Yopovn

Ban quản trị Team YOPO
Thành viên BQT
Tham gia
28/1/21
Bài viết
86,101
Điểm
113
tác giả
Một số giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT

Phần NỘI DUNG

MÔ TẢ SÁNG KIẾN



1. ĐẶT VẤN ĐỀ.

1.1. Sự cần thiết của việc chú trọng tìm Giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT.


Hiện nay, việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo là trách nhiệm của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Nội dung giáo dục đã chuyển hướng từ việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các tình huống thực tiễn, nội dung được quy định chi tiết trong chương trình sang lựa chọn những nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực tiễn, chương trình chỉ quy định những nội dung chính, không quy định chi tiết. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới từ hướng giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học, học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn sang hướng giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ, học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức, chú trọng khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.

Tuy nhiên, về phương pháp dạy học và giáo dục ở không ít trường phổ thông hiện nay, một số giáo viên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, đặc biệt là những giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm lớp. Cụ thể, trong những tiết sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu thuyết giảng một chiều – biểu dương những thành tích, phê bình những sai phạm của học sinh, chưa dành nhiều thời gian đưa ra những tình huống có vấn đề, hay khơi gợi những bức xúc, những suy nghĩ đa chiều cho học sinh được bày tỏ, tâm sự, để các em nói ra suy nghĩ của mình, thể hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, quan điểm và cách ứng xử của các em trước cuộc sống (Mà đây là một cách tạo hứng thú, giúp các em thoải mái, tự tin thể hiện chính kiến, hiểu biết, vẻ đẹp tâm hồn mình; cũng là hoạt động nhằm đổi mới nội dung giáo dục).

“Giáo viên không phải là một nghề mà là một sứ mạng. Đó là trọng trách cao cả để dìu dắt học sinh mở rộng tầm nhìn, đánh thức tâm hồn, định hướng tương lai, giúp những công dân tương lai ngày càng hoàn thiện về trí tuệ, tâm hồn và nhân cách” (Nhà giáo Đàm Lê Đức). Quả đúng như vậy. Nhiệm vụ của người giáo viên không chỉ là phát huy trí tuệ của học sinh mà còn vun đắp tâm hồn và giúp các em từng bước hoàn thiện nhân cách. Đối với người giáo viên chủ nhiệm, ngoài công việc giảng dạy, giáo viên chủ nhiệm còn phải là một nhà giáo dục, nắm bắt những tâm tư, tình cảm, chăm lo đến quá trình học tập và rèn luyện đạo đức của mỗi em và của cả tập thể học sinh. Trong công tác chủ nhiệm, giờ Sinh hoạt lớp đóng vai trò rất quan trọng. Đó là một hoạt động giáo dục hữu ích góp phần xây dựng tập thể học sinh đoàn kết và giúp các em phát triển những kĩ năng sống cơ bản. Chính thông qua hoạt động này, giáo viên chủ nhiệm có điều kiện gắn bó với học sinh trong một cộng đồng chung để cùng giải quyết những vấn đề của tập thể, đồng thời nắm được những thông tin cần thiết làm cơ sở để đánh giá quá trình rèn luyện của học sinh. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, người giáo viên chủ nhiệm cần tạo điều kiện để học sinh phát huy vai trò, năng lực, tính tích cực, chủ động trong hoạt động giáo dục…

Chính vì vậy, việc tìm hướng tiếp cận ra sao để đổi mới phương pháp trong tiết Sinh hoạt lớp nhằm tạo hứng thú, nâng cao năng lực học tập và giáo dục cho học sinh, giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp xung quanh, biết cảm thông, yêu thương, chia sẻ với mọi người, với cuộc đời là vấn đề được đặt ra và cần phải giải quyết.

Với vai trò là người tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn, điều khiển quá trình học tập và giáo dục của học sinh, hơn ai hết, giáo viên phải tìm tòi, xây dựng hướng tiếp cận mới để phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, tạo hứng thú, hưng phấn, khơi dậy đam mê học tập và tình cảm, hành động tích cực ở mỗi học sinh trong và ngoài nhà trường.

Ngày nay, với xu thế, tác động của cơ chế thị trường, nhiều giá trị nhân văn, nhiều yếu tố văn hóa đang trở nên bị coi nhẹ, bị lai tạp, giao thoa, mai một. Từ thực tế ấy, đòi hỏi giáo viên nói chung và đặc biệt là các thầy cô làm công tác chủ nhiệm nói riêng phải nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình. Nó đòi hỏi người giáo viên ngoài chuyên môn vững vàng, cần có tâm thế tốt, luôn nhiệt huyết, yêu nghề, luôn trau dồi đổi mới phương pháp để tạo được hứng thú học tập cho HS, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

Có thể nói, cốt lõi của việc tạo hứng thú, hưng phấn, tích cực cho học sinh trong học tập bộ môn nói chung và trong tiết Sinh hoạt lớp nói riêng là đổi mới phương pháp dạy học và giáo dục theo hướng lấy hoạt động học tập và giáo dục của học sinh làm trung tâm, học trò là người chủ động khám phá, lĩnh hội kiến thức, người thầy đóng vai trò là người tổ chức, chỉ đạo, hỗ trợ. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những hướng tiếp cận giáo dục linh hoạt, khoa học, hợp lí nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt là rất cần thiết.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của bản thân, với mong muốn, trong từng bài dạy văn hóa nói chung và đặc biệt là trong tiết Sinh hoạt nói riêng, học sinh luôn hứng thú, chủ động, yêu thích tiết học, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT”.





1.2. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài.

Là một trong những người làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp, tôi xác định rõ tác động của hứng thú trong cuộc sống của con người nói chung và tác động của hứng thú trong dạy học nói riêng.

1.2.1. Tác động của hứng thú trong cuộc sống.

- Hứng thú có tác dụng chống lại sự mệt nhọc và những cảm xúc tiêu cực, duy trì trạng thái tỉnh táo ở con người.

- Hứng thú định hướng và duy trì tính tích cực của con người, làm con người chịu khó tìm tòi và sáng tạo.

- Hứng thú đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển và hình thành nhân cách con người, nó tạo nên khả năng cho hoạt động trí tuệ, thẩm mỹ và các dạng hoạt động khác.

- Hứng thú làm cho con người xích lại gần nhau hơn.

1.2.2. Tác động của hứng thú trong dạy học.

Dạy học là một nghệ thuật, người dạy – giáo viên – là những “kỹ sư tâm hồn”, sản phẩm tạo ra của quá trình dạy học là sản phẩm đặc biệt – con người (nhân cách). Dạy học không hề giống với bất kỳ một ngành nghề nào. Điều đó đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với giáo viên. Theo William A.Ward thì:

“Người thầy trung bình chỉ biết nói,
Người thầy giỏi biết giải thích,
Người thầy xuất chúng biết minh họa,
Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng”
Từ đó ta thấy việc truyền cảm hứng (gây hứng thú) học tập cho học sinh – người học – là điều cực kì quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ: “Chúng ta không thể dạy ai làm bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ khám phá điều đó” (Theo Galileo Galilei).

Cho nên, trong quá trình dạy học và giáo dục, nếu giáo viên khơi dậy được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì sẽ tạo ra động cơ học tập tích cực, giúp các em hăng say, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, trở ngại để đạt kết quả học tập tốt nhất, và từ đó người học sẽ tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác, không bị ép buộc,…

Cụ thể, khi hứng thú học tập, người học sẽ:

- Hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề nêu ra.

- Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa hiểu rõ ràng.

- Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học.

- Kiên trì hoàn thành bài tập, không nản chí trước những tình huống khó khăn…

- Hứng thú còn giúp học sinh tích cực học tập qua những cấp độ từ thấp đến cao:

+ Bắt chước: gắng sức làm theo các mẫu hành động của thầy, của bạn…

+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề…

+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.

Tóm lại, học sinh khi hứng thú với tiết học sẽ tạo không khí thi đua học tập sôi nổi, tích cực, say mê học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu… đây chính là một trong những tiền đề dẫn đến sáng tạo và tài năng. Và tôi tin rằng với tiền đề đó, quá trình dạy học, giáo dục nhất định sẽ đạt được kết quả cao.

“Hứng thú, ham mê học tập là một trong những nguồn gốc chủ yếu nhất của việc học tập có kết quả cao, là con đường dẫn đến sáng tạo và tài năng.”(Viện KHGD – “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”)

Như vậy, việc tìm hướng tiếp cận nhằm tạo hứng thú trong giáo dục cho học sinh là rất cần thiết, giúp các em hăng hái, tích cực, chủ động, sáng tạo trước các tình huống đặt ra trong bài học và liên hệ thực tế, từ đó tạo cơ sở quan trọng để các em sống tích cực, chủ động, hài hòa và lành mạnh trước cuộc sống. Và làm được như thế tức là chúng ta đã thực hiện được mục tiêu giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay.



1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.


Có thể khẳng định rằng, việc tìm hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho HS trong hoạt động dạy học và giáo dục ở trường phổ thông hiện nay luôn được các giáo viên quan tâm, chú trọng và trăn trở. Hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú trong học tập cho học sinh rất phong phú và đa dạng ; tuy nhiên, trong quá trình triển khai đề tài Một số hướng tiếp cận bài học nhằm tạo hứng thú cho HS trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT, tôi chỉ tập trung nghiên cứu cho các vấn đề: Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh; Phát huy vai trò của Ban cán sự lớp; Nâng cao ý thức tự quản; Tích cực trong đánh giá, phê bình, góp ý; Tích cực trong sinh hoạt tập thể; Mời đại diện phụ huynh đến dự tiết Sinh hoạt lớp; Tác phong sư phạm của người thầy. Đây là một số hướng tiếp cận có tính chủ quan mà tôi đã rút kinh nghiệm từ hoạt động giáo dục thực tiễn của mình và đã đạt được hiệu quả nhất định.





2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.

2.1. Cơ sở lý luận.


Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã từng căn dặn các thế hệ học sinh Việt Nam : “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Và như Jacques Delors đã nói : “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh nhất mà chúng ta có trong tay để đào tạo nên tương lai”.

Đất nước ta đang trên đà đổi mới, hội nhập cùng xu thế chung của thời đại, theo đó đòi hỏi nền giáo dục nước ta cần có sự đổi mới căn bản, toàn diện để bắt kịp thời đại.

Đảng ta đã khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục” (Nghị quyết TW II – Khóa VIII).

Luật Giáo dục điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học ; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm ; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn, bản toàn diện Giáo dục và đào tạo cũng nêu ra : “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học …”

Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn, bản toàn diện Giáo dục và đào tạo là: phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Toàn diện ở đây được hiểu là chú trọng phát triển cả phẩm chất và năng lực con người, cả dạy chữ, dạy người, dạy nghề. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực cần thiết như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hoài bão và lí tưởng phục vụ Tổ quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội; có hiểu biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả… như Bác Hồ từng mong muốn: “một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”.

Như vậy, vai trò của giáo dục là cực kì quan trọng, liên quan đến sự phát triển bền vững của một quốc gia. Đảng ta đã quyết tâm phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Thực hiện nhiệm vụ đó, ngành giáo dục nhiều năm nay đã không ngừng triển khai tới tất cả các nhà trường, các thầy cô giáo yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, quản lí, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới công tác chủ nhiệm, giáo dục kĩ năng sống, tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp,... Đã có rất nhiều cuộc tập huấn đổi mới phương pháp được tổ chức, nhiều tài liệu có tính chất lí luận về các vấn đề này đã được ban hành. Trong đó có cả những nội dung tập huấn về công tác chủ nhiệm.

Công tác chủ nhiệm lớp là làm công việc chỉ đạo, quản lý giáo dục toàn diện học sinh (HS) một lớp. Đồng thời là người chỉ đạo mọi hoạt động của HS bao gồm: hoạt động học tập, hoạt động rèn luyện theo quy định của điều lệ trường phổ thông. Bên cạnh đó, chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường; là người tổ chức, phối hợp các lực lượng giáo dục.

Cùng với nhà trường, thông qua công tác chủ nhiệm, góp phần định hình, định hướng tính cách của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là nhà quản lý, nhà tâm lý; là nơi để các em học sinh chia sẻ những buồn vui, là một chỗ dựa tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống. Đồng thời, GVCN là người đánh giá khách quan kết quả rèn luyện của mỗi HS và phong trào chung của lớp.

Đổi mới công tác chủ nhiệm là phải đổi mới cả nội dung và phương pháp. Đổi mới phương pháp vừa là yêu cầu để phù hợp với đổi mới nội dung, vừa là động lực thúc đẩy nội dung không ngừng hoàn thiện. Nếu chỉ đổi mới nội dung mà không đổi mới phương pháp thì sa vào tình trạng không đồng bộ; gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết vấn đề. Ngược lại, nếu chỉ đổi mới phương pháp mà không đổi mới nội dung thì sa vào tình trạng “bình mới rượu cũ”, vô tình tạo sức ì cho sự phát triển nội dung.

Công tác chủ nhiệm có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, kĩ năng sống, nâng cao tri thức cho các em HS. Trong qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, công tác chủ nhiệm được tính 4 tiết trên tuần. Trong đó có một tiết chính khóa, đó là giờ Sinh hoạt lớp ngày cuối tuần. Như vậy, Sinh hoạt là một môn học bắt buộc. Tuy nhiên, đây là một môn học có nhiều điểm khác biệt với những môn học văn hóa khác. Vì Sinh hoạt lớp là dạng hoạt động giáo dục tập thể, là một hình thức tổ chức tự quản cho HS và là một trong những biện pháp cơ bản góp phần xây dựng tập thể HS đoàn kết. Chính thông qua các giờ sinh hoạt lớp, các em HS có thể bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá, nhận xét nhau thẳng thắn, tích cực. Các HS trong lớp được liên kết lại với nhau, GV gắn bó với HS trong một cộng đồng thu nhỏ để giải quyết những vấn đề của cuộc sống thực hàng ngày ở nhà trường, lớp học. HS được mở rộng các mối liên hệ, tăng cường sự hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ, bè phái trong đời sống tập thể. Đây cũng là dịp để HS làm quen với nhiều loại hình hoạt động khác nhau, giúp các em phát triển các kĩ năng cơ bản và cần thiết cho bản thân. Các em phải được vừa học vừa chơi, được thể hiện khả năng của mình... Nếu như các bộ môn văn hóa đều có chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng, tài liệu tham khảo..., thì bộ môn Sinh hoạt lớp lại không có một tài liệu hướng dẫn cụ thể nào. Vài năm gần đây, việc thiết kế giáo án sinh hoạt lớp đã được triển khai đến các nhà trường, các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm. Như vậy, nội dung và cách thức cơ bản để tiến hành giờ Sinh hoạt lớp đã được thống nhất trong các nhà trường. Tuy nhiên việc thực hiện ở mỗi nơi, mỗi giáo viên..., vẫn có sự khác biệt.

2.2 . Cơ sở thực tiễn.

2.2.1. Thực trạng việc lên lớp của giáo viên chủ nhiệm trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của GVCN là việc tổ chức giờ Sinh hoạt lớp. Trong nhà trường phổ thông, giờ sinh hoạt lớp thường được xếp vào tiết học cuối của mỗi tuần học. Đây là thời điểm để các em HS tự đánh giá những hoạt động học tập, rèn luyện của cá nhân và tập thể lớp trong tuần, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch hoạt động cho tuần tiếp theo nhằm mục tiêu hoàn thành tốt kế hoạch năm học. Đây cũng là dịp để các em được bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tham gia các sinh hoạt tập thể cùng với các thành viên trong lớp. Từ đó, các em sẽ được trải nghiệm, được rèn luyện và phát triển nhân cách. Song, phần lớn các em HS không có nhận thức đúng đắn về vai trò của giờ học này. Chính vì thế thái độ học tập của các em chưa tích cực, đặc biệt không mấy hứng thú.

Vậy làm sao để gây được hứng thú cho HS, không làm cho giờ Sinh hoạt bị căng thẳng hoặc nhàm chán, lôi cuốn được HS vào những hoạt động tích cực trong giờ sinh hoạt lớp?

Có thể nói, đối với các thầy cô giáo làm công tác chủ nhiệm lớp, giờ Sinh hoạt là khoảng thời gian vô cùng quý báu để triển khai công việc, chấn chỉnh nền nếp, uốn nắn HS, khơi dậy trong các em sự thích thú, khả năng sáng tạo....và đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho các em một cách tập trung và hiệu quả. Nhận thức rõ vai trò của tiết Sinh hoạt lớp, hiện nay, hầu hết giáo viên chủ nhiệm đã ý thức sâu sắc việc đổi mới phương pháp cho tiết Sinh hoạt lớp, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học, tạo hứng thú cho HS, giúp các em được bày tỏ ý kiến, tình cảm, được thực hành giao tiếp nhiều hơn.

Tuy nhiên, thực tế việc tổ chức tiết Sinh hoạt lớp của không ít GVCN ở các trường THPT hiện nay chưa đạt được yêu cầu chất lượng và hiệu quả như mong muốn, vẫn còn nhiều bất cập cần được khắc phục, trong đó có trường tôi đang công tác. Đó là:

- Một số GV vẫn còn làm việc quá nhiều, nặng về thuyết trình đạo đức một chiều, khiến giờ học thiếu sự phóng túng, mà trở nên nhạt nhẽo. HS không được phát huy vai trò chủ thể, tích cực, ít có điều kiện chia sẻ, giãi bày tâm tư, thực hành, liên hệ … Điều này dễ đưa HS vào thế bị động, không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo, làm tê liệt sự hào hứng của HS.

- Nội dung giờ sinh hoạt lớp khô cứng lặp đi lặp lại, không thực sự gắn với nhu cầu của HS. Vì thế, các em không thực sự cảm nhận được vấn đề trong từng tuần học là vấn đề của chính các em phải giải quyết mà là vấn đề của thầy, cô giáo.

- Hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp đơn điệu, nhàm chán, không hứng thú với HS bởi các em không được cùng nhau tổ chức, tham gia vào giờ Sinh hoạt lớp.

- GV quá nghiêm khắc, không gần gũi, thân thiện, không đặt mình vào vị trí của HS để lắng nghe tích cực tiếng nói của các em, để hiểu các em, để có những chia sẻ, uốn nắn, định hướng hiệu quả...

- GV thường phê bình học trò hơn là khen ngợi (60 - 70%), mà lẽ ra phải là ngược lại.

2.2.2. Thực trạng tiết Sinh hoạt đối với học sinh ở trường THPT.

Như đã nói ở trên, phần lớn các em HS không có nhận thức đúng đắn về vai trò của giờ Sinh hoạt lớp. Chính vì thế, thái độ học tập của nhiều em là chưa tích cực, đặc biệt không mấy hứng thú với tiết học này.

Thâm nhập vào các diễn đàn của tuổi teen, có thể rút ra được khung cảnh và diễn biến của một số giờ Sinh hoạt lớp khiến các em “uể oải” như:

Ví dụ 1:

“Thầy chủ nhiệm lớp tớ nghiêm có tiếng, nên tiết Sinh hoạt lớp tớ thường im phăng phắc. Thầy chỉ định ai phát biểu, ai nêu ý kiến gì thì mới được phát biểu, nêu ý kiến. Đừng ai nghĩ đến việc xung phong đứng lên thẳng thắn bày tỏ quan điểm riêng kiểu “Thưa thầy, em nghĩ khác cơ ạ”.

Có bạn thừa nhận nhiều lúc muốn “có nhời” thưa lại với mấy kiểu áp đặt của thầy chủ nhiệm đối với những hoạt động của lớp lắm, nhưng rồi nghĩ “Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân” nên lại thôi ngay ý định. Điều tệ nhất là trong lớp lại có khá nhiều “cánh én” khác nghĩ thầm trong đầu hệt như em ấy, và thế là cả một tập thể im ắng, không có lời phản biện nào; khiến cho buổi sinh hoạt trở thành một chiều, vô cùng thụ động và chẳng có tác dụng gì nhiều với những vấn đề đáng lẽ cả lớp phải cùng nhau nhiệt tình thảo luận.

Ví dụ 2:

“Với tớ và hội bạn ở lớp thì tiết Sinh hoạt lại nhẹ nhõm lắm, vì không phải là tiết học môn gì cả, tha hồ xả hơi và cả nhóm tranh thủ chép bài tập về nhà cho kịp các tiết sau. Cô giáo vừa hiền, ít nói và chả mấy khi tham gia tiết sinh hoạt, giao hết cho cán bộ lớp điều hành. Tụi cán bộ lớp cũng chả muốn chơi nổi làm gì, vừa mất công mất sức vừa ngại bị phản ứng nên nói qua loa cho xong rồi cũng yên phận về chỗ”.

Ví dụ 3:

“Trong buổi sinh hoạt lớp, cô giáo chủ nhiệm lớp tớ thường phê bình thẳng thắn những hiện tượng lệch lạc của học sinh. Cô chỉ đích danh từng bạn, từng khuyết điểm đã mắc phải và dặn dò phải cố gắng sửa chữa trong tuần tiếp theo. Một số học sinh nói nhỏ với nhau: Như thế này không phải sinh hoạt lớp mà là giờ “luận tội”...

Ví dụ 4:

“Tất nhiên chúng tớ bao giờ chả đoán được nội dung của tiết Sinh hoạt. Cô giáo chủ nhiệm với mấy cán bộ lớp sẽ tổng kết lại tất cả một cách dài dòng những gì ghi ở Sổ Nam Tào (Sổ ghi đầu bài) trong tuần rồi phê bình, kiểm điểm trước lớp. Cái mới duy nhất của mỗi tiết “phụ mà chính” này là “nín thở chờ xem tuần này anh nào nhà ta bị lên thớt và vận xui tới đâu với mấy hình phạt...”.

2.3. Các biện pháp thực hiện.

2.3.1. Tên biện pháp và tầm quan trọng của biện pháp.

Vấn đề tìm giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT không phải là một việc làm mới, bởi nó đã được rất nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Song, để thực hiện được mục tiêu giáo dục này, chúng ta cần phải trải qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu kĩ lưỡng và áp dụng đồng thời nhiều biện pháp khác nhau.

Trước hết, giáo viên phải xác định mục đích và tầm quan trọng của việc tìm giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp ở trường THPT, trên cơ sở đó, xác định hệ thống phương pháp phù hợp để đạt mục tiêu một cách có hiệu quả. Do đó, GV phải có phương pháp nghiên cứu, tham khảo tài liệu hiệu quả. Các nguồn tài liệu tham khảo như: Đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên chủ nhiệm và đổi mới công tác chủ nhiệm, các tạp chí, các bài tham luận trên Internet…

Tiếp theo, để khảo sát thực tế về nhu cầu của người học, giáo viên thực hiện biện pháp quan sát, thống kê. Biện pháp này phải tiến hành trên diện rộng (thông qua hoạt động học và sinh hoạt tập thể của toàn bộ học sinh ở các lớp mình giảng dạy và chủ nhiệm), sau đó thống kê để tìm phương pháp phù hợp với quá trình giáo dục.

Trong quá trình dạy học theo hướng tạo hứng thú cho HS, GV cần vận dụng biện pháp điều tra – đàm thoại. GV tiếp cận, trao đổi, trò chuyện với HS, với cha mẹ HS, thông qua những người bạn trong lớp hoặc những người bạn khác lớp của HS; trao đổi với GV bộ môn dạy lớp mình chủ nhiệm, với GV trong Tổ chuyên môn, với các GV chủ nhiệm của trường... Sau đó, GV tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các ý kiến đóng góp về việc đổi mới giờ Sinh hoạt lớp.

Và cuối cùng để đánh giá về kết quả thực hiện giải pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong tiết Sinh hoạt lớp, cần vận dụng biện pháp so sánh, biện pháp này được tiến hành sau khi kết thúc năm học.

Vận dụng phối kết hợp các biện pháp nêu trên trong quá trình dạy học theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra hiệu quả nâng cao chất lượng giáo dục.

Tôi đã chú ý áp dụng thực hiện phương pháp này trong các năm học 2016-2017, 2017-2018, 2018-2019 và đặc biệt vẫn đang áp dụng trong năm học 2019-2020 này. Với kết quả chất lượng chủ nhiệm, tôi nhận thấy có nâng cao hơn so với trước.



2.3.2. Đề xuất cách thực hiện.

2.3.2.1. Xác định các yêu cầu, nguyên tắc, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.


2.3.2.1.1. Các yêu cầu, nguyên tắc đổi mới tiết Sinh hoạt lớp, bao gồm:

Thứ nhất,
nội dung tiết sinh hoạt phải bổ ích, gắn với nhu cầu xã hội, phù hợp với nhu cầu, hứng thú, kinh nghiệm, trình độ của học sinh khối THPT.

Thứ hai, đa dạng hóa hình thức tổ chức sinh hoạt lớp nhưng cần phù hợp với các điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.

Thứ ba, phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ

Thứ tư, tăng cường vai trò của học sinh, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Học sinh là chủ thể, GVCN là người hướng dẫn.

Thứ năm, có sự giao lưu đối thoại giữa GVCN và học sinh, giữa các em học sinh với nhau.

Thứ sáu, dành thời gian và công sức cho phần chuẩn bị của GVCN và học sinh trước tiết sinh hoạt lớp.

2.3.2.1.2. Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.

Đẩy mạnh đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát triển năng lực cho học sinh. Cụ thể:

- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ các phương pháp giáo dục theo hướng: Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ, học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức; phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như giải quyết vấn đề, dạy học kiến tạo, dạy học khám phá, dạy học theo dự án,... chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học, chiến lược học tập, khả năng hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,… nhằm hình thành và phát triển các năng lực chung, năng lực chuyên biệt cho học sinh.

- Đa dạng hóa các hình thức tổ chức giáo dục trong và ngoài lớp học, trong và ngoài nhà trường; cân đối giữa dạy học và hoạt động giáo dục, giữa hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân,… để đảm bảo vừa phát triển các năng lực cá nhân, vừa nâng cao chất lượng giáo dục cho mọi học sinh.

- Tăng cường, nâng cao hiệu quả của các phương tiện dạy học, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận các nguồn học liệu mở, khai thác thông tin trong môi trường công nghệ thông tin và truyền thông phong phú, đa dạng để xây dựng các chủ đề học tập theo sở thích, phát triển năng lực tự học theo tốc độ, cách học cá nhân.



2.3.2.2. Mô tả giải pháp.

2.3.2.2.1. Thuyết minh tính mới.


2.3.2.2.1.1. Tìm hiểu kĩ đối tượng học sinh.

Khi nhận sự phân công chủ nhiệm từ Ban giám hiệu nhà trường, GVCN cần tìm hiểu kỹ các đối tượng học sinh của lớp mình. Để làm tốt được công tác chủ nhiệm thì GVCN phải hiểu được tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, mong ước của các em, nắm bắt được hoàn cảnh sống của các em, những tác động của gia đình, xã hội đến tâm sinh lí của các em, mối quan hệ của các em với bạn bè trong và ngoài xã hội. Vậy người giáo viên tìm hiểu bằng cách nào? Một là có thể trò chuyện trực tiếp với các em, thông qua những người bạn của các em để hiểu về các em. Hai là thông qua các hoạt động sinh hoạt tập thể để tìm hiểu, theo dõi những hành động, cử chỉ của các em để hiểu về các em. Ba là thông qua các tiết Sinh hoạt lớp, tổ chức các trò chơi tập thể để hiểu về các em.

Vào tiết Sinh hoạt đầu tiên của năm học (hay từ khi nhận lớp chủ nhiệm), GVCN có thể phát cho học sinh mỗi em một “thẻ bài” do chính tay GV làm ra, cho các em tự tay viết lên tấm thẻ đó một số thông tin: “ngày sinh, sở thích, năng khiếu, ước mơ của mình và tự tay trang trí cho tấm thẻ theo ý thích của mình sao cho lành mạnh, lịch sự” (Hoặc giáo viên có thể cho HS làm việc này ở nhà, các em có thể viết các thông tin về họ tên, ngày sinh, sở thích …và trang trí theo sở thích trên ứng dụng điện thoại thông minh rồi gửi riêng cho GVCN). Tấm thẻ bài đó GVCN dùng để gọi học sinh trong các tiết học. Ngoài ra, thẻ bài đó cũng phần nào giúp GVCN hiểu được các em hơn, đồng thời giúp GV ghi nhớ sinh nhật của các em và có thể gửi lời chúc mừng sinh nhật tới các em, trên zalo, facebook hoặc trong tiết học nếu ngày hôm đó GV có tiết trên lớp học, hoặc có thể là lời chúc mừng sinh nhật theo tháng. Đây là một việc làm tuy rất nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm của người thầy đối với các em học sinh, thầy cô như cha mẹ, như người anh chị đối với người con, em của mình. Với cách làm đó, học sinh sẽ rất vui mừng và phấn khởi.

  • Việc làm tiếp theo là GVCN có thể cho mỗi học sinh viết ra một tờ giấy những điều em mong muốn ở thầy, cô giáo và gửi lại cho giáo viên. GVCN sẽ đọc tất cả những điều mà các em mong muốn và phân tích những điều các em mong muốn ở thầy cô giáo, đồng thời GVCN cũng nói điều mà giáo viên mong muốn ở các em. Qua đó, giáo viên sẽ hiểu được học sinh, học sinh hiểu được giáo viên, giáo viên điều chỉnh được những hoạt động của mình hướng tới các em và học sinh có những hành động tích cực trong lớp học, làm cho khoảng cách giữa giáo viên và học sinh được rút ngắn lại gần hơn.
  • Một lớp học sẽ có những học sinh ngoan, có những học sinh cá tính, nghịch ngợm, ương bướng; có học sinh giỏi, có những học sinh thì chưa được giỏi, những học sinh giỏi thì thường ý thức của các em rất tốt, các em có lòng tự trọng rất cao; có những em điều kiện gia đình rất tốt, lại có những em thì gia đình rất hoàn cảnh… Do đó, GVCN phải biết phân luồng các đối tượng học sinh để có phương pháp giáo dục cụ thể, không được đánh đồng để áp dụng phương pháp giáo dục như nhau, bởi làm như vậy hiệu quả không cao, thậm chí đôi khi nó còn đi ngược lại với mong muốn của chính mình. Đặc biệt, GV không la mắng học sinh, phải luôn giữ bình tĩnh trong mọi trường hợp, tình huống để có được những lời lẽ nhẹ nhàng, tình cảm nhưng triết lí, nhằm khuyên bảo, cảm hóa học sinh, bởi mọi suy nghĩ và hành động của các em còn mang tính bộc phát, cảm tính. Chẳng hạn:
  • - Với những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, éo le, các em thường có tâm lí tự ti, mặc cảm, dễ chạnh lòng. Do đó, những em này rất cần những lời động viên, thăm hỏi, quan tâm ân cần của thầy cô, bạn bè để chia sẻ những khó khăn, vướng mắc với các em, giúp các em có thể sống hòa đồng với bạn bè trong lớp. Muốn vậy, người GVCN không chỉ là người thầy mà còn phải biết nhập vai để đồng cảm, lắng nghe các em nói, tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ, được giúp đỡ, có người hiểu mình, thông cảm với mình. Sau khi nghe, giáo viên phải tìm hiểu thực tế và có những lời khuyên khéo léo, nhẹ nhàng, tình cảm, giúp các em nhìn nhận vấn đề tốt hơn, hiểu biết đúng về hoàn cảnh thực tế để vươn lên trong học tập và trong cuộc sống.
  • - Đối với học sinh cá tính, chưa ngoan, GV phải vừa nghiêm khắc khi xử lí những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên các em, thậm chí còn phải dỗ dành các em. Muốn giáo dục được học sinh cá biệt, điều quan trọng là phải tạo được mối quan hệ gần gũi với các em. GV có thể gặp riêng các em để trao đổi, tìm ra nguyên nhân và có hướng giải quyết nhẹ nhàng, tình cảm nhưng sâu sắc mà nghiêm khắc chứ không nhất thiết chúng ta cứ phải mang tất cả vi phạm của các em vào trong tiết Sinh hoạt. La mắng các em, mang những “tội, lỗi” của các em ra giữa lớp học để mắng mỏ, chỉ trích sao em thế này, sao em thế kia sẽ không mang lại hiệu quả cao. Ở lứa tuổi này, tính sĩ diện, cái tôi của các em cao lắm, nên GV càng cư xử tế nhị, tình cảm, nhẹ nhàng khuyên bảo, dẫn dỗ các em hiểu vấn đề càng có lợi cho GVCN và học sinh sẽ đón nhận những lời dạy của GV tốt hơn. Khi GV tạo được mối quan hệ gần gũi với HS rồi thì việc giải quyết vấn đề học sinh cá biệt, thường xuyên vi phạm không còn là vấn đề khó khăn nữa. Tuy nhiên, muốn làm được điều đó, GVCN cần phải đầu tư thời gian, công sức và trí tuệ của mình vào lớp chủ nhiệm.
2.3.2.2.1.2. Phát huy vai trò của Ban cán sự lớp.

Trong giờ Sinh hoạt lớp, đội ngũ Ban cán sự lớp sẽ hỗ trợ đắc lực cho thầy cô chủ nhiệm trong công tác tổ chức, quản lí các hoạt động giáo dục HS lớp chủ nhiệm nói chung và điều hành tổng kết, đánh giá thi đua, xây dựng kế hoạch cho các hoạt động của lớp trong tuần, tháng nói riêng. Giáo viên chủ nhiệm chỉ giữ vai trò thiết kế, giám sát là chính, “trao quyền” cho các em tổ chức, quản lý và điều hành các bước của giờ sinh hoạt. Chẳng hạn:

- Các tổ trưởng báo cáo cụ thể kết quả thi đua của từng thành viên và cả tổ trong tuần (điểm thi đua, xếp loại hạnh kiểm, điểm trung bình chung của tổ...).

- Các lớp phó văn - thể - mĩ, lao động nhận xét tình hình từng mảng mà mình phụ trách.

- Lớp trưởng điều khiển học sinh thảo luận, đóng góp ý kiến về các hoạt động của lớp, về việc theo dõi thi đua của các tổ... Trên cơ sở ý kiến của các bạn và quá trình theo dõi lớp trực tiếp, lớp trưởng tổng kết những mặt mạnh, mặt yếu của tập thể, đề xuất tuyên dương những cá nhân điển hình hay phê bình cá nhân vi phạm, từ đó định hướng kế hoạch cho tuần tới.

Để Ban cán sự lớp làm việc nghiêm túc và có hiệu quả trong giờ Sinh hoạt, GVCN không “khoán trắng” cho các em mà phải đóng vai trò là người cố vấn, giúp các em tự tin thực hiện nhiệm vụ và phát huy vai trò của mình. Cụ thể:

- GVCN phân công nhiệm vụ cụ thể cho Ban cán sự lớp để các em có trách nhiệm với mảng công việc mình được giao. Chẳng hạn: lớp trưởng quản lý lớp và phụ trách mảng trật tự, nề nếp; lớp phó học tập theo dõi tình hình học tập của lớp; lớp phó văn thể mĩ phụ trách công tác văn nghệ, thể thao và đời sống; bí thư tổ chức các phong trào của lớp và phụ trách công tác vệ sinh; tổ trưởng điều hành công việc chung của tổ, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện nội quy của tổ viên, xếp loại hạnh kiểm; tổ phó theo dõi tình hình học tập, điểm cộng... Yêu cầu Ban cán sự ghi chép vào trong sổ theo dõi của mình để cuối tuần có cơ sở đánh giá, nhận xét.

- Giáo dục cho các em thấy được vai trò “thủ lĩnh”, “đầu tàu” nên cần gương mẫu trong học tập và rèn luyện để các bạn nể phục, yêu mến. Hơn thế, giáo dục các em phải có ý thức và trách nhiệm với công việc mình được giao và có ý thức xây dựng, gắn kết các thành viên trong tập thể. GVCN biểu dương kịp thời những cố gắng của Ban cán sự lớp, đồng thời cũng phải nghiêm khắc chỉ ra những thiếu sót, song cần giữ uy tín cho các em trước tập thể. Khi các em có được lòng tin vững chắc, có vị trí quan trọng, có điều kiện để khẳng định mình, các em sẽ nỗ lực cố gắng để hoàn thành tốt công việc của mình vì mục đích chung.

Tuy nhiên, để Ban cán sự lớp phát huy được vai trò và trọng trách trên, GVCN đặc biệt phải xây dựng được một đội ngũ Ban cán sự lớp thực sự có năng lực, nhiệt tình, gương mẫu, có trách nhiệm cao và có uy tín trước các bạn khác.

2.3.2.2.1.3. Nâng cao ý thức tự quản.

Trong những tuần đầu tiên của năm học, GVCN định hướng cho HS xây dựng nội quy lớp học dựa trên tinh thần cộng tác. Có gì khác giữa việc thực hiện một bản nội quy do giáo viên đưa ra và việc thực hiện nội quy do học sinh thiết kế? Thay vì cảm thấy bị áp đặt với tâm lý thụ động, khi được chủ động đề ra những nội quy cho tập thể của mình, các em sẽ tích cực gia tăng ý thức tự chủ và tinh thần hợp tác. Chính các em là người thiết kế và thực hiện nội quy do tập thể thống nhất đề ra. Đó là cơ sở để nâng cao ý thức tự quản.

Trên cơ sở những quy định của nhà trường, tiêu chí đánh giá thi đua của Đoàn và mục tiêu của lớp, GVCN tổ chức cho học sinh thảo luận về nội quy của lớp. Cụ thể hóa những nội dung trên bằng hình thức chấm điểm thi đua, quy định mức điểm cộng và điểm trừ phù hợp. Việc xếp loại hạnh kiểm của học sinh hàng tuần dựa trên kết quả điểm mà các em đạt được. Tập thể lớp cũng đề ra hình thức thi đua giữa các tổ, nhóm và cá nhân. Hàng tuần và sau mỗi đợt thi đua, các em sẽ bình chọn những cá nhân và tổ, nhóm xuất sắc để biểu dương, khen thưởng (Phần thưởng được trích từ quỹ lớp, có khi chỉ là một gói kẹo, chiếc bút bi, một quyển vở... nhưng các em rất vui vì đã được tập thể ghi nhận và động viên những cố gắng của mình). Để tạo hứng thú cho học sinh trong việc xây dựng bài ở các giờ học trên lớp, GVCN gợi ý cho các em cộng điểm thi đua cho mỗi lượt phát biểu hoặc được điểm cao. Nhờ vậy, nhiều giờ học của lớp đã diễn ra rất sôi nổi, các em có ý thức học tập tốt hơn, hăng say, tích cực hơn trong các tiết học, cũng do đó mà các giáo viên bộ môn của lớp luôn phấn khởi và hài lòng.

Cũng vì có điểm thi đua rõ ràng mà trong các tiết Sinh hoạt lớp cuối tuần, các em tự đánh giá được kết quả rèn luyện của mình qua điểm thi đua và xếp loại hạnh kiểm. Từ đó, các em biết cố gắng phấn đấu để ngày càng tiến bộ hơn.

Chẳng hạn như cách xếp loại Hạnh kiểm hàng tuần cho HS dựa trên số điểm đạt được như sau (Đây là quy định mà Ban cán sự lớp đã đưa ra thảo luận và được cả lớp nhất trí ngay từ tuần đầu tiên của năm học):

I. Quy định về xếp hạnh kiểm.
1. Hạnh kiểm Tốt :
- Không mắc lỗi.
- TSĐĐĐ > 30 điểm (TSĐĐĐ: Tổng số điểm đạt được trong tuần)
2. Hạnh kiểm Khá :
- Không mắc lỗi.
- 22 điểm < TSĐĐĐ < 30 điểm
3. Hạnh kiểm Trung bình :
- Mắc 1 đến 2 lỗi.
- TSĐĐĐ > 16 điểm (Nếu mắc 1 lỗi mà TSĐĐĐ < 16 điểm thì xếp HK Yếu).
4. Hạnh kiểm Yếu :
- Mắc 2 lỗi trở lên
- TSĐĐĐ từ 16 điểm trở xuống.
II. Quy định về cách tính Tổng số điểm đạt được (TSĐĐĐ).

TSĐĐĐ = (Điểm được cộng + Điểm đạt được) - Số điểm bị trừ

1. Cách tính Điểm đạt được :

- 8 điểm được cộng 3 điểm.
- 9 điểm được cộng 4 điểm.
- 10 điểm được cộng 5 điểm.
- Mỗi lần xung phong phát biểu hoặc xung phong lên bảng làm bài tập được cộng 2 điểm.
(Lưu ý: Các điểm 8, 9, 10 : là điểm số của HS được ghi cụ thể trong Sổ ghi đầu bài).
2. Cách tính Điểm bị trừ :
- Mỗi lỗi vi phạm bị trừ 5 điểm (BCS lớp - Mỗi lỗi vi phạm bị trừ 7 điểm). Riêng HS đánh nhau, bỏ tiếtý thức kém bị ghi trong Sổ ghi đầu bài: trừ 10 điểm.
- Nếu HS nghỉ học có phép sẽ trừ 1 điểm (trừ trường hợp đặc biệt).
(Lưu ý: Các lỗi vi phạm được quy định trong nội quy của trường, lớp như: mất trật tự, đổi chỗ ngồi, nói tục, đánh nhau, sử dụng điện thoại trong giờ, hút thuốc lá, nhuộm tóc, ra tập thể dục muộn, nghỉ học không lí do, bỏ tiết, đi học muộn, điểm kém, không chuẩn bị bài ...)
3. Điểm được cộng : 20 điểm (là điểm GV thưởng cho HS được cộng mỗi tuần để tạo hứng thú, phấn khởi cho các em).


2.3.2.2.1.4. Tích cực trong đánh giá, phê bình, góp ý.

2.3.2.2.1.4.1. Về phía Ban cán sự lớp và tập thể lớp.


Một trong những nội dung quan trọng của giờ Sinh hoạt lớp là phần đánh giá, nhận xét, đóng góp ý kiến của học sinh. Đây là giờ sinh hoạt tự quản, giúp các em phát huy tinh thần phê và tự phê, tự đánh giá các hoạt động của cá nhân và tập thể. Các em được bày tỏ, chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá, nhận xét nhau thẳng thắn, tích cực. Tuy nhiên, tâm lý của học sinh khi phê bình bạn là e ngại vì sợ bạn ghét, sợ bị cô lập hoặc có thể có những hành động bị “trả thù”, nên các em thường có xu hướng bao che. GVCN cần nắm bắt tâm lí này để giúp đỡ và cố vấn cho các em, khuyến khích các em mạnh dạn, tự tin khi bày tỏ quan điểm riêng của mình.

Ví dụ:

- Với Ban cán sự lớp, GVCN cần giúp các em hiểu rằng làm việc phải công tâm, nghiêm túc, phải tạo được uy tín để các bạn khác nghe theo, đồng thời trong cách nhắc nhở, góp ý cho bạn, các em cũng cần tế nhị, khéo léo để tránh tổn thương người khác. Để hoạt động này được hiệu quả thì ngay từ đầu năm học, GVCN cần phải xây dựng đội ngũ Ban cán sự lớp vững vàng, uy tín có thể thu hút, thuyết phục được tập thể. Đồng thời, GVCN cần có sự tập dượt cho lực lượng cán sự lớp phương pháp làm việc, phương pháp theo dõi, đánh giá, phương pháp nhận xét trước tập thể như: tuyên dương thì cần làm nổi bật, phê bình thì nhẹ nhàng, thuyết phục; không nên dùng từ ngữ gay gắt gây tổn thương trực diện đối tượng bị phê bình.

- Với tập thể lớp, GVCN cần giảng giải để các em hiểu được những lời phê bình, nhận xét của Ban cán sự lớp đều là vì công việc chung, vì mục tiêu xây dựng tập thể đoàn kết, giúp đỡ nhau tiến bộ. Tất cả các bạn trong tập thể lớp đều bình đẳng, việc phê bình chỉ giúp hoàn thiện chứ không mang tính chất chỉ trích, trù dập hay cô lập một thành viên nào đó trong tập thể.

- Với những cá nhân khi đóng góp ý kiến, các em cần xuất phát từ thái độ chân thành, tôn trọng bạn bè; khi được góp ý, các em cần bình tĩnh, tránh tự ái, bảo thủ, phải biết ghi nhận để tiến bộ hơn.

- Có những tình huống nảy sinh trong tập thể lớp như xích mích, hiểu nhầm,... GVCN cần nêu vấn đề để các em thảo luận, trao đổi và quyết định, mục đích là nhằm nâng cao bầu không khí đoàn kết, tinh thần trách nhiệm của mỗi học sinh trong lớp.

2.3.2.2.1.4.2. Về phía giáo viên chủ nhiệm.

GVCN cần phát hiện và tuyên dương, động viên kịp thời những HS đã có sự cố gắng, phấn đấu trong tuần; phê bình nhẹ nhàng nhưng cương quyết những cá nhân sai phạm về ý thức, chây lười, lơ là trong học tập và thiếu tinh thần trách nhiệm với tập thể. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời hiện tượng học sinh cá biệt.

GVCN cần khen, chê học sinh đúng mức, đúng chỗ, đúng đối tượng. Nếu GVCN biết khen chê đúng mức sẽ khiến học trò hứng thú trong học tập. Về nguyên tắc, khen phải nhiều hơn chê để tạo tâm lí tích cực vì ai cũng thích khen. Nhưng lưu ý, khi chúng ta khen học sinh thì sự khen ngợi đó phải cụ thể, gọi đúng tên bản chất sự việc. Thái độ khen ngợi phải chân thật, gây được cảm xúc tích cực nơi người được khen. Đối với những hành vi tích cực mới, GV cần khen ngay khi nó vừa xuất hiện, nhất là với những em hay mắc khuyết điểm, những em học yếu, nhút nhát... vừa có một sự tiến bộ nào đó. Ngay cả khi phê bình học sinh, GVCN cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ thể chứ không khái quát hoá thành nhận định liên quan đến nhân cách. Tuyệt đối tránh lối phê bình chì chiết, nhắc đi nhắc lại những khuyết điểm cũ đã xảy ra từ lâu.

Một yêu cầu cũng rất quan trọng đối với GVCN là thưởng, phạt cần công minh, đảm bảo được tính thuyết phục, thu hút và ràng buộc học sinh.

Đặc biệt, GVCN phải thực sự giao lưu - đối thoại với HS, để học sinh cởi mở, thân thiện và đoàn kết hơn, giúp các em tin tưởng và không bị ức chế về tâm lí mỗi khi đến trường, đến lớp và đến giờ Sinh hoạt lớp. Khi các em mạnh dạn đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình, chúng ta nên sẵn sàng lắng nghe và tiếp nhận những ý kiến đó một cách tôn trọng, đặt mình vào vị trí các em, lắng nghe tích cực tiếng nói của các em để có những chia sẻ, uốn nắn, định hướng hiệu quả.

2.3.2.2.1.5. Tích cực trong sinh hoạt tập thể.

Để tránh sự nhàm chán, căng thẳng của tiết Sinh hoạt lớp, bên cạnh những vấn đề vừa nêu ở trên, GVCN cần tạo ra được sự tích cực, chủ động, hứng thú cho HS trong các tiết Sinh hoạt lớp. Do đó, GVCN cần:

- Đa dạng hóa về nội dung tiết Sinh hoạt lớp. Nội dung tiết Sinh hoạt lớp hàng tuần phải cụ thể, bổ ích, phải gắn với nhu cầu hứng thú của học sinh và phù hợp với tâm lý, khả năng tiếp thu và trình độ hiểu biết của học sinh, huy động đến mức cao nhất trí tuệ và tình cảm tập thể của các em. Tăng cường những nội dung sinh hoạt có liên quan đến các công việc chung của lớp, phù hợp với nhu cầu và sở thích của học sinh, để các em được bàn bạc, nỗ lực, cố gắng và hợp tác với nhau để hoàn thành công việc được giao.

- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi HS dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố vấn của giáo viên nhằm tăng cường vai trò tự quản của học sinh. Tạo môi trường chung để tất cả học sinh cùng được trải nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng cường giao lưu giữa các em, tạo ra môi trường lớp học mang bầu không khí tin tưởng, thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kến của nhau. Từ đó tình cảm gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố.

- Đa dạng hóa về hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp: tổ chức trò chơi, hội thảo, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tổ chức thực hiện giờ sinh hoạt.

1647486033753.png
 

DOWNLOAD FILE

  • YOPOVN.COM-Sáng kiến GVCN - Giải pháp nhằm tạo hứng thú cho HS trong tiết Sinh hoạt lớp.docx
    2.9 MB · Lượt tải : 28
Nếu bạn cảm thấy nội dung chủ đề bổ ích , Hãy LIKE hoặc bình luận để chủ đề được sôi nổi hơn
  • Từ khóa
    báo cáo sáng kiến kinh nghiệm môn thể dục thpt cách viết sáng kiến kinh nghiệm thpt kho sáng kiến kinh nghiệm môn văn thpt kho sáng kiến kinh nghiệm thpt mẫu sáng kiến kinh nghiệm môn vật lý thpt phiếu chấm sáng kiến kinh nghiệm thpt sáng kiến kinh nghiệm cấp 3 sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp thpt sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm thpt sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm thpt violet sáng kiến kinh nghiệm công tác đoàn trường thpt sáng kiến kinh nghiệm của giáo viên chủ nhiệm thpt sáng kiến kinh nghiệm dạy nghe tiếng anh thpt sáng kiến kinh nghiệm elearning sáng kiến kinh nghiệm gdcd thpt sáng kiến kinh nghiệm giáo viên chủ nhiệm giỏi thpt sáng kiến kinh nghiệm hay thpt môn anh sáng kiến kinh nghiệm hóa học thpt sáng kiến kinh nghiệm hóa học thpt violet sáng kiến kinh nghiệm hóa thpt sáng kiến kinh nghiệm kế toán trường thpt sáng kiến kinh nghiệm lịch sử thpt sáng kiến kinh nghiệm lớp 2 đạt giải sáng kiến kinh nghiệm môn bóng chuyền thpt sáng kiến kinh nghiệm môn công nghệ thpt sáng kiến kinh nghiệm môn gdcd thpt violet sáng kiến kinh nghiệm môn giáo dục công dân thpt sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử bậc thpt sáng kiến kinh nghiệm môn lịch sử thpt- violet sáng kiến kinh nghiệm môn ngữ văn thpt violet sáng kiến kinh nghiệm môn sinh học thpt violet sáng kiến kinh nghiệm môn the dục thpt violet sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng anh sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng anh thpt sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng anh thpt mới nhất sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng anh thpt violet sáng kiến kinh nghiệm môn toán thpt sáng kiến kinh nghiệm môn toán thpt 2020 sáng kiến kinh nghiệm môn toán thpt file word sáng kiến kinh nghiệm môn toán thpt file word violet sáng kiến kinh nghiệm môn vật lý thpt violet sáng kiến kinh nghiệm môn địa lý thpt violet sáng kiến kinh nghiệm năm 2020 sáng kiến kinh nghiệm ôn thi thpt quốc gia sáng kiến kinh nghiệm quản lý giáo dục thpt sáng kiến kinh nghiệm thể dục thpt sáng kiến kinh nghiệm thiết bị dạy học thpt sáng kiến kinh nghiệm thpt sáng kiến kinh nghiệm thpt môn hóa sáng kiến kinh nghiệm thpt môn lịch sử sáng kiến kinh nghiệm thpt môn ngữ văn sáng kiến kinh nghiệm thpt môn sinh sáng kiến kinh nghiệm thpt môn tiếng anh sáng kiến kinh nghiệm thpt môn tin học sáng kiến kinh nghiệm thpt môn toán sáng kiến kinh nghiệm thpt môn vật lý sáng kiến kinh nghiệm thpt sinh học sáng kiến kinh nghiệm thpt violet sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh thpt sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh thpt violet sáng kiến kinh nghiệm tin học thpt sáng kiến kinh nghiệm tin học thpt violet sáng kiến kinh nghiệm tin thpt sáng kiến kinh nghiệm toán thpt sáng kiến kinh nghiệm toán thpt hay sáng kiến kinh nghiệm toán thpt violet sáng kiến kinh nghiệm trong dạy học toán thpt sáng kiến kinh nghiệm trung học phổ thông sáng kiến kinh nghiệm văn thpt sáng kiến kinh nghiệm vật lý thpt sáng kiến kinh nghiệm y tế trường học thpt sáng kiến kinh nghiệm đá cầu thpt sáng kiến kinh nghiệm đại học sáng kiến kinh nghiệm địa lý thpt sáng kiến môn tin học thpt sáng kiến môn toán thpt sáng kiến thpt tên sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh thpt tổng hợp các sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng anh đề tài sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng anh thpt
  • THẦY CÔ CẦN TRỢ GIÚP, VUI LÒNG LIÊN HỆ!

    TƯ VẤN NHANH
    ZALO:0979702422

    BÀI VIẾT MỚI

    Top