- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,007
- Điểm
- 113
tác giả
Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong môn học lịch sử được soạn dưới dạng file word gồm 16 trang. Các bạn xem và tải về ở dưới.
1
Phần mở đầu
I. Bối cảnh của đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Hơn bao giờ
hết con người đang đứng trước những diễn biến to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa
học kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có
mâu thuẫn yêu cầu ngành giáo dục đào tạo nói chung và người thầy giáo chúng ta nói riêng
phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng
tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục để đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới.
Như chúng ta đã biết, môn lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo
dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự
hào với thành tựu dựng nước và giữ nứoc của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có
thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai.
Nhưng những nhận thức, quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của khoa học lịch sử
và môn lịch sử trong đời sống xã hội, trong giáo dục đã dẫn tới phương pháp nghiên cứu,
học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh
không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, phổ thông, nhớ sai hoặc nhằm lẫn kiến thức là hiện
tượng khá phổ biến ở nhiều trường học nói chung và trường trung học cơ sở nói riêng. Vì
vậy, hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 2 khoá 8 đã nhấn mạnh: “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp Giáo dục-Đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương pháp hiện đại vào quá trình dạy-học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”.
Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của
học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng việc giáo dục phải được tiến hành
trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động
và hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn). Vì vậy, việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý
2
chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu cuả
giáo dục.
II. Lý do chọn đề tài
Qua nhiều năm giảng dạy môn lịch sử lớp 9 ở trường trung học cơ sở, đặc biệt là từ khi
thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là vấn đề
bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng
bộ môn, bởi vì đối tượng là học sinh lớp 9 thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận
thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở lớp dưới. Nếu
dược khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động
khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân
mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc trung học phổ thông, nơi mà các em sẽ
phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
III. Phạm vi nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tính tích cực của
học sinh trong học tập lịch sử từ bậc trung học cơ sở đến đại học. Tuy nhiên những vấn đề
mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối
lớp cụ thể. Vì vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền
với việc giảng dạy nhiều năm môn lịch sử, đó là một số biện pháp phát huy tính tích cực của
học sinh lớp 9 với mục đích là góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng
dạy môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng ở trường trung học cơ sở Châu
Hưng nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là trao đổi, học tập kinh nghiệm của các đồng
nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học.
IV. Mục đích nghiên cứu
Từ trước đến nay vẫn còn tồn tại một quan niệm sai lầm cho rằng người thầy giáo
giỏi là người có kiến thức uyên bác. Nếu thầy giáo chỉ làm chức năng truyền thụ kiến thức
thì sẽ thực hiện phương châm “ Thầy giáo là trung tâm” học sinh sẽ thụ động tiếp nhận kiến
thức, sẽ học thuộc lòng những gì thầy giáo giảng và cho ghi cũng như trong sách đã viết.
Đó chính là cách giảng dạy giáo điều, nhồi sọ biến giáo viên thành người thuyết trình, giảng
giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã đọc. Có nhà giáo dục gọi đó là
cách “Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh”.
3
Chúng ta điều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống nhất
gồm hai khâu có tác dụng tương hổ nhau: Giảng dạy và học tập. Cả việc giảng dạy và học
tập đều là một quá trình nhận thức, tuân theo những quy luật nhận thức.
Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo viên và học sinh đối
với việc truyền thụ một nội dung khoa học được quy định trong chương trình với những
phương pháp dạy học thích hợp, những phương tiện hình thứccần thiết để đạt được kết quả
nhất định đã đề ra.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát
huy tính tích cực cuả học sinh trong học tập. Nhà giáo dục người Đức là Disterverg đã
khẳng định đúng đắn rằng: “ Người giáo viên tồi truyền đạt chân lý, người giáo viên giỏi
dạy cách tìm ra chân lý”.
Điều này có nghĩa rằng người giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở
việc đọc cho học sinh ghi chép những kiến thức có sẵn, bắt các em thuộc lòng rồi kiểm tra
điều ghi nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong sách giáo khoa.
Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản (bao gồm kiến
thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật, nguyên lý và các phương pháp nhận thức) làm
cơ sở định hướng cho việc khám phá các kiến thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống.
Vì vậy việc khơi dậy, phát triển tri thức, ý chí, năng lực bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là
con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Đó chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm,
làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu quả của giáo
viên, điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học sinh được gọi là
phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ còn gọi là kiểu dạy học
truyền thống.
Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận
Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Việc xây dựng cơ sở lý luận là
điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối bậc trung học cơ sở.
Vì vậy, mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản
4
nhất của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các
em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng
như có những tìm tòi trong tư duy, sáng tạo.
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản. Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo
sư Phan Ngọc Liên để thấy rõ sự khác biệt đó.
KIỂU DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC
SINH
- Cung cấp nhiều sự kiện được xem là tiêu chí
cho chất lượng giáo dục, nhớ tốt, thuộc lòng.
- Giáo viên là nguồn kiến thức duy nhất phần
lớn thời gian trên lớp dùng cho giáo viên
giảng học sinh chỉ chăm chú nghe và ghi lại
lời giáo viên.
- Việc ghi chép được đơn giản hoá, làm sao
cho dễ nhớ.
- Việc học lý thuyết không gắn với thực hành,
nhất là các môn xã hội
- Cung cấp những kiến thức cơ bản, được
lựa chọn phù hợp với yêu cầu trình độ của
học sinh, nhằm vào mục tiêu đào tạo.
- Ngoài lời giàng của giáo viên trên lớp,
học sinh được tiếp xúc với những nguồn
kiến thức khác: Vốn kiến thức đã học,
kiến thức của bạn bè, trong sách giáo
khoa, tài liệu tham khảo, đồ dùng trực
quan, thực tế cuộc sống.
- Các vấn đề thu nhận ngoài ghi chép còn
được thể hiện ở các bảng biểu, mô hình,
các phương tiện trực quan, giúp học sinh
dễ nhớ, hiểu sâu, nắm chắc các vấn đề
- Việc dạy lý thuyết để nâng cao trình độ
nhận thức của học sinh, làm cơ sở để vận
dụng những kiến thức đã học vào thực
hành, vào cuộc sống, qua đó làm phong
phú kiến thức đã học.
5
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích
cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh
phải được “Tích cực hoá” trong quá trình dạy - học, phải chủ động sáng tạo. Cần tiếp thu
những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi
mới, làm cuộc cách mạng trong ngưòi dạy và ngưòi học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động
như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi
lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách khi làm bài kiểm tra.
II. Thực trạng của vấn đề:
Trong vài năm gần đây, bộ môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng
trong trường trong học cơ sở đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ
môn lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như: Lí, Hoá và được tổ chức thi tuyển
chọn học sinh giỏi các cấp, được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn
lịch sử hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục
tiêu đào tạo đặt ra.
Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất vẫn còn tồn tại quan niệm cố hữu cho rằng môn lịch sử cũng như địa lí, kỹ
thuật, thể dục, giáo dục công dân điều là những môn phụ.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn
còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay.Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến.
Thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh lớp 9 trong học tập bộ
môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học
môn lịch sử.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
1. Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy cho học sinh:
- Nguồn kiến thức thu nhận của học sinh rất
hạn hẹp, thường giới hạn ở bài giảng của giáo
viên, sách giáo khoa, phòng thí nghiệm, tài
liệu tham khảo.
- Nguồn kiến thức của học sinh rất phong
phú, đa dạng: Lời nói, tài liệu viết, đồ
dùng trực quan, thực tế cuộc sống. Các
nguồn kiến thức đượcsử dụng phù hợp
với mục đích, yêu cầu, trình độ học tập.
6
a. Sử dụng sách giáo khoa để trình bày bài giảng
Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong sách giáo khoa ,
xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung tinh thần mà tác giả mong muốn ở học
sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng và sau đó đi sâu vào từng mục, tìm ra kiến thức cơ
bản của mục đó, sự liên quan kiến thức đó với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ 2
đến 3 mục nhưng không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của
từng phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm thì dành thời gian
nhiều hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết
thúc (1953-1954)” bài gồm có 4 mục thì mục II là quan trọng nhất, do đó phải đầu tư thời
gian nhiều nhất.
Trong bài dạy thường có các tranh ảnh, bản đồ, nếu không có bản đồ in sẵn thì ta
phải phóng to bản đồ trong sách giáo khoa để phục vụ bài dạy.
Như vậy, sách giáo khoa là điểm tựa để giáo viên xác định kiến thức cơ bản, xác
định các khái niệm cần hình thành cho học sinh, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp với đối tượng, vừa phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh.
b. Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp:
Trong giờ học học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi đối chiếu, so sánh
với sách giáo khoa, thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng của giáo viên mà
lại chép trong sách giáo khoa. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ
trong sách giáo khoa mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946-1954) Khi dạy phần IV chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 giáo viên vừa chỉ
bản đồ vừa phân tích:
- Sáng 7-10-1947 thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ
Mới, Chợ Đồn.
- Một cánh quân từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi từ Cao Bằng đánh xuiống Bắc cạn tạo
thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.
- Ngày 9-10-1947 một binh đoàn hỗn hợp ngược sông Hồng, sông Lô, sông Gâm lên
thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hoá bao vây phía Tây căn cứ Việt Bắc.
7
Trong sách giáo khoa phần lớn các bài đều có các đoạn in nhỏ, in nghiêng. Kiến thức
được thể hiện ở những đoạn này rất quan trọng, là nguồn tư liệu làm nổi bậc nội dung cơ
bản cùa bài. Chính vì vậy giáo viên phải sử dụng triệt để. Nếu nó đề cặp vấn đề khó, phức
tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể chuyện, nếu dễ cho học sinh cùng đọc hoặc một em đọc to
cho cả lớp nghe để các em cảm thụ về các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong đoạn đó.
c. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa để học ở nhà:
Đối với học sinh lớp 9 thì khả năng tự học ở nhà một cách độc lập đã khá cao, giáo
viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt thì đó chính là điều
kiện để tư duy của các em phát triển.
Ví dụ: Khi học bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời” giáo viên
hướng dẫn học sinh làm bài tập ở nhà để nêu rõ sự hình thành và hoạt động cuả ba tổ chức
cách mạng bằng cách lập bảng so sánh.
Tên tổ chức Thời gian thành
lập
Bộ phận lãnh
đạo
Thành phần
tham gia
Chủ trương hoạt
động
2. Sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học lịch sử lớp 9 để phát triển tư duy cho
học sinh.
Để sử dụng tốt các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần lưu ý mấy điểm sau:
- Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng, không quá khó hoặc quá dễ.
- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7câu hỏi. Sau mỗi chương có câu hỏi bài tập.
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa kết hợp với câu hỏi sáng tạo.
a. Nêu câu hỏi đầu giờ học:
Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài cũ. Nhưng
trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh, giáo viên cần nêu câu hỏi định
hướng cho học sinh. Đây là câu hỏi có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động kiến
thức của từng bài. Tuy nhiên khi nêu câu hỏi không cần học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi
giáo viên cung cấp cho các em đầy đủ sự kiện thì các em mới trả lời được.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược” thì đầu giờ học giáo viên đặt câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ: Tại sao lại
khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đến chiến thắng Biên giới thu đông 1950
là một bước phát triển của cuộc kháng chiến? các em chú ý theo dõi bài giảng và sách giáo
khoa để trả lời.
8
b. Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài
học.
Ví dụ: Trong bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945” giáo viên đặt câu hỏi về điều
kiện khách quan và chủ quan (thời cơ) của cách mạng tháng Tám để làm nổi bật nguyên
nhân thắng lợi.
Những kiến thức này được sắp xếp viết vào giấy trong cho vào máy chiếu để học
sinh quan sát tìm ra mối quan hệ giữa chúng.
1- Pháp thua ở chính quốc rồi bị Nhật hất cẳng ở Đông Dương.
2- Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh .
3-Phát xít Nhật bị đồng minh đánh gục.
4- Sự chuẩn bị kiên trì, chu đáo của ta về chính trị, vũ trang.
5- Khả năng tận dụng thời cơ “Ngàn năm có một” của ta.
Như vậy so sánh những kiến thức ở bảng trên thì học sinh sẽ phân biệt được đâu là
điều kiện khách quan, đâu là điều kiện chủ quan. Điều đó giúp các em không những nắm về
kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy.
c. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp.
Câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị từ khi soạn giáo án, dự kiến nêu ra lúc nào?
Học sinh sẽ trả lời ra sao? Đáp án trả lời thế nào? Cần tránh câu hỏi mà các em chỉ cần trả
lời một cách đơn giản là có hay không, đúng hay sai hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh chủ
quan.
Thông thường, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà có thể
nêu các loại câu hỏi sau:
- Câu hỏi về sự phát sinh của các sự kiện, hiện tượng lịch sử như nguyên nhân sâu xa,
nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng đó.
Câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện tượng lịch sử như diễn biến các
cuộc khởi nghĩa, cuộc cách mạng hoặc các cuộc chiến tranh.
- Câu hỏi nêu lên đặc trưng, bản chất các hiện tượng lịch sử bao gồm sự đánh giá và
thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy.
Ví dụ: Em hãy đánh giá vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam.
9
- Câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân thắng lợi (thất bại) và ý nghĩa lịch sử các sự
kiện hiện tượng lịch sử.
- Câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử cùng loại với nhau.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời”có thể cho
học sinh so sánh ba tổ chức cách mạng về tổ chức, hoạt động.
Một điều cần lưu ý là phải động viên, khuyến khích học sinh tham gia trả lời câu hỏi
dưới nhiều hình thức như khen ngợi, đánh giá, cho điểm.
3. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lớp 9.
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác
quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: Tai nghe, mắt thấy tạo
điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học
sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân
tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu.
a. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa.
Hình vẽ tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phần đồ dùng trực quan trong quá
trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông
qua quan sát miêu tả , tranh ảnh học sinh được rèn luyện kĩ năng diễn đạt, lựa chọn ngôn
ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử, giáo viên luyện cho các em thói
quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích
để đi đến các nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài (1919-1925)” giáo
viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang phát biểu ý kiến tại đại
hội Tua (12-1920). Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn
Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lê Nin để truyền bá vào Việt Nam.
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong
tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh, kích thích
trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em.
b. Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa.
Học sinh lớp 9 bậc trung học cơ sở cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh,
chân dung các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát minh khoa
10
học, các nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật, Các em không chỉ chú ý miêu tả bề ngoài mà
còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở tranh ảnh.
Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học sinh,
kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khâm phục, học
tập đạo đức, tài năng của họ.
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung nhân vật lịch sử ra. Khi sử
dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình đánh giá vai trò, tính cách
của nhân vật.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời” khi dạy đến mục “Luận
cương chính trị 10-1930” giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú. Sau đó cho học
sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể cho các em nghe về
tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú -
Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta.
c. Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử:
Bản đồ là phương tiện trực quan sinh động trong dạy học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử
các sự kiện luôn được thể hiện trong một không gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố
địa lí nhất định.
Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời của giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mỹ cho là “Một pháo đào bất khả
xâm phạm” “Một cối xay Việt Minh”. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến
trường Đông Dương 1953-1954, bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác
thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm
trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc Bộ.
Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, nội dung lịch sử biểu diễn trên bản đồ, việc
sử dụng bản đồ lịch sử góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và
ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức về địa lí.
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi
trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử
được thể hiện trên bản đồ.
d. Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử.
11
Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số tranh ảnh,
phần bài học quan trọng giáo viên có thể phô tô hoặc viết vào giấy trong sau đó đưa lên máy
chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu.
Ví dụ: Khi dạy bài Nhật Bản ta phô tô màu một số hình ảnh trong bài như: Tàu chạy
trên điện từ, trồng trọt theo phương pháp mới, và khi dạy đến phần khoa học kĩ thuật minh
hoạ bằng những hình ảnh trên máy chiếu, học sinh sẽ rất thích thú, phấn khởi, ngạc nhiên.
e. Sử dụng bài giảng điện tử.
Đây là phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, học sinh hứng thú học tập , dẫn
dắt các em đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hiệu quả thu được rất cao. Song để
dạy một giờ như vậy phải có sự chuẩn bị rất công phu, phải biết sử dụng phương tiện hiện
đại.
V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nhiều năm vận dụng và phổ biến trong quá trình giảng dạy đã mang lại những kết
quả như sau:
Về phía học sinh , các em cảm thấy ham thích học tập bộ môn , vào lớp hoạt động
tích cực, thảo luận nhóm sôi nổi, làm bài đạt kết quả cao . Chất lượng học tập của học sinh
trong những năm gần đây có thay đổi, tỉ lệ học sinh yếu giảm dần , ngày càng có nhiều học
sinh giỏi vòng huyện, tỉnh .
Đối với giáo viên bộ môn, đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào giảng dạy, đảm bảo
chuẩn kiến thức, kĩ năng, mối tương tác trong hoạt động dạy-học linh hoạt hơn ,Thầy –Trò
ngày càng thân thiện , kết quả giảng dạy ngày càng cao .
Kết quả cụ thể như sau xem phần phụ lục )
Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm
1. Đối với giáo viên bộ môn:
Việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được giáo viên quán triệt một
cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội -
ngoại khoá.
12
Tuy nhiên, để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng
trong phương pháp dạy-học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so
với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học vào
từng bài phài có nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp,
để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn, cần tránh
khuynh hướng “Tách lí thuyết với thực tế”.
Ngoài ra , người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phài
có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học. Bởi vì, phương
pháp dù hay đến mấy nhưng người Thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và
thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy
chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: Có
trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo và đáp
ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp
hoá - hiện đại hoá.
2. Đối với học sinh:
-Học bài và nắm vững kiến thức,thường xuyên nghe đài, theo dõi sách báo để kịp thời
cập nhật kiến thức.
-Tích cực đóng góp ý kiến xây dựng bài để rèn luyện khả năng trình bày, thực hiện đầy
đủ các yêu cầu của giáo viên ở nhà.
-Phải tổ chức học tập theo nhóm để tao điều kiện giúp đỡ nhau trong học tập. hiểu và
nắm được các dạng đề: Trắc nghiệm, tự luận để làm bài có hiệu quả.
-Học sinh cần có tư duy sáng tạo trong học tập,có như thế mới đạt kết quả cao.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài giúp cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, tạo điều kiện
cho giáo viên trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học hiện nay.
Giúp cho học sinh có phương pháp học tập phù hợp nhằm phát triển tư duy sáng tạo,
nắm vững những kiến thức trọng tâm ham thích học tập bộ môn .
III. Khả năng ứng dụng và triển khai
Đề tài ứng dụng cho môn lịch sử lớp 9 ở trường trung học cơ sở
Có khả năng nhân rộng cho môn lịch sử các lớp 6,7,8
13
Các môn giáo dục công dân, địa lý làm tư liệu tham khảo.
V. Những kiến nghị - đề xuất.
Nhà trường cung cấp đầy đủ các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học.
Cần có sự phối hợp tốt ba môi trường giáo dục : Gia đình, nhà trường và xã hội
Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình , theo dõi , động
viên , nhắc nhỡ việc học tập của các em .
Châu Hưng, ngày 10 tháng 01 năm 2011
Người viết
Nguyễn Thị Ngại
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo viên Lịch sử 9
-Sách giáo khoa Lịch sử 9 .
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Lịch sử Trung học cơ sở.
Của Bộ giáo dục và đào tạo – Phan Ngọc Liên và Nguyễn Xuân Trường ( đồng chủ biên)
-Giáo trình Trung cấp lí luận chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản lí luận
chính trị-Năm 2004.
-Phương pháp dạy học lịch sử-Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị (Chủ biên)-Nhà xuất
bản giáo dục -1998.
-Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 9-Môn Lịch sử-Bộ giáo dục và
đào tạo – Năm 2005.
-Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở -
Nguyễn Thị Côi chủ biên –Nhà xuất bản giáo dục.
15
PHỤ LỤC
* Kết quả cụ thể như sau:
- Chất lượng học tập bộ môn qua các năm .
Giỏi Khá T.Bình Yếu Trên TBNăm
học
Khối
lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % SL %
08-09 9 151 79 52,3 31 20,5 41 27,2 151 100
09-10 9 144 44 30.5 44 30,5 53 36,8 3 2,2 141 97,8
10-11
(HK I) 9 132 58 43,9 42 31,8 30 27,2 2 1.5 130 98,5
- Học sinh giỏi vòng Huyện, Tỉnh qua các năm .
Năm 2005-2006 học sinh giỏi vòng huyện 01, vòng tình 01.
Năm 2006-2007 học sinh giỏi vòng huyện 03, vòng tỉnh 01.
Năm 2007-2008 học sinh giỏi vòng huyện 03.
Năm 2008-2009 học sinh giỏi vòng huyện 02, vòng tỉnh 01
Năm 2009-2010 học sinh giỏi vòng huyện 04, vòng tỉnh 02.
16
MỤC LỤC
Phần mở đầu TRANG
I. Bối cảnh của đề tài ……………………………………………………………...01
II. Lí do chọn đề tài ……………………………………………………………….02
III.Phạm vi dối tượng nghiên cứu ………………………………………………...02
IV. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………02
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu …………………………………………...03
Phần nội dung
I. Cơ sở lí luận …………………………………………………………………….03
II. Thực trạng của vấn đề ………………………………………………………….05
III.Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ………………………………05
IV.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………………..11
Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm……………………………………………………...11
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………………….12
III.Khả năng ứng dụng triển khai ………………………………………………….12
IV. Những kiến nghị đề xuất ………………………………………………………13
-Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………14
- Phụ lục…………………………………………………………………………...15
- Mục lục…………………………………………………………………………..16
1
Phần mở đầu
I. Bối cảnh của đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Hơn bao giờ
hết con người đang đứng trước những diễn biến to lớn, phức tạp về lịch sử xã hội và khoa
học kỹ thuật. Nhiều mối quan hệ mâu thuẫn của thời đại cần được giải quyết trong đó có
mâu thuẫn yêu cầu ngành giáo dục đào tạo nói chung và người thầy giáo chúng ta nói riêng
phải giải quyết ngay, đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sức ép của khối lượng tri thức ngày càng
tăng và sự tiếp nhận của con người có giới hạn
Nhiệm vụ trên đây đã đặt ra cho người giáo viên bên cạnh bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn thì phải cải tiến phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục để đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới.
Như chúng ta đã biết, môn lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo
dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự
hào với thành tựu dựng nước và giữ nứoc của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có
thái độ đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai.
Nhưng những nhận thức, quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của khoa học lịch sử
và môn lịch sử trong đời sống xã hội, trong giáo dục đã dẫn tới phương pháp nghiên cứu,
học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh
không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, phổ thông, nhớ sai hoặc nhằm lẫn kiến thức là hiện
tượng khá phổ biến ở nhiều trường học nói chung và trường trung học cơ sở nói riêng. Vì
vậy, hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 2 khoá 8 đã nhấn mạnh: “Đổi mới
mạnh mẽ phương pháp Giáo dục-Đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và
phương pháp hiện đại vào quá trình dạy-học đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh”.
Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích cực của
học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng việc giáo dục phải được tiến hành
trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động
và hành động của bản thân (tư duy và thực tiễn). Vì vậy, việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý
2
chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn luyện phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu cuả
giáo dục.
II. Lý do chọn đề tài
Qua nhiều năm giảng dạy môn lịch sử lớp 9 ở trường trung học cơ sở, đặc biệt là từ khi
thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận thấy đây là vấn đề
bổ ích về lý luận cũng như thực tiễn. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất lượng
bộ môn, bởi vì đối tượng là học sinh lớp 9 thì về mặt thể chất cũng như tinh thần, sự nhận
thức, năng lực tư duy của các em đã phát triển ở mức độ cao hơn các em ở lớp dưới. Nếu
dược khơi dậy đúng mức tính tích cực, sự chủ động trong học tập cũng như các hoạt động
khác không những làm cho các em thu nhận được một lượng tri thức tốt nhất cho bản thân
mà còn là cơ sở vững chắc để các em bước vào bậc trung học phổ thông, nơi mà các em sẽ
phải có năng lực tư duy và ý thức tự học cao hơn.
III. Phạm vi nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có rất nhiều người đề cập đến vấn đề phát huy tính tích cực của
học sinh trong học tập lịch sử từ bậc trung học cơ sở đến đại học. Tuy nhiên những vấn đề
mà các nhà nghiên cứu đưa ra chỉ áp dụng vào một bậc học cụ thể mà ít đi sâu vào một khối
lớp cụ thể. Vì vậy trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ xin lưu ý đến một khía cạnh gắn liền
với việc giảng dạy nhiều năm môn lịch sử, đó là một số biện pháp phát huy tính tích cực của
học sinh lớp 9 với mục đích là góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng
dạy môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng ở trường trung học cơ sở Châu
Hưng nơi tôi đang giảng dạy, đồng thời cũng là trao đổi, học tập kinh nghiệm của các đồng
nghiệp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn cũng như phương pháp dạy học.
IV. Mục đích nghiên cứu
Từ trước đến nay vẫn còn tồn tại một quan niệm sai lầm cho rằng người thầy giáo
giỏi là người có kiến thức uyên bác. Nếu thầy giáo chỉ làm chức năng truyền thụ kiến thức
thì sẽ thực hiện phương châm “ Thầy giáo là trung tâm” học sinh sẽ thụ động tiếp nhận kiến
thức, sẽ học thuộc lòng những gì thầy giáo giảng và cho ghi cũng như trong sách đã viết.
Đó chính là cách giảng dạy giáo điều, nhồi sọ biến giáo viên thành người thuyết trình, giảng
giải và học sinh thụ động tiếp nhận những điều đã nghe, đã đọc. Có nhà giáo dục gọi đó là
cách “Nhai kiến thức rồi mớm cho học sinh”.
3
Chúng ta điều biết rằng việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống nhất
gồm hai khâu có tác dụng tương hổ nhau: Giảng dạy và học tập. Cả việc giảng dạy và học
tập đều là một quá trình nhận thức, tuân theo những quy luật nhận thức.
Nhận thức trong dạy học được thể hiện trong hoạt động của giáo viên và học sinh đối
với việc truyền thụ một nội dung khoa học được quy định trong chương trình với những
phương pháp dạy học thích hợp, những phương tiện hình thứccần thiết để đạt được kết quả
nhất định đã đề ra.
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc phát
huy tính tích cực cuả học sinh trong học tập. Nhà giáo dục người Đức là Disterverg đã
khẳng định đúng đắn rằng: “ Người giáo viên tồi truyền đạt chân lý, người giáo viên giỏi
dạy cách tìm ra chân lý”.
Điều này có nghĩa rằng người giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở
việc đọc cho học sinh ghi chép những kiến thức có sẵn, bắt các em thuộc lòng rồi kiểm tra
điều ghi nhớ của các em thu nhận được ở bài giảng của giáo viên hay trong sách giáo khoa.
Điều quan trọng là giáo viên cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản (bao gồm kiến
thức khoa học, sự hiểu biết về các quy luật, nguyên lý và các phương pháp nhận thức) làm
cơ sở định hướng cho việc khám phá các kiến thức mới, vận dụng vào học tập và cuộc sống.
Vì vậy việc khơi dậy, phát triển tri thức, ý chí, năng lực bồi dưỡng, rèn luyện về học tập là
con đường phát triển tối ưu của giáo dục. Đó chính là con đường lấy học sinh làm trung tâm,
làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn, giáo dục tích cực có hiệu quả của giáo
viên, điều này được thực hiện trên cơ sở hoạt động tích cực, tự giác của học sinh được gọi là
phương pháp dạy học mới để phân biệt với phương pháp dạy học cũ còn gọi là kiểu dạy học
truyền thống.
Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận
Hiện nay có nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tính tích cực của
học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Việc xây dựng cơ sở lý luận là
điều quan trọng trong thực tiễn dạy học bộ môn.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh lớp 9 là lớp cuối bậc trung học cơ sở.
Vì vậy, mục tiêu giáo dục đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản
4
nhất của lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các
em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng
như có những tìm tòi trong tư duy, sáng tạo.
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản. Xin trích dẫn một vài ví dụ của giáo
sư Phan Ngọc Liên để thấy rõ sự khác biệt đó.
KIỂU DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT
HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC
SINH
- Cung cấp nhiều sự kiện được xem là tiêu chí
cho chất lượng giáo dục, nhớ tốt, thuộc lòng.
- Giáo viên là nguồn kiến thức duy nhất phần
lớn thời gian trên lớp dùng cho giáo viên
giảng học sinh chỉ chăm chú nghe và ghi lại
lời giáo viên.
- Việc ghi chép được đơn giản hoá, làm sao
cho dễ nhớ.
- Việc học lý thuyết không gắn với thực hành,
nhất là các môn xã hội
- Cung cấp những kiến thức cơ bản, được
lựa chọn phù hợp với yêu cầu trình độ của
học sinh, nhằm vào mục tiêu đào tạo.
- Ngoài lời giàng của giáo viên trên lớp,
học sinh được tiếp xúc với những nguồn
kiến thức khác: Vốn kiến thức đã học,
kiến thức của bạn bè, trong sách giáo
khoa, tài liệu tham khảo, đồ dùng trực
quan, thực tế cuộc sống.
- Các vấn đề thu nhận ngoài ghi chép còn
được thể hiện ở các bảng biểu, mô hình,
các phương tiện trực quan, giúp học sinh
dễ nhớ, hiểu sâu, nắm chắc các vấn đề
- Việc dạy lý thuyết để nâng cao trình độ
nhận thức của học sinh, làm cơ sở để vận
dụng những kiến thức đã học vào thực
hành, vào cuộc sống, qua đó làm phong
phú kiến thức đã học.
5
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy tính tích
cực của học sinh sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh
phải được “Tích cực hoá” trong quá trình dạy - học, phải chủ động sáng tạo. Cần tiếp thu
những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi
mới, làm cuộc cách mạng trong ngưòi dạy và ngưòi học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động
như: Giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi
lời giảng của giáo viên và kiến thức trong sách khi làm bài kiểm tra.
II. Thực trạng của vấn đề:
Trong vài năm gần đây, bộ môn lịch sử nói chung và môn lịch sử lớp 9 nói riêng
trong trường trong học cơ sở đã được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ
môn lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như: Lí, Hoá và được tổ chức thi tuyển
chọn học sinh giỏi các cấp, được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc dạy và học.
Tuy nhiên, qua hơn 10 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn
lịch sử hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục
tiêu đào tạo đặt ra.
Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất vẫn còn tồn tại quan niệm cố hữu cho rằng môn lịch sử cũng như địa lí, kỹ
thuật, thể dục, giáo dục công dân điều là những môn phụ.
Thứ hai là về cơ sở vật chất phục vụ dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn
còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay.Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến.
Thứ ba là việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh lớp 9 trong học tập bộ
môn lịch sử còn nhiều hạn chế một phần là do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học
môn lịch sử.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:
1. Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát triển tư duy cho học sinh:
- Nguồn kiến thức thu nhận của học sinh rất
hạn hẹp, thường giới hạn ở bài giảng của giáo
viên, sách giáo khoa, phòng thí nghiệm, tài
liệu tham khảo.
- Nguồn kiến thức của học sinh rất phong
phú, đa dạng: Lời nói, tài liệu viết, đồ
dùng trực quan, thực tế cuộc sống. Các
nguồn kiến thức đượcsử dụng phù hợp
với mục đích, yêu cầu, trình độ học tập.
6
a. Sử dụng sách giáo khoa để trình bày bài giảng
Sau khi soạn giáo án xong, cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong sách giáo khoa ,
xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung tinh thần mà tác giả mong muốn ở học
sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng và sau đó đi sâu vào từng mục, tìm ra kiến thức cơ
bản của mục đó, sự liên quan kiến thức đó với kiến thức cơ bản của toàn bài. Mỗi bài có từ 2
đến 3 mục nhưng không nên dàn đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của
từng phần mà phải xác định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm thì dành thời gian
nhiều hơn.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết
thúc (1953-1954)” bài gồm có 4 mục thì mục II là quan trọng nhất, do đó phải đầu tư thời
gian nhiều nhất.
Trong bài dạy thường có các tranh ảnh, bản đồ, nếu không có bản đồ in sẵn thì ta
phải phóng to bản đồ trong sách giáo khoa để phục vụ bài dạy.
Như vậy, sách giáo khoa là điểm tựa để giáo viên xác định kiến thức cơ bản, xác
định các khái niệm cần hình thành cho học sinh, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp với đối tượng, vừa phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh.
b. Sử dụng sách giáo khoa trong quá trình dạy học trên lớp:
Trong giờ học học sinh thường theo dõi bài giảng của giáo viên rồi đối chiếu, so sánh
với sách giáo khoa, thậm chí có những em không thích ghi theo bài giảng của giáo viên mà
lại chép trong sách giáo khoa. Vì vậy bài giảng của giáo viên không nên lặp lại ngôn ngữ
trong sách giáo khoa mà nên diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946-1954) Khi dạy phần IV chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 giáo viên vừa chỉ
bản đồ vừa phân tích:
- Sáng 7-10-1947 thực dân Pháp cho một cánh quân nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ
Mới, Chợ Đồn.
- Một cánh quân từ Lạng Sơn lên Cao Bằng rồi từ Cao Bằng đánh xuiống Bắc cạn tạo
thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.
- Ngày 9-10-1947 một binh đoàn hỗn hợp ngược sông Hồng, sông Lô, sông Gâm lên
thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hoá bao vây phía Tây căn cứ Việt Bắc.
7
Trong sách giáo khoa phần lớn các bài đều có các đoạn in nhỏ, in nghiêng. Kiến thức
được thể hiện ở những đoạn này rất quan trọng, là nguồn tư liệu làm nổi bậc nội dung cơ
bản cùa bài. Chính vì vậy giáo viên phải sử dụng triệt để. Nếu nó đề cặp vấn đề khó, phức
tạp thì giáo viên miêu tả hoặc kể chuyện, nếu dễ cho học sinh cùng đọc hoặc một em đọc to
cho cả lớp nghe để các em cảm thụ về các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong đoạn đó.
c. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa để học ở nhà:
Đối với học sinh lớp 9 thì khả năng tự học ở nhà một cách độc lập đã khá cao, giáo
viên cần giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức với các em. Nếu hoàn thành tốt thì đó chính là điều
kiện để tư duy của các em phát triển.
Ví dụ: Khi học bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời” giáo viên
hướng dẫn học sinh làm bài tập ở nhà để nêu rõ sự hình thành và hoạt động cuả ba tổ chức
cách mạng bằng cách lập bảng so sánh.
Tên tổ chức Thời gian thành
lập
Bộ phận lãnh
đạo
Thành phần
tham gia
Chủ trương hoạt
động
2. Sử dụng hệ thống các câu hỏi trong dạy học lịch sử lớp 9 để phát triển tư duy cho
học sinh.
Để sử dụng tốt các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần lưu ý mấy điểm sau:
- Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng, không quá khó hoặc quá dễ.
- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7câu hỏi. Sau mỗi chương có câu hỏi bài tập.
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa kết hợp với câu hỏi sáng tạo.
a. Nêu câu hỏi đầu giờ học:
Đầu giờ học giáo viên có thể kiểm tra hay không kiểm tra kiến thức bài cũ. Nhưng
trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh, giáo viên cần nêu câu hỏi định
hướng cho học sinh. Đây là câu hỏi có tính chất bài tập, muốn trả lời phải huy động kiến
thức của từng bài. Tuy nhiên khi nêu câu hỏi không cần học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi
giáo viên cung cấp cho các em đầy đủ sự kiện thì các em mới trả lời được.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược” thì đầu giờ học giáo viên đặt câu hỏi cho cả lớp suy nghĩ: Tại sao lại
khẳng định từ chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 đến chiến thắng Biên giới thu đông 1950
là một bước phát triển của cuộc kháng chiến? các em chú ý theo dõi bài giảng và sách giáo
khoa để trả lời.
8
b. Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong bài
học.
Ví dụ: Trong bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945” giáo viên đặt câu hỏi về điều
kiện khách quan và chủ quan (thời cơ) của cách mạng tháng Tám để làm nổi bật nguyên
nhân thắng lợi.
Những kiến thức này được sắp xếp viết vào giấy trong cho vào máy chiếu để học
sinh quan sát tìm ra mối quan hệ giữa chúng.
1- Pháp thua ở chính quốc rồi bị Nhật hất cẳng ở Đông Dương.
2- Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh .
3-Phát xít Nhật bị đồng minh đánh gục.
4- Sự chuẩn bị kiên trì, chu đáo của ta về chính trị, vũ trang.
5- Khả năng tận dụng thời cơ “Ngàn năm có một” của ta.
Như vậy so sánh những kiến thức ở bảng trên thì học sinh sẽ phân biệt được đâu là
điều kiện khách quan, đâu là điều kiện chủ quan. Điều đó giúp các em không những nắm về
kiến thức mà còn có tác dụng giáo dục, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, phát triển tư duy.
c. Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp.
Câu hỏi phải được giáo viên chuẩn bị từ khi soạn giáo án, dự kiến nêu ra lúc nào?
Học sinh sẽ trả lời ra sao? Đáp án trả lời thế nào? Cần tránh câu hỏi mà các em chỉ cần trả
lời một cách đơn giản là có hay không, đúng hay sai hoặc câu hỏi quá dễ làm học sinh chủ
quan.
Thông thường, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà có thể
nêu các loại câu hỏi sau:
- Câu hỏi về sự phát sinh của các sự kiện, hiện tượng lịch sử như nguyên nhân sâu xa,
nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh lịch sử của sự kiện, hiện tượng đó.
Câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện, hiện tượng lịch sử như diễn biến các
cuộc khởi nghĩa, cuộc cách mạng hoặc các cuộc chiến tranh.
- Câu hỏi nêu lên đặc trưng, bản chất các hiện tượng lịch sử bao gồm sự đánh giá và
thái độ của học sinh đối với các hiện tượng lịch sử ấy.
Ví dụ: Em hãy đánh giá vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam.
9
- Câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân thắng lợi (thất bại) và ý nghĩa lịch sử các sự
kiện hiện tượng lịch sử.
- Câu hỏi đối chiếu, so sánh giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử cùng loại với nhau.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng cộng sản ra đời”có thể cho
học sinh so sánh ba tổ chức cách mạng về tổ chức, hoạt động.
Một điều cần lưu ý là phải động viên, khuyến khích học sinh tham gia trả lời câu hỏi
dưới nhiều hình thức như khen ngợi, đánh giá, cho điểm.
3. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử lớp 9.
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác
quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: Tai nghe, mắt thấy tạo
điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học
sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân
tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu.
a. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa.
Hình vẽ tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phần đồ dùng trực quan trong quá
trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng. Thông
qua quan sát miêu tả , tranh ảnh học sinh được rèn luyện kĩ năng diễn đạt, lựa chọn ngôn
ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử, giáo viên luyện cho các em thói
quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa học, có xem xét, phân tích, giải thích
để đi đến các nét khái quát rút ra những kết luận lịch sử.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài (1919-1925)” giáo
viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang phát biểu ý kiến tại đại
hội Tua (12-1920). Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh cảm nhận được việc Nguyễn
Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lê Nin để truyền bá vào Việt Nam.
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện trong
tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho học sinh, kích thích
trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em.
b. Sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa.
Học sinh lớp 9 bậc trung học cơ sở cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh,
chân dung các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát minh khoa
10
học, các nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật, Các em không chỉ chú ý miêu tả bề ngoài mà
còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở tranh ảnh.
Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học sinh,
kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em khâm phục, học
tập đạo đức, tài năng của họ.
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung nhân vật lịch sử ra. Khi sử
dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình đánh giá vai trò, tính cách
của nhân vật.
Ví dụ: Khi dạy bài: “ Đảng cộng sản Việt Nam ra đời” khi dạy đến mục “Luận
cương chính trị 10-1930” giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần Phú. Sau đó cho học
sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này, giáo viên kể cho các em nghe về
tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú -
Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta.
c. Sử dụng bản đồ trong dạy học lịch sử:
Bản đồ là phương tiện trực quan sinh động trong dạy học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử
các sự kiện luôn được thể hiện trong một không gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố
địa lí nhất định.
Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời của giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mỹ cho là “Một pháo đào bất khả
xâm phạm” “Một cối xay Việt Minh”. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến
trường Đông Dương 1953-1954, bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác
thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm
trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc Bộ.
Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, nội dung lịch sử biểu diễn trên bản đồ, việc
sử dụng bản đồ lịch sử góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và
ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức về địa lí.
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi
trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử
được thể hiện trên bản đồ.
d. Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử.
11
Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số tranh ảnh,
phần bài học quan trọng giáo viên có thể phô tô hoặc viết vào giấy trong sau đó đưa lên máy
chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học trên máy chiếu.
Ví dụ: Khi dạy bài Nhật Bản ta phô tô màu một số hình ảnh trong bài như: Tàu chạy
trên điện từ, trồng trọt theo phương pháp mới, và khi dạy đến phần khoa học kĩ thuật minh
hoạ bằng những hình ảnh trên máy chiếu, học sinh sẽ rất thích thú, phấn khởi, ngạc nhiên.
e. Sử dụng bài giảng điện tử.
Đây là phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, học sinh hứng thú học tập , dẫn
dắt các em đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hiệu quả thu được rất cao. Song để
dạy một giờ như vậy phải có sự chuẩn bị rất công phu, phải biết sử dụng phương tiện hiện
đại.
V. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nhiều năm vận dụng và phổ biến trong quá trình giảng dạy đã mang lại những kết
quả như sau:
Về phía học sinh , các em cảm thấy ham thích học tập bộ môn , vào lớp hoạt động
tích cực, thảo luận nhóm sôi nổi, làm bài đạt kết quả cao . Chất lượng học tập của học sinh
trong những năm gần đây có thay đổi, tỉ lệ học sinh yếu giảm dần , ngày càng có nhiều học
sinh giỏi vòng huyện, tỉnh .
Đối với giáo viên bộ môn, đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào giảng dạy, đảm bảo
chuẩn kiến thức, kĩ năng, mối tương tác trong hoạt động dạy-học linh hoạt hơn ,Thầy –Trò
ngày càng thân thiện , kết quả giảng dạy ngày càng cao .
Kết quả cụ thể như sau xem phần phụ lục )
Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm
1. Đối với giáo viên bộ môn:
Việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở là một việc làm rất quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được giáo viên quán triệt một
cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội -
ngoại khoá.
12
Tuy nhiên, để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng
trong phương pháp dạy-học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so
với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học vào
từng bài phài có nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp,
để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn, cần tránh
khuynh hướng “Tách lí thuyết với thực tế”.
Ngoài ra , người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phài
có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học. Bởi vì, phương
pháp dù hay đến mấy nhưng người Thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và
thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy
chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ nước nhà: Có
trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ, thông minh sáng tạo và đáp
ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp
hoá - hiện đại hoá.
2. Đối với học sinh:
-Học bài và nắm vững kiến thức,thường xuyên nghe đài, theo dõi sách báo để kịp thời
cập nhật kiến thức.
-Tích cực đóng góp ý kiến xây dựng bài để rèn luyện khả năng trình bày, thực hiện đầy
đủ các yêu cầu của giáo viên ở nhà.
-Phải tổ chức học tập theo nhóm để tao điều kiện giúp đỡ nhau trong học tập. hiểu và
nắm được các dạng đề: Trắc nghiệm, tự luận để làm bài có hiệu quả.
-Học sinh cần có tư duy sáng tạo trong học tập,có như thế mới đạt kết quả cao.
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài giúp cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, tạo điều kiện
cho giáo viên trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là việc ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy học hiện nay.
Giúp cho học sinh có phương pháp học tập phù hợp nhằm phát triển tư duy sáng tạo,
nắm vững những kiến thức trọng tâm ham thích học tập bộ môn .
III. Khả năng ứng dụng và triển khai
Đề tài ứng dụng cho môn lịch sử lớp 9 ở trường trung học cơ sở
Có khả năng nhân rộng cho môn lịch sử các lớp 6,7,8
13
Các môn giáo dục công dân, địa lý làm tư liệu tham khảo.
V. Những kiến nghị - đề xuất.
Nhà trường cung cấp đầy đủ các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học.
Cần có sự phối hợp tốt ba môi trường giáo dục : Gia đình, nhà trường và xã hội
Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình , theo dõi , động
viên , nhắc nhỡ việc học tập của các em .
Châu Hưng, ngày 10 tháng 01 năm 2011
Người viết
Nguyễn Thị Ngại
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo viên Lịch sử 9
-Sách giáo khoa Lịch sử 9 .
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Lịch sử Trung học cơ sở.
Của Bộ giáo dục và đào tạo – Phan Ngọc Liên và Nguyễn Xuân Trường ( đồng chủ biên)
-Giáo trình Trung cấp lí luận chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhà xuất bản lí luận
chính trị-Năm 2004.
-Phương pháp dạy học lịch sử-Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị (Chủ biên)-Nhà xuất
bản giáo dục -1998.
-Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa lớp 9-Môn Lịch sử-Bộ giáo dục và
đào tạo – Năm 2005.
-Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ sở -
Nguyễn Thị Côi chủ biên –Nhà xuất bản giáo dục.
15
PHỤ LỤC
* Kết quả cụ thể như sau:
- Chất lượng học tập bộ môn qua các năm .
Giỏi Khá T.Bình Yếu Trên TBNăm
học
Khối
lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % SL %
08-09 9 151 79 52,3 31 20,5 41 27,2 151 100
09-10 9 144 44 30.5 44 30,5 53 36,8 3 2,2 141 97,8
10-11
(HK I) 9 132 58 43,9 42 31,8 30 27,2 2 1.5 130 98,5
- Học sinh giỏi vòng Huyện, Tỉnh qua các năm .
Năm 2005-2006 học sinh giỏi vòng huyện 01, vòng tình 01.
Năm 2006-2007 học sinh giỏi vòng huyện 03, vòng tỉnh 01.
Năm 2007-2008 học sinh giỏi vòng huyện 03.
Năm 2008-2009 học sinh giỏi vòng huyện 02, vòng tỉnh 01
Năm 2009-2010 học sinh giỏi vòng huyện 04, vòng tỉnh 02.
16
MỤC LỤC
Phần mở đầu TRANG
I. Bối cảnh của đề tài ……………………………………………………………...01
II. Lí do chọn đề tài ……………………………………………………………….02
III.Phạm vi dối tượng nghiên cứu ………………………………………………...02
IV. Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………02
V. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu …………………………………………...03
Phần nội dung
I. Cơ sở lí luận …………………………………………………………………….03
II. Thực trạng của vấn đề ………………………………………………………….05
III.Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề ………………………………05
IV.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………………..11
Phần kết luận
I. Những bài học kinh nghiệm……………………………………………………...11
II. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm …………………………………………….12
III.Khả năng ứng dụng triển khai ………………………………………………….12
IV. Những kiến nghị đề xuất ………………………………………………………13
-Tài liệu tham khảo ………………………………………………………………14
- Phụ lục…………………………………………………………………………...15
- Mục lục…………………………………………………………………………..16