- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,154
- Điểm
- 113
tác giả
Đề kiểm tra cuối học kì 2 ngữ văn 10; KẾT NỐI VỀ VĂN BẢN THÔNG TIN NĂM 2023 - 2024 được soạn dưới dạng file word gồm 12 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
Khi suy nghĩ về những mất mát, rủi ro và phí tổn, chúng ta nên cân nhắc rằng các tác động tiềm ẩn trong tương lai của của đại dịch COVID-19 có thể vẫn có một số ảnh hưởng tích cực về lâu dài. Dưới đây là tất cả những chủ đề mà tôi đã khai thác trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID.
Làm việc từ xa tăng lên là điều chúng ta đã thấy rõ kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu. Làm việc từ xa như tôi lưu ý trong Tương lai sau đại dịch COVID, mang đến cơ hội để tác động cơ bản đến cách con người làm việc và sinh sống. Nó là xu hướng đã phát triển được một thời gian, và đại dịch COVID-19 trở thành thời điểm thúc đẩy nó phát triển mạnh mẽ.
Nhiều người sẽ không bao giờ quay trở lại một văn phòng nữa. Cá nhân và công ty có khả năng sẽ được lợi từ những thay đổi này. Những tác động của COVID-19 tới tương lai của việc làm sẽ được thảo luận kỹ hơn trong chương 6.
Tiếp cận giáo dục trực tuyến tăng cũng là điều tôi nhân mạnh trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID. Thực tế, năm 2020, chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể của giáo dục trực tuyến.
May mắn là, khi nhìn về tương lai, sự gia tăng mức độ tiếp cận giáo dục trực tuyến có thể có tác động căn bản đến đời sống công việc và chuyên môn của mọi người, bao gồm cả những lựa chọn sự nghiệp và chuyên môn mà họ có, cũng như thu nhập tiềm năng trong tương lai của họ. Đối với nhiều người, giáo dục trực tuyến, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đã không còn là điều gì kinh khủng. Cùng lắm chỉ tẻ nhạt mà thôi.
Một người bạn thời trung học của tôi hiện đang điều hành một trường mầm non mà cô ấy bị buộc phải điều hành nó từ xa và trực tuyến. Gần đây, cô ấy đăng lên mạng xã hội kể về việc dạy trực tuyến cho một đứa trẻ mẫu giáo không được vừa cầm kéo vừa chạy nhảy và khiến chúng thực sự lắng nghe bạn nói khó khăn nhường nào.
[…]
Ưu tiên sức khoẻ tăng lên cũng là một trong những xu hướng quan trọng nhất mà tôi ghi nhận trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID. Chúng ta đã thấy điều đó ở cấp độ xã hội; đó là điều chúng ta xem là một phần của cuộc chuyển đổi số và bước nhảy vọt tiến tới việc chăm sóc ý tế và sức khoẻ từ xa. Thêm nữa, từ hệ quả của COVID-19, lĩnh vực sức khoẻ và y tế nhiều khả năng sẽ được ưu tiên, và có thể như thế trong một thời gian dài sắp tới.
Các lựa chọn giáo dục, đầu tư và chính sách có thể dẫn tới sức khoẻ cộng đồng xét về tổng thể được cải thiện. Số người theo học các chuyên ngành y học và chăm sóc sức khoẻ nhiều khả năng sẽ tăng lên. Bác sĩ sẽ không phải nghề thiếu hụt lao động trầm trọng nhất, sự thiếu hụt trầm trọng nhất là ở ngành điều dưỡng, hỗ trợ y tê và những công việc tương tự.
[…]
Mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải giảm cũng là điều tôi kỳ vọng sau đại dịch COVID-19. Trên thực tế, chúng ta đang chứng kiến điều này trong năm 2020. Tuy nhiên, những kỳ vọng tôi ghi lại trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID có giới hạn thời gian, tức là mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải giảm dường như đã diễn ra trong một khoảng thời gian; bởi sự đình đốn về kinh tế, làm việc từ xa và quy định giãn cách xã hội đã làm giảm lượng tiêu thụ dầu mỏ. Khi nhìn sang năm 2021, mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải có thể lại tăng lên.
Giai đoạn mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải giảm có thể vẫn có tác động lâu dài tới cách các công ty nhìn nhận và triển khai các chiến lược bền vững. Nhưng một số tác động tác động đối với ngành du lịch và việc đi lại có thể chỉ kéo dài một thời gian.
Không may là, không phải tất cả các tác động trong tương lai có khả năng duy trì tính tích cực. Một trong những tác động tiêu cực lớn nhất tôi viết trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID là việc chi tiêu thâm hụt và nợ quốc gia lớn. Thực tế, kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19, các mức nợ đã tăng trên toàn cầu, và chúng có thể vẫn tăng lên.
Ngoài ra, chính sách tiền tệ đang tiệm cận điểm tới hạn rủi ro. Như tôi cũng đã ghi nhận trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID, nguy cơ ngày một lớn là chúng ta đang tiệm cận một trạng thái lượng tử của nền kinh tế, trong đó Fed (Cục Dự trữ liên bang Mỹ) cùng lúc sở hữu tất cả mà cũng không gì cả. Những nguy cơ này cũng đang dần thành hiện thực. […]
(Jason Schenker, Thế giới hậu vắc xin COVID, Việt Anh – Quỳnh Chi – Thu Hà dịch, NXB Thế giới, 2021, tr.30-34.)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Văn bản trên thuộc loại văn bản nào?
A. Văn bản chính luận
B. Văn bản văn học
C. Văn bản thông tin
D. Văn bản quảng cáo
Câu 2. Văn bản đề cập tới những tác động tiềm ẩn của dịch COVID-19 ở phương diện nào?
A. Tác động tích cực
B. Chủ yếu tích cực, mở rộng tiêu cực
C. Chủ yếu tiêu cực, có thêm tích cực
D. Tác động tiêu cực
Câu 3. Ngôn ngữ của văn bản có đặc điểm gì nổi bật?
A. Mang tính chính xác, làm nổi bật thông tin
B. Mang tính hình tượng, giàu sức gợi
C. Mang tính cá thể, bộc lộ tư tưởng riêng
D. Mang tính khẩu ngữ, thể hiện cảm xúc
Câu 4. Những điều tác giả dự đoán trong văn bản là:
A. Những sự thật hiển nhiên, theo quy luật
B. Những điều tất yếu, chắc chắn sẽ xảy ra
C. Những thứ không tưởng, không thể xảy ra
D. Những điều có thể xảy ra trong tương lai
Câu 5. Trong văn bản, tác giả đã không đề cập tới những tác động tích cực lâu dài nào của dịch COVID-19 trong tương lai?
A. Làm việc từ xa tăng lên
B. Tiếp cận giáo dục trực tuyến tăng
MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ II
MÔN NGỮ VĂN 10
(Thời gian làm bài: 90 phút)
MÔN NGỮ VĂN 10
(Thời gian làm bài: 90 phút)
TT | Kĩ năng | Nội dung/đơn vị kiến thức | Mức độ nhận thức | Tổng | |||||||
Nhận biết | Thông hiểu | Vận dụng | Vận dụng cao | ||||||||
TNKQ | TL | TNKQ | TL | TNKQ | TL | TNKQ | TL | ||||
1 | Đọc | Văn bản thông tin | - Xác định thể loại - Xác định được luận điểm - Xác định đặc điểm ngôn ngữ - Xác định thông tin nêu trong đoạn trích | | - Nêu được tác động tích cực - Giải thích được nghĩa của từ - Nội dung đoạn trích | - Trình bày được quan điểm của người viết | | -Vận dụng những hiểu biết về bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội thể hiện trong văn bản để lí giải ý nghĩa, thông điệp của văn bản. | | - Đánh giá được ý nghĩa, tác động của văn bản đối với quan niệm sống của bản thân | 10 |
Tỉ lệ (%) | 20% | | 15% | 5% | | 10% | | 10% | 60 | ||
2 | Viết | Viết văn bản nghị luận xã hội | | | | | | | | Viết được văn bản nghị luận về một ư tưởng đạo lí | 1 |
Tỉ lệ (%) | | 10 | | 15 | | 10 | | 5 | 40 | ||
Tổng | 20 | 10 | 15 | 20 | 0 | 20 | 0 | 15 | 100 | ||
Tỉ lệ % | 30% | 35% | 20% | 15% | |||||||
Tỉ lệ chung | 65% | 35% | |||||||||
* Lưu ý: – Kĩ năng viết có 01 câu bao gồm cả 04 cấp độ. – Những kĩ năng không có trong ma trận đề kiểm tra định kì (nói và nghe) sẽ được thực hiện ở các bài kiểm tra thường xuyên |
SỞ GD&ĐT………… TRƯỜNG…………………. (Đề thi gồm có … trang) | ĐỀ KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ II Môn: NGỮ VĂN 10 (Thời gian làm bài: 90 phút) |
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
NHỮNG TÁC ĐỘNG TIỀM ẨN TRONG TƯƠNG LAI
Khi suy nghĩ về những mất mát, rủi ro và phí tổn, chúng ta nên cân nhắc rằng các tác động tiềm ẩn trong tương lai của của đại dịch COVID-19 có thể vẫn có một số ảnh hưởng tích cực về lâu dài. Dưới đây là tất cả những chủ đề mà tôi đã khai thác trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID.
Làm việc từ xa tăng lên là điều chúng ta đã thấy rõ kể từ khi đại dịch COVID-19 bắt đầu. Làm việc từ xa như tôi lưu ý trong Tương lai sau đại dịch COVID, mang đến cơ hội để tác động cơ bản đến cách con người làm việc và sinh sống. Nó là xu hướng đã phát triển được một thời gian, và đại dịch COVID-19 trở thành thời điểm thúc đẩy nó phát triển mạnh mẽ.
Nhiều người sẽ không bao giờ quay trở lại một văn phòng nữa. Cá nhân và công ty có khả năng sẽ được lợi từ những thay đổi này. Những tác động của COVID-19 tới tương lai của việc làm sẽ được thảo luận kỹ hơn trong chương 6.
Tiếp cận giáo dục trực tuyến tăng cũng là điều tôi nhân mạnh trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID. Thực tế, năm 2020, chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng đáng kể của giáo dục trực tuyến.
May mắn là, khi nhìn về tương lai, sự gia tăng mức độ tiếp cận giáo dục trực tuyến có thể có tác động căn bản đến đời sống công việc và chuyên môn của mọi người, bao gồm cả những lựa chọn sự nghiệp và chuyên môn mà họ có, cũng như thu nhập tiềm năng trong tương lai của họ. Đối với nhiều người, giáo dục trực tuyến, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đã không còn là điều gì kinh khủng. Cùng lắm chỉ tẻ nhạt mà thôi.
Một người bạn thời trung học của tôi hiện đang điều hành một trường mầm non mà cô ấy bị buộc phải điều hành nó từ xa và trực tuyến. Gần đây, cô ấy đăng lên mạng xã hội kể về việc dạy trực tuyến cho một đứa trẻ mẫu giáo không được vừa cầm kéo vừa chạy nhảy và khiến chúng thực sự lắng nghe bạn nói khó khăn nhường nào.
[…]
Ưu tiên sức khoẻ tăng lên cũng là một trong những xu hướng quan trọng nhất mà tôi ghi nhận trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID. Chúng ta đã thấy điều đó ở cấp độ xã hội; đó là điều chúng ta xem là một phần của cuộc chuyển đổi số và bước nhảy vọt tiến tới việc chăm sóc ý tế và sức khoẻ từ xa. Thêm nữa, từ hệ quả của COVID-19, lĩnh vực sức khoẻ và y tế nhiều khả năng sẽ được ưu tiên, và có thể như thế trong một thời gian dài sắp tới.
Các lựa chọn giáo dục, đầu tư và chính sách có thể dẫn tới sức khoẻ cộng đồng xét về tổng thể được cải thiện. Số người theo học các chuyên ngành y học và chăm sóc sức khoẻ nhiều khả năng sẽ tăng lên. Bác sĩ sẽ không phải nghề thiếu hụt lao động trầm trọng nhất, sự thiếu hụt trầm trọng nhất là ở ngành điều dưỡng, hỗ trợ y tê và những công việc tương tự.
[…]
Mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải giảm cũng là điều tôi kỳ vọng sau đại dịch COVID-19. Trên thực tế, chúng ta đang chứng kiến điều này trong năm 2020. Tuy nhiên, những kỳ vọng tôi ghi lại trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID có giới hạn thời gian, tức là mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải giảm dường như đã diễn ra trong một khoảng thời gian; bởi sự đình đốn về kinh tế, làm việc từ xa và quy định giãn cách xã hội đã làm giảm lượng tiêu thụ dầu mỏ. Khi nhìn sang năm 2021, mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải có thể lại tăng lên.
Giai đoạn mức tiêu thụ năng lượng và lượng khí thải giảm có thể vẫn có tác động lâu dài tới cách các công ty nhìn nhận và triển khai các chiến lược bền vững. Nhưng một số tác động tác động đối với ngành du lịch và việc đi lại có thể chỉ kéo dài một thời gian.
Không may là, không phải tất cả các tác động trong tương lai có khả năng duy trì tính tích cực. Một trong những tác động tiêu cực lớn nhất tôi viết trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID là việc chi tiêu thâm hụt và nợ quốc gia lớn. Thực tế, kể từ khi bắt đầu đại dịch COVID-19, các mức nợ đã tăng trên toàn cầu, và chúng có thể vẫn tăng lên.
Ngoài ra, chính sách tiền tệ đang tiệm cận điểm tới hạn rủi ro. Như tôi cũng đã ghi nhận trong cuốn Tương lai sau đại dịch COVID, nguy cơ ngày một lớn là chúng ta đang tiệm cận một trạng thái lượng tử của nền kinh tế, trong đó Fed (Cục Dự trữ liên bang Mỹ) cùng lúc sở hữu tất cả mà cũng không gì cả. Những nguy cơ này cũng đang dần thành hiện thực. […]
(Jason Schenker, Thế giới hậu vắc xin COVID, Việt Anh – Quỳnh Chi – Thu Hà dịch, NXB Thế giới, 2021, tr.30-34.)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Văn bản trên thuộc loại văn bản nào?
A. Văn bản chính luận
B. Văn bản văn học
C. Văn bản thông tin
D. Văn bản quảng cáo
Câu 2. Văn bản đề cập tới những tác động tiềm ẩn của dịch COVID-19 ở phương diện nào?
A. Tác động tích cực
B. Chủ yếu tích cực, mở rộng tiêu cực
C. Chủ yếu tiêu cực, có thêm tích cực
D. Tác động tiêu cực
Câu 3. Ngôn ngữ của văn bản có đặc điểm gì nổi bật?
A. Mang tính chính xác, làm nổi bật thông tin
B. Mang tính hình tượng, giàu sức gợi
C. Mang tính cá thể, bộc lộ tư tưởng riêng
D. Mang tính khẩu ngữ, thể hiện cảm xúc
Câu 4. Những điều tác giả dự đoán trong văn bản là:
A. Những sự thật hiển nhiên, theo quy luật
B. Những điều tất yếu, chắc chắn sẽ xảy ra
C. Những thứ không tưởng, không thể xảy ra
D. Những điều có thể xảy ra trong tương lai
Câu 5. Trong văn bản, tác giả đã không đề cập tới những tác động tích cực lâu dài nào của dịch COVID-19 trong tương lai?
A. Làm việc từ xa tăng lên
B. Tiếp cận giáo dục trực tuyến tăng