- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,945
- Điểm
- 113
tác giả
Sáng kiến kinh nghiệm sơ đồ tư duy môn văn lớp 6; Sử dụng sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Yên Lạc được soạn dưới dạng file word gồm 21 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là môn học thuộc nhóm ngành khoa học xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giáo dục, cũng như đối với đời sống và sự phát triển tư duy của con người. Mặc dù vậy, có một thực tế là rất nhiều học sinh thế hệ hiện nay không còn yêu thích, có hứng thú học tập môn ngữ văn; cũng như chưa ý thức được vai trò, ý nghĩa to lớn của môn học này. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chính quá trình dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay: hoạt động dạy học ngữ văn, nhất là đối với các bài học có nội dung trọng tâm là truyền đạt kiến thức cho học sinh, dường như mới chỉ dừng ở những “Kênh chữ”, một số bài có cung cấp thêm hình ảnh. Nhiều giáo viên mới chỉ tập trung bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa thực sự chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ, làm cho tiết học thêm sinh động. Những tiết học Ngữ văn do vậy trở nên kém sinh động, hấp dẫn, thậm chí có phần nặng nề, không tạo được hứng thú, khơi dậy niềm say mê tìm hiểu, khám phá ở các em. Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường hiện nay để nhằm vừa đảm bảo trang bị kiến thức, vừa tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn các em tích cực tham gia học tập, yêu thích môn Ngữ văn là một yêu cầu cần thiết.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) là một hình thức ghi chép sử dụng hình ảnh, màu sắc để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đó là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể được miêu tả như một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não người, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. SĐTD giúp cho học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn: Việc sử dụng sơ đồ tư duy để tiếp cận, mở rộng và hệ thống tri thức giúp các em khắc phục tình trạng học bài nào biết bài ấy, “Học trước quên sau”; đồng thời biết liên kết các đơn vị kiến thức với nhau, cũng như vận dụng những tri thức đã học từ trước vào những phần học sau. Ngoài ra, sử dụng mô hình SĐTD giúp học sinh một mặt vừa đọc sách, nghe giảng trên lớp, đồng thời biết cách tự ghi chép, ghi nhớ các thông tin, kiến thức trọng tâm. Nói cách khác, sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong học tập giúp học sinh có được phương pháp học chủ động, động lập, sáng tạo và không ngừng phát triển tư duy.
Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới chương trình Sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy trong các nhà trường phổ thông, Bộ GD&ĐT tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy ngữ văn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn quan trọng này. Một trong những kĩ thuật giảng dạy mới, hiện đại rất được chú trọng là dạy học bằng sơ đồ tư duy - một kĩ thuật hiện cũng đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Thực tế cho thấy, việc vận dụng phương pháp này vào quá trình dạy học môn ngữ văn đã cho thấy hiệu quả nhất định; bước đầu đã khắc phục được tâm lý ngại học ngữ văn ở học sinh, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới, cũng như khơi gợi ở các em tình yêu đối với môn học này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Yên Lạc” cho nghiên cứu của mình.
Mục đích nghiên cứu
Qua quá trình dạy học tôi thấy việc sử dụng sơ đồ tư duylà rất hiệu quả. Giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng, kích thích tư duy học tập của học sinh trong việc học môn Ngữ văn 6 tại trường THCS Yên Lạc, nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn lớp 6. Cụ thể
Là học sinh lớp 6A trường THCS Yên Lạc.
Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp chủ yếu là điều tra, đánh giá, quy nạp, tổng hợp, so sánh. Qua khảo khát chất lượng đầu năm ở lớp 6A năm học 2020-2021 Trường THCS Yên Lạc. Tôi thấy chất lượng của học sinh môn Ngữ văn chưa cao tỉ lệ khá, giỏi còn ít .Vì vậy tôi quyết định sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học Ngữ văn 6, nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dạy và học trong nhà trường bao gồm hoạt động giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Bản chất của hoạt động dạy - học là quá trình truyền thụ tri thức, kỹ năng của giáo viên và lĩnh hội, làm chủ các kiến thức, kỹ năng của người học thông qua bài dạy; những tri thức, kỹ năng đó được người học tiếp cận, ghi nhớ, vận dụng trong mỗi bài học, cũng như trong thực tế đời sống hàng ngày. Chính vì lẽ đó, ghi nhớ là một yêu cầu, thao tác hết sức quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Việc tìm ra một phương pháp giúp ghi nhớ, khắc sâu tri thức một cách hiệu quả, từ đó tạo cơ sở cho mở rộng, sáng tạo tri thức có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cả hoạt động dạy của giáo viên cũng như hoạt động học tập của học sinh.
Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, khối lượng kiến thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở nên “quá tải”, tạo ra áp lực không nhỏ đối với cả hoạt động dạy học của giáo viên lẫn việc học tập của học sinh: Thời gian có hạn mà kiến thức phải học ngày càng nhiều; “sức học” của học sinh ở các môn học đang trở nên “quá tải”;… Điều này dẫn đến thực trạng nhiều học sinh cảm thấy ngại học, lười học; giáo viên không có điều kiện khắc sâu, mở rộng bài giảng vì phải tập trung “đối phó” với khối lượng bài dạy.
Để giải quyết vấn đề trên, việc vận dụng phương pháp SĐTD trong quá trình dạy và học đang cho thấy những hiệu quả tích cực. Phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy không chỉ giúp giáo viên và học sinh “đơn giản hóa” nội dung kiến thức của môn học, từ đó giải quyết vấn đề “quá tải” về mặt kiến thức; mà còn đem lại cho các em một cái nhìn tổng quát, đa chiều về nội dung bài học, từ đó có khả năng ghi nhớ, cũng như xâu chuỗi các kiến thức một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho việc học tập của các em không trở thành nhàm chán.
Sơ đồ tư duy là bản đồ thông tin cho bộ não của bạn, giúp nó hoạt động nhẹ nhàng, lưu trữ nhiều và nhớ thông tin được lâu hơn. Xét về mặt hình thức, SĐTD là một hình thức ghi chép thông qua việc sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nó có vai trò như một công cụ tổ chức tư duy nền tảng. Việc vận dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn, đồng thời tăng cường tính tích cực học tập ở các em. Các kết quả nghiên cứu khoa học đã chứng minh, bộ não của con người có khả năng khắc sâu, duy trì lâu hơn đối với những thông tin được chính bản thân mỗi người “Khám phá” thông qua việc tự viết, vẽ - “mã hóa” theo ngôn ngữ riêng của mỗi cá nhân. Do đó, việc sử dụng SĐTD không chỉ giúp cho mỗi học sinh gia tăng tích cực trong học tập, mà còn giúp huy động tối đa tiềm năng tư duy, suy luận ở các em. Thực tế cho thấy, nhiều học sinh mặc dù khá chăm chỉ học tập, song kết quả đạt được vẫn không cao: Các em thường học bài nào biết bài đó, học trước quên sau, nhất là không biết liên hệ các kiến thức với nhau, hay vận dụng những kiến thức đã học ở bài trước vào những phần được học về sau. Mặt khác, rất nhiều em trong quá trình đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp gặp phải khó khăn trong việc ghi chép, ghi nhớ kiến thức đã đọc hoặc đã được thầy cô giảng dạy. Với việc sử dụng thành thạo SĐTD trong học tập, học sinh có được một công cụ hiệu quả trong việc ghi nhớ, lưu giữ kiến thức một cách tích cực, chủ động sáng tạo thông qua những hình khối, đường nét, màu sắc sinh động, cũng chứa đựng khả năng dẫn dắt, gợi mở to lớn.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
Thực trạng chung.
Ngữ văn là một môn học có vai trò đặc biệt quan trọng, tuy nhiên, có một thực tế là, ngày càng có nhiều học sinh không còn yêu thích môn học này, thậm chí thờ ơ, lười học, dẫn đến ngại học môn văn. Nhiều học sinh có tố chất, năng khiếu môn Ngữ văn cũng không có mong muốn được tham gia đội tuyển học sinh giỏi văn ở trường; nhiều bậc phụ huynh cũng không khuyến khích, động viên con em mình “tập trung”, “đầu tư lâu dài” cho môn ngữ văn trong định hướng học tập cũng như phát triển về lâu dài. Do đó, với không ít học sinh, việc học tập môn ngữ văn trở nên nhiều khi chỉ mang tính đối phó; các tiết học môn văn dường như đem đến những “áp lực”, nhàm. Thực tế trên đã dẫn đến nhiều “hậu quả” rất đáng suy ngẫm: không khó để nhận ra những lỗi sai cơ bản rất nhiều mắc phải trong quá trình tạo lập văn bản đơn giản như dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả, lôgic, bố cục;… nhiều em bị hổng kiến thức văn học, cũng như hạn chế về năng lực tư duy ở mức đáng báo động, mà “minh chứng” là những bài văn “Cười ra nước mắt” đã không còn là hiếm gặp hiện nay.
Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, bất cập của người dạy, và cả những nguyên nhân thuộc về chính bản thân người học. Về phía người dạy, có thể thấy đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, có ý thức về chuyên môn; tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế: phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa thực sự “phù hợp” với tất cả các đối tượng học sinh, nhất là với một bộ phận học sinh có lực học kém, dẫn đến chất lượng, hiệu quả học tập chưa cao; phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho việc đổi mới phương pháp, áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực còn nhiều thiếu thốn; một số giáo viên chưa thực sự “tâm huyết”, say nghề, có ý thức tìm tòi đào sâu kiến thức, làm phong phú và sinh động bài dạy; ngoài ra còn phải kể đến những bất cập trong cơ cấu, phân phối chương trình sách giáo khoa,… cũng là những nguyên nhân dẫn đến việc tiếp thu bài giảng của học sinh còn nhiều hạn chế.
Về phía học sinh, nhiều em còn ngại học, lười suy nghĩ, không tập trung nghe giảng, dẫn đến tâm thế thiếu tích cực, chủ động trong việc học tập môn ngữ văn. Một số em có phụ huynh đi làm xa, hoặc do bận công việc nên ít có điều kiện dành thời gian quan tâm, kèm cặp con em mình học tập; chưa kể có nhiều em ngoài giờ học trên lớp, còn phải phụ giúp gia đình trong việc mưu sinh nên không có nhiều thời gian giành cho việc tự học. Bên cạnh đó, có thể thấy trong bối cảnh những điều kiện đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần ngày càng không ngừng được nâng cao như hiện nay, rất nhiều học sinh đã bị lôi cuốn, sa đà và các loại hình giải trí khác nhau, dẫn tới sao nhãng việc học, nhất là học thêm và tự học ở nhà.
Thực trạng riêng.
Trường THCS Yên Lạc là trường xa trung tâm huyện, về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học đang còn nhiều khó khăn so với các trường trong khu vực, nhưng với sự nhiệt tình của cán bộ giáo viên trong trường đã khắc phục khó khăn cho nên trong những năm gần đây trường THCS Yên Lạc cũng có một số thành tích trong dạy và học. Giáo viên đều nhiệt tình, tâm huyết với nghề, quan tâm đến học sinh. Qua dự giờ thăm lớp của giáo viên, qua khảo sát chất lượng của học sinh, tôi thấy chất lượng môn Ngữ văn chưa cao và một số giáo viên có sử dụng sơ đồ tư duy vào những tiết dạy học nhưng chưa thường xuyên, chưa thành thói quen, chỉ sử dụng vào những tiết thao giảng nên chất lượng chưa cao.
Để khắc phục những bất cập nêu trên,tôi thiết nghĩ cần có một hệ giải pháp toàn diện, có hiệu quả trong việc tạo chuyển biến theo hướng nâng cao chất lượng giảng dạy đối với đội ngũ giáo viên, cũng như thái độ tích cực của học sinh trong việc học tập môn ngữ văn. Trong đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng như vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại để nhằm không chỉ trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cho học sinh, mà còn tạo ra sức lôi cuốn, khơi gợi ở các em niềm yêu thích với môn học đặc biệt quan trọng này là một trong những trọng tâm cần được ưu tiên. Chính vì lẽ đó, việc vận dụng phương pháp SĐTD trong dạy học môn ngữ văn – với những hiệu quả bước đầu mà phương pháp này đem lại – đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc tìm hiểu, vận dụng SĐTD của nhiều giáo viên dường như mới chỉ đang dừng ở mức độ “tự phát”, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận cũng như “năng lực” cá nhân của mỗi người. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về kĩ thuật này, từ đó đi đến xây dựng thói quen có tính chất phương pháp luận nhằm hướng tới vận dụng phương pháp một cách bài bản, phổ biến và tối ưu, là hết sức cần thiết.
Trước thực trạng đó bản thân tôi băn khoăn suy nghĩ làm sao để có phương pháp tốt giúp học sinh học tập tích cực. Trước khi áp dụng BĐTD vào tiết học, tôi đã cho HS lớp 6A năm học 2020- 2021 làm bài kiểm tra thử nghiệm theo phương pháp dạy học cũ trước đây và kết quả đạt được như sau:
Với kết quả trên, tôi thấy nếu ứng dụng BĐTD vào trong tiết học, HS có thể tiếp thu bài một cách hệ thống, khoa học và kết quả sẽ cao hơn. Vì vậy tôi đã áp dụng BĐTD vào trong đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn 6.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Hướng dẫn học sinh phương pháp thiết kế, xây dựng sơ đồ tư duy
SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Sử dụng SĐTD là sử dụng những hình khối, đường nét, màu sắc để phát triển định hướng và ghi nhớ những khối lượng thông tin có liên quan. Do đó khi xây dựng SĐTD, cần yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau:
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
1.Mở đầu | 1.1. Lí do chọn đề tài. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.3.Đối tượng nghiên cứu 1.4.Phương pháp nghiên cứu | 1 2 2 2 |
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm | 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 2.3.1.Hướng dẫn học sinh phương pháp thiết kế, xây dựng sơ đồ tư duy. 2.3.2. Vận dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học. 2.4 .Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. | 2-.3 4-.6 6 6-.7 7-.16 16-.17 |
3. Kết luận, kiến nghị. | 3.1.Kết luận 3.2. Kiến nghị | 17 17-.18. |
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngữ văn là môn học thuộc nhóm ngành khoa học xã hội, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giáo dục, cũng như đối với đời sống và sự phát triển tư duy của con người. Mặc dù vậy, có một thực tế là rất nhiều học sinh thế hệ hiện nay không còn yêu thích, có hứng thú học tập môn ngữ văn; cũng như chưa ý thức được vai trò, ý nghĩa to lớn của môn học này. Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản xuất phát từ chính quá trình dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường phổ thông hiện nay: hoạt động dạy học ngữ văn, nhất là đối với các bài học có nội dung trọng tâm là truyền đạt kiến thức cho học sinh, dường như mới chỉ dừng ở những “Kênh chữ”, một số bài có cung cấp thêm hình ảnh. Nhiều giáo viên mới chỉ tập trung bám sát nội dung kiến thức trong sách giáo khoa mà chưa thực sự chú ý sử dụng những hình thức khác để bổ trợ, làm cho tiết học thêm sinh động. Những tiết học Ngữ văn do vậy trở nên kém sinh động, hấp dẫn, thậm chí có phần nặng nề, không tạo được hứng thú, khơi dậy niềm say mê tìm hiểu, khám phá ở các em. Chính vì lẽ đó, việc đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy và học môn ngữ văn trong các nhà trường hiện nay để nhằm vừa đảm bảo trang bị kiến thức, vừa tạo được sự hấp dẫn, lôi cuốn các em tích cực tham gia học tập, yêu thích môn Ngữ văn là một yêu cầu cần thiết.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) là một hình thức ghi chép sử dụng hình ảnh, màu sắc để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Đó là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể được miêu tả như một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não người, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. SĐTD giúp cho học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn: Việc sử dụng sơ đồ tư duy để tiếp cận, mở rộng và hệ thống tri thức giúp các em khắc phục tình trạng học bài nào biết bài ấy, “Học trước quên sau”; đồng thời biết liên kết các đơn vị kiến thức với nhau, cũng như vận dụng những tri thức đã học từ trước vào những phần học sau. Ngoài ra, sử dụng mô hình SĐTD giúp học sinh một mặt vừa đọc sách, nghe giảng trên lớp, đồng thời biết cách tự ghi chép, ghi nhớ các thông tin, kiến thức trọng tâm. Nói cách khác, sử dụng thành thạo sơ đồ tư duy trong học tập giúp học sinh có được phương pháp học chủ động, động lập, sáng tạo và không ngừng phát triển tư duy.
Trong những năm gần đây, cùng với việc đổi mới chương trình Sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy trong các nhà trường phổ thông, Bộ GD&ĐT tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương pháp giảng dạy ngữ văn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn quan trọng này. Một trong những kĩ thuật giảng dạy mới, hiện đại rất được chú trọng là dạy học bằng sơ đồ tư duy - một kĩ thuật hiện cũng đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Thực tế cho thấy, việc vận dụng phương pháp này vào quá trình dạy học môn ngữ văn đã cho thấy hiệu quả nhất định; bước đầu đã khắc phục được tâm lý ngại học ngữ văn ở học sinh, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới, cũng như khơi gợi ở các em tình yêu đối với môn học này.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn 6 ở trường THCS Yên Lạc” cho nghiên cứu của mình.
Mục đích nghiên cứu
Qua quá trình dạy học tôi thấy việc sử dụng sơ đồ tư duylà rất hiệu quả. Giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng, kích thích tư duy học tập của học sinh trong việc học môn Ngữ văn 6 tại trường THCS Yên Lạc, nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn lớp 6. Cụ thể
Là học sinh lớp 6A trường THCS Yên Lạc.
Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp chủ yếu là điều tra, đánh giá, quy nạp, tổng hợp, so sánh. Qua khảo khát chất lượng đầu năm ở lớp 6A năm học 2020-2021 Trường THCS Yên Lạc. Tôi thấy chất lượng của học sinh môn Ngữ văn chưa cao tỉ lệ khá, giỏi còn ít .Vì vậy tôi quyết định sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học Ngữ văn 6, nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dạy và học trong nhà trường bao gồm hoạt động giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh. Bản chất của hoạt động dạy - học là quá trình truyền thụ tri thức, kỹ năng của giáo viên và lĩnh hội, làm chủ các kiến thức, kỹ năng của người học thông qua bài dạy; những tri thức, kỹ năng đó được người học tiếp cận, ghi nhớ, vận dụng trong mỗi bài học, cũng như trong thực tế đời sống hàng ngày. Chính vì lẽ đó, ghi nhớ là một yêu cầu, thao tác hết sức quan trọng trong quá trình học tập của học sinh. Việc tìm ra một phương pháp giúp ghi nhớ, khắc sâu tri thức một cách hiệu quả, từ đó tạo cơ sở cho mở rộng, sáng tạo tri thức có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cả hoạt động dạy của giáo viên cũng như hoạt động học tập của học sinh.
Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay, khối lượng kiến thức trong các môn học ở hầu hết các cấp học đang trở nên “quá tải”, tạo ra áp lực không nhỏ đối với cả hoạt động dạy học của giáo viên lẫn việc học tập của học sinh: Thời gian có hạn mà kiến thức phải học ngày càng nhiều; “sức học” của học sinh ở các môn học đang trở nên “quá tải”;… Điều này dẫn đến thực trạng nhiều học sinh cảm thấy ngại học, lười học; giáo viên không có điều kiện khắc sâu, mở rộng bài giảng vì phải tập trung “đối phó” với khối lượng bài dạy.
Để giải quyết vấn đề trên, việc vận dụng phương pháp SĐTD trong quá trình dạy và học đang cho thấy những hiệu quả tích cực. Phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy không chỉ giúp giáo viên và học sinh “đơn giản hóa” nội dung kiến thức của môn học, từ đó giải quyết vấn đề “quá tải” về mặt kiến thức; mà còn đem lại cho các em một cái nhìn tổng quát, đa chiều về nội dung bài học, từ đó có khả năng ghi nhớ, cũng như xâu chuỗi các kiến thức một cách hiệu quả hơn, đồng thời giúp cho việc học tập của các em không trở thành nhàm chán.
Sơ đồ tư duy là bản đồ thông tin cho bộ não của bạn, giúp nó hoạt động nhẹ nhàng, lưu trữ nhiều và nhớ thông tin được lâu hơn. Xét về mặt hình thức, SĐTD là một hình thức ghi chép thông qua việc sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Nó có vai trò như một công cụ tổ chức tư duy nền tảng. Việc vận dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp học sinh có được phương pháp học tập hiệu quả hơn, đồng thời tăng cường tính tích cực học tập ở các em. Các kết quả nghiên cứu khoa học đã chứng minh, bộ não của con người có khả năng khắc sâu, duy trì lâu hơn đối với những thông tin được chính bản thân mỗi người “Khám phá” thông qua việc tự viết, vẽ - “mã hóa” theo ngôn ngữ riêng của mỗi cá nhân. Do đó, việc sử dụng SĐTD không chỉ giúp cho mỗi học sinh gia tăng tích cực trong học tập, mà còn giúp huy động tối đa tiềm năng tư duy, suy luận ở các em. Thực tế cho thấy, nhiều học sinh mặc dù khá chăm chỉ học tập, song kết quả đạt được vẫn không cao: Các em thường học bài nào biết bài đó, học trước quên sau, nhất là không biết liên hệ các kiến thức với nhau, hay vận dụng những kiến thức đã học ở bài trước vào những phần được học về sau. Mặt khác, rất nhiều em trong quá trình đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp gặp phải khó khăn trong việc ghi chép, ghi nhớ kiến thức đã đọc hoặc đã được thầy cô giảng dạy. Với việc sử dụng thành thạo SĐTD trong học tập, học sinh có được một công cụ hiệu quả trong việc ghi nhớ, lưu giữ kiến thức một cách tích cực, chủ động sáng tạo thông qua những hình khối, đường nét, màu sắc sinh động, cũng chứa đựng khả năng dẫn dắt, gợi mở to lớn.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
Thực trạng chung.
Ngữ văn là một môn học có vai trò đặc biệt quan trọng, tuy nhiên, có một thực tế là, ngày càng có nhiều học sinh không còn yêu thích môn học này, thậm chí thờ ơ, lười học, dẫn đến ngại học môn văn. Nhiều học sinh có tố chất, năng khiếu môn Ngữ văn cũng không có mong muốn được tham gia đội tuyển học sinh giỏi văn ở trường; nhiều bậc phụ huynh cũng không khuyến khích, động viên con em mình “tập trung”, “đầu tư lâu dài” cho môn ngữ văn trong định hướng học tập cũng như phát triển về lâu dài. Do đó, với không ít học sinh, việc học tập môn ngữ văn trở nên nhiều khi chỉ mang tính đối phó; các tiết học môn văn dường như đem đến những “áp lực”, nhàm. Thực tế trên đã dẫn đến nhiều “hậu quả” rất đáng suy ngẫm: không khó để nhận ra những lỗi sai cơ bản rất nhiều mắc phải trong quá trình tạo lập văn bản đơn giản như dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả, lôgic, bố cục;… nhiều em bị hổng kiến thức văn học, cũng như hạn chế về năng lực tư duy ở mức đáng báo động, mà “minh chứng” là những bài văn “Cười ra nước mắt” đã không còn là hiếm gặp hiện nay.
Thực trạng đáng suy ngẫm trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ những hạn chế, bất cập của người dạy, và cả những nguyên nhân thuộc về chính bản thân người học. Về phía người dạy, có thể thấy đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, có ý thức về chuyên môn; tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế: phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa thực sự “phù hợp” với tất cả các đối tượng học sinh, nhất là với một bộ phận học sinh có lực học kém, dẫn đến chất lượng, hiệu quả học tập chưa cao; phương tiện, cơ sở vật chất phục vụ cho việc đổi mới phương pháp, áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực còn nhiều thiếu thốn; một số giáo viên chưa thực sự “tâm huyết”, say nghề, có ý thức tìm tòi đào sâu kiến thức, làm phong phú và sinh động bài dạy; ngoài ra còn phải kể đến những bất cập trong cơ cấu, phân phối chương trình sách giáo khoa,… cũng là những nguyên nhân dẫn đến việc tiếp thu bài giảng của học sinh còn nhiều hạn chế.
Về phía học sinh, nhiều em còn ngại học, lười suy nghĩ, không tập trung nghe giảng, dẫn đến tâm thế thiếu tích cực, chủ động trong việc học tập môn ngữ văn. Một số em có phụ huynh đi làm xa, hoặc do bận công việc nên ít có điều kiện dành thời gian quan tâm, kèm cặp con em mình học tập; chưa kể có nhiều em ngoài giờ học trên lớp, còn phải phụ giúp gia đình trong việc mưu sinh nên không có nhiều thời gian giành cho việc tự học. Bên cạnh đó, có thể thấy trong bối cảnh những điều kiện đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần ngày càng không ngừng được nâng cao như hiện nay, rất nhiều học sinh đã bị lôi cuốn, sa đà và các loại hình giải trí khác nhau, dẫn tới sao nhãng việc học, nhất là học thêm và tự học ở nhà.
Thực trạng riêng.
Trường THCS Yên Lạc là trường xa trung tâm huyện, về cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học đang còn nhiều khó khăn so với các trường trong khu vực, nhưng với sự nhiệt tình của cán bộ giáo viên trong trường đã khắc phục khó khăn cho nên trong những năm gần đây trường THCS Yên Lạc cũng có một số thành tích trong dạy và học. Giáo viên đều nhiệt tình, tâm huyết với nghề, quan tâm đến học sinh. Qua dự giờ thăm lớp của giáo viên, qua khảo sát chất lượng của học sinh, tôi thấy chất lượng môn Ngữ văn chưa cao và một số giáo viên có sử dụng sơ đồ tư duy vào những tiết dạy học nhưng chưa thường xuyên, chưa thành thói quen, chỉ sử dụng vào những tiết thao giảng nên chất lượng chưa cao.
Để khắc phục những bất cập nêu trên,tôi thiết nghĩ cần có một hệ giải pháp toàn diện, có hiệu quả trong việc tạo chuyển biến theo hướng nâng cao chất lượng giảng dạy đối với đội ngũ giáo viên, cũng như thái độ tích cực của học sinh trong việc học tập môn ngữ văn. Trong đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cũng như vận dụng các phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại để nhằm không chỉ trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng cho học sinh, mà còn tạo ra sức lôi cuốn, khơi gợi ở các em niềm yêu thích với môn học đặc biệt quan trọng này là một trong những trọng tâm cần được ưu tiên. Chính vì lẽ đó, việc vận dụng phương pháp SĐTD trong dạy học môn ngữ văn – với những hiệu quả bước đầu mà phương pháp này đem lại – đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc tìm hiểu, vận dụng SĐTD của nhiều giáo viên dường như mới chỉ đang dừng ở mức độ “tự phát”, tùy thuộc vào quan điểm tiếp cận cũng như “năng lực” cá nhân của mỗi người. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu sâu về kĩ thuật này, từ đó đi đến xây dựng thói quen có tính chất phương pháp luận nhằm hướng tới vận dụng phương pháp một cách bài bản, phổ biến và tối ưu, là hết sức cần thiết.
Trước thực trạng đó bản thân tôi băn khoăn suy nghĩ làm sao để có phương pháp tốt giúp học sinh học tập tích cực. Trước khi áp dụng BĐTD vào tiết học, tôi đã cho HS lớp 6A năm học 2020- 2021 làm bài kiểm tra thử nghiệm theo phương pháp dạy học cũ trước đây và kết quả đạt được như sau:
Lớp | Sĩ số | Giỏi | Khá | TB | Yếu | Kém | |||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
6A | 36 | 2 | 5 | 9 | 25 | 18 | 50 | 7 | 19 | 0 | 0 |
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Hướng dẫn học sinh phương pháp thiết kế, xây dựng sơ đồ tư duy
SĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Sử dụng SĐTD là sử dụng những hình khối, đường nét, màu sắc để phát triển định hướng và ghi nhớ những khối lượng thông tin có liên quan. Do đó khi xây dựng SĐTD, cần yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Vẽ ý tưởng trung tâm
- Ý tưởng trung tâm là vấn đề chính mà chúng ta đang quan tâm tới. Để biểu diễn ý tưởng trung tâm, có thể vẽ một hình ảnh hoặc viết chữ (ngắn gọn) liên quan tới chủ đề được đề cập. Tuy nhiên, thông thường việc sử dụng hình ảnh có hiệu quả hơn, vì nó mang tính biểu tượng và có ưu thế vượt trội trong việc gợi mở các liên tưởng so với dùng từ ngữ.Bước 2: Vẽ các nhánh chính
THẦY CÔ TẢI NHÉ!