- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,205
- Điểm
- 113
tác giả
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY MÔN TOÁN LỚP 3: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính” được soạn dưới dạng file word gồm 23 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1 .Tên biện pháp: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính”
1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
a. Về giáo viên:
Trong quá trình dạy học giáo viên chưa có sự chú ý đúng mức, tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm được kiến thức. Những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Cách tổ chức dạy học của một số ít giáo viên vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn.
Một số giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào sách hướng dẫn. Không sử dụng đồ dùng trực quan (sơ đồ, vẽ hình, tóm tắt,…) hoặc sử dụng không hiệu quả. Đôi khi vận dụng phương pháp chưa nhịp nhàng, chưa linh hoạt.
Giáo viên chưa coi trọng việc hướng dẫn tổ chức học sinh biết cách tìm hiểu phân tích, tổng hợp bài toán, bỏ qua bước phân tích bài toán khi hướng dẫn học sinh thực hành giải toán, thường là cho học sinh đọc đề toán, cho học sinh xác định điều kiện cho biết và yêu cầu cần tìm sau đó cho học sinh giải.
b. Về phía học sinh
Tổng số học sinh : em, trong đó :
Nữ : em;
Dân tộc : em;
Nữ DT : em.
Lớp nằm ở phân hiệu trường Chính trường Tiểu học…, đóng trên địa bàn…. Địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn nhất là về mùa mưa. Đa số các em là con em dân tộc thiểu số. Đời sống của người dân còn nhiều thiếu thốn cả về vật chất, tinh thần. Trong đó học sinh thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo : em. Đặc biệt có 2 em vì điều kiện kinh tế nên không ở cùng với bố mẹ.
Học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác.
Các em thường lúng túng khi đặt câu trả lời cho phép tính. Có nhiều em làm phép tính nhanh chóng và chính xác nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng, hoặc đặt lời giải không phù hợp với yêu cầu của bài toán.
Đối với học sinh lớp 3 việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn gặp khó khăn. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp... Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi giáo viên nêu : "Bài toán cho biết gì ? Chúng ta phải tìm gì ?”
.- Tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan. Nhưng có những bài toán có lời văn lại cần nhiều đến tư duy trừu tượng nên học sinh lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí không làm được các dạng toán điển hình.
* Bài toán có lời văn có nội dung hình học.
- Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc tính chu vi hình vuông và ngược lại khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật.
- Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông và chu vi hình chữ nhật thì học sinh không nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật.
- Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường kích thước chiều dài và chiều rộng cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. Ví dụ : Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm2.
- Trong trường hợp số đo các cạnh không cùng đơn vị thì học sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo.
- Học sinh nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu.
- Một số học sinh còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4.
- Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tổng hợp kiến thức của các em còn hạn chế, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai.
*Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Dạng 1
+ Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần.
- Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng.
- Sau khi thực hiện phép tính chia ghi đơn vị sai với câu trả lời.
Ví dụ : Bài 1 trang 128. Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc ?
Học sinh trả lời sai :
Danh số kết quả sai : 24 : 4 = 6 (vỉ)
Học sinh phải làm đúng là : 24 : 4 = 6 (viên)
+ Bước 2 : Tìm 3 vỉ có số viên thuốc là :
Học sinh hay đặt ngược phép tính là :
Như vậy: Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay viết lời giải sai hoặc ghi sai đơn vị, phép tính sai vì đặt ngược...
Dạng 2:
Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia.
Bước 2 : Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán.
- Học sinh thường sai : Trả lời sai, ghi đơn vị nhầm.
Ví dụ : Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiêu hàng như thế ?
Bước 1: tìm giá trị một phần.
- Học sinh viết lời giải sai (Mỗi hàng xếp được bao nhiêu học sinh là). Lời giải đúng là (Mỗi hàng xếp được số học sinh là)
Bước 2 : Ở lời giải 2 học sinh ghi đơn vị sai (lấy 60 : 5 = 12 (học sinh). Ghi đơn vị đúng phải là (lấy 60 : 5 = 12 (hàng)
* Theo thống kê khi dạy dạng toán có lời văn, những bài đầu tiên ở HKI học sinh còn nhầm lẫn :
2. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
a. Về phía giáo viên :
Từ việc dạy theo kiểu áp đặt của giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động các quy tắc, các công thức,…học sinh nắm kiến thức không vững, không
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY
1 .Tên biện pháp: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính”
1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
a. Về giáo viên:
Trong quá trình dạy học giáo viên chưa có sự chú ý đúng mức, tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm được kiến thức. Những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Cách tổ chức dạy học của một số ít giáo viên vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn.
Một số giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào sách hướng dẫn. Không sử dụng đồ dùng trực quan (sơ đồ, vẽ hình, tóm tắt,…) hoặc sử dụng không hiệu quả. Đôi khi vận dụng phương pháp chưa nhịp nhàng, chưa linh hoạt.
Giáo viên chưa coi trọng việc hướng dẫn tổ chức học sinh biết cách tìm hiểu phân tích, tổng hợp bài toán, bỏ qua bước phân tích bài toán khi hướng dẫn học sinh thực hành giải toán, thường là cho học sinh đọc đề toán, cho học sinh xác định điều kiện cho biết và yêu cầu cần tìm sau đó cho học sinh giải.
b. Về phía học sinh
Tổng số học sinh : em, trong đó :
Nữ : em;
Dân tộc : em;
Nữ DT : em.
Lớp nằm ở phân hiệu trường Chính trường Tiểu học…, đóng trên địa bàn…. Địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn nhất là về mùa mưa. Đa số các em là con em dân tộc thiểu số. Đời sống của người dân còn nhiều thiếu thốn cả về vật chất, tinh thần. Trong đó học sinh thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo : em. Đặc biệt có 2 em vì điều kiện kinh tế nên không ở cùng với bố mẹ.
Học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác.
Các em thường lúng túng khi đặt câu trả lời cho phép tính. Có nhiều em làm phép tính nhanh chóng và chính xác nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng, hoặc đặt lời giải không phù hợp với yêu cầu của bài toán.
Đối với học sinh lớp 3 việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn gặp khó khăn. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp... Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi giáo viên nêu : "Bài toán cho biết gì ? Chúng ta phải tìm gì ?”
.- Tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan. Nhưng có những bài toán có lời văn lại cần nhiều đến tư duy trừu tượng nên học sinh lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí không làm được các dạng toán điển hình.
* Bài toán có lời văn có nội dung hình học.
- Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc tính chu vi hình vuông và ngược lại khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật.
- Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông và chu vi hình chữ nhật thì học sinh không nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật.
- Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường kích thước chiều dài và chiều rộng cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. Ví dụ : Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm2.
- Trong trường hợp số đo các cạnh không cùng đơn vị thì học sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo.
- Học sinh nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu.
- Một số học sinh còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4.
- Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tổng hợp kiến thức của các em còn hạn chế, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai.
*Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Dạng 1
+ Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần.
- Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng.
- Sau khi thực hiện phép tính chia ghi đơn vị sai với câu trả lời.
Ví dụ : Bài 1 trang 128. Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc ?
Học sinh trả lời sai :
Danh số kết quả sai : 24 : 4 = 6 (vỉ)
Học sinh phải làm đúng là : 24 : 4 = 6 (viên)
+ Bước 2 : Tìm 3 vỉ có số viên thuốc là :
6 x 3 = 18 (viên)
Học sinh hay đặt ngược phép tính là :
3 x 6 = 18 (viên)
Như vậy: Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay viết lời giải sai hoặc ghi sai đơn vị, phép tính sai vì đặt ngược...
Dạng 2:
Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia.
Bước 2 : Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán.
- Học sinh thường sai : Trả lời sai, ghi đơn vị nhầm.
Ví dụ : Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiêu hàng như thế ?
Bước 1: tìm giá trị một phần.
- Học sinh viết lời giải sai (Mỗi hàng xếp được bao nhiêu học sinh là). Lời giải đúng là (Mỗi hàng xếp được số học sinh là)
Bước 2 : Ở lời giải 2 học sinh ghi đơn vị sai (lấy 60 : 5 = 12 (học sinh). Ghi đơn vị đúng phải là (lấy 60 : 5 = 12 (hàng)
* Theo thống kê khi dạy dạng toán có lời văn, những bài đầu tiên ở HKI học sinh còn nhầm lẫn :
Lớp | TSHS | DTTS | Đặt lời giải | Đặt phép tính và tính | Đơn vị | |||||||||
Đạt | Chưa đạt | Đúng | Sai | Đúng | Sai | |||||||||
SL | TL (%) | SL | TL (%) | SL | TL (%) | SL | TL (%) | SL | TL (%) | SL | TL (%) | |||
3A | 25 | 11 | 12 | 48,0 | 13 | 52,0 | 15 | 60,0 | 10 | 40,0 | 11 | 46,4 | 14 | 53,6 |
a. Về phía giáo viên :
Từ việc dạy theo kiểu áp đặt của giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động các quy tắc, các công thức,…học sinh nắm kiến thức không vững, không
THẦY CÔ TẢI NHÉ!