2. Chứng minh:
a.Cuộc đời, số phận của Vũ Nương là một bi kịch
. -Bi kịch của cuộc hôn nhân không bình đẳng
- Đó là bi kịch của lòng ghen tuông do tính.
-> Dân chứng: Khi lấy chồng VN sống khuôn phép, gò bó…
Cuộc sống gia đình của Vũ Nương ngay từ đầu đã ẩn chứa mầm mống bi kịch ( dẫn chứng và phân tích).
+ VN phải giữ gìn khuôn phép, sống không có tự do, thiếu sự che chở và cảm thông của chồng. Đó là bi kịch
- Đó là bi kịch của chiến tranh phi nghĩa: Khi Trương Sinh đi lính, Vũ Nương phải một mình chịu gánh nặng gia đình và sống trong cảnh cô đơn, buồn nhớ chồng (dẫn chứng và phân tích). Đó là bi kịch
- Đó là bi kịch của lòng ghen tuông mù quáng: Ngày Trương Sinh trở về, Vũ Nương bị vu oan và chịu sự đối xử tệ bạc (dẫn chứng và phân tích).
- Cuối cùng Vũ Nương chịu cái chết oan ngiệt.
- Khi cuộc sống ở thủy cung: VN vẫn mang theo bi kịch về long thủy chung, son sắt. Đó chỉ là cuộc sống chốn làng mây cung nước hoàn toàn cách biệt, nàng vẫn mãi mãi cách biệt với quê hương, chồng con…
Æ Đánh giá tư tưởng của nhà văn: Phê phán, lên án, tố cáo…
Ng nhân bi kịch
+ Nguyên nhân trực tiếp:
-Do sự hiểu lầm từ nhiều cái ngẫu nhiên: chiến tranh, cha con xa cách nên ngày trở về con không nhận cha, còn nói những lời thơ ngây về một người cha khác khiến Trương Sinh hiểu lầm.
+ Nguyên nhân sâu xa:
-Do Trương Sinh gia trưởng, thất học, đa nghi, độc đoán, vũ phu, ghen tuông mù quáng.
-Do chế phong kiến phụ quyền bất bình đẳng đã tạo cho Trương Sinh cái thế của kẻ giàu có bên cạnh cái thế của người đàn ông gia trưởng.
-Do chiến tranh phong kiến.
->Vũ Nương phải chọn cái chết để chứng minh cho tiết hạnh, thủy chung chính là bi kịch đau đớn của số phận cuộc đời nàng. Kết thúc truyện , nàng dù có được trở về dương thế nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc. Nàng không bao giờ có được hạnh phúc gia đình trọn vẹn ở cõi người.
b. Dù sống trong bi kịch Vũ Nương vẫn ủ ấp khát vọng về hạnh phúc gia đình- một khát vọng bình dị cần có và nên có.
- Đó là khát vọng về một cuộc sống hạnh phúc:
-> Dẫn chứng: Nàng sống khuôn phép là để giữ gìn, nâng niu, bảo vệ hạnh phúc gia đình, đó cũng là khát vọng của người phụ nữ nói chung.
- Đó là khát vọng được sum vầy, đoàn tụ
-> Dẫn chứng: Nàng chỉ bóng mình in trên vách tường và nói đó là cha của Đản….phân tích
-Vũ Nương theo đuổi và tạo dựng khát vọng ấy trong cõi sống. Nàng chỉ mong được cùng chồng vun đắp hạnh phúc gia đình bình yên, khao khát cảnh vợ chồng, cha con được đoàn tụ khi chiến tranh gây xa cách.
( Nêu dẫn chứng và phân tích xoay quanh những hành động, lời nói của nàng lúc chia tay chồng đi lính “chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”, những lúc “ ngày thường ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo cha Đản”, khi khẳng định với Trương Sinh “ thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì cái thú vui nghi gia nghi thất...”)
-Vũ Nương vẫn không nguôi quên và tha thiết với gia đình cả khi ở dưới thủy cung ( Dẫn chứng và phân tích cụ thể lời của Vũ Nương nói với Phan Lang “ Vả chăng ngựa hồ gầm gió Bắc, chim Việt đậu cành Nam. Cảm vì nỗi ấy , tôi tất tìm về có ngày”, ở hành động trở về dương thế, nói lời chia biệt với Trương Sinh “ Đa tạ tình chàng nhưng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa’...).
-Kết thúc truyện, Vũ Nương và chồng con vẫn âm dương cách trở, hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn nhưng khát vọng hạnh phúc gia đình vẫn tha thiết không nguôi.
* Trong bi kịch, Vũ Nương khao khát được minh oan, được bảo toàn danh dự, được lẽ công bằng soi tỏ ( Dẫn chứng và phân tích lời cầu xin chồng “ Dám xin bày tỏ để cởi bỏ mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”, ở lời than với thần sông trước khi chết “ ...thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết , trinh bạch gìn lòng, vào nước làm xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu mĩ...”, ở sự lựa chọn cái chết.)
Æ Đánh giá tư tưởng của nhà văn: ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, là cảm thông, chia sẻ…là bảo vệ, đề cao khát vọng…
Đánh giá chung:
- Nhân vật Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Ở họ hội tụ đáng quý nhưng cuộc đời , số phận của họ đầy bi kịch. Nguyễn Dữ đã thể hiện sự thấu hiểu , đồng cảm với người phụ nữ và bộc lộ thái độ bênh vực họ khi phản ảnh cái hiện thực bất công đó.
- Khát vọng của Vũ Nương không chỉ là của người phụ nữ xưa mà còn là khát vọng của người phụ nữ ở mọi thời đại. Qua đó Nguyễn Dữ đã lên tiếng đấu tranh đòi quyền sống, quyền được hạnh phúc xứng đáng cho họ.
- Ngth: Cái tài của nhà văn là đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn với chi tiết thắt nút, mở nút, cách xây dựng và miêu tả tâm lí, tích cách nhân vật đặc sắc….
PASS GIẢI NÉN: yopo.VN
THẦY CÔ TẢI FILE ĐÍNH KÈM!