- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,122
- Điểm
- 113
tác giả
CHUYÊN ĐỀ TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG HỆ THỐNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ được soạn dưới dạng file PDF gồm 14 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
CHUYÊN ĐỀ
TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TRONG HỆ THỐNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo-
Công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) luôn được Đảng, Nhà nước
chỉ đạo thực hiện quyết liệt và thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy
nhiên, trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn còn tình trạng cán bộ, công
chức lợi dụng vị trícông tác; lợi dụng kẽ hở của cơ chế, chính sách, pháp luật; lợi
dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để sách nhiễu, gây phiền hà, giải quyết
không đúng, không công bằng, không khách quan nhằm trục lợi cá nhân.
Đối với thi hành án dân sự (THADS), thời gian qua, Bộ Tư pháp và Tổng cục
THADS đã triển khai và thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, gắn với công tác cải cách
hành chính, củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao trách nhiệm của đội ngũ
công chức làm công tác THADS1 nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng
trong toàn Hệ thống THADS. Tuy nhiên, công tác PCTN trong hệ thống THADS
vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: số vụ việc tham nhũng bị phát hiện mặc dù đã
giảm nhưng vẫn ở mức cao; đối tượng bị phát hiện và xử lý xảy ra trên hầu hết các
vị trí công tác và tập trung nhiều nhất vào Thủ trưởng cơ quan THADS, Kế toán,
Chấp hành viên; hành vi vi phạm có tính chất phức tạp và nghiêm trọng; nguy cơ có
thể xảy ra tham nhũng vẫn còn nhiều... Thực tế này đặt ra vấn đề cần phải phân tích,
đánh giá đầy đủ những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc vànguyên nhân của
những tồn tại hạn chế đó để xác định các giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả
công tác phòng, chống tham nhũng trêntoàn Hệ thống THADS trong thời gian tới.
1. Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng
thời gian vừa qua
1.1.Việc chấp hành các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu
trong Hệ thống THADS
Xác định sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu cơ quan, đơn vị là nhân
tố quyết định thành công trong công tác PCTN, tiêu cực, theo đó Lãnh đạo Tổng
cục, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục THADS và hầu hết Thủ trưởng các cơ
quan THADS địa phương luôn thực hiện các nhiệm vụ:
- Gương mẫu, đi đầu, thống nhất cao về ý chí và hành động trong việc chấp
hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về PCTN, tiêu cực, quy tắc ứng xử, quy
tắc đạo đức nghề nghiệp; thực hiện nghiêm 19 điều Đảng viên và các quy định cán
bộ, công chức, viên chức không được làm; không can thiệp trái pháp luật vào việc
giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người
có trách nhiệm thi hành án vì mục đích vụ lợi; chủ động phòng ngừa, phát hiện và
1Công văn số 449-CV/BCSĐ ngày 19/7/2019 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp; Công văn số 2811/BTP-TTR
ngày 29/7/2019 triển khai thực hiện Công điện số 724/CĐ-TTg; Công văn số 1860/TCTHADS-TCCB ngày
24/6/2019, Công văn số 2362/TCTHADS-TCCB ngày 01/8/2019, Công văn số 2216/TCTHADS-TCCB ngày
23/7/2019 của Tổng cục THADS đến toàn thể công chức, người lao động trong toàn hệ thống.
2
xử lý cán bộ, công chức có hành vi, biểu hiện tham nhũng. Người đứng đầu đơn vị
phải chịu trách nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mình.
- Thực hiện công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan; chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân thuộc quyền quản lý thực hiện công khai, minh bạch; trường hợp phát hiện
vi phạm pháp luật về công khai, minh bạch thì phải xử lý theo thẩm quyền hoặc
kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện phân công trách nhiệm rõ ràngđối với cấp phó được giao phụ
trách trong từng lĩnh vực; quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp phó quản
lý, tránh tình trạng chồng chéo, bỏ trống trong hoạt động quản lý. Nguyên tắc,
Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm chung và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với
lĩnh vực do mình quản lý, cấp phó chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực
được giao phụ trách. Sâu sát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ mọi mặt hoạt động của
đơn vị, kịp thời phát hiện những biểu hiện, hành vi tiêu cực, tham nhũng và có
biện pháp xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với hành vi tham nhũng, làm cho cán bộ,
công chức, người lao động trong đơn vị không có cơ hội tham nhũng và thực hiện
hành vi tham nhũng, tiêu cực.
- Thực hiện và có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo công tác PCTN, tiêu cực;
chủ động tự phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng trong tổ chức, cơ quan,
đơn vị mình. Xử lý kịp thời, nghiêm minh Lãnh đạo cơ quan, đơn vị để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình trực tiếp lãnh đạo, quản lý
nhưng không chủ động phát hiện, xử lý, nhất là đối với trường hợp bao che, ngăn
cản việc phát hiện, xử lý tham nhũng.
- Thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành hoạt động của cơ quan, đơn
vị; trong quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách đối
với cán bộ, công chức, viên chức thông qua Quy chế nội bộ của cơ quan, đơn vị,
các cuộc họp giao ban định kỳ, hàng tháng, hàng quý và 6 tháng để đánh giá kết
quả thực hiện các nhiệm vụ được giao và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
phải thực hiện trong thời gian tới của cơ quan, đơn vị. Cuối năm, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị phải tổ chức đánh giá tổng kết hoạt động của cơ quan, đơn vị tại
hội nghị cán bộ, công chức, viên chức theo quy định.
- Xem xét, giải quyết kịp thời theo quy định của pháp luật các khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của cán bộ, công chức, viên chức và kiến nghị của các tổ chức
đoàn thể của cơ quan, đơn vị; kịp thời báo cáo với cơ quan có thẩm quyền những
vấn đề không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Kịp thời xử lý người có
hành vi cản trở việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị và
người có hành vi trả thù, trù dập cán bộ, công chức, viên chức khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị theo quy định của pháp luật.
3
1.2. Việc thực hiện quy định pháp luật trong tổ chức cán bộ; về định
mức, tiêu chuẩn, chế độ; kê khai tài sản, thu nhập, công khai tài sản, thu nhập
và xác minh tài sản thu nhập
- Tổng cục và các cơ quan THADS địa phương đã thực hiện công khai,
minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ, đặc biệt là trong tuyển dụng, bố trí, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác,
khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, hạn chế đến mức thấp nhất sai sót, để
xảy ra khiếu kiện trong công tác này; thực hiện đúng tiêu chuẩn, định mức, chế
độ trong thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ công chức; Tăng cường kiểm
soát công tác tuyển dụng công chức, đảm bảo công khai, minh bạch trong tuyển
dụng công chức; tổ chức thi tuyển công chức của các cơ quan THADS theo
hướng tập trung; tổ chức các kỳ thi nâng ngạch theo đúng quy định. Cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu vị trí việc làm và tăng cường chất lượng.
Tổng cục THADS là một trong những đơn vị đi đầu trong việc xây dựng, hoàn
thiện Đề án cơ cấu, xác định vị trí việc làm. Đồng thời, tăng cường kiểm tra việc
thực hiện các quy định về công tác cán bộ, nhằm kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm trong công tác này, xử lý trách nhiệm đối với
người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra sai phạm, tham nhũng.
- Về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập trong PCTN, tiêu cực: Toàn Hệ
thống THADS đã triển khai thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân của
cán bộ, công chức Lãnh đạo, Chấp hành viên, Thẩm tra viên, niêm yết công bản
kê khai tài sản, thu nhập theo đúng quy định của Luật PCNT năm 2018. Việc kê
khai tài sản của cán bộ, đảng viên đã được thực hiện một cách đầy đủ, trung thực
và công khai trong đảng bộ, chi bộ. Trong các cơ quan THADS, không có phản
ánh về những thu nhập, tài sản bất minh, không có dư luận tố cáo của nhân dân về
việc kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên.
Việc thực hiện quy tắc ứng xử của công chức, chuẩn mực đạo đức Chấp
hành viên: Toàn Hệ thống THADS đã thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công
chức, viên chức, các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Thực hiện các chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp (ban hành theo
Quyết định số 2659/QĐ-BTP ngày 03/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp);
chuẩn mực đạo đức Chấp hành viên (ban hành kèm theo Quyết định số
51/2002/QĐ-BTP ngày 27/02/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp).
1.3. Thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong quản lý
- Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương triển khai, thực
hiện cải cách hành chính trong quy trình giải quyết công việc: Về tổ chức thi
hành án, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan trực tiếp
đến đương sự tạo điều kiện thuận lợi để người dân liên hệ giải quyết công việc
đáp ứng yêu cầu cá nhân, tổ chức.
4
- Áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý, điều hành hoạt động của cơ
quan, đơn vị; thực hiện công khai, minh bạch hóa các thủ tục hành chính trong
THADS như thực hiện đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa
có điều kiện thi hành và quyết định giải quyết khiếu nại lần 2, thông tin về việc
không chấp hành án hành chính trên Cổng/Trang Thông tin điện tử THADS theo
quy định; các quy trình tổ chức thi hành án; quy trình giải quyết khiếu nại, tố
cáo...; tổ chức triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO trong quản lý, kiểm
soát hoạt động hành chính; Công khai số điện thoại đường dây nóng, địa chỉ hộp
thư điện tử của cơ quan để tiếp nhận, xác minh, xử lý kịp thời thông tin về đơn
thư khiếu nại, tố cáo, tiêu cực, tham nhũng liên quan đến THADS.
- Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động THADS, cụ thể: Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ
chức THA và báo cáo thống kê THADS trong Hệ thống THADS; phần mềm Hỗ trợ
trực tuyến thi hành án dân sự phục vụ người dân và doanh nghiệp; phần mềm Hệ
thống quản lý văn bản điều hành tại Tổng cục và các cơ quan THADS địa phương;
phần mềm Kế toán nghiệp vụ thi hành án trong Hệ thống THADS; phần mềm Lưu
trữ dùng chung cho hệ thống THADS; đầu tư mua sắm, lắp đặt và đưa vào sử dụng
hệ thống giao ban trực tuyến với 64 điểm cầu (tại Tổng cục và 63 Cục THADS); hệ
thống tổng đài nhắn tin SMS tại Tổng cục THADS; cấp chữ ký số cho Lãnh đạo
Tổng cục, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, các Cục trưởng và một số Trưởng
phòng chuyên môn của Cục THADS; 100% cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động thuộc Tổng cục, các cơ quan THADS địa phương đều được cấp hộp thư điện
tử công vụ phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 10.000 tài khoản),
dung lượng cao nhất lên đến 5GB. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào xây dựng, gửi báo cáo ngày càng được tăng cường, đi vào nề nếp, rút ngắn thời
gian làm báo cáo thống kê, kịp thời phục vụ nhu cầu sử dụng số liệu, thông tin thống
kê trong quản lý, điều hành hoạt động thi hành án dân sự.
Đặc biệt là việc đưa vào áp dụng thí điểm một số nội dung yêu cầu thi hành
án trực tuyến; các cơ quan THADS địa phương đã thực hiện, triển khai có hiệu quả
cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục hành chính và dịch vụ bưu chính công ích
trong tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực
THADS. Kết quả: 63/63 địa phương đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa trong
giải quyết thủ tục hành chính (63 Cục THADS và 691/710 Chi cục THADS); Các
cơ quan THADS địa phương đã phối hợp, ký thỏa thuận với Bưu điện Việt Nam
để triển khai dịch vụ bưu chính công ích trong lĩnh vực THADS.
- Trong hoạt động giải quyết công việc của Tổng cục THADS và cơ quan
THADS địa phương đã ban hành và thực hiện các quy trình, quy chế2; nội quy làm
2Quy chế về tiếp công dân, Quy chế làm việc, Quy chế thực hiện dân chủ, Quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế mua
sắm tài sản công, Quy chế quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ…; bộ quy trình về công tác tổ chức, cán bộ Tổng
cục THADSxây dựng gồm:Quy trình tiếp nhận công chức về công tác tại Tổng cục THADS và các cơ quan
THADS; Quy trình tuyển dụng công chức, Quy trình tiếp nhận công chức, Quy trình chuyển đổi vị trí công tác,
Quy trình định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với Chấp hành viên; Quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức,
viên chức, người lao động thuộc Tổng cục THADS và các cơ quan THADS; Quy trình chọn, cử và quản lý công
5
việc của cơ quan, đơn vị và quyết định phân công nhiệm vụ của Lãnh đạo. Việc phân
công triển khai thực hiện công việc của cơ quan, đơn vị được thực hiện tại các cuộc
họp giao ban hàng tháng, trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo dân chủ, công khai.
1.4. Thực hiện PCTN, tiêu cực trong tổ chức thi hành án
Thời gian qua, kết quả THADS đạt được liên tục năm sau cao hơn năm
trước một cách ổn định và bền vững, hoàn thành, vượt mức chỉ tiêu của Đảng và
Nhà nước giao, thể hiện: năm 2017 thi hành xong đạt tỷ lệ 79,25% về
việc,38,31% về tiền; năm 2018 thi hành xongđạt tỷ lệ 80,30% về việc, 38,35% về
tiền; năm 2019 thi hành xong đạt tỉ lệ 78,59% việc, 35,43%về tiền trên số có điều
kiện thi hành; 06 tháng đầu năm 2020, thi hành xong đạt tỉ lệ 53,00% việc, 17,21%
về tiền trên số có điều kiện thi hành.
Kết quả THADS về việc thu hồi tài sản tham nhũng: Một trong những
nhiệm vụ của THADS là thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình
sự, trong đó có các vụ án tham nhũng kinh tế. Công tác THADS nói chung và
công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham
nhũng, kinh tế nói riêng đã đạt được những kết quả tích cực đáng ghi nhận, cụ
thể: Năm 2017, thi hành xong đạt 74,14% về việc và 66,84% về tiền; năm 2018,
đã thi hành xong đạt 61,27% về việc và 27,89% về tiền; năm 2019 thi hành xong
đạt tỷ lệ 68,66% về việc,29,67% về tiền trên số có điều kiện thi hành; 06 tháng đầu
năm 2020, thi hành xong đạt tỉ lệ 52,61% về việc và 16,14% về tiền.
1.5. Công tác thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực
Công tác kiểm tra, đặc biệt công tác tự kiểm tra được chỉ đạo quyết liệt,
chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, siết chặt kỷ luật, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.Trên cơ sở
theo dõi, thống kê thực hiện công tác kiểm tra tại Tổng cục THADS cho thấy:
Năm 2017 tổ chức kiểm tra 11 cuộc, trong đó 023 cuộc kiểm tra toàn diện và 094
cuộc kiểm tra chuyên đề; năm 2018 tổ chức kiểm tra 19 cuộc, trong đó 025 cuộc
kiểm tra toàn diện, 146 cuộc kiểm tra chuyên đề và 037 cuộc kiểm tra liên ngành;
năm 2019 tổ chức 18 cuộc, trong đó 01 cuộc kiểm tra toàn diện (Khánh Hòa), 168
cuộc kiểm tra chuyên đề và 01 cuộc kiểm tra liên ngành. Kết quả 03 năm qua,
trong toàn Hệ thống THADS 03năm (từ 2017- 2019) đã phát hiện và xử lý
25trường hợp có hành vi tham nhũng.
chức đi đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống các cơ quan THADS; Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ
quan THADS và Quy trình tổ chức thi hành án trong Hệ thống THADS.
3 Ninh Bình, Phú Yên.
4 Đắc Nông, Quảng Ninh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Khánh Hòa, Hải Phòng.
5 Lâm Đồng, Thái Nguyên.
6Tp.Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, bình Dương, Sơn La, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Nam, Đồng Tháp, Sóc
Trăng, Quảng Bình, Quảng Trị, Kiên Giang, An Giang, Thanh Hóa, Bến Tre, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai.
7 Bình Dương, Bình Thuận, Gia Lai
8Ninh Thuận, Tp. Hà Nội, Tp. HCM, Lâm Đồng, Bắc Giang, Quảng Ninh, Bạc Liêu, Cao Bằng, Bắc Kan, Điện
Biên, Nghệ An, Bình Phước, Tp. Hải Phòng, Đắk Lắk, Tiền Giang, Cần Thơ
6
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Về kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng thời gian vừa qua
2.1.1. Về số lượng vụ việc tham nhũng và hình thức phát hiện
- Vụ việc tham nhũng bị phát hiện mặc dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao
(25 trường hợp)
- Một số nơi công tác kiểm tra, giám sát nội bộ liên quan đến việc PCTN,
tiêu cực còn chưa được quan tâm đúng mức. Các cấp ủy Đảng hàng năm có thành
lập tổ kiểm tra nhưng chủ yếu tập trung vào thực hiện công tác kiểm tra việc hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn của đảng viên, chưa tiến hành kiểm tra, giám sát
chuyên đề về PCTN đối với tập thể lãnh đạo đơn vị hoặc tiến hành kiểm tra đối
với chấp hành viên, cán bộ, công chức có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh,
kiến nghị của người dân trong giải quyết công việc. Một số đơn vị các tổ chức,
đoàn thể (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Ban Thanh tra nhân dân…) chưa thực
hiện tốt vai trò giám sát cũng như phản biện đối với các quyết định, quy định của
tập thể lãnh đạo trong quản lý, điều hành các hoạt động của đơn vị. Do đó, tham
nhũng bị phát hiện qua các hình thức thanh tra, kiểm tra nội bộ và tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo còn ít (qua hoạt động kiểm tra nội bộ chiếm (28%),
qua hoạt động thanh tra (04%), và phát hiện qua giải quyết khiếu nại, tố cáo
(12%) mà chủ yếu bị phát hiện qua công tác điều tra chiếm (60%).
2.1.2. Về đối tượng bị phát hiện tham nhũng và xử lý
Một số đơn vị cấp ủy đảng, có nơi có lúc người đứng đầu cơ quan chưa
thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, tiêu cực; một vài địa
phương vai trò của người đứng đầu Chi bộ đảng còn mờ nhạt; một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, thiếu kiên quyết PCTN, tiêu
cực; thậm chí thiếu tu dưỡng rèn luyện, lợi dụng sơ hở trong quản lý, cơ chế,
chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng; lợi dụng nhiệm vụ được giao để
nhũng nhiễu, vòi vĩnh; cố ý làm trái những quy định, quy trình công tác để vụ lợi.
Do đó, đối tượng bị phát hiện và xử lý xảy ra trên hầu hết các vị trí công tác từ
cán sự, thư ký thi hành án, thủ kho, thủ quỹ, Chấp hành viên cho đến Thủ trưởng
đơn vị, nhưng nhiều nhất tập trung vào Thủ trưởng cơ quan THADS, Kế toán,
Chấp hành viên, cụ thể, 03 năm qua đã phát hiện và xử lý:
- Lãnh đạo cơ quan THADS: 07 trường hợp Chi cục trưởng bị cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố; 01 trường hợp Phó Chi cục
trưởnđã bị cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố và 01
trường hợpPhó Chi cục trưởnbị kỷ luật.
- Chấp hành viên có 07 trường hợp: 05 trường hợp đã bị khởi tố, 02 trường
hợp bị kỷ luật.
- Kế toán có 04 trường hợp: 01 trường hợp đã bị kết án (án cao nhất 17
năm tù), 01 trường hợp đang vị xem xét xử lý hình sự; 02 trường hợp bị kỷ luật.
7
- Các hành vi tham nhũng xảy ra ở các vị trí công tác khác từ 01 đến 02
trường hợp.
2.1.3. Về các loại hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng và tính chất,
mức độ nghiêm trọng
Các loại hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng có tính chất phức tạp,
nghiêm trọng và chủ yếu tập trung vào các trường hợp sau đây:
- Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền
của đương sự; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ;
- Lợi dụng vị trí công tác sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án
trái pháp luật; thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; xâm tiêu tiền thi hành án;
- Chậm kê biên tài sản, kéo dài thời gian thi hành án nhằm mục đích vụ lợi;
- Chi - thu sai nguyên tắc tài chính trong thi hành án;
- Buông lỏng quản lý, chỉ đạo, kiểm tra tạo điều kiện cho cấp dưới làm trái
quy định pháp luật (lập khống hồ sơ thuê kho, bảo trì trụ sở, lập chứng từ khống
để rút tiền ngân sách Nhà nước;
- Thu tiền không nhập quỹ thi hành án, cố tình làm sai lệch việc lập báo
cáo tài chính mục đích chiếm đoạt tiền;
- Mở sổ quỹ tiền mặt không đúng quy định, để quỹ tiền mặt tại đơn vị với
số tiền lớn, tạo điều kiện để thủ quỹ chiếm dụng tiền quỹ trong thời gian dài;
- Vi phạm quy định pháp luật về quản lý kho vật chứng để trục lợi.
Trong đó, đáng lưu ý trong nhiều vụ việc, tài sản đã được Tòa án kê biên để
đảm bảo thi hành án nhưng Chấp hành viên chưa tích cực, chủ động, chưa kịp thời
xử lý, làm chậm tiến độ thu hồi tài sản cho Nhà nước; có trường hợp tài sản để quá
lâu không xử lý nên bị giảm giá trị, hư hỏng, bị lấn chiếm, chiếm dụng trái phép, bất
hợp pháp. Đặc biệt, hiện nay, có dấu hiệu tình trạng Chấp hành viên câu kết với tổ
chức thẩm định giá, bán đấu giá trong quá trình thẩm định giá, bán đấu giá tài sản kê
biên để thi hành án, như: (i) lựa chọn các tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản
không đủ năng lực hoặc “sân sau”; (ii) tài sản được định giá thấp hơn nhiều lần so
với giá thị trường; (iii) quá trình bán đấu giá tài sản diễn ra khép kín, người có nhu
cầu không tiếp cận được để mua hồ sơ tham gia phiên đấu giá; (iv) việc công khai
thông tin về phiên đấu giá diễn ra không minh bạch, đăng tin trên các tờ báo, trang
thông tin ít người xem, không phổ biến…, gây thất thoát tài sản của cá nhân, Nhà
nước và ảnh hưởng đến uy tín của Hệ thống THADS.
2.2. Về nguy cơ xảy ra tham nhũng
Thực tế qua công tác xử lý, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; qua công
tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát và qua phản ánh của các cơ quan báo chí, truyền
thông cho thấy biểu hiện, hành vi tiềm ẩn nguy cơ có thể xảy ra tham nhũng về
công tác về THADS còn cao, cụ thể như sau:
8
2.2.1. Trong công tác nghiệp vụ và tổ chức thi hành án
- Công tác hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ: có biểu hiện thông tin cho đương
sự trong vụ việc thi hành án đang xin hướng dẫn nghiệp vụ; lợi dụng việc hướng
dẫn nghiệp vụ để kéo dài thời gian thi hành án; tham mưu, đề xuất không khách
quan, che giấu những sai phạm của Chấp hành viên; tham mưu việc giao tài sản
cho người mua trúng đấu giá khi vụ việc có khiếu nại, tố cáo nhiều sai phạm của
Chấp hành viên liên quan đến việc bán đấu giá.
- Trong việc chỉ đạo tổ chức thi hành án của Lãnh đạo các cơ quan THADS
địa phương: Có dấu hiệu hiện tượng người đứng đầu đơn vị (Cục trưởng, Chi cục
trưởng) lợi dụng chức vụ, quyền hạn chỉ đạo, can thiệp vào các vụ việc đang tổ chức
thi hành án làm thay đổi bản chất vụ việc nhằm trục lợi: Chỉ đạo kéo dài thời gian tổ
chức thi hành án bằng hình thức họp liên ngành, xin ý kiến nghiệp vụ không theo
quy trình trong khi vụ việc không có khó khăn, vướng mắc; chậm kê biên, cưỡng
chế tài sản của người phải thi hành án; chậm giao tài sản cho người mua trúng đấu
giá có giá trị lớn (từ vài tỷ hoặc lên tới hàng trăm tỷ đồng)…
Còn tình trạng bao che, dung túng cho cấp dưới, ngay cả khi phát hiện ra sai
phạm nhưng không có biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời và có hình thức xử
lý kỷ luật nghiêm khắc dẫn đến hậu quả xảy ra không thể khắc phục được (vídụ có
trường hợp đã phát hiện Chấp hành viên xác minh, kê biên, thẩm định giá, đưa ra
bán đấu giá nhiều tài sản nhà đất có giá trị lớn xác định là tài sản riêng của người
phải thi hành án nhưng thực chất là tài sản chung của hộ gia đình).
- Đối với Chấp hành viên - người trực tiếp thi hành vụ việc: Có biểu hiện
gây khó khăn, vòi vĩnh, đặt điều kiện đối với đương sự và người có quyền, lợi ích
liên quan (người được thi hành án muốn được thi hành án thìphải chia phần trăm
trên số tiền hoặc tài sản được thi hành án; đối với người phải thi hành án muốn
chậm, kéo dài thi hành án).
Lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn trong tổ chức thi hành án cố tình làm sai lệch hồ
sơ vụ việc ngay từ khâu xác minh điều kiện thi hành án, đến khâu cưỡng chế, kê biên
tài sản lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án, kê biên không đúng diện tích,
thiếu tài sản; ký kết với đơn vị thẩm định giá, bán đấu giá không đủ điều kiện…Có
trường hợp Chấp hành viên câu kết, thông đồng với đơn vị thẩm định giá, bán đấu giá
để hạn chế người mua tài sản đấu giá để dìm giá, hạ giá tài sản thi hành án.
2.2.2. Trong công tác tổ chức cán bộ
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Đây là hành vi của người có thẩm quyền
trong công tác cán bộ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái quy định
trong công tác cán bộ vì vụ lợi. Biểu hiện của loại tiêu cực, tham nhũng quyền lực
này rất đa dạng, từ việc dùng “quyền lực mềm” của cương vị lãnh đạo, quản lý để
tác động, gợi ý nhằm ưu ái cá nhân, hay sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình đổi
chác việc tiếp nhận, bố trí nhân sự cho nhau giữa hai cơ quan, đơn vị…
9
- Lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, quy định: Đây là hành vi của
người có thẩm quyền, trách nhiệm trong công tác cán bộ đã lợi dụng những sơ hở
trong cơ chế, chính sách, quy định về công tác cán bộ để làm những điều sai trái
vì vụ lợi, đi ngược lại lợi ích của tổ chức, của Đảng, Nhà nước, nhân dân.
- Cố ý làm trái: Hành vi này có trong tất cả các dạng tiêu cực, tham nhũng
nêu ở trên, tuy nhiên cũng có những đặc trưng. Biểu hiện của dạng tiêu cực, tham
nhũng này trong công tác cán bộ là cán bộ lãnh đạo có thẩm quyền, trách nhiệm
nhưng coi thường nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, quyết định chủ
trương công tác cán bộ không đúng quy định. Hành vi này dẫn đến những quyết
định tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ không đúng quy trình, thủ tục, không
đúng chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng; những vụ, việc “quy hoạch thần
tốc”, “bổ nhiệm thần tốc”, “nâng đỡ không trong sáng”, bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo, quản lý thiếu điều kiện, tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực...
Biểu hiện của dạng tiêu cực, tham nhũng cố ý làm trái còn có thể kể đến
hành vi giả mạo trong công tác cán bộ, như làm tài liệu, hồ sơ giả; học giả, dùng
bằng giả hay khai báo lý lịch không trung thực để đủ tiêu chuẩn quy hoạch, bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử. Những cán bộ khi làm việc này đều biết sai nhưng cố ý
làm để được tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm.
- Nhũng nhiễu trong công tác cán bộ: Hành vi này có thể hiện hữu ở nhiều
cán bộ lãnh đạo lẫn cán bộ tham mưu về công tác cán bộ. Có thể biểu hiện qua
một số dạng hành vi như gây khó dễ, đòi hỏi quà cáp, thậm chí nhận hối lộ, “làm
giá”, môi giới dưới dạng giúp “chạy” việc này, việc khác.
2.2.3. Trong công tác Kế hoạch, tài chính
- Về quản lý tài chính, kế toán, sử dụng tài sản: Giả mạo, lập khống chứng
từ, tài liệu để rút tiền của cơ quan, đơn vị; câng chi phí hoạt động không đúng
thực tế để rút, chiếm đoạt tiền của cơ quan, Nhà nước; sử dụng tài sản công vào
việc riêng; “Thông thầu” trong mua sắm, sửa chữa tài sản, phương tiện làm việc
để tăng chi phí mua sắm, sửa chữa so với giá trị thực tế phát sinh để chiếm đoạt
tiền của cơ quan đơn vị.
- Về đầu tư xây dựng cơ bản: “Thông thầu” với nhà thầu tư vấn, nhà thầu
thi công, Ban quản lý dự án để lập hồ sơ khống, tăng chi phí không đúng thực tế
để chiếm đoạt tiền, tài sản của đơn vị.
- Về quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ: Thủ kho không tiến hành các
thủ tục nhập kho vật chứng, tài sản tạm giữ theo quy định; không thực hiện đúng
quy định về niêm phong và mở niêm phong dẫn đến việc người có tài sản nghi
ngờ, khiếu kiện gay gắt...
2.2.4. Trong công tác kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo và bồi thường nhà nước
- Công tác kiểm tra: Trong quá trình kiểm tra hồ sơ che giấu những sai
phạm của Chấp hành viên; giúp Chấp hành viên hoàn thiện hồ sơ khắc phục
10
những vi phạm; không trung thực trong việc báo cáo kết quả kiểm tra...; quá trình
kiểm tra có thái độ không khách quan, gây khó khăn nhằm mục đích vòi vĩnh
đương sự, người có quyền lợi liên quan và đơn vị được kiểm tra...
- Về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: Lợi dụng việc tiếp
công dân để tư vấn, đặt vấn đề để hứa giải quyết vụ việc nhanh, qua đó vòi vĩnh,
nhận tiền đương sự; tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo không khách quan,
làm sai lệch hồ sơ thi hành án nhằm mục đích vụ lợi.
- Trong công tác bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính: Lãnh đạo,
Thẩm tra viên phụ trách hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo làm việc không khách
quan, không tuân thủ quy định của pháp luật, thông đồng với đương sự để ban
hành quyết định chấp nhận khiếu nại của đương sự hoặc ban hành Kết luận giải
quyết tố cáo chấp nhận tố cáo của đương sự, sau đó lập hồ sơ đề nghị cấp kinh
phíbồi thường nhà nước trái pháp luật nhằm trục lợi.
- Quá trình tham mưu, thẩm định hồ sơ giải quyết các vụ việc bồi thường
nhà nước, bảo đảm tài chính: Lợi dụng thẩm quyền, cấu kết với đương sự để
thẩm định hồ sơ không đúng quy định của pháp luật; liên hệ, vòi vĩnh, gây khó
khăn cho đương sự để trục lợi hoặc thông đồng với người bị thiệt hại để đẩy số
tiền bồi thường lên cao nhằm trục lợi.
Bên cạnh những tồn tại, hạn chế chủ yếu như trên, công tác PCTN thời
gian qua còn chưa được sơ kết, tổng kết theo từng quý, năm chưa được thực hiện
thường xuyên theo chuyên đề riêng, do đó chưa kịp thời đánh giá, rút ra những
bài học kinh nghiệm và đề ra những giải pháp giải quyết những tồn tại, hạn chế.
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng hình sự, về PCTN, về quản lý,
đăng ký tài sản,giải quyết phá sản, thẩm định giá và bán đấu giá tài sản,… còn có
những nội dung chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, thậm chí một số quy định còn
mâu thuẫn, chồng chéo với Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành
pháp luật khác,gây khó khăn cho cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi
hành án; đồng thời, pháp luật về THADS cũng có một số quy định chưa thực sự
phù hợp với thực tiễn hoặc chưa được quy định cụ thể dễ bị lợi dụng cơ chế,
chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng; pháp luật về công tác tổ chức cán
bộ, về kế toán, tài chính, về quản lý tài sản, thu nhập còn thiếu, một số quy định
pháp luật còn bất cập, thiếu chặt chẽ, khó kiểm soát.
- Công tác quản lý về đấu giá tài sản bao gồm nhiều khâu, liên quan đến sự
phối hợp, chủ trì của nhiều cơ quan9. Quan điểm, nhận thức về các nghề bổ trợ tư
9 Trước khi Luật đấu giá tài sản được ban hành, trình tự, thủ tục đấu giá tài sản được điều chỉnh bởi nhiều văn
bản khác nhau như Luật thương mại, Luật khoáng sản, Luật chứng khoán, Nghị định, Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành. Luật đấu giá tài sản quy định về trình tự, thủ tục đấu giá, còn các
Luật chuyên ngành quy định về tài sản đưa ra bán đấu giá, về xác định giá khởi điểm tài sản đấu giá.
11
pháp nói chung và đấu giá nói riêng còn bị đồng nhất với các nghề kinh doanh
thông thường nên có lúc chưa chú trọng đến yêu cầu bảo vệ công lý, công bằng
xã hội và an toàn giao dịch, chống thất thoát tài sản công.
- Cơ chế quản lý tài sản ở nước ta còn chưa chặt chẽ, thống nhất, các giao
dịch kinh tế dân sự hiện nay vẫn chủ yếu thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền
mặt nên khó kiểm soát được thu nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân, khó truy tìm
nguồn gốc của tài sản và cũng gây khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp
phong tỏa, kê biên tài sản của cơ quan có thẩm quyền.
- Việc xây dựng, kiện toàn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, Chấp
hành viên và lãnh đạo các cơ quan THADS mới đạt được những kết quả bước
đầu.Chất lượng đội ngũ công chức làm công tác THADS có lúc, có nơi còn chưa
đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Lãnh đạo một số cơ quan THADS chưa nhận thức được đầy đủ và quan
tâm đúng mức về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chưa thực sự sâu
sát, quyết liệt trong việc chỉ đạo, thậm chí có nơi còn khoán trắng, bỏ mặc cho
Chấp hành viên giải quyết vụ việc; nhiều vụ việc có giá trị phải thi hành án rất
lớn nhưngThủ trưởng cơ quan THADS không thường xuyên kiểm tra, đôn đốc,
yêu cầu Chấp hành viên báo cáo nên không nắm được tiến độ, tình hình, kết quả
thi hành án để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho Chấp
hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.
-Kỷ luật công vụ, kỷ cương hành chính tại một số cơ quan THADS còn chưa
được chấp hành nghiêm túc, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ các nội dung ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục trong việc xem
xét trách nhiệm, xử lý cá nhân có vi phạm trong quá trình tổ chức thi hành án, để
tình trạng kéo dài không xử lý, không có đề xuất phương án giải quyết.
- Một số Lãnh đạo là Thủ trưởng cơ quan, Chấp hành viên, cán bộ, công
chức thiếu tu dưỡng rèn luyện, lợi dụng sơ hở trong quản lý, cơ chế, chính sách,
pháp luật để thực hiện hành vi tham nhũng; lợi dụng nhiệm vụ được giao để nhũng
nhiễu, vòi vĩnh; cố ý làm trái những quy định, quy trình công tác để vụ lợi.
- Công tác PCTN, tiêu cực thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
một số cơ quan THADS chưa được chú trọng; chưa chủ động kiểm tra đối với
Chấp hành viên, công chức có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của
người dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Số vụ việc tiêu cực, tham nhũng
được phát hiện thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn rất ít.
- Ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế trong việc sử dụng ký chữ ký
số và thực hiện gửi văn bản điện tử trong Hệ thống THADS.
- Việc xử lý cán bộ, công chức vi phạm tại một số cơ quan THADS chưa
nghiêm, chưa đủ mạnh, đủ sức răn đe; vẫn còn hiện tượng che giấu vi phạm trong
việc cán bộ, công chức của đơn vị mình quản lý.
12
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng
trong thời gian tới
Trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của Đảng, Nhà nước và Nhân dân về
công tác PCTN, để thực hiện công tác này có hiệu quả, cần phải phát huy những
kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế và thực hiện đồng bộ các
nhiệm vụ, giải pháp sau:
3.1. Nhóm giải pháp chung đối với Tổng cục THADS và các cơ quan
THADS địa phương
Thứ nhất,tiếp tục tăng cường, phối hợp với cấp ủy đơn vịtuyên truyền, phổ
biến, triển khai, quán triệt đầy đủ nội dung, tinh thần các văn bản, nghị quyết, quy
định của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác phòng, chống
tham nhũng (PCTN), tiêu cực trong Hệ thống THADSnhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, tích cực, thống nhất từ nhận thức đến hành động của cán bộ, công chức,
người lao động tại đơn vị trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai,nâng cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức,
nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể trong công tác
PCTN, tiêu cực. Thực hiện nghiêm việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu,
cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ
quan, đơn vị do mình quản lý, phụ trách theo quy định tại Điều 73 Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2018.
Thứ ba,Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Tổng cục, các cơ quan THADS địa
phương tổ chức rà soát, phân tích nhận diện đầy đủ các biểu hiện, hành vi tham
nhũng, tiêu cực có thể xảy ra và thực hiện phòng, ngừa tại đơn vị. Từ đó, kịp thời phát
hiện, xử lý nghiêm các biểu hiện, hành vi tham nhũng, tiêu cực xảy ra tại đơn vị.
Thứ tư, duy trìvà thực hiện tốt việc công khai, minh bạch hoạt động của cơ
quan, đơn vị trên các lĩnh vực và đường dây nóng, số điện thoại đường dây nóng, địa
chỉ hộp thư điện tử tiếp nhận phản ánh, kiến nghị, tố giác, tố cáo của người dân và
phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS phục vụ người dân để kịp thời tiếp nhận và xử lý
thông tin, phản ánh, tố giác, tố cáo của người dân đối với vụ việc, vụ án tham nhũng;
đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công nghệ
quản lý, thực hiện gửi văn bản điện tử và áp dụng chữ ký số trong toàn Hệ thống.
Thứ năm, thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường đối thoại với công dân nhằm kịp thời phát
hiện, chấn chỉnh, xử lý hành vi tham nhũng, tiêu cực.
3.2. Nhóm giải pháp riêng đối với các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS
và các cơ quan THADS địa phương
3.2.1. Đối với các cơ quan THADS địa phương
Một là, tiếp tục thực hiện nghiêm các nội dung của Kế hoạch phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực năm 2020 trong Hệ thống THADS, Kế hoạch thực hiện công tác
13
PCTN năm 2020 của Bộ Tư pháp và Công văn 965/TCTHADS-GQKNTC ngày
26/3/2020 của Tổng cục THADS về việc quán triệt, triển khai thực hiện công tác
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Hệ thống THADS. Thủ trưởng các cơ quan
THADS địa phương phối hợp với cấp ủy Đảng tổ chức sinh hoạt chuyên đề năm 2020
về nội dung “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán
bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”theo Hướng dẫn số 52/-HD/BTGTW ngày 20/11/2017 của Ban Tuyên giáo
Trung ương và gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và XII.
Hai là,điều chỉnh, thực hiện kế hoạch kiểm tra và tổ chức tự kiểm tra, kiểm
tra phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ
đạo, điều hành trong công tác thi hành án. Tăng cường công tác kiểm tra đột xuất
khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra công vụ, giám sát để phòng ngừa, phát hiện
hành vi tham nhũng, tiêu cực; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra
nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm.
Ba là, rà soát, đẩy mạnh việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý có
hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt” trong cơ quan, đơn vị và hành vi nhũng
nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp; kiên quyết xử lý nghiêm
những cán bộ có hành vi “tham nhũng vặt”.
Bốn là, Thủ trưởng cơ quan THADS chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát
Chấp hành viên thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục thi hành án, đặc biệt là đối với các vụ án tham nhũng, kinh tế, thu hồi tiền, tài
sản cho Nhà nước; yêu cầu chỉ đạo Chấp hành viên phải lựa chọn tổ chức thẩm
định giá, bán đấu giá tài sản có đầy đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín tham gia
thẩm định giá, bán đấu giá tài sản THADS; kiên quyết không ký hợp đồng đối với
các tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá có vi phạm hoặc có biểu hiện thông đồng,
dìm giá, làm sai lệch kết quả thẩm định giá, bán đấu giá tài sản; rà soát, lập danh
sách các tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản đủ điều kiện theo quy định và đăng
tải trên Trang thông tin điện tử Cục THADS để Chấp hành viên nghiên cứu, lựa
chọn, đảm bảo công khai, minh bạch; đăng tải đầy đủ thông tin về việc bán đấu giá
tài sản trên Cổng/Trang thông tin điện tử Tổng cục THADS, Cục THADS.
Năm là,quá trình tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố cáo phải thực hiện theo
đúng quy trình về tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo và giải quyết tố cáo, trong đó có nội
dung tố cáo đối với các hành vi tham nhũng, tiêu cực; thực hiện việc bảo vệ bí
mật thông tin của người tố cáo và không để xảy ra tình trạng người tố cáo bị trả
thù, trù dập theo quy định của pháp luật.
Sáu là,thực hiện nghiêm chế độ báo cáo về Tổng cục THADS (qua Vụ
Giải quyết khiếu nại, tố cáo) theo Công văn số 801/TTR-THHC ngày 06/11/2013
của Thanh tra Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện chế độ báo cáo công tác
nội chính và phòng chống tham nhũng (báo cáo Quý I chậm nhất ngày 16/3; báo
cáo 6 tháng trước ngày 16/6; báo cáo 9 tháng trước ngày 16/9; báo cáo năm
trước ngày 16/12) hoặc báo cáo đột xuất.
14
3.2.2. Đối với các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS
Một là, các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS tập trung thực hiệnnhiệm
vụ về hoàn thiện thể chế, văn bản đảm bảo thời gian, tiến độ theo đúng Kế hoạch
PCTN, tiêu cực năm 2020 trong Hệ thống THADS, cụ thể:
-Tham mưu, sửa đổiThông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các
ngạch công chức chuyên ngành THADS (Vụ Tổ chức, cán bộ);
- Phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày
17/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán nghiệp vụ THADS (Vụ
Kế hoạch - Tài chính);
-Sửa đổi Thông tư 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị,
phản ánh trong THADS; Xây dựng Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra trong Hệ thống THADS” (Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo).
Hai là,nghiêm túc triển khai thực hiệnKế hoạch kiểm tra công tác THADS
của Tổng cục năm 2020 và Kế hoạch thực hiện công tác PCTN năm 2020 của Bộ
Tư pháp, trong đó chú trọng tham mưu kiểm tra về công tác PCTN, tiêu cực và
kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực; phối hợp với Thanh tra Bộ
Tư pháp và các đơn vị thuộc Bộ trong việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi
phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động THADS.
Ba là,đối với các vụ án tham nhũng, thu hồi, tiền tài sản cho nhà nước:
Thực hiện và triển khai, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả theo đúng nội dung Kế
hoạch số 120-KH/BCSĐ ngày 19/12/2019 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp và
Kế hoạch số 4342/KH-TCTHADS ngày 25/12/2019 của Tổng cục THADS trong
toàn Hệ thống THADS.
Bốn là,tổng hợp, theo dõi, đánh giá, xây dựng báo cáo về công tác PCTN,
tiêu cực trong toàn Hệ thống THADS; tổng hợp, nhận xét, đánh giá đối với các
báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch phòng, chống tham nhũng, tiêu cực năm
2020 của các đơn vị thuộc Tổng cục và 63 Cục THADStỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương tham mưu Lãnh đạo Tổng cục có hình thức khen thưởng đối với
những cơ quan, đơn vị thực hiện tốt, hiệu quả trong công tác PCTN, tiêu cực và
tổ chức, chỉ đạo tổ chức kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với các tổ chức, cá
nhân có hành vi tham nhũng, tiêu cực trong Hệ thống THADS./.
PASS GIẢI NÉN; Truy cập qua Phiếu bài tập cuối tuần lớp 3 kết nối tri thức - cuối bài viết
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
CHUYÊN ĐỀ
TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG TRONG HỆ THỐNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo-
Công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) luôn được Đảng, Nhà nước
chỉ đạo thực hiện quyết liệt và thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy
nhiên, trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội vẫn còn tình trạng cán bộ, công
chức lợi dụng vị trícông tác; lợi dụng kẽ hở của cơ chế, chính sách, pháp luật; lợi
dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để sách nhiễu, gây phiền hà, giải quyết
không đúng, không công bằng, không khách quan nhằm trục lợi cá nhân.
Đối với thi hành án dân sự (THADS), thời gian qua, Bộ Tư pháp và Tổng cục
THADS đã triển khai và thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, gắn với công tác cải cách
hành chính, củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao trách nhiệm của đội ngũ
công chức làm công tác THADS1 nhằm ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng
trong toàn Hệ thống THADS. Tuy nhiên, công tác PCTN trong hệ thống THADS
vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế như: số vụ việc tham nhũng bị phát hiện mặc dù đã
giảm nhưng vẫn ở mức cao; đối tượng bị phát hiện và xử lý xảy ra trên hầu hết các
vị trí công tác và tập trung nhiều nhất vào Thủ trưởng cơ quan THADS, Kế toán,
Chấp hành viên; hành vi vi phạm có tính chất phức tạp và nghiêm trọng; nguy cơ có
thể xảy ra tham nhũng vẫn còn nhiều... Thực tế này đặt ra vấn đề cần phải phân tích,
đánh giá đầy đủ những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc vànguyên nhân của
những tồn tại hạn chế đó để xác định các giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả
công tác phòng, chống tham nhũng trêntoàn Hệ thống THADS trong thời gian tới.
1. Những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng
thời gian vừa qua
1.1.Việc chấp hành các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu
trong Hệ thống THADS
Xác định sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu cơ quan, đơn vị là nhân
tố quyết định thành công trong công tác PCTN, tiêu cực, theo đó Lãnh đạo Tổng
cục, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tổng cục THADS và hầu hết Thủ trưởng các cơ
quan THADS địa phương luôn thực hiện các nhiệm vụ:
- Gương mẫu, đi đầu, thống nhất cao về ý chí và hành động trong việc chấp
hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về PCTN, tiêu cực, quy tắc ứng xử, quy
tắc đạo đức nghề nghiệp; thực hiện nghiêm 19 điều Đảng viên và các quy định cán
bộ, công chức, viên chức không được làm; không can thiệp trái pháp luật vào việc
giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người
có trách nhiệm thi hành án vì mục đích vụ lợi; chủ động phòng ngừa, phát hiện và
1Công văn số 449-CV/BCSĐ ngày 19/7/2019 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp; Công văn số 2811/BTP-TTR
ngày 29/7/2019 triển khai thực hiện Công điện số 724/CĐ-TTg; Công văn số 1860/TCTHADS-TCCB ngày
24/6/2019, Công văn số 2362/TCTHADS-TCCB ngày 01/8/2019, Công văn số 2216/TCTHADS-TCCB ngày
23/7/2019 của Tổng cục THADS đến toàn thể công chức, người lao động trong toàn hệ thống.
2
xử lý cán bộ, công chức có hành vi, biểu hiện tham nhũng. Người đứng đầu đơn vị
phải chịu trách nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mình.
- Thực hiện công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có
liên quan; chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân thuộc quyền quản lý thực hiện công khai, minh bạch; trường hợp phát hiện
vi phạm pháp luật về công khai, minh bạch thì phải xử lý theo thẩm quyền hoặc
kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện phân công trách nhiệm rõ ràngđối với cấp phó được giao phụ
trách trong từng lĩnh vực; quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp phó quản
lý, tránh tình trạng chồng chéo, bỏ trống trong hoạt động quản lý. Nguyên tắc,
Thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm chung và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với
lĩnh vực do mình quản lý, cấp phó chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực
được giao phụ trách. Sâu sát, kiểm tra, giám sát chặt chẽ mọi mặt hoạt động của
đơn vị, kịp thời phát hiện những biểu hiện, hành vi tiêu cực, tham nhũng và có
biện pháp xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với hành vi tham nhũng, làm cho cán bộ,
công chức, người lao động trong đơn vị không có cơ hội tham nhũng và thực hiện
hành vi tham nhũng, tiêu cực.
- Thực hiện và có trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo công tác PCTN, tiêu cực;
chủ động tự phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng trong tổ chức, cơ quan,
đơn vị mình. Xử lý kịp thời, nghiêm minh Lãnh đạo cơ quan, đơn vị để xảy ra
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình trực tiếp lãnh đạo, quản lý
nhưng không chủ động phát hiện, xử lý, nhất là đối với trường hợp bao che, ngăn
cản việc phát hiện, xử lý tham nhũng.
- Thực hiện dân chủ trong quản lý và điều hành hoạt động của cơ quan, đơn
vị; trong quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện chế độ, chính sách đối
với cán bộ, công chức, viên chức thông qua Quy chế nội bộ của cơ quan, đơn vị,
các cuộc họp giao ban định kỳ, hàng tháng, hàng quý và 6 tháng để đánh giá kết
quả thực hiện các nhiệm vụ được giao và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
phải thực hiện trong thời gian tới của cơ quan, đơn vị. Cuối năm, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị phải tổ chức đánh giá tổng kết hoạt động của cơ quan, đơn vị tại
hội nghị cán bộ, công chức, viên chức theo quy định.
- Xem xét, giải quyết kịp thời theo quy định của pháp luật các khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của cán bộ, công chức, viên chức và kiến nghị của các tổ chức
đoàn thể của cơ quan, đơn vị; kịp thời báo cáo với cơ quan có thẩm quyền những
vấn đề không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Kịp thời xử lý người có
hành vi cản trở việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan, đơn vị và
người có hành vi trả thù, trù dập cán bộ, công chức, viên chức khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị theo quy định của pháp luật.
3
1.2. Việc thực hiện quy định pháp luật trong tổ chức cán bộ; về định
mức, tiêu chuẩn, chế độ; kê khai tài sản, thu nhập, công khai tài sản, thu nhập
và xác minh tài sản thu nhập
- Tổng cục và các cơ quan THADS địa phương đã thực hiện công khai,
minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ, đặc biệt là trong tuyển dụng, bố trí, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác,
khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, hạn chế đến mức thấp nhất sai sót, để
xảy ra khiếu kiện trong công tác này; thực hiện đúng tiêu chuẩn, định mức, chế
độ trong thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ công chức; Tăng cường kiểm
soát công tác tuyển dụng công chức, đảm bảo công khai, minh bạch trong tuyển
dụng công chức; tổ chức thi tuyển công chức của các cơ quan THADS theo
hướng tập trung; tổ chức các kỳ thi nâng ngạch theo đúng quy định. Cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức theo yêu cầu vị trí việc làm và tăng cường chất lượng.
Tổng cục THADS là một trong những đơn vị đi đầu trong việc xây dựng, hoàn
thiện Đề án cơ cấu, xác định vị trí việc làm. Đồng thời, tăng cường kiểm tra việc
thực hiện các quy định về công tác cán bộ, nhằm kịp thời phát hiện và xử lý
nghiêm các trường hợp vi phạm trong công tác này, xử lý trách nhiệm đối với
người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra sai phạm, tham nhũng.
- Về công khai, minh bạch tài sản, thu nhập trong PCTN, tiêu cực: Toàn Hệ
thống THADS đã triển khai thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân của
cán bộ, công chức Lãnh đạo, Chấp hành viên, Thẩm tra viên, niêm yết công bản
kê khai tài sản, thu nhập theo đúng quy định của Luật PCNT năm 2018. Việc kê
khai tài sản của cán bộ, đảng viên đã được thực hiện một cách đầy đủ, trung thực
và công khai trong đảng bộ, chi bộ. Trong các cơ quan THADS, không có phản
ánh về những thu nhập, tài sản bất minh, không có dư luận tố cáo của nhân dân về
việc kê khai tài sản của cán bộ, đảng viên.
Việc thực hiện quy tắc ứng xử của công chức, chuẩn mực đạo đức Chấp
hành viên: Toàn Hệ thống THADS đã thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công
chức, viên chức, các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Thực hiện các chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp (ban hành theo
Quyết định số 2659/QĐ-BTP ngày 03/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp);
chuẩn mực đạo đức Chấp hành viên (ban hành kèm theo Quyết định số
51/2002/QĐ-BTP ngày 27/02/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp).
1.3. Thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong quản lý
- Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương triển khai, thực
hiện cải cách hành chính trong quy trình giải quyết công việc: Về tổ chức thi
hành án, công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan trực tiếp
đến đương sự tạo điều kiện thuận lợi để người dân liên hệ giải quyết công việc
đáp ứng yêu cầu cá nhân, tổ chức.
4
- Áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý, điều hành hoạt động của cơ
quan, đơn vị; thực hiện công khai, minh bạch hóa các thủ tục hành chính trong
THADS như thực hiện đăng tải công khai danh sách người phải thi hành án chưa
có điều kiện thi hành và quyết định giải quyết khiếu nại lần 2, thông tin về việc
không chấp hành án hành chính trên Cổng/Trang Thông tin điện tử THADS theo
quy định; các quy trình tổ chức thi hành án; quy trình giải quyết khiếu nại, tố
cáo...; tổ chức triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ISO trong quản lý, kiểm
soát hoạt động hành chính; Công khai số điện thoại đường dây nóng, địa chỉ hộp
thư điện tử của cơ quan để tiếp nhận, xác minh, xử lý kịp thời thông tin về đơn
thư khiếu nại, tố cáo, tiêu cực, tham nhũng liên quan đến THADS.
- Tổng cục THADS và các cơ quan THADS địa phương ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động THADS, cụ thể: Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ
chức THA và báo cáo thống kê THADS trong Hệ thống THADS; phần mềm Hỗ trợ
trực tuyến thi hành án dân sự phục vụ người dân và doanh nghiệp; phần mềm Hệ
thống quản lý văn bản điều hành tại Tổng cục và các cơ quan THADS địa phương;
phần mềm Kế toán nghiệp vụ thi hành án trong Hệ thống THADS; phần mềm Lưu
trữ dùng chung cho hệ thống THADS; đầu tư mua sắm, lắp đặt và đưa vào sử dụng
hệ thống giao ban trực tuyến với 64 điểm cầu (tại Tổng cục và 63 Cục THADS); hệ
thống tổng đài nhắn tin SMS tại Tổng cục THADS; cấp chữ ký số cho Lãnh đạo
Tổng cục, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục, các Cục trưởng và một số Trưởng
phòng chuyên môn của Cục THADS; 100% cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động thuộc Tổng cục, các cơ quan THADS địa phương đều được cấp hộp thư điện
tử công vụ phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ (khoảng 10.000 tài khoản),
dung lượng cao nhất lên đến 5GB. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào xây dựng, gửi báo cáo ngày càng được tăng cường, đi vào nề nếp, rút ngắn thời
gian làm báo cáo thống kê, kịp thời phục vụ nhu cầu sử dụng số liệu, thông tin thống
kê trong quản lý, điều hành hoạt động thi hành án dân sự.
Đặc biệt là việc đưa vào áp dụng thí điểm một số nội dung yêu cầu thi hành
án trực tuyến; các cơ quan THADS địa phương đã thực hiện, triển khai có hiệu quả
cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục hành chính và dịch vụ bưu chính công ích
trong tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực
THADS. Kết quả: 63/63 địa phương đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa trong
giải quyết thủ tục hành chính (63 Cục THADS và 691/710 Chi cục THADS); Các
cơ quan THADS địa phương đã phối hợp, ký thỏa thuận với Bưu điện Việt Nam
để triển khai dịch vụ bưu chính công ích trong lĩnh vực THADS.
- Trong hoạt động giải quyết công việc của Tổng cục THADS và cơ quan
THADS địa phương đã ban hành và thực hiện các quy trình, quy chế2; nội quy làm
2Quy chế về tiếp công dân, Quy chế làm việc, Quy chế thực hiện dân chủ, Quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế mua
sắm tài sản công, Quy chế quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ…; bộ quy trình về công tác tổ chức, cán bộ Tổng
cục THADSxây dựng gồm:Quy trình tiếp nhận công chức về công tác tại Tổng cục THADS và các cơ quan
THADS; Quy trình tuyển dụng công chức, Quy trình tiếp nhận công chức, Quy trình chuyển đổi vị trí công tác,
Quy trình định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với Chấp hành viên; Quy trình xử lý kỷ luật đối với công chức,
viên chức, người lao động thuộc Tổng cục THADS và các cơ quan THADS; Quy trình chọn, cử và quản lý công
5
việc của cơ quan, đơn vị và quyết định phân công nhiệm vụ của Lãnh đạo. Việc phân
công triển khai thực hiện công việc của cơ quan, đơn vị được thực hiện tại các cuộc
họp giao ban hàng tháng, trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo dân chủ, công khai.
1.4. Thực hiện PCTN, tiêu cực trong tổ chức thi hành án
Thời gian qua, kết quả THADS đạt được liên tục năm sau cao hơn năm
trước một cách ổn định và bền vững, hoàn thành, vượt mức chỉ tiêu của Đảng và
Nhà nước giao, thể hiện: năm 2017 thi hành xong đạt tỷ lệ 79,25% về
việc,38,31% về tiền; năm 2018 thi hành xongđạt tỷ lệ 80,30% về việc, 38,35% về
tiền; năm 2019 thi hành xong đạt tỉ lệ 78,59% việc, 35,43%về tiền trên số có điều
kiện thi hành; 06 tháng đầu năm 2020, thi hành xong đạt tỉ lệ 53,00% việc, 17,21%
về tiền trên số có điều kiện thi hành.
Kết quả THADS về việc thu hồi tài sản tham nhũng: Một trong những
nhiệm vụ của THADS là thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình
sự, trong đó có các vụ án tham nhũng kinh tế. Công tác THADS nói chung và
công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham
nhũng, kinh tế nói riêng đã đạt được những kết quả tích cực đáng ghi nhận, cụ
thể: Năm 2017, thi hành xong đạt 74,14% về việc và 66,84% về tiền; năm 2018,
đã thi hành xong đạt 61,27% về việc và 27,89% về tiền; năm 2019 thi hành xong
đạt tỷ lệ 68,66% về việc,29,67% về tiền trên số có điều kiện thi hành; 06 tháng đầu
năm 2020, thi hành xong đạt tỉ lệ 52,61% về việc và 16,14% về tiền.
1.5. Công tác thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực
Công tác kiểm tra, đặc biệt công tác tự kiểm tra được chỉ đạo quyết liệt,
chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, siết chặt kỷ luật, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.Trên cơ sở
theo dõi, thống kê thực hiện công tác kiểm tra tại Tổng cục THADS cho thấy:
Năm 2017 tổ chức kiểm tra 11 cuộc, trong đó 023 cuộc kiểm tra toàn diện và 094
cuộc kiểm tra chuyên đề; năm 2018 tổ chức kiểm tra 19 cuộc, trong đó 025 cuộc
kiểm tra toàn diện, 146 cuộc kiểm tra chuyên đề và 037 cuộc kiểm tra liên ngành;
năm 2019 tổ chức 18 cuộc, trong đó 01 cuộc kiểm tra toàn diện (Khánh Hòa), 168
cuộc kiểm tra chuyên đề và 01 cuộc kiểm tra liên ngành. Kết quả 03 năm qua,
trong toàn Hệ thống THADS 03năm (từ 2017- 2019) đã phát hiện và xử lý
25trường hợp có hành vi tham nhũng.
chức đi đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống các cơ quan THADS; Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ
quan THADS và Quy trình tổ chức thi hành án trong Hệ thống THADS.
3 Ninh Bình, Phú Yên.
4 Đắc Nông, Quảng Ninh, Vĩnh Long, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Khánh Hòa, Hải Phòng.
5 Lâm Đồng, Thái Nguyên.
6Tp.Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh, bình Dương, Sơn La, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Quảng Nam, Đồng Tháp, Sóc
Trăng, Quảng Bình, Quảng Trị, Kiên Giang, An Giang, Thanh Hóa, Bến Tre, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai.
7 Bình Dương, Bình Thuận, Gia Lai
8Ninh Thuận, Tp. Hà Nội, Tp. HCM, Lâm Đồng, Bắc Giang, Quảng Ninh, Bạc Liêu, Cao Bằng, Bắc Kan, Điện
Biên, Nghệ An, Bình Phước, Tp. Hải Phòng, Đắk Lắk, Tiền Giang, Cần Thơ
6
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Về kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng thời gian vừa qua
2.1.1. Về số lượng vụ việc tham nhũng và hình thức phát hiện
- Vụ việc tham nhũng bị phát hiện mặc dù đã giảm nhưng vẫn ở mức cao
(25 trường hợp)
- Một số nơi công tác kiểm tra, giám sát nội bộ liên quan đến việc PCTN,
tiêu cực còn chưa được quan tâm đúng mức. Các cấp ủy Đảng hàng năm có thành
lập tổ kiểm tra nhưng chủ yếu tập trung vào thực hiện công tác kiểm tra việc hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn của đảng viên, chưa tiến hành kiểm tra, giám sát
chuyên đề về PCTN đối với tập thể lãnh đạo đơn vị hoặc tiến hành kiểm tra đối
với chấp hành viên, cán bộ, công chức có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh,
kiến nghị của người dân trong giải quyết công việc. Một số đơn vị các tổ chức,
đoàn thể (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Ban Thanh tra nhân dân…) chưa thực
hiện tốt vai trò giám sát cũng như phản biện đối với các quyết định, quy định của
tập thể lãnh đạo trong quản lý, điều hành các hoạt động của đơn vị. Do đó, tham
nhũng bị phát hiện qua các hình thức thanh tra, kiểm tra nội bộ và tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo còn ít (qua hoạt động kiểm tra nội bộ chiếm (28%),
qua hoạt động thanh tra (04%), và phát hiện qua giải quyết khiếu nại, tố cáo
(12%) mà chủ yếu bị phát hiện qua công tác điều tra chiếm (60%).
2.1.2. Về đối tượng bị phát hiện tham nhũng và xử lý
Một số đơn vị cấp ủy đảng, có nơi có lúc người đứng đầu cơ quan chưa
thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, tiêu cực; một vài địa
phương vai trò của người đứng đầu Chi bộ đảng còn mờ nhạt; một số cán bộ lãnh
đạo, quản lý chưa nêu gương về đạo đức, lối sống, thiếu kiên quyết PCTN, tiêu
cực; thậm chí thiếu tu dưỡng rèn luyện, lợi dụng sơ hở trong quản lý, cơ chế,
chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng; lợi dụng nhiệm vụ được giao để
nhũng nhiễu, vòi vĩnh; cố ý làm trái những quy định, quy trình công tác để vụ lợi.
Do đó, đối tượng bị phát hiện và xử lý xảy ra trên hầu hết các vị trí công tác từ
cán sự, thư ký thi hành án, thủ kho, thủ quỹ, Chấp hành viên cho đến Thủ trưởng
đơn vị, nhưng nhiều nhất tập trung vào Thủ trưởng cơ quan THADS, Kế toán,
Chấp hành viên, cụ thể, 03 năm qua đã phát hiện và xử lý:
- Lãnh đạo cơ quan THADS: 07 trường hợp Chi cục trưởng bị cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố; 01 trường hợp Phó Chi cục
trưởnđã bị cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố và 01
trường hợpPhó Chi cục trưởnbị kỷ luật.
- Chấp hành viên có 07 trường hợp: 05 trường hợp đã bị khởi tố, 02 trường
hợp bị kỷ luật.
- Kế toán có 04 trường hợp: 01 trường hợp đã bị kết án (án cao nhất 17
năm tù), 01 trường hợp đang vị xem xét xử lý hình sự; 02 trường hợp bị kỷ luật.
7
- Các hành vi tham nhũng xảy ra ở các vị trí công tác khác từ 01 đến 02
trường hợp.
2.1.3. Về các loại hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng và tính chất,
mức độ nghiêm trọng
Các loại hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng có tính chất phức tạp,
nghiêm trọng và chủ yếu tập trung vào các trường hợp sau đây:
- Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền
của đương sự; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ;
- Lợi dụng vị trí công tác sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án
trái pháp luật; thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; xâm tiêu tiền thi hành án;
- Chậm kê biên tài sản, kéo dài thời gian thi hành án nhằm mục đích vụ lợi;
- Chi - thu sai nguyên tắc tài chính trong thi hành án;
- Buông lỏng quản lý, chỉ đạo, kiểm tra tạo điều kiện cho cấp dưới làm trái
quy định pháp luật (lập khống hồ sơ thuê kho, bảo trì trụ sở, lập chứng từ khống
để rút tiền ngân sách Nhà nước;
- Thu tiền không nhập quỹ thi hành án, cố tình làm sai lệch việc lập báo
cáo tài chính mục đích chiếm đoạt tiền;
- Mở sổ quỹ tiền mặt không đúng quy định, để quỹ tiền mặt tại đơn vị với
số tiền lớn, tạo điều kiện để thủ quỹ chiếm dụng tiền quỹ trong thời gian dài;
- Vi phạm quy định pháp luật về quản lý kho vật chứng để trục lợi.
Trong đó, đáng lưu ý trong nhiều vụ việc, tài sản đã được Tòa án kê biên để
đảm bảo thi hành án nhưng Chấp hành viên chưa tích cực, chủ động, chưa kịp thời
xử lý, làm chậm tiến độ thu hồi tài sản cho Nhà nước; có trường hợp tài sản để quá
lâu không xử lý nên bị giảm giá trị, hư hỏng, bị lấn chiếm, chiếm dụng trái phép, bất
hợp pháp. Đặc biệt, hiện nay, có dấu hiệu tình trạng Chấp hành viên câu kết với tổ
chức thẩm định giá, bán đấu giá trong quá trình thẩm định giá, bán đấu giá tài sản kê
biên để thi hành án, như: (i) lựa chọn các tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá tài sản
không đủ năng lực hoặc “sân sau”; (ii) tài sản được định giá thấp hơn nhiều lần so
với giá thị trường; (iii) quá trình bán đấu giá tài sản diễn ra khép kín, người có nhu
cầu không tiếp cận được để mua hồ sơ tham gia phiên đấu giá; (iv) việc công khai
thông tin về phiên đấu giá diễn ra không minh bạch, đăng tin trên các tờ báo, trang
thông tin ít người xem, không phổ biến…, gây thất thoát tài sản của cá nhân, Nhà
nước và ảnh hưởng đến uy tín của Hệ thống THADS.
2.2. Về nguy cơ xảy ra tham nhũng
Thực tế qua công tác xử lý, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; qua công
tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát và qua phản ánh của các cơ quan báo chí, truyền
thông cho thấy biểu hiện, hành vi tiềm ẩn nguy cơ có thể xảy ra tham nhũng về
công tác về THADS còn cao, cụ thể như sau:
8
2.2.1. Trong công tác nghiệp vụ và tổ chức thi hành án
- Công tác hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ: có biểu hiện thông tin cho đương
sự trong vụ việc thi hành án đang xin hướng dẫn nghiệp vụ; lợi dụng việc hướng
dẫn nghiệp vụ để kéo dài thời gian thi hành án; tham mưu, đề xuất không khách
quan, che giấu những sai phạm của Chấp hành viên; tham mưu việc giao tài sản
cho người mua trúng đấu giá khi vụ việc có khiếu nại, tố cáo nhiều sai phạm của
Chấp hành viên liên quan đến việc bán đấu giá.
- Trong việc chỉ đạo tổ chức thi hành án của Lãnh đạo các cơ quan THADS
địa phương: Có dấu hiệu hiện tượng người đứng đầu đơn vị (Cục trưởng, Chi cục
trưởng) lợi dụng chức vụ, quyền hạn chỉ đạo, can thiệp vào các vụ việc đang tổ chức
thi hành án làm thay đổi bản chất vụ việc nhằm trục lợi: Chỉ đạo kéo dài thời gian tổ
chức thi hành án bằng hình thức họp liên ngành, xin ý kiến nghiệp vụ không theo
quy trình trong khi vụ việc không có khó khăn, vướng mắc; chậm kê biên, cưỡng
chế tài sản của người phải thi hành án; chậm giao tài sản cho người mua trúng đấu
giá có giá trị lớn (từ vài tỷ hoặc lên tới hàng trăm tỷ đồng)…
Còn tình trạng bao che, dung túng cho cấp dưới, ngay cả khi phát hiện ra sai
phạm nhưng không có biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời và có hình thức xử
lý kỷ luật nghiêm khắc dẫn đến hậu quả xảy ra không thể khắc phục được (vídụ có
trường hợp đã phát hiện Chấp hành viên xác minh, kê biên, thẩm định giá, đưa ra
bán đấu giá nhiều tài sản nhà đất có giá trị lớn xác định là tài sản riêng của người
phải thi hành án nhưng thực chất là tài sản chung của hộ gia đình).
- Đối với Chấp hành viên - người trực tiếp thi hành vụ việc: Có biểu hiện
gây khó khăn, vòi vĩnh, đặt điều kiện đối với đương sự và người có quyền, lợi ích
liên quan (người được thi hành án muốn được thi hành án thìphải chia phần trăm
trên số tiền hoặc tài sản được thi hành án; đối với người phải thi hành án muốn
chậm, kéo dài thi hành án).
Lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn trong tổ chức thi hành án cố tình làm sai lệch hồ
sơ vụ việc ngay từ khâu xác minh điều kiện thi hành án, đến khâu cưỡng chế, kê biên
tài sản lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án, kê biên không đúng diện tích,
thiếu tài sản; ký kết với đơn vị thẩm định giá, bán đấu giá không đủ điều kiện…Có
trường hợp Chấp hành viên câu kết, thông đồng với đơn vị thẩm định giá, bán đấu giá
để hạn chế người mua tài sản đấu giá để dìm giá, hạ giá tài sản thi hành án.
2.2.2. Trong công tác tổ chức cán bộ
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Đây là hành vi của người có thẩm quyền
trong công tác cán bộ đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để làm trái quy định
trong công tác cán bộ vì vụ lợi. Biểu hiện của loại tiêu cực, tham nhũng quyền lực
này rất đa dạng, từ việc dùng “quyền lực mềm” của cương vị lãnh đạo, quản lý để
tác động, gợi ý nhằm ưu ái cá nhân, hay sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình đổi
chác việc tiếp nhận, bố trí nhân sự cho nhau giữa hai cơ quan, đơn vị…
9
- Lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính sách, quy định: Đây là hành vi của
người có thẩm quyền, trách nhiệm trong công tác cán bộ đã lợi dụng những sơ hở
trong cơ chế, chính sách, quy định về công tác cán bộ để làm những điều sai trái
vì vụ lợi, đi ngược lại lợi ích của tổ chức, của Đảng, Nhà nước, nhân dân.
- Cố ý làm trái: Hành vi này có trong tất cả các dạng tiêu cực, tham nhũng
nêu ở trên, tuy nhiên cũng có những đặc trưng. Biểu hiện của dạng tiêu cực, tham
nhũng này trong công tác cán bộ là cán bộ lãnh đạo có thẩm quyền, trách nhiệm
nhưng coi thường nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, quyết định chủ
trương công tác cán bộ không đúng quy định. Hành vi này dẫn đến những quyết
định tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ không đúng quy trình, thủ tục, không
đúng chủ trương, nghị quyết của tổ chức đảng; những vụ, việc “quy hoạch thần
tốc”, “bổ nhiệm thần tốc”, “nâng đỡ không trong sáng”, bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo, quản lý thiếu điều kiện, tiêu chuẩn, phẩm chất, năng lực...
Biểu hiện của dạng tiêu cực, tham nhũng cố ý làm trái còn có thể kể đến
hành vi giả mạo trong công tác cán bộ, như làm tài liệu, hồ sơ giả; học giả, dùng
bằng giả hay khai báo lý lịch không trung thực để đủ tiêu chuẩn quy hoạch, bổ
nhiệm, giới thiệu ứng cử. Những cán bộ khi làm việc này đều biết sai nhưng cố ý
làm để được tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm.
- Nhũng nhiễu trong công tác cán bộ: Hành vi này có thể hiện hữu ở nhiều
cán bộ lãnh đạo lẫn cán bộ tham mưu về công tác cán bộ. Có thể biểu hiện qua
một số dạng hành vi như gây khó dễ, đòi hỏi quà cáp, thậm chí nhận hối lộ, “làm
giá”, môi giới dưới dạng giúp “chạy” việc này, việc khác.
2.2.3. Trong công tác Kế hoạch, tài chính
- Về quản lý tài chính, kế toán, sử dụng tài sản: Giả mạo, lập khống chứng
từ, tài liệu để rút tiền của cơ quan, đơn vị; câng chi phí hoạt động không đúng
thực tế để rút, chiếm đoạt tiền của cơ quan, Nhà nước; sử dụng tài sản công vào
việc riêng; “Thông thầu” trong mua sắm, sửa chữa tài sản, phương tiện làm việc
để tăng chi phí mua sắm, sửa chữa so với giá trị thực tế phát sinh để chiếm đoạt
tiền của cơ quan đơn vị.
- Về đầu tư xây dựng cơ bản: “Thông thầu” với nhà thầu tư vấn, nhà thầu
thi công, Ban quản lý dự án để lập hồ sơ khống, tăng chi phí không đúng thực tế
để chiếm đoạt tiền, tài sản của đơn vị.
- Về quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ: Thủ kho không tiến hành các
thủ tục nhập kho vật chứng, tài sản tạm giữ theo quy định; không thực hiện đúng
quy định về niêm phong và mở niêm phong dẫn đến việc người có tài sản nghi
ngờ, khiếu kiện gay gắt...
2.2.4. Trong công tác kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo và bồi thường nhà nước
- Công tác kiểm tra: Trong quá trình kiểm tra hồ sơ che giấu những sai
phạm của Chấp hành viên; giúp Chấp hành viên hoàn thiện hồ sơ khắc phục
10
những vi phạm; không trung thực trong việc báo cáo kết quả kiểm tra...; quá trình
kiểm tra có thái độ không khách quan, gây khó khăn nhằm mục đích vòi vĩnh
đương sự, người có quyền lợi liên quan và đơn vị được kiểm tra...
- Về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: Lợi dụng việc tiếp
công dân để tư vấn, đặt vấn đề để hứa giải quyết vụ việc nhanh, qua đó vòi vĩnh,
nhận tiền đương sự; tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo không khách quan,
làm sai lệch hồ sơ thi hành án nhằm mục đích vụ lợi.
- Trong công tác bồi thường Nhà nước, bảo đảm tài chính: Lãnh đạo,
Thẩm tra viên phụ trách hồ sơ giải quyết khiếu nại, tố cáo làm việc không khách
quan, không tuân thủ quy định của pháp luật, thông đồng với đương sự để ban
hành quyết định chấp nhận khiếu nại của đương sự hoặc ban hành Kết luận giải
quyết tố cáo chấp nhận tố cáo của đương sự, sau đó lập hồ sơ đề nghị cấp kinh
phíbồi thường nhà nước trái pháp luật nhằm trục lợi.
- Quá trình tham mưu, thẩm định hồ sơ giải quyết các vụ việc bồi thường
nhà nước, bảo đảm tài chính: Lợi dụng thẩm quyền, cấu kết với đương sự để
thẩm định hồ sơ không đúng quy định của pháp luật; liên hệ, vòi vĩnh, gây khó
khăn cho đương sự để trục lợi hoặc thông đồng với người bị thiệt hại để đẩy số
tiền bồi thường lên cao nhằm trục lợi.
Bên cạnh những tồn tại, hạn chế chủ yếu như trên, công tác PCTN thời
gian qua còn chưa được sơ kết, tổng kết theo từng quý, năm chưa được thực hiện
thường xuyên theo chuyên đề riêng, do đó chưa kịp thời đánh giá, rút ra những
bài học kinh nghiệm và đề ra những giải pháp giải quyết những tồn tại, hạn chế.
2.3. Nguyên nhân
2.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Hệ thống các quy định pháp luật về tố tụng hình sự, về PCTN, về quản lý,
đăng ký tài sản,giải quyết phá sản, thẩm định giá và bán đấu giá tài sản,… còn có
những nội dung chưa thực sự đồng bộ, thống nhất, thậm chí một số quy định còn
mâu thuẫn, chồng chéo với Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành
pháp luật khác,gây khó khăn cho cơ quan THADS trong quá trình tổ chức thi
hành án; đồng thời, pháp luật về THADS cũng có một số quy định chưa thực sự
phù hợp với thực tiễn hoặc chưa được quy định cụ thể dễ bị lợi dụng cơ chế,
chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng; pháp luật về công tác tổ chức cán
bộ, về kế toán, tài chính, về quản lý tài sản, thu nhập còn thiếu, một số quy định
pháp luật còn bất cập, thiếu chặt chẽ, khó kiểm soát.
- Công tác quản lý về đấu giá tài sản bao gồm nhiều khâu, liên quan đến sự
phối hợp, chủ trì của nhiều cơ quan9. Quan điểm, nhận thức về các nghề bổ trợ tư
9 Trước khi Luật đấu giá tài sản được ban hành, trình tự, thủ tục đấu giá tài sản được điều chỉnh bởi nhiều văn
bản khác nhau như Luật thương mại, Luật khoáng sản, Luật chứng khoán, Nghị định, Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, Thông tư liên tịch của các Bộ, ngành. Luật đấu giá tài sản quy định về trình tự, thủ tục đấu giá, còn các
Luật chuyên ngành quy định về tài sản đưa ra bán đấu giá, về xác định giá khởi điểm tài sản đấu giá.
11
pháp nói chung và đấu giá nói riêng còn bị đồng nhất với các nghề kinh doanh
thông thường nên có lúc chưa chú trọng đến yêu cầu bảo vệ công lý, công bằng
xã hội và an toàn giao dịch, chống thất thoát tài sản công.
- Cơ chế quản lý tài sản ở nước ta còn chưa chặt chẽ, thống nhất, các giao
dịch kinh tế dân sự hiện nay vẫn chủ yếu thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền
mặt nên khó kiểm soát được thu nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân, khó truy tìm
nguồn gốc của tài sản và cũng gây khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp
phong tỏa, kê biên tài sản của cơ quan có thẩm quyền.
- Việc xây dựng, kiện toàn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, Chấp
hành viên và lãnh đạo các cơ quan THADS mới đạt được những kết quả bước
đầu.Chất lượng đội ngũ công chức làm công tác THADS có lúc, có nơi còn chưa
đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ.
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Lãnh đạo một số cơ quan THADS chưa nhận thức được đầy đủ và quan
tâm đúng mức về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chưa thực sự sâu
sát, quyết liệt trong việc chỉ đạo, thậm chí có nơi còn khoán trắng, bỏ mặc cho
Chấp hành viên giải quyết vụ việc; nhiều vụ việc có giá trị phải thi hành án rất
lớn nhưngThủ trưởng cơ quan THADS không thường xuyên kiểm tra, đôn đốc,
yêu cầu Chấp hành viên báo cáo nên không nắm được tiến độ, tình hình, kết quả
thi hành án để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho Chấp
hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.
-Kỷ luật công vụ, kỷ cương hành chính tại một số cơ quan THADS còn chưa
được chấp hành nghiêm túc, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy
đủ các nội dung ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục trong việc xem
xét trách nhiệm, xử lý cá nhân có vi phạm trong quá trình tổ chức thi hành án, để
tình trạng kéo dài không xử lý, không có đề xuất phương án giải quyết.
- Một số Lãnh đạo là Thủ trưởng cơ quan, Chấp hành viên, cán bộ, công
chức thiếu tu dưỡng rèn luyện, lợi dụng sơ hở trong quản lý, cơ chế, chính sách,
pháp luật để thực hiện hành vi tham nhũng; lợi dụng nhiệm vụ được giao để nhũng
nhiễu, vòi vĩnh; cố ý làm trái những quy định, quy trình công tác để vụ lợi.
- Công tác PCTN, tiêu cực thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại
một số cơ quan THADS chưa được chú trọng; chưa chủ động kiểm tra đối với
Chấp hành viên, công chức có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của
người dân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Số vụ việc tiêu cực, tham nhũng
được phát hiện thông qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn rất ít.
- Ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế trong việc sử dụng ký chữ ký
số và thực hiện gửi văn bản điện tử trong Hệ thống THADS.
- Việc xử lý cán bộ, công chức vi phạm tại một số cơ quan THADS chưa
nghiêm, chưa đủ mạnh, đủ sức răn đe; vẫn còn hiện tượng che giấu vi phạm trong
việc cán bộ, công chức của đơn vị mình quản lý.
12
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng
trong thời gian tới
Trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của Đảng, Nhà nước và Nhân dân về
công tác PCTN, để thực hiện công tác này có hiệu quả, cần phải phát huy những
kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế và thực hiện đồng bộ các
nhiệm vụ, giải pháp sau:
3.1. Nhóm giải pháp chung đối với Tổng cục THADS và các cơ quan
THADS địa phương
Thứ nhất,tiếp tục tăng cường, phối hợp với cấp ủy đơn vịtuyên truyền, phổ
biến, triển khai, quán triệt đầy đủ nội dung, tinh thần các văn bản, nghị quyết, quy
định của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác phòng, chống
tham nhũng (PCTN), tiêu cực trong Hệ thống THADSnhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ, tích cực, thống nhất từ nhận thức đến hành động của cán bộ, công chức,
người lao động tại đơn vị trong việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai,nâng cao vai trò, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức,
nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể trong công tác
PCTN, tiêu cực. Thực hiện nghiêm việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu,
cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ
quan, đơn vị do mình quản lý, phụ trách theo quy định tại Điều 73 Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2018.
Thứ ba,Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Tổng cục, các cơ quan THADS địa
phương tổ chức rà soát, phân tích nhận diện đầy đủ các biểu hiện, hành vi tham
nhũng, tiêu cực có thể xảy ra và thực hiện phòng, ngừa tại đơn vị. Từ đó, kịp thời phát
hiện, xử lý nghiêm các biểu hiện, hành vi tham nhũng, tiêu cực xảy ra tại đơn vị.
Thứ tư, duy trìvà thực hiện tốt việc công khai, minh bạch hoạt động của cơ
quan, đơn vị trên các lĩnh vực và đường dây nóng, số điện thoại đường dây nóng, địa
chỉ hộp thư điện tử tiếp nhận phản ánh, kiến nghị, tố giác, tố cáo của người dân và
phần mềm hỗ trợ trực tuyến THADS phục vụ người dân để kịp thời tiếp nhận và xử lý
thông tin, phản ánh, tố giác, tố cáo của người dân đối với vụ việc, vụ án tham nhũng;
đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công nghệ
quản lý, thực hiện gửi văn bản điện tử và áp dụng chữ ký số trong toàn Hệ thống.
Thứ năm, thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường đối thoại với công dân nhằm kịp thời phát
hiện, chấn chỉnh, xử lý hành vi tham nhũng, tiêu cực.
3.2. Nhóm giải pháp riêng đối với các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS
và các cơ quan THADS địa phương
3.2.1. Đối với các cơ quan THADS địa phương
Một là, tiếp tục thực hiện nghiêm các nội dung của Kế hoạch phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực năm 2020 trong Hệ thống THADS, Kế hoạch thực hiện công tác
13
PCTN năm 2020 của Bộ Tư pháp và Công văn 965/TCTHADS-GQKNTC ngày
26/3/2020 của Tổng cục THADS về việc quán triệt, triển khai thực hiện công tác
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Hệ thống THADS. Thủ trưởng các cơ quan
THADS địa phương phối hợp với cấp ủy Đảng tổ chức sinh hoạt chuyên đề năm 2020
về nội dung “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của cán
bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”theo Hướng dẫn số 52/-HD/BTGTW ngày 20/11/2017 của Ban Tuyên giáo
Trung ương và gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và XII.
Hai là,điều chỉnh, thực hiện kế hoạch kiểm tra và tổ chức tự kiểm tra, kiểm
tra phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ
đạo, điều hành trong công tác thi hành án. Tăng cường công tác kiểm tra đột xuất
khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra công vụ, giám sát để phòng ngừa, phát hiện
hành vi tham nhũng, tiêu cực; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra
nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm.
Ba là, rà soát, đẩy mạnh việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý có
hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt” trong cơ quan, đơn vị và hành vi nhũng
nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp; kiên quyết xử lý nghiêm
những cán bộ có hành vi “tham nhũng vặt”.
Bốn là, Thủ trưởng cơ quan THADS chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát
Chấp hành viên thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục thi hành án, đặc biệt là đối với các vụ án tham nhũng, kinh tế, thu hồi tiền, tài
sản cho Nhà nước; yêu cầu chỉ đạo Chấp hành viên phải lựa chọn tổ chức thẩm
định giá, bán đấu giá tài sản có đầy đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín tham gia
thẩm định giá, bán đấu giá tài sản THADS; kiên quyết không ký hợp đồng đối với
các tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá có vi phạm hoặc có biểu hiện thông đồng,
dìm giá, làm sai lệch kết quả thẩm định giá, bán đấu giá tài sản; rà soát, lập danh
sách các tổ chức thẩm định giá, đấu giá tài sản đủ điều kiện theo quy định và đăng
tải trên Trang thông tin điện tử Cục THADS để Chấp hành viên nghiên cứu, lựa
chọn, đảm bảo công khai, minh bạch; đăng tải đầy đủ thông tin về việc bán đấu giá
tài sản trên Cổng/Trang thông tin điện tử Tổng cục THADS, Cục THADS.
Năm là,quá trình tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố cáo phải thực hiện theo
đúng quy trình về tiếp nhận, xử lý đơn tố cáo và giải quyết tố cáo, trong đó có nội
dung tố cáo đối với các hành vi tham nhũng, tiêu cực; thực hiện việc bảo vệ bí
mật thông tin của người tố cáo và không để xảy ra tình trạng người tố cáo bị trả
thù, trù dập theo quy định của pháp luật.
Sáu là,thực hiện nghiêm chế độ báo cáo về Tổng cục THADS (qua Vụ
Giải quyết khiếu nại, tố cáo) theo Công văn số 801/TTR-THHC ngày 06/11/2013
của Thanh tra Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thực hiện chế độ báo cáo công tác
nội chính và phòng chống tham nhũng (báo cáo Quý I chậm nhất ngày 16/3; báo
cáo 6 tháng trước ngày 16/6; báo cáo 9 tháng trước ngày 16/9; báo cáo năm
trước ngày 16/12) hoặc báo cáo đột xuất.
14
3.2.2. Đối với các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS
Một là, các đơn vị trực thuộc Tổng cục THADS tập trung thực hiệnnhiệm
vụ về hoàn thiện thể chế, văn bản đảm bảo thời gian, tiến độ theo đúng Kế hoạch
PCTN, tiêu cực năm 2020 trong Hệ thống THADS, cụ thể:
-Tham mưu, sửa đổiThông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các
ngạch công chức chuyên ngành THADS (Vụ Tổ chức, cán bộ);
- Phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày
17/6/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán nghiệp vụ THADS (Vụ
Kế hoạch - Tài chính);
-Sửa đổi Thông tư 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị,
phản ánh trong THADS; Xây dựng Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra trong Hệ thống THADS” (Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo).
Hai là,nghiêm túc triển khai thực hiệnKế hoạch kiểm tra công tác THADS
của Tổng cục năm 2020 và Kế hoạch thực hiện công tác PCTN năm 2020 của Bộ
Tư pháp, trong đó chú trọng tham mưu kiểm tra về công tác PCTN, tiêu cực và
kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực; phối hợp với Thanh tra Bộ
Tư pháp và các đơn vị thuộc Bộ trong việc thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý vi
phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động THADS.
Ba là,đối với các vụ án tham nhũng, thu hồi, tiền tài sản cho nhà nước:
Thực hiện và triển khai, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả theo đúng nội dung Kế
hoạch số 120-KH/BCSĐ ngày 19/12/2019 của Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp và
Kế hoạch số 4342/KH-TCTHADS ngày 25/12/2019 của Tổng cục THADS trong
toàn Hệ thống THADS.
Bốn là,tổng hợp, theo dõi, đánh giá, xây dựng báo cáo về công tác PCTN,
tiêu cực trong toàn Hệ thống THADS; tổng hợp, nhận xét, đánh giá đối với các
báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch phòng, chống tham nhũng, tiêu cực năm
2020 của các đơn vị thuộc Tổng cục và 63 Cục THADStỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương tham mưu Lãnh đạo Tổng cục có hình thức khen thưởng đối với
những cơ quan, đơn vị thực hiện tốt, hiệu quả trong công tác PCTN, tiêu cực và
tổ chức, chỉ đạo tổ chức kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với các tổ chức, cá
nhân có hành vi tham nhũng, tiêu cực trong Hệ thống THADS./.
PASS GIẢI NÉN; Truy cập qua Phiếu bài tập cuối tuần lớp 3 kết nối tri thức - cuối bài viết
THẦY CÔ TẢI NHÉ!