- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,206
- Điểm
- 113
tác giả
CHUYÊN ĐỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH được soạn dưới dạng file word gồm 12 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Toán học là khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực, có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết cho việc học môn khác. Môn toán có khả năng giáo dục nhiều mặt: phát triển tư duy logic, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học. Góp phần phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, giáo dục ý chí và những đức tính tốt như cần cù, nhẫn nại, ý thức tự giác. Môn toán ở tiểu học là một môn học chiếm một vị trí quan trọng. Từ thực tế cuộc sống, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho HS tiểu học để các em có được kĩ năng và phẩm chất cơ bản hòa nhập kịp vào thực tế cuộc sống.
Toán ở cấp tiểu học là cơ sở, là nền tảng để các em tiếp cận được môn toán ở các bậc học cao hơn, đồng thời nó sẽ theo các em suốt quãng đời học tập và công tác về sau. Đối với chương trình toán lớp 3 nó như mở ra một bước ngoặt mới là tiền đề, cơ sở vững chắc để học sinh học các lớp trên. Với lứa tuổi ở lớp 3, giải toán bằng hai phép tính rất khó khăn vì các em mới được tiếp cận, càng khó khăn hơn đối với học sinh học chậm. Đây là một vấn đề rất nan giải, đòi hỏi mỗi giáo viên phải luôn trăn trở và quan tâm.
Việc thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, hướng tới nội dung yêu cầu cần đạt là các yêu cầu cơ bản tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt được sau khi học, đòi hỏi mỗi giáo viên cần có cách tổ chức và dạy học phù hợp đối tượng học sinh.
II. THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
- Học sinh được tiếp cận với phương pháp dạy học mới: dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của HS.
- Học sinh đã có nền tảng học các dạng toán đã học từ lớp dưới.
- Nội dung chương trình có sự sắp xếp thuận lợi, phần ôn tập củng cố kiến thức xen lẫn và thường xuyên.
- Dạy học theo mô hình trường học mới và đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng hiện nay đã tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin, bày tỏ ý kiến về bất kì vấn đề nào với thầy cô cũng như với bạn bè. Từ đó tạo cơ hội cho nhiều em tự tin, mạnh dạn, tự học, tự tìm tòi và trao đổi để vươn lên.
- Hằng năm, giáo viên được tập huấn chương trình mô hình trường học mới nên luôn có sự hướng dẫn, chỉ đạo từ các cấp trên để có sự thay đổi thường xuyên, điều chỉnh về cách đánh giá cũng như tài liệu hướng dẫn học ngày càng hợp lí, tròn trĩnh hơn để dần hoàn thiện về cách dạy- cách học- cách đánh giá.
2. Khó khăn:
- Các bài toán về giải bằng hai phép tính, HS lớp 3 mới được tiếp cận vào giữa học kì I nhưng có rất nhiều dạng, lại xen kẽ với giải toán 1 phép tính nên đa số học sinh làm không được vì chưa xác định được đề, còn quen với bài toán giải bằng 1 phép tính.
- Học sinh không đọc kĩ đề, không phân tích kĩ đề, không xác định được dữ liệu nào đã cho, dữ liệu nào cần tìm và không biết nên bắt đầu tìm cái gì để giải được bài toán.
- Nhiều HS có tính không cẩn thận, thậm chí chưa có thói quen nháp bài trước khi làm mà chỉ nhẩm rồi ghi kết quả vào, không chu đáo kiểm tra lại bài toán khi tính toán và khi làm xong bài.
- Học sinh học chậm môn Tiếng Việt thì thường đọc đề không trôi chảy, khó hiểu đề, viết lời giải lủng củng không sát với yêu cầu của đề.
- Đáp số cũng quan trọng nhưng nhiều HS ít chú ý, chỉ ghi đáp số cuối cùng mà không quan tâm đến yêu cầu của đề hoặc không có tên đơn vị.
- Các em chưa có phương pháp tự học, tự suy nghĩ độc lập và chưa biết trao đổi, thực sự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
- Việc HS thực hành giải toán bằng hai phép tính còn có nhiều hạn chế về: nhận dạng toán, lập kế hoạch giải bài toán, các bước giải bài toán, hạn chế về lời văn khi trình
CHUYÊN ĐỀ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP BA
GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP BA
GIẢI BÀI TOÁN BẰNG HAI PHÉP TÍNH
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
Toán học là khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới hiện thực, có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức rất cần thiết cho việc học môn khác. Môn toán có khả năng giáo dục nhiều mặt: phát triển tư duy logic, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học. Góp phần phát triển trí thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, giáo dục ý chí và những đức tính tốt như cần cù, nhẫn nại, ý thức tự giác. Môn toán ở tiểu học là một môn học chiếm một vị trí quan trọng. Từ thực tế cuộc sống, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu giáo dục toàn diện cho HS tiểu học để các em có được kĩ năng và phẩm chất cơ bản hòa nhập kịp vào thực tế cuộc sống.
Toán ở cấp tiểu học là cơ sở, là nền tảng để các em tiếp cận được môn toán ở các bậc học cao hơn, đồng thời nó sẽ theo các em suốt quãng đời học tập và công tác về sau. Đối với chương trình toán lớp 3 nó như mở ra một bước ngoặt mới là tiền đề, cơ sở vững chắc để học sinh học các lớp trên. Với lứa tuổi ở lớp 3, giải toán bằng hai phép tính rất khó khăn vì các em mới được tiếp cận, càng khó khăn hơn đối với học sinh học chậm. Đây là một vấn đề rất nan giải, đòi hỏi mỗi giáo viên phải luôn trăn trở và quan tâm.
Việc thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng, hướng tới nội dung yêu cầu cần đạt là các yêu cầu cơ bản tối thiểu mà tất cả học sinh cần phải đạt được sau khi học, đòi hỏi mỗi giáo viên cần có cách tổ chức và dạy học phù hợp đối tượng học sinh.
II. THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
- Học sinh được tiếp cận với phương pháp dạy học mới: dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của HS.
- Học sinh đã có nền tảng học các dạng toán đã học từ lớp dưới.
- Nội dung chương trình có sự sắp xếp thuận lợi, phần ôn tập củng cố kiến thức xen lẫn và thường xuyên.
- Dạy học theo mô hình trường học mới và đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng hiện nay đã tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin, bày tỏ ý kiến về bất kì vấn đề nào với thầy cô cũng như với bạn bè. Từ đó tạo cơ hội cho nhiều em tự tin, mạnh dạn, tự học, tự tìm tòi và trao đổi để vươn lên.
- Hằng năm, giáo viên được tập huấn chương trình mô hình trường học mới nên luôn có sự hướng dẫn, chỉ đạo từ các cấp trên để có sự thay đổi thường xuyên, điều chỉnh về cách đánh giá cũng như tài liệu hướng dẫn học ngày càng hợp lí, tròn trĩnh hơn để dần hoàn thiện về cách dạy- cách học- cách đánh giá.
2. Khó khăn:
- Các bài toán về giải bằng hai phép tính, HS lớp 3 mới được tiếp cận vào giữa học kì I nhưng có rất nhiều dạng, lại xen kẽ với giải toán 1 phép tính nên đa số học sinh làm không được vì chưa xác định được đề, còn quen với bài toán giải bằng 1 phép tính.
- Học sinh không đọc kĩ đề, không phân tích kĩ đề, không xác định được dữ liệu nào đã cho, dữ liệu nào cần tìm và không biết nên bắt đầu tìm cái gì để giải được bài toán.
- Nhiều HS có tính không cẩn thận, thậm chí chưa có thói quen nháp bài trước khi làm mà chỉ nhẩm rồi ghi kết quả vào, không chu đáo kiểm tra lại bài toán khi tính toán và khi làm xong bài.
- Học sinh học chậm môn Tiếng Việt thì thường đọc đề không trôi chảy, khó hiểu đề, viết lời giải lủng củng không sát với yêu cầu của đề.
- Đáp số cũng quan trọng nhưng nhiều HS ít chú ý, chỉ ghi đáp số cuối cùng mà không quan tâm đến yêu cầu của đề hoặc không có tên đơn vị.
- Các em chưa có phương pháp tự học, tự suy nghĩ độc lập và chưa biết trao đổi, thực sự giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
- Việc HS thực hành giải toán bằng hai phép tính còn có nhiều hạn chế về: nhận dạng toán, lập kế hoạch giải bài toán, các bước giải bài toán, hạn chế về lời văn khi trình