- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,419
- Điểm
- 113
tác giả
TÀI LIỆU GIÁO ÁN GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG LỚP 8 CHỦ ĐỀ 3 ĐÔ THỊ CỔ Ở NGHỆ AN được soạn dưới dạng file word gồm 12 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
CHỦ ĐỀ 3 ĐÔ THỊ CỔ Ở NGHỆ AN
MỞ ĐẦU
Thế kỷ XVIII - XIX, trên cơ sở kinh tế hàng hóa phát triển, sự giao lưu giữa các địa phương được mở rộng. Hệ thống chợ huyện, chợ phủ, chợ trấn làm cho thương nghiệp Nghệ An trở nên khá nhộn nhịp. Lam Thành (khu vực chợ Tràng hiện nay) là lỵ sở của Nghệ An thời Lê sơ, đến thời Lê Trung Hưng, trấn ty chuyển vào Dinh Cầu (xã Hà Trung, Kỳ Anh), sau lại dời ra Dũng Quyết (phường Trung Đô, TP Vinh hiện nay). Phố Phù Thạch bên bờ sông Lam cạnh lỵ sở trấn cho đến đầu thế kỷ XIX từng nổi tiếng là một nơi đô hội:
Phồn hoa nổi áng thị thành,
Đây Phù Thạch phố là danh lịch triều.
(Mai đình mộng ký. Nguyễn Huy Hổ)
? Các đô thị ở Nghệ An ra đời, phát triển và có vai trò như thế nào?
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Không gian đô thị Vinh từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX
Từ trong lịch sử, ngay từ khi chưa trở thành lỵ sở của Nghệ An, Vinh, với chợ Vinh đã được biết đến như một nơi đô hội, một nơi “đất lành chim đậu” cho người tứ phương, trong đó có cả người nước ngoài đến sinh cơ lập nghiệp.
Năm 1786, sau khi đập tan quân Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp Chúa Trịnh đã bỏ đường Thượng đạo mà đi theo đường Gián đạo (qua khe Bãi Vọt sang Lam Thành) đã phát hiện vùng đất Yên Trường (Vinh bây giờ). Sau khi dẹp tan quân Trịnh, thống nhất đất nước, Nguyễn Huệ đã nghĩ ngay đến việc tìm một vùng đóng đô khác mà có thể khống chế được cả trong Nam, ngoài Bắc. Đầu tiên ông định chọn vùng Phù Thanh (phía dưới núi Thành ven sông Lam) nhưng thấy vùng đất này thường hay bị lũ lụt làm sạt lở, cho nên ngày 03/09 năm Thái Đức XI (tức ngày 01/10/1788) Quang Trung viết chiếu gửi cho Nguyễn Thiếp chọn Yên Trường xây dựng kinh đô. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đến vùng Yên Trường thị sát chọn vùng đất giữa núi Quyết và núi con Mèo (Kỳ lân) vì thấy nơi đây là đất "thiêng" hội tụ đầy đủ bốn con vật thiêng mà cha ông đã ngàn đời tôn vinh thờ cúng là: Long - Ly - Quy - Phượng để xây thành gọi là thành
Phượng Hoàng Trung Đô.
Thành Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng ở dưới chân núi Kỳ Lân (có tên gọi khác là núi con Mèo), nằm ở phía nam núi Quyết, cách khoảng hơn 500 mét. Thành được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng nằm phía tây nam núi Dũng Quyết, ôm lấy núi Con Mèo, sát bên sông Gie (tức sông Cồn Mộc) đổ ra sông Lam, nay thuộc địa phận khối III, phường Trung Đô, thành phố Vinh.
Thành không xây theo một hình dáng nhất định mà lợi dụng địa thế thiên nhiên núi, sông vùng này. Thành có hai lớp: nội và ngoại, cả hai lớp đều lấy núi Dũng Quyết làm mặt chắn phía đông bắc. Hiện nay, thành không còn nguyên vẹn, dấu vết còn lại là những đoạn thành thấp hoặc những đoạn đường thẳng hay gấp khúc. Tuy nhiên từ những vết còn lại cũng có thể hình dung được vị trí, qui mô về thành. Dấu vết thành Phượng Hoàng Trung Đô còn được tìm thấy là nnuwngx viên gạch có khắc chữ Hán: “Gạch màu nâu đỏ, kích thước 29 cm x 14 cm x 5 cm, đặc biệt có gạch hình chữ # nổi ở một bên,…Đây là những viên gạch dùng để xây dựng tòa thành Phượng Hoàng Trung Đô của hoàng đế Quang Trung năm 1788 - 1792”
TÀI LIỆU GDĐP LỚP 8
CHỦ ĐỀ 3 ĐÔ THỊ CỔ Ở NGHỆ AN
Học xong chủ đề, em sẽ: Kể được tên một số đô thị ở Nghệ An từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX. Nêu và phân tích được vị trí và vai trò của các đô thị ở Nghệ An đối với lịch sử dân tộc từ thế kỉ VIII đến thế kỉ XIX; Chỉ ra được địa điểm của các đô thị cổ ở Nghệ An với các địa giới hành chính hiện nay. |
MỞ ĐẦU
Thế kỷ XVIII - XIX, trên cơ sở kinh tế hàng hóa phát triển, sự giao lưu giữa các địa phương được mở rộng. Hệ thống chợ huyện, chợ phủ, chợ trấn làm cho thương nghiệp Nghệ An trở nên khá nhộn nhịp. Lam Thành (khu vực chợ Tràng hiện nay) là lỵ sở của Nghệ An thời Lê sơ, đến thời Lê Trung Hưng, trấn ty chuyển vào Dinh Cầu (xã Hà Trung, Kỳ Anh), sau lại dời ra Dũng Quyết (phường Trung Đô, TP Vinh hiện nay). Phố Phù Thạch bên bờ sông Lam cạnh lỵ sở trấn cho đến đầu thế kỷ XIX từng nổi tiếng là một nơi đô hội:
Phồn hoa nổi áng thị thành,
Đây Phù Thạch phố là danh lịch triều.
(Mai đình mộng ký. Nguyễn Huy Hổ)
? Các đô thị ở Nghệ An ra đời, phát triển và có vai trò như thế nào?
HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Không gian đô thị Vinh từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX
Từ trong lịch sử, ngay từ khi chưa trở thành lỵ sở của Nghệ An, Vinh, với chợ Vinh đã được biết đến như một nơi đô hội, một nơi “đất lành chim đậu” cho người tứ phương, trong đó có cả người nước ngoài đến sinh cơ lập nghiệp.
Năm 1786, sau khi đập tan quân Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc dẹp Chúa Trịnh đã bỏ đường Thượng đạo mà đi theo đường Gián đạo (qua khe Bãi Vọt sang Lam Thành) đã phát hiện vùng đất Yên Trường (Vinh bây giờ). Sau khi dẹp tan quân Trịnh, thống nhất đất nước, Nguyễn Huệ đã nghĩ ngay đến việc tìm một vùng đóng đô khác mà có thể khống chế được cả trong Nam, ngoài Bắc. Đầu tiên ông định chọn vùng Phù Thanh (phía dưới núi Thành ven sông Lam) nhưng thấy vùng đất này thường hay bị lũ lụt làm sạt lở, cho nên ngày 03/09 năm Thái Đức XI (tức ngày 01/10/1788) Quang Trung viết chiếu gửi cho Nguyễn Thiếp chọn Yên Trường xây dựng kinh đô. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đến vùng Yên Trường thị sát chọn vùng đất giữa núi Quyết và núi con Mèo (Kỳ lân) vì thấy nơi đây là đất "thiêng" hội tụ đầy đủ bốn con vật thiêng mà cha ông đã ngàn đời tôn vinh thờ cúng là: Long - Ly - Quy - Phượng để xây thành gọi là thành
Phượng Hoàng Trung Đô.
Thành Phượng Hoàng Trung Đô được xây dựng ở dưới chân núi Kỳ Lân (có tên gọi khác là núi con Mèo), nằm ở phía nam núi Quyết, cách khoảng hơn 500 mét. Thành được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng nằm phía tây nam núi Dũng Quyết, ôm lấy núi Con Mèo, sát bên sông Gie (tức sông Cồn Mộc) đổ ra sông Lam, nay thuộc địa phận khối III, phường Trung Đô, thành phố Vinh.
Thành không xây theo một hình dáng nhất định mà lợi dụng địa thế thiên nhiên núi, sông vùng này. Thành có hai lớp: nội và ngoại, cả hai lớp đều lấy núi Dũng Quyết làm mặt chắn phía đông bắc. Hiện nay, thành không còn nguyên vẹn, dấu vết còn lại là những đoạn thành thấp hoặc những đoạn đường thẳng hay gấp khúc. Tuy nhiên từ những vết còn lại cũng có thể hình dung được vị trí, qui mô về thành. Dấu vết thành Phượng Hoàng Trung Đô còn được tìm thấy là nnuwngx viên gạch có khắc chữ Hán: “Gạch màu nâu đỏ, kích thước 29 cm x 14 cm x 5 cm, đặc biệt có gạch hình chữ # nổi ở một bên,…Đây là những viên gạch dùng để xây dựng tòa thành Phượng Hoàng Trung Đô của hoàng đế Quang Trung năm 1788 - 1792”