- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 85,455
- Điểm
- 113
tác giả
WORD “Một số biện pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt cho học sinh lớp 5” NĂM 2022-2023 được soạn dưới dạng file word gồm 11 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1. Đặt vấn đề.
Ngôn ngữ là chìa khóa để con người tiếp cận với thế giới xung quanh, là phương tiện duy nhất lưu trữ và truyền tải nguồn tri thức của nhân loại đến với mỗi con người. Sự khác biệt về ngôn ngữ là rào cản ngăn sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới.
Trong nhà trường, tiếng Việt là công cụ của các hoạt động dạy và học. Đối với người học, nắm vững tiếng Việt mới có thể nắm vững những kiến thức và kĩ năng trong các môn học.
Đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số, thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ trong quá trình giao tiếp với gia đình cũng như ngoài cộng đồng dân tộc đã hạn chế sự phát triển của tiếng Việt. Tiếng Việt đối với các em là ngôn ngữ thứ 2 và ngôn ngữ này các em chỉ sử dụng trong quá trình học ở trường. Thậm chí, các em chỉ sử dụng tiếng Việt khi giao tiếp với thầy, cô còn giao tiếp với bạn bè các em lại trở lại với ngôn ngữ dân tộc của mình. Chính vì vậy, vấn đề phát âm không chuẩn tiếng Việt, viết sai lỗi chính tả, dùng từ không đúng nghĩa, không hiểu nghĩa của từ, không biết sử dụng dấu câu, không diễn đạt được ý muốn nói bằng tiếng Việt,… Nói chung, kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc trong giao tiếp là rất hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới quá trình tiếp thu kiến thức của các em.
Là một giáo viên giảng dạy trong một ngôi trường thuộc vùng sâu, vùng xa của tỉnh Lào Cai, với 100% học sinh trong trường là dân tộc Mông nên tôi phần nào hiểu được sự khó khăn của các em khi sử dụng tiếng Việt. Điều các em còn thiếu ở đây chính là vốn từ tiếng Việt. Vốn từ tiếng Việt nghèo nàn làm các em gặp khó khăn trong quá trình học tập ở tất cả các môn học.
Công tác trên vùng cao đến nay cũng đã 10 năm, qua 10 năm đồng hành cùng các em tôi nhận thấy rằng các em gặp rất nhiều khó khăn trong học tập các phân môn của tiếng Việt nói riêng, cũng như trong cả quá trình học tập nói chung. Trong quá trình giảng dạy của bản thân, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi một số biện pháp để giúp các em mở rộng được vốn từ tiếng Việt cho bản thân nhằm giúp các em học tập tốt hơn.
Với những lí do trên, nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt cho học sinh lớp 5” để muốn trao đổi một vài kinh nghiệm với đồng nghiệp, giúp việc học tập của học sinh được nhẹ nhàng hơn, và cùng góp một phần nhỏ hoàn thành mục tiêu chung của giáo dục huyện nhà: “Tiếng Việt là sự sống còn của giáo dục Si Ma Cai”.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lí luận
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em nói chung và học sinh tiểu học nói riêng là một quá trình liên tục. Quá trình đó đi từ đơn giản đến phức tạp tùy thuộc vào nhận thức, vào hoàn cảnh sống, vào nhiệm vụ học tập của các em ở từng giai đoạn. Sự lĩnh hội về từ vựng – một đơn vị ngôn ngữ nằm trong quy luật ấy.
Ban đầu là việc nhận biết những từ có cấu tạo đơn giản (từ đơn đơn âm) như nhà, bàn, chạy, chơi, đỏ, vui; sau là nhận biết và sử dụng các từ có cấu tạo phức tạp hơn (từ láy, từ ghép) như nhà cửa, nhà hàng, chạy nhảy, chạy chọt, vui chơi, vui miệng, vui vẻ, xanh đỏ, xanh xao, xanh rờn… Vốn từ của các em được mở rộng dần cùng quá trình tiếp nhận các nội dung học tập ở từng khối lớp, quá trình giao tiếp ở những phạm vi rộng hơn.
Nâng cao vốn từ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Việc giúp học sinh nâng cao vốn từ là giúp cho các em nắm ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp. Để học sinh nâng cao vốn từ thì trước hết phải dạy cho các em nắm được từ ngữ, tạo cho các em năng lực sử dụng từ ngữ, nắm được các từ ngữ thông dụng tối thiểu về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở trường, ở nhà, tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước con người…
Vốn từ của học sinh được làm giàu dựa trên những ngữ liệu chủ yếu là những bài tập đọc, những câu chuyện kể, các bài tập về mở rộng vốn từ trong luyện từ và câu, các bài tập làm văn… Từ lớp 2 tất cả các nội dung có liên quan đến từ ngữ đều được sắp xếp theo chủ đề. Nói cách khác cung cấp từ ngữ theo chủ đề là cơ sở của tính tuần tự trong dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ ở tiểu học.
Một số đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số:
Học sinh người dân tộc thiểu số thường gặp khó khăn trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ với giáo viên, với các bạn học là người Kinh.
Khó thích ứng với môi trường mới nên thường rụt rè, sợ sệt, ít nói, ngại giao tiếp với các bạn người Kinh.
Các em thường mặc cảm, tự ti vì cảm thấy thua kém với mọi người, hay giữ khoảng cách.
Ở trường học, các em thường lúng túng trong giao tiếp vì vốn từ của các em còn hạn chế nên dẫn đến ngại sử dụng tiếng Việt. Các em chỉ dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp với bạn bè ở trường.
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
1. Đặt vấn đề.
Ngôn ngữ là chìa khóa để con người tiếp cận với thế giới xung quanh, là phương tiện duy nhất lưu trữ và truyền tải nguồn tri thức của nhân loại đến với mỗi con người. Sự khác biệt về ngôn ngữ là rào cản ngăn sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới.
Trong nhà trường, tiếng Việt là công cụ của các hoạt động dạy và học. Đối với người học, nắm vững tiếng Việt mới có thể nắm vững những kiến thức và kĩ năng trong các môn học.
Đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số, thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ trong quá trình giao tiếp với gia đình cũng như ngoài cộng đồng dân tộc đã hạn chế sự phát triển của tiếng Việt. Tiếng Việt đối với các em là ngôn ngữ thứ 2 và ngôn ngữ này các em chỉ sử dụng trong quá trình học ở trường. Thậm chí, các em chỉ sử dụng tiếng Việt khi giao tiếp với thầy, cô còn giao tiếp với bạn bè các em lại trở lại với ngôn ngữ dân tộc của mình. Chính vì vậy, vấn đề phát âm không chuẩn tiếng Việt, viết sai lỗi chính tả, dùng từ không đúng nghĩa, không hiểu nghĩa của từ, không biết sử dụng dấu câu, không diễn đạt được ý muốn nói bằng tiếng Việt,… Nói chung, kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh dân tộc trong giao tiếp là rất hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới quá trình tiếp thu kiến thức của các em.
Là một giáo viên giảng dạy trong một ngôi trường thuộc vùng sâu, vùng xa của tỉnh Lào Cai, với 100% học sinh trong trường là dân tộc Mông nên tôi phần nào hiểu được sự khó khăn của các em khi sử dụng tiếng Việt. Điều các em còn thiếu ở đây chính là vốn từ tiếng Việt. Vốn từ tiếng Việt nghèo nàn làm các em gặp khó khăn trong quá trình học tập ở tất cả các môn học.
Công tác trên vùng cao đến nay cũng đã 10 năm, qua 10 năm đồng hành cùng các em tôi nhận thấy rằng các em gặp rất nhiều khó khăn trong học tập các phân môn của tiếng Việt nói riêng, cũng như trong cả quá trình học tập nói chung. Trong quá trình giảng dạy của bản thân, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm tòi một số biện pháp để giúp các em mở rộng được vốn từ tiếng Việt cho bản thân nhằm giúp các em học tập tốt hơn.
Với những lí do trên, nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp mở rộng vốn từ tiếng Việt cho học sinh lớp 5” để muốn trao đổi một vài kinh nghiệm với đồng nghiệp, giúp việc học tập của học sinh được nhẹ nhàng hơn, và cùng góp một phần nhỏ hoàn thành mục tiêu chung của giáo dục huyện nhà: “Tiếng Việt là sự sống còn của giáo dục Si Ma Cai”.
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Cơ sở lí luận
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em nói chung và học sinh tiểu học nói riêng là một quá trình liên tục. Quá trình đó đi từ đơn giản đến phức tạp tùy thuộc vào nhận thức, vào hoàn cảnh sống, vào nhiệm vụ học tập của các em ở từng giai đoạn. Sự lĩnh hội về từ vựng – một đơn vị ngôn ngữ nằm trong quy luật ấy.
Ban đầu là việc nhận biết những từ có cấu tạo đơn giản (từ đơn đơn âm) như nhà, bàn, chạy, chơi, đỏ, vui; sau là nhận biết và sử dụng các từ có cấu tạo phức tạp hơn (từ láy, từ ghép) như nhà cửa, nhà hàng, chạy nhảy, chạy chọt, vui chơi, vui miệng, vui vẻ, xanh đỏ, xanh xao, xanh rờn… Vốn từ của các em được mở rộng dần cùng quá trình tiếp nhận các nội dung học tập ở từng khối lớp, quá trình giao tiếp ở những phạm vi rộng hơn.
Nâng cao vốn từ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Việc giúp học sinh nâng cao vốn từ là giúp cho các em nắm ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp. Để học sinh nâng cao vốn từ thì trước hết phải dạy cho các em nắm được từ ngữ, tạo cho các em năng lực sử dụng từ ngữ, nắm được các từ ngữ thông dụng tối thiểu về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở trường, ở nhà, tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước con người…
Vốn từ của học sinh được làm giàu dựa trên những ngữ liệu chủ yếu là những bài tập đọc, những câu chuyện kể, các bài tập về mở rộng vốn từ trong luyện từ và câu, các bài tập làm văn… Từ lớp 2 tất cả các nội dung có liên quan đến từ ngữ đều được sắp xếp theo chủ đề. Nói cách khác cung cấp từ ngữ theo chủ đề là cơ sở của tính tuần tự trong dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ ở tiểu học.
Một số đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số:
Học sinh người dân tộc thiểu số thường gặp khó khăn trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ với giáo viên, với các bạn học là người Kinh.
Khó thích ứng với môi trường mới nên thường rụt rè, sợ sệt, ít nói, ngại giao tiếp với các bạn người Kinh.
Các em thường mặc cảm, tự ti vì cảm thấy thua kém với mọi người, hay giữ khoảng cách.
Ở trường học, các em thường lúng túng trong giao tiếp vì vốn từ của các em còn hạn chế nên dẫn đến ngại sử dụng tiếng Việt. Các em chỉ dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp với bạn bè ở trường.
THẦY CÔ TẢI NHÉ!