Chào mừng!

ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN MỚI TẢI ĐƯỢC TÀI LIỆU! Đăng ký ngay!

KHÁCH VÀ THÀNH VIÊN CÓ THỂ TẢI MIỄN PHÍ HƯỚNG DẪN ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN VÀ TẢI » THƯ MỤC MIỄN PHÍYOPOVN
ĐĂNG KÝ NÂNG CẤP THÀNH VIÊN VIP ĐĂNG KÝ NÂNG CẤP THÀNH VIÊN VIP » ĐĂNG KÝ NGAYĐĂNG KÝ NÂNG CẤP THÀNH VIÊN VIP

Yopovn

Ban quản trị Team YOPO
Thành viên BQT
Tham gia
28/1/21
Bài viết
84,405
Điểm
113
tác giả
GIÁO ÁN GDDP LỚP 8 HÀ NỘI: TIẾT 5: Chủ đề 2: Một số danh nhân nổi tiếng Hà Nội xưa được soạn dưới dạng file word gồm 25 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
TIẾT 5:

Chủ đề 2: Một số danh nhân nổi tiếng Hà Nội xưa.

I. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT

1. Kiến thức:

- Nhận biết và kể tên được một số danh nhân tiêu biểu của thủ đô Hà Nội từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVIII.

- Trình bày được một số hoạt động đề cao truyền thống của người dân thủ đô từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVIII đối với các danh nhân.

2. Năng lực

- Bồi dưỡng kĩ năng, việc làm để phát huy truyền thống hiếu học.

3. Phẩm chất:

- Có ý thức giữ gìn bảo vệ và phát huy truyền thống hiếu học của người dân thủ đô

II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH


1. GV: - Giáo án, tư liệu danh nhân tiêu biểu của Hà Nội từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XIX

2. HS: Tìm hiểu truyền thống hiếu học của người dân thủ đô

III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY VÀ HỌC

1. Ổn định tổ chức (1p)

2. Bài mời

A. Mở đầu (4p)

a. Mục tiêu:
Kích thích nhu cầu tìm hiểu các danh nhân văn hóa lịch sử thành phố Hà Nội

b. Nội dung: HS quan sát hình ảnh và trả lời câu hỏi.

c. Sản phẩm học tập: câu trả lời của HS

d. Tổ chức thực hiện:

Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập : GV chiếu một số tác phẩm văn học, chân dung các danh nhân văn hóa, yêu cầu HS nêu hiểu biết về danh nhân đó.

Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ


- Học sinh quan sát hình ảnh, đoán tên các danh nhân.

Bước 3: Báo cáo kết quả

- Học sinh trả lời.

Bước 4: Đánh giá kết quả

- Giáo viên quan sát, nhận xét hoạt động học của học sinh:

- GV dẫn dắt vào bài:

B. Hình thành kiến thức mới (25p)



Hoạt động của thầy và trò
Nội dung cần đạt
Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập
? Em hãy kể tên m
ột số danh nhân tiêu biểu của thủ đô Hà Nội từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XIX.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ
HS căn cứ vào môn lịch sử thảo luận để tìm ra các danh nhân tiêu biểu
Bước 3: Báo cáo kết quả
- Học sinh trả lời.
Bước 4: Đánh giá kết quả
- Giáo viên quan sát, nhận xét hoạt động học của học sinh
GV chốt ý và cung cấp cụ thể các danh nhân qua các thời kì lịch sử
1, Một số danh nhân tiêu biểu của thủ đô Hà Nội từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XIX.
1. Phạm Tu (486-545)

Phạm Tu sinh ra ở làng Quang Liệt (nay là Thanh Liệt – Thanh Trì). Ông là vị tướng tài có công bậc nhất trong việc giúp Lý Bí đuổi giặc Lương, lập nhà nước Vạn Xuân vào thế kỷ thứ 6.
Phạm Tu là một đô vật giỏi. Năm 541, bất bình trước ách thống trị tàn ác của nhà Lương, ông đã tập hợp trai làng chống lại. Năm sau, Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa, ông đem quân gia nhập ngay và đi tiên phong đánh thành Long Biên, trị sở của bọn đô hộ. Tên thứ sử tham bạo phải xéo chạy. Đất nước giải phóng, ông xây lũy bên sông Tô để phòng vệ. Nhà Lương hai lần phản kích đều bị ông chặn đánh từ biên ải.
Tháng Giêng năm 544, Lý Bí lên ngôi, Phạm Tu được cử thống lĩnh binh quyền, dẹp các cát cứ địa phương, nên được vua ban tước Phụ Man tướng quân. Bởi vậy nhân dân còn gọi ông là Lý Phục Man. Trong lần quân Lương sang xâm lược lần thứ ba, ông hy sinh anh dũng trong một trận đánh ác liệt ở ngay cạnh dòng sông Tô quê hương.
Các triều sau sắc phong ông là Hộ quốc tế dân, Anh uy vĩ độ (có nghĩa là "Giúp nước cứu dân, anh hùng hào kiệt").

2. Lý Thường Kiệt (1019-1105)
Tên thật là Ngô Tuấn, sinh ở làng An Xá (hay còn gọi là làng Cơ Xá bên sông Hồng) sau về ở phường Thái Hòa (gần Hồ Tây). Ông là con một vị võ quan nhỏ đời Lý Thái Tông. Ông mồ côi cha từ năm 13 tuổi, được chồng cô nuôi ăn học. Ông miệt mài theo đuổi cả văn lẫn võ, tinh thông binh pháp. Năm 23 tuổi ông đã là thị vệ theo hầu vua, trông coi nội đình. Năm 1069 ông theo Lý Thánh Tông đi dẹp Chiêm Thành. Ông đã lập nhiều công lớn nên được phong làm Phụ quốc thái úy tước Khai quốc công và được vua ban cho họ Lý nên mới thành tên Lý Thường Kiệt.
Năm 1072 Lý Nhân Tông nối ngôi khi còn nhỏ tuổi nên Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải ra nhiếp chính. Lý Thường Kiệt nắm giữ binh quyền và là trụ cột của triều nhà Lý trong hàng chục năm.
Năm 1075, trước âm mưu xâm lược của giặc Tống, ông chủ trương tấn công trước vào tận sào huyệt của chúng ở Châu Ung, rồi rút về xây dựng phòng tuyến sông Cầu để cản giặc. Năm 1077 ông lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống trên sông Cầu. Ông đã viết bài thơ “Nam quốc sơn hà” để cổ vũ quân ta anh dũng xông lên phá tan 30 vạn quân địch do Quách Quỳ, Triệu Tiết cầm đầu và cũng là để khẳng định quyền độc lập thiêng liêng bất khả xâm phạm của Tổ quốc.
Sau khi phá tan giặc Tống vua Lý Nhân Tông nhận ông là em nuôi. Ông đựoc phong tước Việt Quốc Công và được cử đi trông coi vùng châu Ái (Thanh Hóa).
3. Ỷ Lan (?-1117)
Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yên (hoặc Lê Thị Mệnh), người làng Thổ Lỗi (hay còn gọi là làng Sủi) sau là làng Siêu Loại (xã Dương Xá, huyện Gia Lâm).
- Xuất thân: vốn là con nhà nghèo
- Nhập cung: . Ỷ Lan là người ham học hỏi, có tài quản lý nội chính trong cung. Vua đi đánh Chiêm thành giao lại quyền nhiếp chính cho bà. Gặp năm mất mùa, đói kém, nhưng nhờ kế sách trị nước đúng đắn bà đã làm yên lòng dân. Nhớ ơn bà, nhiều nơi lập đền thờ sống và gọi bà là Quan Âm nữ. Vua đánh lâu không thắng, giao cho Lý Thường Kiệt chỉ huy, quay về đến nửa đường nghe tin Ỷ Lan giữ vững yên hậu phương, vua hổ thẹn trở lại chiến trường và quyết đánh thắng giặc mới về. Vua mất, bà là Hoàng thái hậu nhiếp chính, cùng Lý Thường Kiệt – tể tướng Đại Việt đánh thắng quân xâm lược Tống năm 1077.
Bà khuyến khích nghề nông, mở mang đạo Phật, được dân tin yêu, cảm phục, nổi danh là bà thái hậu hiền thục trong sử sách. Bà thọ khoảng 70 tuổi, khi mất được hỏa táng, dâng thụy là Long Nhâm Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Đền chính thờ bà ở Dương Xá thường được gọi là đền Bà Tấm.

4. Trần Thị Dung (?-1259)

Bà vốn là vợ vua Lý Huệ Tông, là mẹ hai công chúa Thuận Thiên và Chiêu Hoàng. Sau khi nhà Lý truyền ngôi cho nhà Trần, bà là bạn đời của Thái sư Trần Thủ Độ. Cuối năm 1257, quân Mông Cổ vào xâm lược nước ta, do lực lượng của ta còn yếu, triều đình phải rút khỏi Thăng Long. Bà đứng ra chỉ huy việc sơ tán toàn bộ hoàng gia, vợ con tướng sĩ bằng đường thủy xuống vùng Hoàng Giang (Phủ Lý); điều động dân kinh thành di chuyển kho vũ khí, quân lương chỉ dăm hôm đã xong, đồng thời khuyên dân dời nhà tạm lánh. Khi giặc vào Thăng Long chỉ còn là một tòa thành rỗng, không có lương thực, không có dân. Chúng bị động hoang mang, thừa cơ quân dân ta mở cuộc phản công tại Đông Bộ Đầu (1-1258) và giành đại thắng. Trong chiến công lớn lao này có phần đóng góp quan trọng của bà Trần Thị Dung – Linh Từ quốc mẫu.

5. Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300)
Ông là con An Sinh vương Trần Liễu, gọi vua Trần Thái Tông là chú ruột. Họ Trần quê ở Tự Mặc (Nam Hà), nhưng ông lại sinh ra ở Thăng Long. Từ nhỏ Trần Quốc Tuấn đã rất chăm học, lại ham tập luyện võ nghệ và có lòng yêu nước thương dân. Năm 1258, quân Nguyên sang xâm lược lần thứ nhất ông chỉ huy một cánh quân chặn giặc ở biên giới. Hai lần đánh quân Nguyên Mông sau (1258, 1288) ông là Quốc công Tiết chế, tổng chỉ huy cuộc kháng chiến.
Với tri thức quân sự uyên bác, tài binh lược sáng tạo, lòng yêu Tổ quốc thiết tha, quý quân sĩ như con, ông đã điều binh, khiển tướng phá tan giặc Nguyên Mông và giành toàn thắng. Ông là tác giả bản hùng văn “Hịch tướng sĩ” làm nức lòng quân sĩ và hai pho sách quân sự giá trị: Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
Sau chiến tranh, ông tiếp tục chăm lo quốc phòng, không mưu lợi riêng. Vua Trần phong ông là Hưng Đạo Đại Vương. Trần Hưng Đạo được coi là anh hùng bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Ông là một tron g 10 vị tướng nổi tiếng trên thế giới.

6. Trần Quang Khải (1241-1294)
Là con thứ vua Trần Thái Tông, mẹ là hoàng hậu Thuận Thiên họ Lý, ông sinh ra ở kinh thành. Thuở nhỏ, Trần Quang Khải đã tỏ ra là một cậu bé ham học, lại được nhà giáo, nhà sử học Lê Văn Hưu rèn cặp nên về sau ông là người hiểu rộng, biết nhiều, lại thông thạo nhiều ngôn ngữ của các dân tộc khác. Ông thường được gọi vào tiếp sứ thần các nước, đàm đạo văn chương. Năm 1258, ông được vua phong làm Chiêu Minh đại vương, cũng là lúc quân Mông vào xâm lược nước ta. Năm 1261, ông được phong làm Thái úy, sau đó vào quản đất Nghệ An. Năm 1278 vua Thánh Tông nhường ngôi cho con là Nhân Tông. Hoàng đế Mông Cổ lấy cớ không xin mệnh sai sứ sang trách cứ. Trần Quang Khải vâng lệnh vua tiếp sứ vừa mền mỏng trong đàm phán, vừa kiên quyết trong bảo vệ chủ quyền đất nước nhưng chiến tranh vẫn nổ ra, ông chỉ huy nhiều trận đánh, nổi tiếng nhất là trận tập kích lớn ở bến Chương Dương trên sông Hồng (1285) tiêu diệt căn cứ quan trọng của địch, mở đường giải phóng Thăng Long.
Sáu tháng sau khi rút khỏi kinh thành, nay vua quan nhà Trần tưng bừng trở lại, ông đã làm bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư” còn truyền đến nay. Ông là nhà ngoại giao tài ba, vị tướng lỗi lạc và còn là một nhà thơ, tác giả của Lạc Đạo thi tập.

7. Chu Văn An
Tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, người thôn Văn, xã Quang Liệt (nay là Thanh Liệt, Thanh Trì), sau được nhà Trần phong tước Văn Trinh Công nên người đời sau quen gọi là Chu Văn An.Chu Văn An tính tình cương trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Công, bên kia sông Tô. Ông nổi tiếng là nhà giáo tài cao đức trọng nên được trò tứ trấn tìm về xin theo học rất đông. Học trò của ông nhiều người thành đạt giữ những chức cao trong triều, nhưng vẫn một lòng kính thầy.
Vua Trần Minh Tông (1314-1329) vời ông ra làm tư nghiệp Quốc Tử Giám. Đến đời Dụ Tông, ông thấy cảnh quyền thần làm nhiều điều vô đạo, ông dâng sớ xin chém 7 tên gian nịnh, nhưng vua không nghe. Ông chán nản từ quan về ở núi Phượng Hoàng (thuộc Chí Linh, Hải Dương) dạy học, viết sách cho tới khi mất. Cuộc đời thanh bạch và tiết tháo của ông là tấm gương sáng của thời phong kiến. Ông là một trong số rất ít bậc hiền nho được thờ ở Văn Miếu.

8. Nguyễn Trãi (1380 – 1442)

Nguyễn Trãi quê gốc ở Ci Ngại, Phượng Sơn (Chí Linh, Hải Dương), sau về ngụ cư ở Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Ông là con Nguyễn Phi Khanh, nhà văn thời Trần Hồ. Ông sinh ra ở Thăng Long trong dinh ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Thời trẻ ông đã nổi tiếng về văn học. Năm 20 tuổi ông đỗ Thái học sinh và được cử làm Ngự sử đài Chánh chưởng thời nhà Hồ. Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ chống lại nhưng thất bại. Cha ông bị giặc bắt giải về Tàu, ông theo đến ải Nam Quan, nghe lời cha ông quay lại nuôi chí phục thù. Về đến Đông quan, Trương Phụ bắt ông, dụ ra làm quan không được toan giết, sau tha nhưng giam lỏng ở trong thành, khoảng 10 năm. Sau đó, Nguyễn Trãi tìm đường vào Lam Sơn theo Lê Lợi, ông dâng “sách bình Ngô” và là 1 trong 18 người dự Hội thề Lũng Nhai (1416), bộ tham mưu của nghĩa quân. Ông trở thành nhà chiến lược, nhà ngoại giao lỗi lạc, có công lớn trong chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang và vây hãm thành Đông Quan, buộc quân Minh phải hàng phục, xin rút quân về nước. Năm 1428, đất nước giải phóng, ông viết Bình Ngô đại cáo-một áng văn thiên cổ hùng tráng, trịnh trọng tuyên ngôn độc lập cho đất nước. Ông được ban họ vua, được phong chức Quan Phục hầu nhập nội hành khiển. Trước tác của ông rất đồ sộ: Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa chí, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lực, Quốc Âm thi tập…
Khi triều đình bị lũng đoạn, ông từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, rồi bị vu oan và chịu tru di tam tộc bởi vụ án Lệ Chi Viên với cái chết đột ngột của ông vua trẻ mà lại có mặt bà vợ lẽ ông là Nguyễn Thị Lộ. Ông là vị anh hùng dân tộc, nhà văn hóa, nhà nhân đạo chủ nghĩa của nước ta và là danh nhân văn hóa thế giới.

9. Nguyễn Như Đổ (1424-1526)

Ông là người làng Đại Lan (xã Duyên Hà, Thanh Trì), có tên chữ là Mạnh An, hiệu Khiêm Trai. Năm 19 tuổi, ông đã đỗ đầu khoa thi hội đầu tiên của triều Lê (1442). Ông làm ở Viện Hàn lâm, nhiều lần đi sứ sang triều Minh, làm An Phủ sứ bộ Quy Hóa rồi được thăng chức Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Lễ, Thưa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm vào giai đoạn hưng thịnh nhất thời Hồng Đức nhà Lê.
Kỳ thi đình năm Quý Mùi (1463) đông tới 4000 sĩ tử, ông được cử độc quyền và lấy đỗ trạng nguyên Lương Thế Vinh.
Năm 1486, ông giữ Tế tử Quốc Tử Giám, hiệu trưởng trường đại học quốc gia này suốt 10 năm. Nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp ông là 1 trong 18 phò tá có công lao và tài đức nhất thời Lê. Ông xứng đáng là bậc khoa danh đại thụ, trải qua 8 triều vua, thọ 102 tuổi, cũng là điều hiếm có. Ông còn một số bài thơ chép trong Hoàng Việt thi tuyển. Tên ông khắc trên tấm bia đá đầu tiên dựng tại Văn Miếu (1484) và trong danh sách các bậc Tế tử Quốc Tử Giám ông ở hàng thứ 2 sau Chu Văn An.

10. Lê Thánh Tông (1442-1497)

Tên húy là Tư Thành, con trai thứ tư của vua Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ra ở chùa Huy Văn (ngõ Văn Chương, Đống Đa) khi mẹ ông đi lánh nạn. Sau ông được đón về đưa lên ngôi năm 18 tuổi (1460) với hai niên hiệu Quang Thuận và Hồng Đức, mang tinh thần nhân đạo, tiến bộ hơn hết các bộ luật trước đó. Ông định ra các quy chế về tuyển chọn, đề bạt quan chức, chế độ bổng lộc và hưu trí. Ông lo khuyến nông, lập các sở đồn điền khai hoang, đắp đê biển, mở rộng lãnh thổ, chia nước ra làm 13 đạo, vẽ bản đồ cả nước, phát triển giáo dục, mở nhiều khoa thi lấy nhân tài. Số tiến sĩ triều Lê Thánh Tông chiếm gần 1/4 tổng số tiến sĩ trong cả thời phong kiến.
Về văn học, ông là nhà thơ, nguyên soái của Hội Tao Đàn với 28 ngôi sao thơ văn nổi tiếng thời đó. Nhiều thơ nôm của ông còn được truyền tụng đến ngày nay. Ông cũng là người đặt lệ dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu và giao Ngô Sĩ Liên biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Thời Hồng Đức đi vào lịch sử với những trang đẹp mà người thiết kế là Lê Thánh Tông – một nhà cải cách lớn. Lăng mộ của ông hiện còn ở Lam Sơn.

11. Ngô Chi Lan (thế kỷ 15)

Bà có tên là Nguyễn Hạ Huệ, người làng Phủ Lỗ, huyện Kim Anh (nay là huyện Sóc Sơn), có truyền thuyết nói bà mang họ Nguyễn vì là con nuôi Nguyễn Thị Lộ. Chưa rõ năm sinh, năm mất của bà, chỉ biết bà sống chủ yếu dưới thời Lê Thánh Tông (1460-1497), nổi tiếng về thi ca, từ khúc.
Bà lấy ông Phù Thúc Hoành, người Phù Xá làng bên, ông giảng Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám và làm ở Viện Hàn lâm tới chức Đông các đại học sĩ.
Vợ chồng ông giao du với nhiều bạn thơ như Thái Thuận, Nguyễn Dữ…và thường tổ chức những buổi gặp gỡ bình luận văn chương.
Vua Lê Thánh Tông rất mến phục bà, thường triệu bà vào hầu thơ, dự các cuộc xướng họa ở cung đình và phong chức Phù Gia nữ học sĩ, giao bà đảm đương dạy đạo đức, nghi lễ cho cung phi. Bà có tập thơ Mai Trang nhưng bị thất truyền, chỉ còn ít bài in trong Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái, Trích diễm thi tập. Bài thơ được nhớ đến nhiều nhất là bài Đề núi Vệ Linh. Thơ của bà mang bản sắc riêng, không khuôn sáo, gò ép, có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời và con người. Có thể coi bà là nhà thơ nữ đầu tiên có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam.

12. Bùi Xương Trạch (1451-1529)

Ông sinh tại làng Giáp Nhị (xã Thịnh Liệt, Thanh Trì). Tổ tiên ông vốn là người làng Định Công bên cạnh, đến đời cha ông mới chuyển sang đây.
Ông là con một gia đình nông dân hiếu học, thời trẻ khi đi làm đồng ông cũng mang sách theo, nhà nghèo đêm ông bắt đom đóm cho vào chai để thay đèn, mệt quá, ông nằm nghỉ trên hai cái chày để đau mình sớm tỉnh lại. Năm 27 tuổi ông thi đỗ tiến sĩ, khoa ấy lấy đỗ 62 người chỉ có mình ông người Thanh Đàm. Ông làm hiệu thư, sau được bổ vào Viện Hàn lâm, khoa Đông Các rồi sau được thăng Đông các đại học sĩ. Thiên đô ngự sử, Thượng thư bộ Binh chưởng lục bộ, Hiệu trưởng Quốc Tử Giám. Ông còn được phong tước Quảng Văn Hầu vì đã viết rất hay bài ký Đình Quảng Văn Hầu Ông là vị quan thanh liêm, không mảy may mưu tính việc riêng tư, bổng lộc triều đình ông đem chia cho họ hàng, làng xóm. Lòng nhân hậu và đức độ của ông được người đời ca tụng. Dòng họ Bùi của ông qua 7 thế hệ, hơn 200 năm không đời nào không có người làm nên sự nghiệp cả về văn lẫn võ.
13. Đặng Trần Côn (Thế kỷ 18)

Ông là người làng Mọc, Hạ Đình (xã Khương Đình, Thanh Trì)và là tác giả cuốn Trinh Phụ Ngâm bằng chữ Hán. Chỉ biết ông sống vào nửa đầu thế kỷ 18. Thuở nhỏ ông rất ham học, thi đậu hương cống khoảng năm 1726. Ông là người ưa phóng túng, chẳng màng danh vọng nên không thi tiếp, đi nhận chức Huấn đạo trường phủ, làm tri huyện Thanh Oai rồi đến chức Ngự sử đài chiếu khán. Ông nổi tiếng danh sĩ, được xếp hạng đầu “tứ hổ” của huyện Thanh Trì là Côn, Hiến, Điền, Đẩu (Đặng Trần Côn, Nguyễn Hiến, Hồng Điền, Trương Đẩu.. )Thời Cảnh Hưng có việc đao binh, nhiều người phải ra trận để lại nhà người vợ trẻ trông ngóng, ông xúc cảm viết nên khúc ngâm bi tráng này nhằm chia sẽ với những người phụ nữ và tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa. Thơ ông giàu cảm xúc, gây tác động mạnh đến người đọc. Chinh Phụ Ngâm bản Hán văn của ông viết theo lối “tập cổ”, nhưng đã được phổ biến rất rộng nhờ bản dịch tài hoa của bà Đoàn Thị Điểm, sống cùng thời với ông. Mộ ông nay còn ở đồng Từ Vũ, thôn Hạ Đình.

14. Nguyễn Du

Ông là con Nguyễn Nghiễm, em Nguyễn Khản, đều làm quan thời Lê Trịnh. Quê gốc của ông ở Tiên Điền (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) nhưng ông sinh ở phường Bích Câu và lập nghiệp ở Thăng Long. Cha mẹ mất sớm, ông ở với anh trai. Năm 20 tuổi ông đậu tam trường (tú tài) và ra làm quan thời nhà Lê. Khi có biến động giữa Lê - Trịnh và Tây Sơn, gia đình ông tan tác, ông trải qua hàng chục năm gió bụi phong trần nên đã gửi niềm tâm sự vào tập thơ Thanh Hiên. Năm 1790, nhà Tây Sơn mời nhân sĩ Bắc Hà ra giúp nước, ông giữ chức Tạ thị lang bộ Lại, tước Hải Phái hầu, được cử sang sứ Trung Quốc. Ông vẫn có ý phò Lê nên lui về quê vợ ở Thái Bình, sau lại về Hà Tĩnh, rồi năm 1815 ra làm Tham tri cho nhà Nguyễn. Thời kỳ này ông tìm đến với đạo phật, đạo Lão, lấy thú đọc sách, ngâm thơ, uống rượu, đi hát phường vải, đi săn làm khuây. Ông lấy bút danh là Tố Như, Thanh Hiên. Tính hào hoa phong nhã lại đa tình, ông được nhiều cô gái để ý. Ông có 4 vợ và 20 con, trong đó có Nguyễn Huy Hổ, tác giả truyện thơ nôm Mai Đình mộng ký. Ông có nhiều bài thơ tâm đắc viết về Thăng Long và để lại cho đời nhiều tác phẩm giá trị như Thanh Hiên tiền hậu tập, Bắc hành tạp lục, Văn chiêu hồn và một kiệt tác trong gia tài văn học đất nước ta là Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh). Ông mất tại quê nhà, nay còn phần mộ và nhà thờ ông.

15. Phạm Đình Hổ (1768-1839)
Quê ông ở làng nhuộm Đan Loan (Hải Hưng) nhưng lên 6 tuổi ông đã ở phường Hà Khẩu (Hàng Buồm), ông trưởng thành và lập nghiệp ở kinh thành. Người đời quen gọi ông là Chiêu Hổ, “chiêu” là tiếng gọi con nhà quan và là nho sinh Chiêu Văn quán. Cha ông làm tuần phủ Sơn Tây nhưng mất sớm nên lớn lên ông mới vào học ở Quốc Tử Giám và đỗ tú tài. Ông được chứng kiến trận chiến thắng Đống Đa lịch sử lúc 21 tuổi. Là con quan nhà Lê, ông về ở ẩn, dạy học ở Nguyệt Áng, Cung Hoàng (Thanh Trì). Năm 1821, Minh Mệnh ra bắc tuần, ông dâng sách, vua thấy ông học rộng cho làm hành tẩu nhị giảng học sĩ Viện Hàn lâm, được ít lâu ông từ chức về quê dạy học và quan tâm đến các mặt lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, tình hình xã hội để viết sách. Về lịch sử, địa lý có An Nam Chí, Ai Lao sứ trình, Kiền không nhất lãm gồm bản đồ cả nước. Văn thơ có Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục (chung với Nguyễn Án) và 2 tập thơ khác. Vũ trung tùy bút phản ánh tình hình xã hội và sinh hoạt ở Thăng Long thời ấy rất sinh động, là tư liệu quý dể tìm hiểu lịch sử, địa lý kinh thành. Ông là nhà văn sống và gắn bó với 36 phố phường cả đời mình.
16. Lý Văn Phức (1785-1894)
Ông sinh ở làng Hồ Khẩu, một làng giấy bên Hồ Tây, tự là Lân Chi, hiệu Khắc Trai, đỗ cử nhân năm 1819, ông được bổ làm Hàn Lâm biên tu trong Quốc sử quán, Thiêm sự bộ Lễ, Hiệp lý Quảng Nam trấn vụ rồi làm Hữ thị lang bộ Hộ, thự hữu tham tri. Sau ông bị tước chức, đi hiệu lực ở Tiểu Tây Dương và Tân Gia Ba; được khôi phục và đi công cán nhiều lần ở nước ngoài với chức Tham tri bộ Công, kiêm quản chiếc thuyền lớn Phấn Bằng, coi sự vụ thủy sư ở kinh kỳ. Vì không khéo trong vụ tàu Tây Dương đến Đà Nẵng ông lại bị phát vãng, cuối đời mới khôi phục đến chức Quang Lộc tự khanh. Ông viết thơ văn bằng chữ Hán có những nét mới mẻ, độc đáo, trong sáng. Ông viết về chuyến đi như: Tây hành kiến văn kỷ lược, Mân hành tạp vịnh, Chu Nguyên tạp vịnh, Sứ trình tiện lãm khúc. Nhiều truyện nôm của ông được truyền tụng rộng như Nhị thập tứ hiếu, Bất phong lưu truyện. Ông viết cả sách sơ học thiên tự văn diễn âm.

17. Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Ông là người làng Tả Thanh Oai (Thanh Trì) trong dòng họ Ngô Thì nổi tiếng có nhiều người thành danh trên mọi lĩnh vực và hình thành cả một văn phái của họ Ngô. Năm 29 tuổi ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan và được thăng chức Công Bộ thị lang nhà hậu Lê. Bị phe Chúa Trịnh khủng bố, ông phải tránh về vùng Sơn Nam sáu năm. Khi Quang Trung ra Bắc, ông được tiến cử phụ tá cho Ngô Văn Sở giữ thành Thăng Long.
Năm 1788, quân Thanh sang xâm lược nước ta, ông chủ trương rút quân về Tam Điệp để bảo toàn lực lượng chờ đại quân của Tây Sơn. Nước cờ này đã góp phần cho Quang Trung làm cuộc hành quân thần tốc ra Bắc đại thắng quân Thanh trong trận Ngọc Hồi-Đống Đa lịch sử. Sau đó, ông phụ trách ngoại giao với triều Thanh và sang sứ báo tang vua Quang Trung. Nhà Tây Sơn mất, ông bị triều Nguyễn bắt giam đánh đòn ở sân Văn Miếu, về nhà mấy hôm thì mất.
Ông là nhà văn hóa lớn của nước ta để lại khá nhiều tác phẩm văn thơ, lịch sử, ngoại giao, triết học. Dòng họ Ngô Thì của ông đóng góp cho đất nước khá nhiều nhân tài như Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du, Ngô Thì Hương, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Ức…

18. Hồ Xuân Hương (cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19)

Bà sinh ra ở phường Khán Xuân (Bách Thảo), quê gốc ở Quỳnh Lưu xứ Nghệ nhưng lớn lên trên đất kinh thành. Cuộc đời bà có nhiều bí ẩn, chỉ biết bà sống vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Hồ Xuân Hương là một tài năng đầy bản lĩnh. Xuất thân trong gia đình nhà nho, bà lại phản kháng và hạ bệ tất cả những gì nó đề cao. Ở bà có cả hai đòn đánh bằng thơ: đòn đánh ngấm ngầm thâm nho và nhát đập chết tươi của bình dân. Thơ nôm của bà được nhân dân trân trọng bảo tồn còn phái nhà nho thì hết lời miệt thị vì thơ bà là tiếng nói đòi tồn tại, đòi nhan quyền, tranh đấu cho quyền sống và giá trị của người phụ nữ. Tương truyền bà có tới ba đời chồng, số phận hẩm hiu để lại niềm cay đắng trong thơ bà. Nghệ thuật thơ Xuân Hương phập phồng hơi thở ca dao tục ngữ dân gian, được nâng lên tầm cao cách tân táo bạo. Thiên nhiên trong thơ bà ngồn ngộn sức sống, bà dựng Cổ Nguyệt Đường bên hồ Tây làm nơi gặp gỡ bạn thơ. Ngoài thơ nôm, bà còn viết thơ chữ Hán trong Lưu hướng Ký. Các văn tài đương thời như Tốn Phong Thị, Sơn phủ, Chí Hiên và Nguyễn Du thường lui tới nhà bà. Nhà thơ Xuân Diệu đã gọi bà là “Bà chúa thơ Nôm”.

19. Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872)

Ông sinh ra tại làng Kim Lũ (xã Đại Kim, Thanh Trì), là một danh sĩ Bắc Hà được người đời tôn sùng là “Thần Siêu”. Từ nhỏ ông đã ra ở thôn Cổ Lương, tổng Đồng Xuân, chỗ cửa sông Tô. Ông là học trò thày Hoa Đường Phạm Quý Thíc. Ông đỗ phó bảng năm 1838 và ra làm quan thời nhà Nguyễn qua nhiều tỉnh, lúc là phó sứ sang nhà Thanh, khi làm Án sát Hà Tĩnh, Hưng Yên. Lúc 55 tuổi, ông thác bệnh xin về hưu, viết sách và mở trường Phương Đình ở nhà dạy học, học trò rất đông. Ông là bạn thân của Cao Bá Quát. Ông học rộng biết nhiều và là người thày có tiếng trong vùng. Thơ văn ông thấm đượm tình yêu quê hương, tự hào về đất nước, quan tâm đến đời sống dân chúng, nhiều bài thơ ông tả thiên nhiên Hà Nội rất tinh tế.

20. Cao Bá Quát (1808-1855)

Ông là người làng Phú Thị (Gia Lâm) và là em sinh đôi với Cao Bá Đạt. Năm 23 tuổi ông đậu cử nhân. Năm 33 tuổi, ông vào kinh làm Hành tẩu bộ lễ. Khi được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số bài hay lại phạm húy, ông thương tình chữa hộ thế là mang vạ, bị cách chức và đi hiệu lực ở In-đô-nê-xi-a để chuộc tội. Lúc trở về ông vào làm ở Viện Hàn lâm. Ông là bạn thơ của nhiều danh sĩ đương thời như Miên Thẩm, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Hàm Ninh… Sau đó vì chán cảnh bon chen nơi cung đình, ông lui về làm giáo thụ ở Quốc Oai (Hà Tây). Cũng vì căm ghét chế độ hà khắc của nhà Nguyễn nên năm 1852, nhân lúc mất mùa vì nạn châu chấu, ông mượn cớ phù Lê, khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Chương Mỹ, Hà Tây) nhưng chỉ vài tháng sau đã bị dập tắt. Cao Bá Quát hy sinh tại trận, họ hàng ông bị tội tru di.
Ông là nhà thơ nổi tiếng, được tôn là “thánh Quát”. Thơ ông biểu hiện lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, ca ngợi lẽ sống cao thượng.
Ông có tên tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường. Ông sáng tác rất nhiều thơ cả bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng do gặp nạn, bản thảo mất mát chỉ còn nhặt nhạnh được khoảng 1000 bài tập hợp trong Cao Bá Quát thi tập, Cao Chu Thần đi cảo, Mẫn Hiên thi tập. Tứ thơ ông bay bổng, khoáng đạt, nói cái chí lớn làm người với bút pháp đặc sắc.

21. Bà Huyện Thanh Quan (thế kỷ 19)

Tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng hoa Nghi Tàm trên bán đảo Hồ Tây. Chưa rõ năm sinh, năm mất. Bà nổi tiếng là nhà thơ trữ tình đầu thế kỷ 19. Bà lấy chồng là Lưu Nguyên Ôn (còn gọi là Lưu Nghi) người Nguyệt Áng (Thanh Trì) đổ cử nhân năm 1828, làm tri huyện Thanh Quan (Thái Thụy, Thái Bình) nên bà được gọi là Bà Huyện Thanh Quan.
Bà có làm thơ chữ Hán, đặc biệt thơ nôm của bà được nhiều người biết đến như bài:Qua đèo Ngang, Thăng Long thành hoài cổ, Hành cung Trấn Bắc. Bằng lời thơ trang nhã, thanh lịch có lúc u hoài, có khi chua chát, nhưng đều cẩn trọng, tinh tế. Có giai thoại cho rằng bà đã thay chồng phê đơn cho cô Đào đi lấy chồng bằng 4 câu lục bát, vì vậy mà ông huyện bị cách chức. Triều Nguyễn vời bà vào Phú Xuân làm nữ quan dạy cung nữ. Ở đây bà có dịp giúp dân làng xin vua xóa bỏ lệ tiến sâm cầm Hồ Tây, tránh cho quê hương khỏi bị nha lại sách nhiễu.
22. Vũ Tông Phan
Tiến sĩ Vũ Tông Phan (1800-1851) tự Hoán Phủ, hiệu Đường Xuyên, Lỗ Am không chỉ là một danh nhân văn hóa, mà còn là nhà giáo tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội.
Thuở nhỏ, Vũ Tông Phan theo cha dạy học ở các làng ven Thăng Long và xứ Đoài, cho đến khi đỗ Tú Tài mới theo học cậu ruột là Tiến sĩ Phạm Quý Thích ở Thăng Long. Với học vấn uyên thâm, năm 1825, Vũ Tông Phan đỗ Tiến sĩ. Tương truyền, đám rước vinh quy bái tổ của quan nghè Phan có đến 7 cờ biển vua ban. Cùng với Thần Siêu, Thánh Quát, Vũ Tông Phan là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thi đàn Thăng Long cuối thế kỷ 19.
Tiến sĩ Vũ Tông Phan đã từng kinh qua các chức vụ: Tri phủ Bình Hòa (Khánh Hòa), Lang trung Bộ Binh (chức quan Tứ phẩm), Tham hiệp Tuyên Quang, Tham hiệp Thái Nguyên, Giáo thụ phủ Thuận An (Bắc Ninh)… Tuy nhiên, sau 7 năm làm quan và cảm thấy không hợp với quan trường, Vũ Tông Phan cáo quan về nhà ở thôn Tự Tháp, ven phía Tây Hồ Gươm, dựng nên ngôi nhà 5 gian trên mảnh đất vua ban mở trường dạy học lấy tên là Hồ Đình. Và chỉ sau 2 năm, ngôi trường Hồ Đình của ông đã có 2 môn sinh đỗ Cử nhân.
Sau hơn 10 dạy học, năm 1849 ông giao trường Hồ Đình cho con trai cả, lui về sống ở Giang Đình thục, thôn Kim Giang, tổng Đông Lỗ, huyện Sơn Minh, nay thuộc huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Tại đây ông có thời gian biên tập và sáng tác thơ văn. Có thể kể đến “Tô Khê tùy bút tập” bao gồm những bài thơ đầu tay ông sáng tác trước khi đỗ Cử nhân năm 1825. Ngoài ra, ông cũng tập hợp những bài thơ ông viết sau thời gian này nhưng chưa kịp xuất bản thì đột ngột qua đời năm 1851
1696175537753.png


THẦY CÔ TẢI NHÉ!
 

DOWNLOAD FILE

  • yopo.vn---Giáo án Giáo dục địa phương 8 CĐ 2.docx
    88.3 KB · Lượt xem: 4
CHỦ ĐỀ LIÊN QUAN
CHỦ ĐỀ MỚI NHẤT
Nếu bạn cảm thấy nội dung chủ đề bổ ích , Hãy LIKE hoặc bình luận để chủ đề được sôi nổi hơn
  • Từ khóa
    dạy giáo dục địa phương lớp 6 file giáo dục địa phương lớp 6 file sách giáo dục địa phương lớp 6 giao duc dia phuong o tieu hoc giáo dục địa phương giáo dục địa phương 6 giáo dục địa phương 6 bài 1 giáo dục địa phương 6 cánh diều giáo dục địa phương 6 chân trời sáng tạo giáo dục địa phương 6 chủ đề 3 giáo dục địa phương 6 chủ đề 4 giáo dục địa phương 6 kết nối tri thức giáo dục địa phương an giang giáo dục địa phương an giang lớp 6 giáo dục địa phương bắc giang giáo dục địa phương bắc giang lớp 6 giáo dục địa phương bạc liêu giáo dục địa phương bắc ninh giáo dục địa phương bình dương lớp 6 giáo dục địa phương bình phước giáo dục địa phương bình định giáo dục địa phương cà mau giáo dục địa phương cấp tiểu học giáo dục địa phương cho học sinh giáo dục địa phương gia lai lớp 8 giáo dục địa phương hà nam giáo dục địa phương hà nội giáo dục địa phương hà tĩnh giáo dục địa phương hà tỉnh lớp 6 giáo dục địa phương hải phòng giáo dục địa phương hưng yên giáo dục địa phương hưng yên lớp 6 giáo dục địa phương là gì giáo dục địa phương là môn gì giáo dục địa phương là sách gì giáo dục địa phương lớp 1 giáo dục địa phương lớp 1 đà nẵng giáo dục địa phương lớp 12 giáo dục địa phương lớp 2 giáo dục địa phương lớp 2 đà nẵng giáo dục địa phương lớp 3 giáo dục địa phương lớp 6 bắc kạn giáo dục địa phương lớp 6 bài 1 giáo dục địa phương lớp 6 binh dinh giáo dục địa phương lớp 6 chân trời sáng tạo giáo dục địa phương lớp 6 chủ đề 1 giáo dục địa phương lớp 6 hà nội giáo dục địa phương lớp 6 kết nối tri thức giáo dục địa phương lớp 6 khánh hòa giáo dục địa phương lớp 6 kì 2 giáo dục địa phương lớp 6 kiên giang giáo dục địa phương lớp 6 kon tum giáo dục địa phương lớp 6 mới giáo dục địa phương lớp 6 pdf giáo dục địa phương lớp 6 phú thọ giáo dục địa phương lớp 6 quảng bình giáo dục địa phương lớp 6 quảng nam giáo dục địa phương lớp 6 quảng ngãi giáo dục địa phương lớp 8 giáo dục địa phương môn âm nhạc thcs giáo dục địa phương môn gdcd giáo dục địa phương môn mĩ thuật giáo dục địa phương môn văn giáo dục địa phương môn đạo đức giáo dục địa phương nam định giáo dục địa phương nghệ an lớp 6 giáo dục địa phương ngữ văn 7 giáo dục địa phương ngữ văn lớp 6 giáo dục địa phương phú thọ giáo dục địa phương quảng nam giáo dục địa phương sóc trăng giáo dục địa phương sơn la giáo dục địa phương thái bình giáo dục địa phương thái nguyên giáo dục địa phương thành phố hồ chí minh giao duc dia phuong lop 6 giáo dục địa phương tiền giang giáo dục địa phương tiếng anh là gì giáo dục địa phương tỉnh bà rịa vũng tàu giáo dục địa phương tỉnh bắc giang lớp 6 giáo dục địa phương tỉnh bình định lớp 6 giáo dục địa phương tỉnh hải dương lớp 6 giáo dục địa phương tỉnh nghệ an lớp 6 giáo dục địa phương tỉnh ninh bình lớp 6 giáo dục địa phương tỉnh quảng trị giáo dục địa phương tuyên quang giáo dục địa phương vĩnh phúc giáo dục địa phương đồng nai nội dung giáo dục địa phương nội dung giáo dục địa phương ở tiểu học olm.vn lớp 6 giáo dục địa phương ppct giáo dục địa phương lớp 6 sách giáo dục địa phương 6 chân trời sáng tạo sách giáo dục địa phương gia lai lớp 6 sách giáo dục địa phương lớp 6 online sách giáo dục địa phương online sách giáo dục địa phương quảng ngãi tài liệu giáo dục địa phương cấp tiểu học tóm tắt giáo dục địa phương 6 filetype pdf xa hoi hoa giao duc o dia phuong
  • HỖ TRỢ ĐĂNG KÝ VIP

    ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN VIP
    ZALO:0979702422

    BÀI VIẾT MỚI

    Thống kê

    Chủ đề
    38,449
    Bài viết
    39,912
    Thành viên
    150,886
    Thành viên mới nhất
    huykhanh1234
    Top