- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 82,220
- Điểm
- 113
tác giả
Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4 được soạn dưới dạng file word gồm 18 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1. Lí do chọn biện pháp:
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở ban đầu cho mọi quá trình giáo dục ở các cấp học tiếp theo nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Điều 27 luật Giáo dục năm 2005: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”. Ở bậc Tiểu học, việc học toán giữ một vai trò quan trọng. Nó góp phần vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy hình thành nhân cách. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú và những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Nhờ học toán học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới đáp ứng được yêu cầu của công nghệ 4.0. Chất lượng giải toán của học sinh phụ thuộc nhiều vào phương pháp dạy học của giáo viên. Vì phương pháp, hình thức dạy học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học ở Tiểu học. Mỗi giáo viên cần lựa chọn, sử dụng phương pháp, hình thức thích hợp để giúp học sinh tìm ra được cách giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặc biệt nhấn mạnh đến việc hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần thiết cho cuộc sống. Đây là những tri thức, kĩ năng vừa đáp ứng nhu cầu học tập của người lao động trong thời đại khoa học công nghệ vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực cho cuộc sống. Vì vậy, môn Toán cùng các môn học khác đã góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học.
Giải toán có lời văn ở Tiểu học được chia thành: bài toán đơn và bài toán hợp. Trong bài toán hợp có các bài toán điển hình (bài toán có phương pháp giải thống nhất) mà nhiều bài toán điển hình được đưa vào giảng dạy ở lớp 4. Tuy đã có sự chuẩn bị ở các lớp dưới theo nguyên tắc đồng tâm song khi làm bài, học sinh thường mắc lỗi sai do không nắm được bản chất của dạng bài, không biết phân loại các dạng bài và cách giải từng dạng bài. Một số em không nhớ được công thức tính, còn lẫn lộn công thức dạng toán này với công thức dạng toán kia, hay còn nhớ máy móc. Nên khi vận dụng vào làm bài tập còn lúng túng dẫn đến tình trạng học sinh làm bài hay sai, chưa hoàn thành nội dung, yêu cầu bài học của toán điển hình và chiếm chiếm tỉ lệ khá cao so với các nội dung khác.
Bên cạnh đó, hiện nay ở trường Tiểu học, phần lớn giáo viên thường truyền đạt kiến thức có sẵn trong SGK hay sách hướng dẫn theo mẫu có sẵn, học sinh đa số cũng hiểu bài nhưng chưa hiểu được ý nghĩa và bản chất của nội dung bài, chưa vận dụng được vốn kiến thức và những kinh nghiệm của mình, làm bài tập còn thụ động nên khi gặp bài toán khác mẫu là không làm được. Việc sử dụng phương pháp mới của giáo viên còn lúng túng, không linh hoạt, không thường xuyên nên chưa mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy. Đặc biệt đây là những nội dung kiến thức khó dạy nên còn khó khăn cho đội ngũ giáo viên khi giảng dạy. Chính vì những lý do nói trên tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4” nâng cao hiệu quả trong dạy học toán ở lớp 4.
2. Nội dung biện pháp
2.1. Thực trạng việc dạy và học giải toán điển hình lớp 4 ở Trường Tiểu học Quảng Lưu:
* Giáo viên
- Những việc đã làm được:
Những năm gần đây, cùng với việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, trong đó giáo viên là người hướng dẫn, dẫn dắt học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng cũ để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức vào luyện tập thực hành. Cụ thể là:
- Giáo viên đã chủ động xây dựng kế hoạch bài học, đầu tư nhiều thời gian để nghiên cứu bài, xem xét bài sẽ dạy trong mối quan hệ với bài trước và bài sau. Mỗi bài cần vận dụng kiến thức kĩ năng gì của bài trước.
- Giáo viên đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau như phương pháp nêu vấn đề, trình bày trực quan, giảng giải, đàm thoại,…để dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới. Với những bài cung cấp lí thuyết, để học sinh chủ động tiếp thu bài, giáo viên yêu cầu học sinh thoát li bài giải mẫu trong sách giáo khoa. Bài giải mẫu đó để học sinh xem bài trước khi đến lớp, để học sinh xem lại sau khi nghe giáo viên giảng.
- Giáo viên dành nhiều thời gian để học sinh luyện tập thực hành.
- Giáo viên đã tạo được cho học sinh thói quen tự kiểm tra đánh giá và đổi vở cho nhau để kiểm tra.
- Sau mỗi bài học, giáo viên đã sáng tạo nhiều hình thức củng cố bài có hiệu quả.
- Những tồn tại hạn chế:
+ Thường hướng dẫn học sinh khai thác bài toán theo khuôn mẫu, rập khuôn, chưa có sự sáng tạo như:
Bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?
Muốn tìm …ta làm thế nào?
Cách làm như vậy thông thường chỉ những học sinh đã biết cách làm hoặc những học sinh nổi trội mới trả lời được câu hỏi thứ 3 ở trên.
+ Khi hướng dẫn học sinh giải toán thường sử dụng phương pháp phân tích nhiều hơn phương pháp tổng hợp nên học sinh còn non về kiến thức kĩ năng khó tiếp thu, đặc biệt là đối với các lớp có nhiều đối tượng học sinh này.
+ Sử dụng sách giáo khoa như nhau đối với mọi đối tượng học sinh. Học sinh tiếp thu tốt phải chờ đợi học sinh tiếp thu chậm.
+ Không chú trọng sơ đồ khi giải toán điển hình.
+ Không nhấn mạnh các bước giải của toán điển hình. Không so sánh các bước giải của các dạng toán điển hình có cách giải tương tự như nhau.
+ Đối với lớp có nhiều học sinh nổi trội, trình độ tương đối đồng đều, giáo viên hướng dẫn học sinh quá kĩ, học sinh làm hết bài trong sách giáo khoa nhưng giáo viên không có cách nào để sử dụng thời gian còn lại của tiết học.
+ Giáo viên không hướng dẫn học sinh kiểm tra lại kết quả và tìm cách giải khác.
* Học sinh:
- Những việc đã làm được:
Đa phần học sinh đã biết nhận dạng các dạng toán điển hình, biết vận dụng các công thức, quy tắc để làm đúng các dạng bài toán cơ bản. Biết tự tóm tắt bài toán bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng, biết trình bày bài khoa học và theo các bước giải cơ bản. Một số em cũng đã sáng tạo trong việc đặt các lời giải và cách giải khác nhau cho một bài toán.
- Những tồn tại, hạn chế
Qua điều tra, tôi nhận thấy đa số học sinh nắm được kiến thức cơ bản về giải toán điển hình. Tuy nhiên với cách dạy của giáo viên hiện nay thì học sinh còn có những sai sót, gặp một số khó khăn như sau:
+ Một số học sinh không nhận được đúng dạng toán hoặc lẫn lộn dạng toán này với dạng toán kia.
+ Một số học sinh nhận được dạng toán nhưng khi làm bài còn lúng túng các bước giải.
+ Học sinh viết thiếu dữ kiện của đề bài.
+ Thao tác vẽ sơ đồ đoạn thẳng còn chậm, sai dạng toán, thiếu dữ kiện trên sơ đồ,...
+ Khi làm bài, học sinh còn trả lời sai, câu trả lời chưa đầy đủ.
+ Ngoài ra học sinh còn tính toán sai, sai tên đơn vị hoặc thiếu đơn vị.
Từ những thống kê trên, tôi đã tiến hành khảo sát, kiểm tra 30 học sinh của lớp 4D mà tôi trực tiếp giảng dạy thu được kết quả như sau:
* Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế:
- Đối với giáo viên:
+ Do giáo viên có ít thời gian nghiên cứu bài, chưa dành nhiều thời gian cho việc tham khảo tài liệu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.
+ Giáo viên chưa linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học, còn dùng các phương pháp như nhau đối với tất cả các đối tượng học sinh trong lớp.
+ Giáo viên chưa thật sự coi trọng việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong dạy học giải toán điển hình.
+ Giáo viên chưa nhấn mạnh rõ các bước giải của toán điển hình và không so sánh sự giống, khác nhau của các dạng toán có cách giải tương tự.
+ Giáo viên chưa giúp học sinh khai thác sâu sơ đồ đoạn thẳng để nắm vững bản chất của các phép tính trong công thức tính tránh nhầm lẫn.
- Đối với học sinh:
+ Một số học sinh kĩ năng tính toán còn chậm, học sinh hiểu nhầm ý nghĩa của phép tính.
+ Một số em không nhận dạng được các dạng toán điển hình. Còn nhầm lẫn các dạng toán điển hình. Khi mới học xong mỗi dạng toán, học sinh làm được nhưng khi học các dạng toán khác, học sinh nhầm lẫn các dạng toán với nhau.
+ Vẫn còn học sinh nhận dạng được các dạng toán điển hình nhưng không biết cách giải là do học sinh không phân biệt được cách giải của từng dạng toán.
+ Một số em không đọc kĩ đề bài nên lẫn lộn giữa các đối tượng trong bài toán (Ví dụ: kho 2 hiểu thành kho 1, số thứ nhất hiểu thành số thứ hai,...).
+ Một số ít giáo viên chưa chú trọng việc hướng dẫn học sinh khi vẽ sơ đồ nên trong khi vẽ sơ đồ, học sinh ghi thiếu yếu tố, thiếu đơn vị. Đặc biệt, nhiều em chưa biết dựa vào sơ đồ để hiểu bản chất của các phép tính trong công thức tính, phải nhớ máy móc. Nên dễ quên, dễ nhầm lẫn giữa các dạng toán.
2.2. Biện pháp rèn kĩ năng giải toán điển hình cho học sinh lớp 4:
2.2.1. Xây dựng nền nếp học tập, kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ngay từ đầu năm học.
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
1. Lí do chọn biện pháp:
Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở ban đầu cho mọi quá trình giáo dục ở các cấp học tiếp theo nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Điều 27 luật Giáo dục năm 2005: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”. Ở bậc Tiểu học, việc học toán giữ một vai trò quan trọng. Nó góp phần vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy hình thành nhân cách. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú và những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Nhờ học toán học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới đáp ứng được yêu cầu của công nghệ 4.0. Chất lượng giải toán của học sinh phụ thuộc nhiều vào phương pháp dạy học của giáo viên. Vì phương pháp, hình thức dạy học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học ở Tiểu học. Mỗi giáo viên cần lựa chọn, sử dụng phương pháp, hình thức thích hợp để giúp học sinh tìm ra được cách giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất.
Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặc biệt nhấn mạnh đến việc hình thành và phát triển cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần thiết cho cuộc sống. Đây là những tri thức, kĩ năng vừa đáp ứng nhu cầu học tập của người lao động trong thời đại khoa học công nghệ vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực cho cuộc sống. Vì vậy, môn Toán cùng các môn học khác đã góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục Tiểu học.
Giải toán có lời văn ở Tiểu học được chia thành: bài toán đơn và bài toán hợp. Trong bài toán hợp có các bài toán điển hình (bài toán có phương pháp giải thống nhất) mà nhiều bài toán điển hình được đưa vào giảng dạy ở lớp 4. Tuy đã có sự chuẩn bị ở các lớp dưới theo nguyên tắc đồng tâm song khi làm bài, học sinh thường mắc lỗi sai do không nắm được bản chất của dạng bài, không biết phân loại các dạng bài và cách giải từng dạng bài. Một số em không nhớ được công thức tính, còn lẫn lộn công thức dạng toán này với công thức dạng toán kia, hay còn nhớ máy móc. Nên khi vận dụng vào làm bài tập còn lúng túng dẫn đến tình trạng học sinh làm bài hay sai, chưa hoàn thành nội dung, yêu cầu bài học của toán điển hình và chiếm chiếm tỉ lệ khá cao so với các nội dung khác.
Bên cạnh đó, hiện nay ở trường Tiểu học, phần lớn giáo viên thường truyền đạt kiến thức có sẵn trong SGK hay sách hướng dẫn theo mẫu có sẵn, học sinh đa số cũng hiểu bài nhưng chưa hiểu được ý nghĩa và bản chất của nội dung bài, chưa vận dụng được vốn kiến thức và những kinh nghiệm của mình, làm bài tập còn thụ động nên khi gặp bài toán khác mẫu là không làm được. Việc sử dụng phương pháp mới của giáo viên còn lúng túng, không linh hoạt, không thường xuyên nên chưa mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy. Đặc biệt đây là những nội dung kiến thức khó dạy nên còn khó khăn cho đội ngũ giáo viên khi giảng dạy. Chính vì những lý do nói trên tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4” nâng cao hiệu quả trong dạy học toán ở lớp 4.
2. Nội dung biện pháp
2.1. Thực trạng việc dạy và học giải toán điển hình lớp 4 ở Trường Tiểu học Quảng Lưu:
* Giáo viên
- Những việc đã làm được:
Những năm gần đây, cùng với việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, trong đó giáo viên là người hướng dẫn, dẫn dắt học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng cũ để chiếm lĩnh kiến thức mới, vận dụng kiến thức vào luyện tập thực hành. Cụ thể là:
- Giáo viên đã chủ động xây dựng kế hoạch bài học, đầu tư nhiều thời gian để nghiên cứu bài, xem xét bài sẽ dạy trong mối quan hệ với bài trước và bài sau. Mỗi bài cần vận dụng kiến thức kĩ năng gì của bài trước.
- Giáo viên đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau như phương pháp nêu vấn đề, trình bày trực quan, giảng giải, đàm thoại,…để dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới. Với những bài cung cấp lí thuyết, để học sinh chủ động tiếp thu bài, giáo viên yêu cầu học sinh thoát li bài giải mẫu trong sách giáo khoa. Bài giải mẫu đó để học sinh xem bài trước khi đến lớp, để học sinh xem lại sau khi nghe giáo viên giảng.
- Giáo viên dành nhiều thời gian để học sinh luyện tập thực hành.
- Giáo viên đã tạo được cho học sinh thói quen tự kiểm tra đánh giá và đổi vở cho nhau để kiểm tra.
- Sau mỗi bài học, giáo viên đã sáng tạo nhiều hình thức củng cố bài có hiệu quả.
- Những tồn tại hạn chế:
+ Thường hướng dẫn học sinh khai thác bài toán theo khuôn mẫu, rập khuôn, chưa có sự sáng tạo như:
Bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?
Muốn tìm …ta làm thế nào?
Cách làm như vậy thông thường chỉ những học sinh đã biết cách làm hoặc những học sinh nổi trội mới trả lời được câu hỏi thứ 3 ở trên.
+ Khi hướng dẫn học sinh giải toán thường sử dụng phương pháp phân tích nhiều hơn phương pháp tổng hợp nên học sinh còn non về kiến thức kĩ năng khó tiếp thu, đặc biệt là đối với các lớp có nhiều đối tượng học sinh này.
+ Sử dụng sách giáo khoa như nhau đối với mọi đối tượng học sinh. Học sinh tiếp thu tốt phải chờ đợi học sinh tiếp thu chậm.
+ Không chú trọng sơ đồ khi giải toán điển hình.
+ Không nhấn mạnh các bước giải của toán điển hình. Không so sánh các bước giải của các dạng toán điển hình có cách giải tương tự như nhau.
+ Đối với lớp có nhiều học sinh nổi trội, trình độ tương đối đồng đều, giáo viên hướng dẫn học sinh quá kĩ, học sinh làm hết bài trong sách giáo khoa nhưng giáo viên không có cách nào để sử dụng thời gian còn lại của tiết học.
+ Giáo viên không hướng dẫn học sinh kiểm tra lại kết quả và tìm cách giải khác.
* Học sinh:
- Những việc đã làm được:
Đa phần học sinh đã biết nhận dạng các dạng toán điển hình, biết vận dụng các công thức, quy tắc để làm đúng các dạng bài toán cơ bản. Biết tự tóm tắt bài toán bằng lời hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng, biết trình bày bài khoa học và theo các bước giải cơ bản. Một số em cũng đã sáng tạo trong việc đặt các lời giải và cách giải khác nhau cho một bài toán.
- Những tồn tại, hạn chế
Qua điều tra, tôi nhận thấy đa số học sinh nắm được kiến thức cơ bản về giải toán điển hình. Tuy nhiên với cách dạy của giáo viên hiện nay thì học sinh còn có những sai sót, gặp một số khó khăn như sau:
+ Một số học sinh không nhận được đúng dạng toán hoặc lẫn lộn dạng toán này với dạng toán kia.
+ Một số học sinh nhận được dạng toán nhưng khi làm bài còn lúng túng các bước giải.
+ Học sinh viết thiếu dữ kiện của đề bài.
+ Thao tác vẽ sơ đồ đoạn thẳng còn chậm, sai dạng toán, thiếu dữ kiện trên sơ đồ,...
+ Khi làm bài, học sinh còn trả lời sai, câu trả lời chưa đầy đủ.
+ Ngoài ra học sinh còn tính toán sai, sai tên đơn vị hoặc thiếu đơn vị.
Từ những thống kê trên, tôi đã tiến hành khảo sát, kiểm tra 30 học sinh của lớp 4D mà tôi trực tiếp giảng dạy thu được kết quả như sau:
Sĩ số | Điểm 9,10 | Điểm 7,8 | Điểm 5,6 | Điểm dưới 5 | ||||
SL | TL | SL | TL | SL | TL | SL | TL | |
30 | 3 | 10 | 5 | 16.7 | 9 | 30 | 13 | 43,3 |
Những sai sót phổ biến | Số lượng | % |
Không nhận diện được dạng toán | 9 | 30 |
Hiểu sai đối tượng | 8 | 26,7 |
Thiếu dữ kiện | 10 | 33,3 |
Thiếu đơn vị | 5 | 16,7 |
Trả lời chưa đầy đủ | 13 | 43,3 |
Trả lời sai | 6 | 20 |
Sai kết quả phép tính | 8 | 26,7 |
- Đối với giáo viên:
+ Do giáo viên có ít thời gian nghiên cứu bài, chưa dành nhiều thời gian cho việc tham khảo tài liệu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm.
+ Giáo viên chưa linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học, còn dùng các phương pháp như nhau đối với tất cả các đối tượng học sinh trong lớp.
+ Giáo viên chưa thật sự coi trọng việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong dạy học giải toán điển hình.
+ Giáo viên chưa nhấn mạnh rõ các bước giải của toán điển hình và không so sánh sự giống, khác nhau của các dạng toán có cách giải tương tự.
+ Giáo viên chưa giúp học sinh khai thác sâu sơ đồ đoạn thẳng để nắm vững bản chất của các phép tính trong công thức tính tránh nhầm lẫn.
- Đối với học sinh:
+ Một số học sinh kĩ năng tính toán còn chậm, học sinh hiểu nhầm ý nghĩa của phép tính.
+ Một số em không nhận dạng được các dạng toán điển hình. Còn nhầm lẫn các dạng toán điển hình. Khi mới học xong mỗi dạng toán, học sinh làm được nhưng khi học các dạng toán khác, học sinh nhầm lẫn các dạng toán với nhau.
+ Vẫn còn học sinh nhận dạng được các dạng toán điển hình nhưng không biết cách giải là do học sinh không phân biệt được cách giải của từng dạng toán.
+ Một số em không đọc kĩ đề bài nên lẫn lộn giữa các đối tượng trong bài toán (Ví dụ: kho 2 hiểu thành kho 1, số thứ nhất hiểu thành số thứ hai,...).
+ Một số ít giáo viên chưa chú trọng việc hướng dẫn học sinh khi vẽ sơ đồ nên trong khi vẽ sơ đồ, học sinh ghi thiếu yếu tố, thiếu đơn vị. Đặc biệt, nhiều em chưa biết dựa vào sơ đồ để hiểu bản chất của các phép tính trong công thức tính, phải nhớ máy móc. Nên dễ quên, dễ nhầm lẫn giữa các dạng toán.
2.2. Biện pháp rèn kĩ năng giải toán điển hình cho học sinh lớp 4:
2.2.1. Xây dựng nền nếp học tập, kĩ năng sử dụng đồ dùng học tập ngay từ đầu năm học.
THẦY CÔ TẢI NHÉ!