- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,154
- Điểm
- 113
tác giả
TÀI LIỆU ÔN THI VĂN 9 VÀO 10 MỚI NHẤT được soạn dưới dạng file word gồm 142 trang. Các bạn xem và tải tài liệu ôn thi văn 9 vào 10 về ở dưới.
I.Tác giả, tp.
1. Tác giả.
- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.
- Quê ở Trường Tân- Thanh Miện- Hải Dương.
- Về con người:
+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là con người học rộng tài cao. Ông là học trò xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
+ Là 1 "kẻ sĩ" có nhân cách cao thượng. Chứng kiến những mục nát của chế độ đương triều, ông chỉ làm quan có 1 năm rồi lui về sống ẩn dật, viết sách, phụng dưỡng mẹ già.
+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là 1 người luôn ddau đáu đến vận mệnh của giang sơn, xã tắc.
2. Tác phẩm.
a. Thể loại- nguồn gốc xuất xứ.
- Truyện truyền kì: Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ TQ và thịnh hành từ thời Đường.
+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bối đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo....
-Truyện "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ:
+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, đó là thời kì xã hội phong kiến VN bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu thuẫn xh trở nên gay gắt, quan hệ xh bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xh phân hoá mạnh mẽ.
+ "Truyền kì mạn lục" gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo, đề tài phong phú.
+ truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng "Thiên cổ tuỳ bút" (áng văn hay ngàn đời).
-“Chuyện người con gái Nam Xương” :
+ Xuất xứ: là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của "Truyền kì mạn lục".
+ Nguồn gốc: truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyên dân gian "Vợ chàng Trương", sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp lại 1 số tình tiết và thêm vào yếu tố kì ảo.
+ Ngôi kể: truyện được kể theo ngôi thứ 3.
b. PTBĐ: tự sự có kết hợp yếu tố BC.
c. Chủ đề: “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của những phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
d. Tóm tắt.
- Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, thùy mị, nết na lấy chồng là Trương Sinh, người có tính đa nghi cả ghen. Biết tính chồng, nàng ăn ở khuôn phép nên gia đình êm ấm thuận hòa.
- Buổi giặc giã nhiễu nhương, triều đình bắt Trương Sinh đi lính. Vũ Nương đã có mang. Chồng ra trận, nàng ở nhà nuôi mẹ già, sinh con trai đặt tên là Đản. Chẳng may mẹ chồng qua đời, nàng lo toan cho mẹ mồ yên mả đẹp.
- Chồng đi xa, thương con nàng chỉ cái bóng trên tường bảo là cha. Trương Sinh về nghe con nói lại nên nghi ngờ vợ. Không phân giải được, Vũ Nương nhảy xuống sông tự vẫn. Cảm động vì tấm lòng của nàng, Linh Phi (vợ vua Nam Hải) cứu vớt và cho nàng ở lại Thủy cung.
- Một đêm, Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường bảo đó là “cha” của mình, là người hay đến hằng đêm . Lúc đó Truơng Sinh mới hiểu vợ bị hàm oan.
- Phan Lang- người cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua Nam Hải, nên khi chạy loạn chết đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để tạ ơn- tình cờ gặp Vũ nuơng dưới thuỷ cung . Khi Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gởi chiếc hoa vàng và lời nhắn cho Truơng Sinh. Truơng Sinh liền lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa đứng giữa dòng lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất.
II. Trọng tâm kiến thức.
1.Nhân vật Vũ Nương.
- Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, "tính tình thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp".
- Trong XHPK, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: "tam tòng, tứ đức", "công, dung, ngôn , hạnh". Trong đó, dung chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước "tư dung"- vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ "đem 100 lạng vàng cưới về". Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.
=>Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hoạ với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong XHPK.
Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau.
a.Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thuỷ chung, yêu thương
chồng hết mực.
*. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường.
- Nàng hiểu chồng "có tính đa nghi", "đối với vợ phòng ngừa quá sức". Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà.
->Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa 2 người và đầy tính dự báo.
* Khi tiễn chồng đi lính:
- Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:
+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường những thứ vinh hoa phù phiếm: "Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được 2 chữ bình yên".
+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ
|
|
|
| ||
|
|
|
| ||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| ||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
| ||
|
|
|
|
|
|
|
|
|
- A. VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI.
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG.
Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ
I.Tác giả, tp.
1. Tác giả.
- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.
- Quê ở Trường Tân- Thanh Miện- Hải Dương.
- Về con người:
+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là con người học rộng tài cao. Ông là học trò xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.
+ Là 1 "kẻ sĩ" có nhân cách cao thượng. Chứng kiến những mục nát của chế độ đương triều, ông chỉ làm quan có 1 năm rồi lui về sống ẩn dật, viết sách, phụng dưỡng mẹ già.
+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là 1 người luôn ddau đáu đến vận mệnh của giang sơn, xã tắc.
2. Tác phẩm.
a. Thể loại- nguồn gốc xuất xứ.
- Truyện truyền kì: Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ TQ và thịnh hành từ thời Đường.
+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cốt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bối đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo....
-Truyện "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ:
+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, đó là thời kì xã hội phong kiến VN bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu thuẫn xh trở nên gay gắt, quan hệ xh bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xh phân hoá mạnh mẽ.
+ "Truyền kì mạn lục" gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo, đề tài phong phú.
+ truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng "Thiên cổ tuỳ bút" (áng văn hay ngàn đời).
-“Chuyện người con gái Nam Xương” :
+ Xuất xứ: là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của "Truyền kì mạn lục".
+ Nguồn gốc: truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyên dân gian "Vợ chàng Trương", sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp lại 1 số tình tiết và thêm vào yếu tố kì ảo.
+ Ngôi kể: truyện được kể theo ngôi thứ 3.
b. PTBĐ: tự sự có kết hợp yếu tố BC.
c. Chủ đề: “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm thương cảm đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của những phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
d. Tóm tắt.
- Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, thùy mị, nết na lấy chồng là Trương Sinh, người có tính đa nghi cả ghen. Biết tính chồng, nàng ăn ở khuôn phép nên gia đình êm ấm thuận hòa.
- Buổi giặc giã nhiễu nhương, triều đình bắt Trương Sinh đi lính. Vũ Nương đã có mang. Chồng ra trận, nàng ở nhà nuôi mẹ già, sinh con trai đặt tên là Đản. Chẳng may mẹ chồng qua đời, nàng lo toan cho mẹ mồ yên mả đẹp.
- Chồng đi xa, thương con nàng chỉ cái bóng trên tường bảo là cha. Trương Sinh về nghe con nói lại nên nghi ngờ vợ. Không phân giải được, Vũ Nương nhảy xuống sông tự vẫn. Cảm động vì tấm lòng của nàng, Linh Phi (vợ vua Nam Hải) cứu vớt và cho nàng ở lại Thủy cung.
- Một đêm, Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường bảo đó là “cha” của mình, là người hay đến hằng đêm . Lúc đó Truơng Sinh mới hiểu vợ bị hàm oan.
- Phan Lang- người cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua Nam Hải, nên khi chạy loạn chết đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để tạ ơn- tình cờ gặp Vũ nuơng dưới thuỷ cung . Khi Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gởi chiếc hoa vàng và lời nhắn cho Truơng Sinh. Truơng Sinh liền lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa đứng giữa dòng lúc ẩn lúc hiện rồi biến mất.
II. Trọng tâm kiến thức.
1.Nhân vật Vũ Nương.
- Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, "tính tình thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp".
- Trong XHPK, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: "tam tòng, tứ đức", "công, dung, ngôn , hạnh". Trong đó, dung chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước "tư dung"- vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ "đem 100 lạng vàng cưới về". Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.
=>Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hoạ với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong XHPK.
Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau.
a.Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thuỷ chung, yêu thương
chồng hết mực.
*. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường.
- Nàng hiểu chồng "có tính đa nghi", "đối với vợ phòng ngừa quá sức". Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà.
->Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa 2 người và đầy tính dự báo.
* Khi tiễn chồng đi lính:
- Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:
+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường những thứ vinh hoa phù phiếm: "Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được 2 chữ bình yên".
+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ