- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,374
- Điểm
- 113
tác giả
Một sô biên pháp dạy mở rộng vôn từ trong môn Tiếng Viêt cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đạ Sar Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được soạn dưới dạng file word gồm 14 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
I. Lý do chọn đề tài:
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 nêu rõ “Giáo dục Tiếng Việt là môn học mang tính thẩm mỹ – nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cung là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đep về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... Nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về Tiếng Việt, đáp ứng yêu câu cân đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh. Môn Tiếng Việt giúp học sinh phát triển các năng lực chung như: giáo tiếp và hợp tác, tự chủ và tự học, giải quyết vấn đề và sáng tạo; phát triển các năng lực đặc thù: năng lực ngôn ngữ; năng lực văn học và phát triển các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, chăm chỉ. Phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng Tiếng Việt vào đời sống thực tiễn, giáo dục Tiếng Việt tạo dựng sự kết nối với các môn học khác và với đời sống thực tiễn.
Trong môn Tiếng Việt, dạy kiến thức về Luyện từ và câu là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với học sinh lớp 3. Bởi Luyện từ và câu rèn cho các em kỹ năng nói - viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp và thích học môn Tiếng Việt. Trong Luyện từ và câu dạng bài Mở rộng vốn từ được chú trọng với số lượng bài học khá nhiều theo từng chủ điểm. Mục tiêu dạng bài này hướng tới 3 nhiệm vụ chủ yếu: Giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Với học sinh, việc mở rộng vốn từ rất cân thiết, đó là điều kiện thuận lợi để các em học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên cấp học cao hơn. Muốn vậy giáo viên phải có năng lực về từ vựng và phương pháp dạy học tích cực phù hợp với đối tượng học sinh.
Hiện nay, cách dạy của giáo viên trong giờ mở rộng vốn từ còn đơn điệu, lệ thuộc sách hướng dẫn, ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa lôi cuốn học sinh,… Các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy cung như tranh ảnh, đồ dùng dạy học chưa được giáo viên khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó, cách miêu tả, giải thích nghĩa một số từ trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn còn mang tính chất ngôn ngữ học, chưa phù hợp với lối tư duy trực quan của các em. Khi dạy dạng bài mở rộng vốn từ giáo viên thường dành chủ yếu thời gian cho phân lý thuyết còn phân luyện tập chưa quan tâm thoả đáng. Yêu câu đối với học sinh của giáo
viên còn rập khuôn, máy móc. Từ đó các em không hứng thú trong giờ học và chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Làm thế nào để học sinh lớp 3 tích cực, chủ động sáng tạo hơn khi học các dạng bài về mở rộng vốn từ? Các tiết dạy mở rộng vốn từ không trở nên nặng nề với giáo viên và học sinh nữa? Đó chính là băn khoăn, trăn trở của tất cả giáo viên trong khối 3. Vì vậy chúng tôi chọn chuyên đề “Một sô biên phap dạy mở rộng vôn từ trong môn Tiếng Viêt cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đạ Sar” để nghiên cứu nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc và góp phân nâng cao chất lượng dạy học trong khối.
Thực trạng
Đặc điểm tình hình
Tổng số học sinh toàn khối: 144 em/ 4 lớp (bình quân 36 học sinh/ lớp). Trong
đó: Nữ: 74; học sinh dân tộc: 123.
Học sinh học 2 buổi/ngày.
Thuận lơi và kho khăn. a. Thuận lơi
*Về phía giao viên
Ban Giám hiệu thường xuyên quan tâm, chỉ đạo sát sao, chú trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên nói chung và giáo viên khối Ba nói riêng. 100% giáo viên được bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn về nội dung chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018.
100% giáo viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo; nhiệt tình trong công tác giảng dạy, tâm huyết với nghề.
* Về phía học sinh
100% học sinh được trang bị đây đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu câu.
Đa số học sinh chăm ngoan, có ý thức phấn đấu trong học tập.
* Về phía phụ huynh
Đa số phụ huynh học sinh đều quan tâm, chăm lo đến việc học tập của con em.
Luôn nhiệt tình, phối hợp kịp thời với nhà trường trong các hoạt động.
* Một sô yếu tô khac
Chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo hướng mở, giáo viên có thể chủ động, linh hoạt chương trình, tự điều chỉnh kế hoạch dạy sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh.
Sách giáo khoa được trình bày khá bắt mắt, kênh chữ, kênh hình đep, hài hòa, nhiều hình ảnh minh họa sinh động. Nội dung từng bài học thể hiện rõ các bước lên lớp như: khởi động; nhận biết; đọc; viết; nói; nghe. Những bài học trong sách giáo khoa không trình bày thành hệ thống mà phân nhánh và xen kẽ kiến thức với hoạt động.
Nội dung chương trình có tính mở nên tạo điều kiện để giáo viên dễ cập nhật tri thức mới. Sách Tiếng Việt cấu trúc bài rõ ràng, giáo viên dễ định hướng dạy cho học sinh và các em dễ tìm hiểu, biết nội dung cân đạt ở mỗi bài.
Mỗi lớp học đều được trang bị 01 ti vi, bảng tương tác, đặc biệt thuận lợi cho sử dụng tranh ảnh, bài hát khởi động, trò chơi học tập.
b. Kho khăn
* Về phía học sinh
Nhận thức của học sinh trong mỗi lớp học chưa đồng đều. Một số em còn nhút nhát chưa tự tin khi nói, khi trao đổi nhóm với bạn và tương tác với giáo viên.
Năm học học sinh học lớp 2 do dịch Covid 19, học sinh phải học một buổi/ngày và học trực tuyến nên cung ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển ngôn ngữ của học sinh.
Qua những tuân đâu năm, tôi thấy học sinh học các bài về mở rộng vốn từ chưa tốt, các em còn hạn chế về vốn từ, mắc nhiều lỗi về dùng từ, đặt câu, có một số học sinh dùng từ chưa chính xác, chưa hiểu nghĩa của từ, đặt câu chưa đúng ngữ pháp, chưa biết đặt câu có hình ảnh so sánh.
Nhiều từ ngữ làm học sinh khó hiểu vì thiếu thực tế.
* Về phía giao viên
Đây là năm đâu tiên áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với khối lớp 3 nên giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong cách dạy, thiếu kinh nghiệm trong phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Giáo viên chưa chủ động, linh hoạt thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập trong giờ học nên một số tiết dạy theo sách giáo khoa từ đâu đến cuối. Tức là chỉ hướng dẫn học sinh lân lượt các bài tập ở sách giáo khoa theo trình tự và hình thức như nhau ( chủ yếu là làm việc cá nhân ). Giáo viên chưa tạo cho học sinh sự chủ động, tích cực trong việc huy động các kiến thức và kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt vào việc lĩnh hội kiến thức mới của bài học khiến giờ học trở nên nặng nề.
* Về phía phụ huynh
Đa số gia đình các em sống bằng nghề nông, kinh tế còn khó khăn nên phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em.
III. Giải phap
1. Giao viên cần nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học
Để dạy tốt dạng bài Mở rộng vốn từ tiếng Việt, trước hết giáo viên cân nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 3. Ở lứa tuổi này các em thiếu hiểu biết về mọi mặt, đặc biệt là sự nhận biết về thực tế cuộc sống. Vì vậy người giáo viên cân phải tạo hứng thú trong học tập và phải thường xuyên được luyện tập. Tâm hồn các em rất trong sáng, hồn nhiên, giàu cảm xúc, dễ chia sẻ với bạn bè và người mình tin yêu, các em luôn tìm kiếm sự gân gui, yêu thương từ người
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
Một sô biên pháp dạy mở rộng vôn từ trong môn Tiếng Viêt
cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đạ Sar Chương trình Giáo dục phổ thông 2018
Một sô biên pháp dạy mở rộng vôn từ trong môn Tiếng Viêt
cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đạ Sar Chương trình Giáo dục phổ thông 2018
I. Lý do chọn đề tài:
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 nêu rõ “Giáo dục Tiếng Việt là môn học mang tính thẩm mỹ – nhân văn; giúp học sinh có phương tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường; đồng thời cung là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đep về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... Nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kỹ năng cơ bản, thiết yếu về Tiếng Việt, đáp ứng yêu câu cân đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh. Môn Tiếng Việt giúp học sinh phát triển các năng lực chung như: giáo tiếp và hợp tác, tự chủ và tự học, giải quyết vấn đề và sáng tạo; phát triển các năng lực đặc thù: năng lực ngôn ngữ; năng lực văn học và phát triển các phẩm chất: yêu nước, nhân ái, trung thực, trách nhiệm, chăm chỉ. Phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng Tiếng Việt vào đời sống thực tiễn, giáo dục Tiếng Việt tạo dựng sự kết nối với các môn học khác và với đời sống thực tiễn.
Trong môn Tiếng Việt, dạy kiến thức về Luyện từ và câu là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với học sinh lớp 3. Bởi Luyện từ và câu rèn cho các em kỹ năng nói - viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp và thích học môn Tiếng Việt. Trong Luyện từ và câu dạng bài Mở rộng vốn từ được chú trọng với số lượng bài học khá nhiều theo từng chủ điểm. Mục tiêu dạng bài này hướng tới 3 nhiệm vụ chủ yếu: Giúp học sinh phong phú hoá vốn từ, chính xác hoá vốn từ và tích cực hoá vốn từ. Với học sinh, việc mở rộng vốn từ rất cân thiết, đó là điều kiện thuận lợi để các em học tốt các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp lên cấp học cao hơn. Muốn vậy giáo viên phải có năng lực về từ vựng và phương pháp dạy học tích cực phù hợp với đối tượng học sinh.
Hiện nay, cách dạy của giáo viên trong giờ mở rộng vốn từ còn đơn điệu, lệ thuộc sách hướng dẫn, ít sáng tạo, chưa sinh động, chưa lôi cuốn học sinh,… Các tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy cung như tranh ảnh, đồ dùng dạy học chưa được giáo viên khai thác có hiệu quả. Bên cạnh đó, cách miêu tả, giải thích nghĩa một số từ trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn còn mang tính chất ngôn ngữ học, chưa phù hợp với lối tư duy trực quan của các em. Khi dạy dạng bài mở rộng vốn từ giáo viên thường dành chủ yếu thời gian cho phân lý thuyết còn phân luyện tập chưa quan tâm thoả đáng. Yêu câu đối với học sinh của giáo
viên còn rập khuôn, máy móc. Từ đó các em không hứng thú trong giờ học và chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Làm thế nào để học sinh lớp 3 tích cực, chủ động sáng tạo hơn khi học các dạng bài về mở rộng vốn từ? Các tiết dạy mở rộng vốn từ không trở nên nặng nề với giáo viên và học sinh nữa? Đó chính là băn khoăn, trăn trở của tất cả giáo viên trong khối 3. Vì vậy chúng tôi chọn chuyên đề “Một sô biên phap dạy mở rộng vôn từ trong môn Tiếng Viêt cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Đạ Sar” để nghiên cứu nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc và góp phân nâng cao chất lượng dạy học trong khối.
Thực trạng
Đặc điểm tình hình
Tổng số học sinh toàn khối: 144 em/ 4 lớp (bình quân 36 học sinh/ lớp). Trong
đó: Nữ: 74; học sinh dân tộc: 123.
Học sinh học 2 buổi/ngày.
Thuận lơi và kho khăn. a. Thuận lơi
*Về phía giao viên
Ban Giám hiệu thường xuyên quan tâm, chỉ đạo sát sao, chú trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên nói chung và giáo viên khối Ba nói riêng. 100% giáo viên được bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn về nội dung chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018.
100% giáo viên đạt chuẩn về trình độ đào tạo; nhiệt tình trong công tác giảng dạy, tâm huyết với nghề.
* Về phía học sinh
100% học sinh được trang bị đây đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu câu.
Đa số học sinh chăm ngoan, có ý thức phấn đấu trong học tập.
* Về phía phụ huynh
Đa số phụ huynh học sinh đều quan tâm, chăm lo đến việc học tập của con em.
Luôn nhiệt tình, phối hợp kịp thời với nhà trường trong các hoạt động.
* Một sô yếu tô khac
Chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo hướng mở, giáo viên có thể chủ động, linh hoạt chương trình, tự điều chỉnh kế hoạch dạy sao cho phù hợp với đối tượng của học sinh.
Sách giáo khoa được trình bày khá bắt mắt, kênh chữ, kênh hình đep, hài hòa, nhiều hình ảnh minh họa sinh động. Nội dung từng bài học thể hiện rõ các bước lên lớp như: khởi động; nhận biết; đọc; viết; nói; nghe. Những bài học trong sách giáo khoa không trình bày thành hệ thống mà phân nhánh và xen kẽ kiến thức với hoạt động.
Nội dung chương trình có tính mở nên tạo điều kiện để giáo viên dễ cập nhật tri thức mới. Sách Tiếng Việt cấu trúc bài rõ ràng, giáo viên dễ định hướng dạy cho học sinh và các em dễ tìm hiểu, biết nội dung cân đạt ở mỗi bài.
Mỗi lớp học đều được trang bị 01 ti vi, bảng tương tác, đặc biệt thuận lợi cho sử dụng tranh ảnh, bài hát khởi động, trò chơi học tập.
b. Kho khăn
* Về phía học sinh
Nhận thức của học sinh trong mỗi lớp học chưa đồng đều. Một số em còn nhút nhát chưa tự tin khi nói, khi trao đổi nhóm với bạn và tương tác với giáo viên.
Năm học học sinh học lớp 2 do dịch Covid 19, học sinh phải học một buổi/ngày và học trực tuyến nên cung ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển ngôn ngữ của học sinh.
Qua những tuân đâu năm, tôi thấy học sinh học các bài về mở rộng vốn từ chưa tốt, các em còn hạn chế về vốn từ, mắc nhiều lỗi về dùng từ, đặt câu, có một số học sinh dùng từ chưa chính xác, chưa hiểu nghĩa của từ, đặt câu chưa đúng ngữ pháp, chưa biết đặt câu có hình ảnh so sánh.
Nhiều từ ngữ làm học sinh khó hiểu vì thiếu thực tế.
* Về phía giao viên
Đây là năm đâu tiên áp dụng chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với khối lớp 3 nên giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong cách dạy, thiếu kinh nghiệm trong phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.
Giáo viên chưa chủ động, linh hoạt thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động học tập trong giờ học nên một số tiết dạy theo sách giáo khoa từ đâu đến cuối. Tức là chỉ hướng dẫn học sinh lân lượt các bài tập ở sách giáo khoa theo trình tự và hình thức như nhau ( chủ yếu là làm việc cá nhân ). Giáo viên chưa tạo cho học sinh sự chủ động, tích cực trong việc huy động các kiến thức và kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt vào việc lĩnh hội kiến thức mới của bài học khiến giờ học trở nên nặng nề.
* Về phía phụ huynh
Đa số gia đình các em sống bằng nghề nông, kinh tế còn khó khăn nên phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em.
III. Giải phap
1. Giao viên cần nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học
Để dạy tốt dạng bài Mở rộng vốn từ tiếng Việt, trước hết giáo viên cân nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 3. Ở lứa tuổi này các em thiếu hiểu biết về mọi mặt, đặc biệt là sự nhận biết về thực tế cuộc sống. Vì vậy người giáo viên cân phải tạo hứng thú trong học tập và phải thường xuyên được luyện tập. Tâm hồn các em rất trong sáng, hồn nhiên, giàu cảm xúc, dễ chia sẻ với bạn bè và người mình tin yêu, các em luôn tìm kiếm sự gân gui, yêu thương từ người
THẦY CÔ TẢI NHÉ!