- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,206
- Điểm
- 113
tác giả
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH HOÀ 1, THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HOÀ được soạn dưới dạng file word gồm 32 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1. Sự cần thiết của đề tài .......................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................ 2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................... 2
3. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết..................................... 7
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH.............................................................. 15
1. Xác định nội dung phát triển năng lực tự học cho học sinh tiểu học................................................................................................ 15
2. Nâng cao nhận thức, hình thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho học sinh........................................................................... 17
3. Xây dựng mục tiêu cho hoạt động tự học của học sinh........... 18
4. Đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên nhằm tác động tích cực đến việc tự học của học sinh................................................. 19
5. Huy động sự tham gia của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để hỗ trợ việc tự học của học sinh.............................. 21
6. Tổ chức hoạt động tự học cho học sinh.................................... 23
IV. ĐÁNH GIÁ ĐỀ TÀI............................................................. 24
V. CÁC MINH CHỨNG CỤ THỂ ........................................... 24
VI. PHẦN KẾT LUẬN.............................................................. 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 33
PHỤ LỤC.................................................................................... 34
ĐỀ TÀI:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của đề tài :
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục lên trung học cơ sở. Bên cạnh đó đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể và giữ vệ sinh; có những hiểu biết ban đầu về âm nhạc và mĩ thuật. Phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, hoạt động giáo dục, đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Trên ghế nhà trường, học trò có học thật, làm thật mới sống thật nên người, có tích cực tự học, tự làm,tự giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của thầy, mới tự trang bị cho mình kỹ năng học, kỹ năng làm, kỹ năng sáng tạo và kỹ năng sống – những kỹ năng cần thiết cho con người tiếp tục học hành sáng tạo suốt đời.
Lịch sử phát triển của giáo dục đã chứng kiến sự hình thành, phát triển của giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và những đóng góp của từng nhân tố đối với sự phát triển cá nhân và xã hội. Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học, tự giải quyết vấn đề là phương thức cơ bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Ngày nay, sự sáng tạo mới tri thức đòi hỏi mỗi một con người phải tự học, tự đào tạo và có năng lực tự học sáng tạo. Để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi nhà trường phổ thông phải góp phần đắc lực vào việc chuẩn bị nền tảng vững chắc cho sự ra đời của những thế hệ nhân tài kiểu mới có ý thức, năng lực sáng tạo, vốn tri thức cần thiết cộng với khả năng xử lý thông tin để tiếp thu những cái mới. Nhưng nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng trong cuộc sống của người học. Do đó, chỉ có tự học mới mang lại sự đa dạng kiến thức đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện đại.
Thực tế nhu cầu tự học luôn gắn kết với nhu cầu làm, nhu cầu sống của con người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ, mọi ngành nghề, mọi vị trí xã hội, mọi thời đại. Phát huy vai trò “Mỗi thầy giáo, cô giáo hãy là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” từ bỏ lối “dạy áp đặt, truyền thụ một chiều”, “thầy giảng – trò ghi nhớ”, phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành, kỹ năng sống, tự tìm, tự tạo việc làm và năng lực tự học của người học là mục tiêu – phương pháp. Thực tế cho thấy, hiện nay học sinh các cấp nói chung và học sinh tiểu học nói riêng các em chỉ nắm vững và giỏi về lý thuyết nhưng kĩ năng tự giải quyết vấn đề chưa có, nhất là kĩ năng tự học. Đặc biệt là những học sinh lớp 4, 5 ở cấp tiểu học chưa có kĩ năng tự học, các em phải nhờ đến sự hỗ trợ giúp đỡ của người lớn rất nhiều. Khi giao cho các em tự suy nghĩ và giải quyết vấn đề thì các em lúng túng, thậm chí không thể giải quyết được cho dù có những vấn đề rất gần gũi với các em. Đó là hậu quả do các em không tự học, không nghiên cứu và tìm hiểu kiến thức cho riêng mình.
Nhưng làm thế nào để kích thích hứng thú tự học ở các em? Các em cần có phương pháp, kĩ năng tự học nào? Để tự học các em cần những điều kiện vật chất nào? Cách thực hiện ra sao? … Quả là vấn đề mang nhiều thử thách mà người giáo viên cần phải nghiên cứu giải quyết. Cùng với đổi mới cách dạy học, việc đánh giá học sinh theo TT 22/ 2016/ TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đánh giá học sinh cả ba mặt kiến thức kĩ năng, phẩm chất và năng lực; giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Vì các lí do trên tôi mạnh dạn viết sáng kiến: “Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 4/4 trường Tiểu học Vĩnh Hòa 1, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp hợp lý để xây dựng tốt năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề cho học sinh.
- Chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong việc phát triển năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề của học sinh.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng giảng dạy, chủ nhiệm tại lớp 4/4, ở trường Tiểu học Vĩnh Hoà 1 – Thành phố Nha Trang – Tỉnh Khánh Hoà, từ đó đề xuất một số giải pháp cho hoạt động này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực. Theo từ điển tiếng Việt “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hành động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”.
Đứng về góc độ tâm lý học, năng lực trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên sâu từ thế kỷ XIX, trong các công trình thực nghiệm của F.Ganton năng lực có những biểu hiện như tính nhạy bén, chắc chắn, sâu sắc và dễ dàng trong quá trình lĩnh hội một hoạt động mới nào đó. Người có năng lực là người đạt hiệu suất và chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau. Năng lực gắn bó chặt chẽ với tính định hướng chung của nhân cách.
Từ điển tâm lý học đưa ra khái niệm, năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định.
Theo Cosmovici thì: “năng lực là tổ hợp đặc điểm của cá nhân, giải thích sự khác biệt giữa người này với người khác ở khả năng đạt được những kiến thức và hành vi nhất định”. Còn A.N.Leonchiev cho rằng: “năng lực là đặc điểm cá nhân quy định việc thực hiện thành công một hoạt động nhất định”.
Nhà tâm lý học A.Rudich đưa ra quan niệm về năng lực như sau: năng lực đó là tính chất tâm sinh lý của con người chi phối quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cũng như hiệu quả thực hiện một hoạt động nhất định. Năng lực của con người không chỉ là kết quả của sự phát triển và giáo dục mà còn là kết quả hoạt động của các đặc điểm bẩm sinh hay còn gọi là năng khiếu. Năng lực đó là năng khiếu đã được phát triển, có năng khiếu chưa có nghĩa là nhất thiết sẽ biến thành năng lực. Muốn vậy phải có môi trường xung quanh tương ứng và phải có sự giáo dục có chủ đích.
Trong các giáo trình tâm lý học các tác giả cũng đã đưa ra khá nhiều quan niệm về năng lực. Trong đó đa số đều quan niệm năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề vừa là kết quả của hoạt động, năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy. Theo quan điểm của Tâm lý học Mác xít, năng lực của con người luôn gắn liền với hoạt động của chính họ.
Như vậy, khi nói đến năng lực thì không phải là một thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ…) mà là sự tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này không phải phép cộng của các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các thuộc tính tâm lý này diễn ra mối quan hệ tương tác qua lại theo một hệ thống nhất định và trong đó một thuộc tính nổi lên với tư cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ vai trò phụ thuộc) đáp ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó đạt được kết quả mong muốn.
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................... 11. Sự cần thiết của đề tài .......................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................ 2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................... 2
1. Năng lực và năng lực tự học của học sinh là gì?................... 3
2. Những biểu hiện của năng lực tự học.......................................... 43. Thực trạng của vấn đề cần giải quyết..................................... 7
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH.............................................................. 15
1. Xác định nội dung phát triển năng lực tự học cho học sinh tiểu học................................................................................................ 15
2. Nâng cao nhận thức, hình thành động cơ, thái độ học tập đúng đắn cho học sinh........................................................................... 17
3. Xây dựng mục tiêu cho hoạt động tự học của học sinh........... 18
4. Đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên nhằm tác động tích cực đến việc tự học của học sinh................................................. 19
5. Huy động sự tham gia của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường để hỗ trợ việc tự học của học sinh.............................. 21
6. Tổ chức hoạt động tự học cho học sinh.................................... 23
IV. ĐÁNH GIÁ ĐỀ TÀI............................................................. 24
V. CÁC MINH CHỨNG CỤ THỂ ........................................... 24
VI. PHẦN KẾT LUẬN.............................................................. 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 33
PHỤ LỤC.................................................................................... 34
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 4/4 TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH HOÀ 1, THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HOÀ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của đề tài :
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục lên trung học cơ sở. Bên cạnh đó đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể và giữ vệ sinh; có những hiểu biết ban đầu về âm nhạc và mĩ thuật. Phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, hoạt động giáo dục, đặc điểm đối tượng học sinh và điều kiện từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Trên ghế nhà trường, học trò có học thật, làm thật mới sống thật nên người, có tích cực tự học, tự làm,tự giải quyết vấn đề dưới sự hướng dẫn của thầy, mới tự trang bị cho mình kỹ năng học, kỹ năng làm, kỹ năng sáng tạo và kỹ năng sống – những kỹ năng cần thiết cho con người tiếp tục học hành sáng tạo suốt đời.
Lịch sử phát triển của giáo dục đã chứng kiến sự hình thành, phát triển của giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và những đóng góp của từng nhân tố đối với sự phát triển cá nhân và xã hội. Dạy học được xem là con đường giáo dục cơ bản nhất để thực hiện mục đích của quá trình giáo dục tổng thể, trong đó tự học, tự giải quyết vấn đề là phương thức cơ bản để người học có được những hệ thống tri thức phong phú và thiết thực. Ngày nay, sự sáng tạo mới tri thức đòi hỏi mỗi một con người phải tự học, tự đào tạo và có năng lực tự học sáng tạo. Để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi nhà trường phổ thông phải góp phần đắc lực vào việc chuẩn bị nền tảng vững chắc cho sự ra đời của những thế hệ nhân tài kiểu mới có ý thức, năng lực sáng tạo, vốn tri thức cần thiết cộng với khả năng xử lý thông tin để tiếp thu những cái mới. Nhưng nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng trong cuộc sống của người học. Do đó, chỉ có tự học mới mang lại sự đa dạng kiến thức đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện đại.
Thực tế nhu cầu tự học luôn gắn kết với nhu cầu làm, nhu cầu sống của con người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ, mọi ngành nghề, mọi vị trí xã hội, mọi thời đại. Phát huy vai trò “Mỗi thầy giáo, cô giáo hãy là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” từ bỏ lối “dạy áp đặt, truyền thụ một chiều”, “thầy giảng – trò ghi nhớ”, phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành, kỹ năng sống, tự tìm, tự tạo việc làm và năng lực tự học của người học là mục tiêu – phương pháp. Thực tế cho thấy, hiện nay học sinh các cấp nói chung và học sinh tiểu học nói riêng các em chỉ nắm vững và giỏi về lý thuyết nhưng kĩ năng tự giải quyết vấn đề chưa có, nhất là kĩ năng tự học. Đặc biệt là những học sinh lớp 4, 5 ở cấp tiểu học chưa có kĩ năng tự học, các em phải nhờ đến sự hỗ trợ giúp đỡ của người lớn rất nhiều. Khi giao cho các em tự suy nghĩ và giải quyết vấn đề thì các em lúng túng, thậm chí không thể giải quyết được cho dù có những vấn đề rất gần gũi với các em. Đó là hậu quả do các em không tự học, không nghiên cứu và tìm hiểu kiến thức cho riêng mình.
Nhưng làm thế nào để kích thích hứng thú tự học ở các em? Các em cần có phương pháp, kĩ năng tự học nào? Để tự học các em cần những điều kiện vật chất nào? Cách thực hiện ra sao? … Quả là vấn đề mang nhiều thử thách mà người giáo viên cần phải nghiên cứu giải quyết. Cùng với đổi mới cách dạy học, việc đánh giá học sinh theo TT 22/ 2016/ TT-BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đánh giá học sinh cả ba mặt kiến thức kĩ năng, phẩm chất và năng lực; giúp học sinh có khả năng tự đánh giá, tham gia đánh giá; tự học, tự điều chỉnh cách học; giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ. Vì các lí do trên tôi mạnh dạn viết sáng kiến: “Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho học sinh lớp 4/4 trường Tiểu học Vĩnh Hòa 1, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp hợp lý để xây dựng tốt năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề cho học sinh.
- Chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong việc phát triển năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề của học sinh.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực trạng giảng dạy, chủ nhiệm tại lớp 4/4, ở trường Tiểu học Vĩnh Hoà 1 – Thành phố Nha Trang – Tỉnh Khánh Hoà, từ đó đề xuất một số giải pháp cho hoạt động này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Năng lực và năng lực tự học của học sinh là gì?
Năng lực là một phạm trù từng được bàn đến trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội.Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực. Theo từ điển tiếng Việt “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hành động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”.
Đứng về góc độ tâm lý học, năng lực trở thành đối tượng nghiên cứu chuyên sâu từ thế kỷ XIX, trong các công trình thực nghiệm của F.Ganton năng lực có những biểu hiện như tính nhạy bén, chắc chắn, sâu sắc và dễ dàng trong quá trình lĩnh hội một hoạt động mới nào đó. Người có năng lực là người đạt hiệu suất và chất lượng hoạt động cao trong các hoàn cảnh khách quan và chủ quan như nhau. Năng lực gắn bó chặt chẽ với tính định hướng chung của nhân cách.
Từ điển tâm lý học đưa ra khái niệm, năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lý cá nhân, đóng vai trò là điều kiện bên trong tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất định.
Theo Cosmovici thì: “năng lực là tổ hợp đặc điểm của cá nhân, giải thích sự khác biệt giữa người này với người khác ở khả năng đạt được những kiến thức và hành vi nhất định”. Còn A.N.Leonchiev cho rằng: “năng lực là đặc điểm cá nhân quy định việc thực hiện thành công một hoạt động nhất định”.
Nhà tâm lý học A.Rudich đưa ra quan niệm về năng lực như sau: năng lực đó là tính chất tâm sinh lý của con người chi phối quá trình tiếp thu các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cũng như hiệu quả thực hiện một hoạt động nhất định. Năng lực của con người không chỉ là kết quả của sự phát triển và giáo dục mà còn là kết quả hoạt động của các đặc điểm bẩm sinh hay còn gọi là năng khiếu. Năng lực đó là năng khiếu đã được phát triển, có năng khiếu chưa có nghĩa là nhất thiết sẽ biến thành năng lực. Muốn vậy phải có môi trường xung quanh tương ứng và phải có sự giáo dục có chủ đích.
Trong các giáo trình tâm lý học các tác giả cũng đã đưa ra khá nhiều quan niệm về năng lực. Trong đó đa số đều quan niệm năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả tốt. Năng lực vừa là tiền đề vừa là kết quả của hoạt động, năng lực vừa là điều kiện cho hoạt động đạt kết quả nhưng đồng thời năng lực cũng phát triển ngay trong chính hoạt động ấy. Theo quan điểm của Tâm lý học Mác xít, năng lực của con người luôn gắn liền với hoạt động của chính họ.
Như vậy, khi nói đến năng lực thì không phải là một thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ…) mà là sự tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này không phải phép cộng của các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các thuộc tính tâm lý này diễn ra mối quan hệ tương tác qua lại theo một hệ thống nhất định và trong đó một thuộc tính nổi lên với tư cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ vai trò phụ thuộc) đáp ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó đạt được kết quả mong muốn.