Admin Yopo
Ban quản trị Team YOPO
- Tham gia
- 15/8/22
- Bài viết
- 6,065
- Điểm
- 48
tác giả
Phát triển ngôn ngữ phổ thông cho các cháu người Sớ tại trường mầm non 1/6 được soạn dưới dạng file word/PDF/ powerpoint gồm 11 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1. TÌNH HÌNH CHUNG:
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, trẻ dân tộc thiểu số có thể tư duy bằng ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của chúng, nhưng để học lên chương trình tiếu học, phổ thông… trẻ phải có vốn tiếng Việt để có thể hiểu biết và khám phá thế giới xung quanh (về các sự vật, hiện tượng gần gũi trong cuộc sống, hoạt động học tập…).Như chúng ta đã biết, sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy từ đó trẻ có khả năng nhận thức thế giới bên ngoài.
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Ở trường Mầm Non: Nhà trẻ và mẫu giáo chính thời điểm đang học nói hay bắt chước người lớn vì thế cô giáo cần tận dụng để dạy các cháu tiếng phổ thông càng sớm càng tốt.
Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng: Hiểu và nói được ngôn ngữ Tiếng Việt theo cô, bạn. Trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông qua các hoạt động dạy của cô, hoặc ở mọi lúc mọi nơi, nhất là trong hoạt động góc vì trong góc chơi cháu sẽ được hòa nhập cùng với các cháu người Kinh, khi đó các cháu sẽ tự giao tiếp và học hỏi lẫn nhau qua đó các cháu người sở tại sẽ nâng cao vốn từ phổ thông của mình lên.
2.CỤ THỂ Ở TRƯỜNG MẦM NON1/6
Đầu năm học: 2011- 2012 khi khảo sát chất lượng đầu năm thì tỷ lệ cháu DT nghe hiểu tiếng phổ thông như sau:
*Thuận lợi:
Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, sự quan tâm ủng hộ của phụ huynh học sinh.
Trường có CSVC phục vụ tốt cho các họat động của trẻ.
Các cháu đều khỏe mạnh nhanh nhẹn, ngoan ngoãn.
Các nhóm lớp đa số là cháu người Kinh, cháu người sở tại chiếm phần nhỏ vì thế trong các hoạt động dạy cô dễ dàng phát triển cho từng cá nhân. Đồng thời các cháu người sở tại được giao tiếp với các cháu người Kinh thì vốn từ cũng sẽ tăng lên.
*Khó khăn:
Đội ngũ giáo viên mầm non ở huyện Khánh Sơn đa số là giáo viên từ đồng bằng lên công tác nên không biết tiếng người sở tại. Sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ làm hạn chế việc tổ chức các hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Bên cạnh đó, môi trường ngôn ngữ của trẻ ở gia đình chủ yếu là dùng tiếng mẹ đẻ. Bố mẹ các cháu do nhận thức và điều kiện sống còn nhiều hạn chế, vốn tiếng Việt không nhiều nên chưa quan tâm đến việc dạy nói tiếng Việt cho các cháu vì vậy giáo viên gặp khó khăn trong việc giao tiếp với trẻ và phụ huynh.
Trường Mầm non 1/6 có tất cả là 8 lớp. Trong đó có: 6 lớp mẫu giáo và 2 lớp nhà trẻ. Hầu hết lớp nào cũng có cháu người sở tại, đa số là các cháu mới đến trường lần đầu (chỉ một số ít trẻ đã học từ nhà trẻ lên mẫu giáo). Vì thế trẻ còn rụt rè, nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia các họat động cùng cô, cô nói điều gì đa số các cháu không hiểu cứ nhìn cô và không trả lời cô. Có trường hợp từ đầu năm dến cuối năm không chịu nói với cô câu nào.
Tất cả đồ dùng học tập đối với trẻ cũng thật là xa lạ, nên việc học đến với trẻ cũng thật là ngỡ ngàng..
Với tình hình thực tế của trường tôi như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào, bằng phương pháp gì? Để giúp trẻ hiểu và nói được tiếng Việt một cách trôi chảy. Chính vì điều băn khoăn trăn trở ấy bản thân tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm giúp trẻ ham thích được đến lớp, ham thích học tập, và nhất là ham học hỏi tiếng Việt để trẻ tham gia tốt các họat động của lớp, của trường Mầm non và là hành trang cho trẻ ở các bậc học sau này.
1. TÌNH HÌNH CHUNG:
Ngôn ngữ là công cụ của tư duy, trẻ dân tộc thiểu số có thể tư duy bằng ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của chúng, nhưng để học lên chương trình tiếu học, phổ thông… trẻ phải có vốn tiếng Việt để có thể hiểu biết và khám phá thế giới xung quanh (về các sự vật, hiện tượng gần gũi trong cuộc sống, hoạt động học tập…).Như chúng ta đã biết, sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của tư duy từ đó trẻ có khả năng nhận thức thế giới bên ngoài.
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống, quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Ở trường Mầm Non: Nhà trẻ và mẫu giáo chính thời điểm đang học nói hay bắt chước người lớn vì thế cô giáo cần tận dụng để dạy các cháu tiếng phổ thông càng sớm càng tốt.
Muốn phát triển ở trẻ kỹ năng: Hiểu và nói được ngôn ngữ Tiếng Việt theo cô, bạn. Trước hết phải cuốn hút trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngôn ngữ qua trò chuyện, đàm thoại, kể chuyện, đọc cho trẻ nghe, cho trẻ làm quen với chữ cái và thông qua các hoạt động dạy của cô, hoặc ở mọi lúc mọi nơi, nhất là trong hoạt động góc vì trong góc chơi cháu sẽ được hòa nhập cùng với các cháu người Kinh, khi đó các cháu sẽ tự giao tiếp và học hỏi lẫn nhau qua đó các cháu người sở tại sẽ nâng cao vốn từ phổ thông của mình lên.
2.CỤ THỂ Ở TRƯỜNG MẦM NON1/6
Đầu năm học: 2011- 2012 khi khảo sát chất lượng đầu năm thì tỷ lệ cháu DT nghe hiểu tiếng phổ thông như sau:
Đâù năm 2011-2012 | Tổng số cháu DT | Nghe hiểu và nói thành thạo tiếng Việt. | Nghe hiểu nhưng chưa nói thành thạo tiếng Việt. | Chưa hiểu tiếng Việt. | ||
Tổng số | Tỉ lệ% | Tổng số | Tỉ lệ% | Tổng số | Tỉ lệ% | |
55 cháu | 20 cháu | 36,36% | 17 cháu | 30,9% | 25 cháu | 45,45% |
Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, sự quan tâm ủng hộ của phụ huynh học sinh.
Trường có CSVC phục vụ tốt cho các họat động của trẻ.
Các cháu đều khỏe mạnh nhanh nhẹn, ngoan ngoãn.
Các nhóm lớp đa số là cháu người Kinh, cháu người sở tại chiếm phần nhỏ vì thế trong các hoạt động dạy cô dễ dàng phát triển cho từng cá nhân. Đồng thời các cháu người sở tại được giao tiếp với các cháu người Kinh thì vốn từ cũng sẽ tăng lên.
*Khó khăn:
Đội ngũ giáo viên mầm non ở huyện Khánh Sơn đa số là giáo viên từ đồng bằng lên công tác nên không biết tiếng người sở tại. Sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ làm hạn chế việc tổ chức các hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Bên cạnh đó, môi trường ngôn ngữ của trẻ ở gia đình chủ yếu là dùng tiếng mẹ đẻ. Bố mẹ các cháu do nhận thức và điều kiện sống còn nhiều hạn chế, vốn tiếng Việt không nhiều nên chưa quan tâm đến việc dạy nói tiếng Việt cho các cháu vì vậy giáo viên gặp khó khăn trong việc giao tiếp với trẻ và phụ huynh.
Trường Mầm non 1/6 có tất cả là 8 lớp. Trong đó có: 6 lớp mẫu giáo và 2 lớp nhà trẻ. Hầu hết lớp nào cũng có cháu người sở tại, đa số là các cháu mới đến trường lần đầu (chỉ một số ít trẻ đã học từ nhà trẻ lên mẫu giáo). Vì thế trẻ còn rụt rè, nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia các họat động cùng cô, cô nói điều gì đa số các cháu không hiểu cứ nhìn cô và không trả lời cô. Có trường hợp từ đầu năm dến cuối năm không chịu nói với cô câu nào.
Tất cả đồ dùng học tập đối với trẻ cũng thật là xa lạ, nên việc học đến với trẻ cũng thật là ngỡ ngàng..
Với tình hình thực tế của trường tôi như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ nhiều lúc thấy vô cùng lo lắng, không biết làm gì và làm như thế nào, bằng phương pháp gì? Để giúp trẻ hiểu và nói được tiếng Việt một cách trôi chảy. Chính vì điều băn khoăn trăn trở ấy bản thân tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm giúp trẻ ham thích được đến lớp, ham thích học tập, và nhất là ham học hỏi tiếng Việt để trẻ tham gia tốt các họat động của lớp, của trường Mầm non và là hành trang cho trẻ ở các bậc học sau này.