- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,007
- Điểm
- 113
tác giả
TÀI LIỆU Ôn tập ngữ văn 9 thi vào lớp 10 THEO CHUYÊN ĐỀ được soạn dưới dạng file word gồm 432 trang. Các bạn xem và tải ôn tập ngữ văn 9 thi vào lớp 10, đề cương ôn tập ngữ văn 9 thi vào 10 .. về ở dưới.
I) KIẾN THỨC CƠ BẢN
II) Đọc – hiểu văn bản:
Dàn ý :
- Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI.
Với tập truyện ngắn “Truyền kì mạn lục” ông thực sự đã mang đến cho nền
“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập sáng tác này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.
Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
“giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha. => Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
Ngày Trương Sinh trở vể cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Nàng đau khổ đến xé lòng “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa…” Bi kịch dâng tràn đến đỉnh điểm, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình! Còn gì đớn đau, còn gì bi thương hơn thế???...
Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “ con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “ nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải luôn chịu đựng sự xét nét “ phòng ngừa quá sức” của chồng.
Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên trong số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói Sớm lại chiều dòi dõi nương song Nương song luống ngẩn ngơ lòng Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai
(Chinh phụ ngâm khúc)
Rồi gánh nặng gia đình chồng cộng thêm noi cô đơn vì phòng không gối chiếc đã bào mòn tuổi xuân của Vũ Nương. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ:
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”
Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh như thế!
Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủycung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
Về giá trị hiện thực,tác phẩm đã đề cập tới số phận bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vốn là người con gái xuất thân từ tầng lớp bình dân thuỳ mị, nết na ; tư dung tốt đẹp. Khi chồng đi lính. Vũ Nương một mình vừa chăm sóc, thuốc thang ma chay cho mẹ chồng vừa nuôi con, đảm đang, tận tình, chu đáo. Để rồi khi chàng Trương trở về, chỉ vì câu nói ngây thơ của bé Đản mà trương Sinh đã nghi ngờ lòng thuỷ chung của vợ. Từ chỗ nói bóng gió xa xô i, rồi mắng chửi, hắt hủi và cuối cùng là đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà, Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng quẫn và bế tắc, phải chọn cái chết để tự minh oan cho mình.
Ngoài ra, truyện còn phản ánh hiện thực về xã hội phong kiến Việt Nam với những biểu hiện bất công vô lí. Đó là một xã hội dung túng cho quan niệm trọng nam khinh nữ, để cho Trương Sinh – một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục nết na.
+ Xét trong quan hệ gia đình, thái độ và hành động của Trương Sinh chỉ là sự ghen tuông mù quáng, thiếu căn cứ (chỉ dựa vào câu nói vô tình của đứa con ba tuổi, bỏ ngoài tai mọi lời thanh minh của vợ và lời can ngăn của hàng xóm).
+ Nhưng xét trong quan hệ xã hội : hành động ghen tuông của Trương Sinh không phải là một trạng thái tâm lí bột phát trong cơn nóng giận bất thường mà là hệ quả của một loại tính cách – sản phẩm của xã hội đương thời.
Tuy nhiên, nếu Trương Sinh là thủ phạm trực tiếp gây nên cái chết của Vũ Nương thì nguyên nhân sâu xa là do chính xã hội phong kiến bất công – xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ cho giá trị nhân phẩm của mình, và lời buộc tội, gỡ tội cho người phụ nữ bất hạnh ấy lại phụ thuộc vào những câu nói ngây thơ của đứa trẻ ba tuổi (lời bé Đản). Đó là chưa kể tới một nguyên nhân khác nữa : do chiến tranh phong kiến – dù không được miêu tả trực tiếp, nhưng cuộc chiến tranh ấy đã tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới số phận từng nhân vật trong tác phẩm (người mẹ sầu nhớ con mà chết; Vũ Nương và Trương Sinh phải sống cảnh chia lìa; bé Đản sinh ra đã thiếu thốn tình cảm của người cha và khi cha trở về thì mất mẹ ). Đây là một câu chuyện diễn ra đầu thế kỉ XV (cuộc chiến tranh xảy ra thời nhà Hồ) được truyền tụng trong dân gian, nhưng phải chăng qua đó, tác phẩm còn ngầm phê phán cuộc nội chiến đẫm máu trong xã hội đương thời (thế kỉ XVI).
Văn học là một hoạt động sáng tạo của con người nhằm khám phá và khẳng định những giá trị của đời sống, nhằm vươn tới những điều tốt đẹp và hoàn thiện của con người và cuộc đời. Tư tưởng nhân đạo thường là một tư tưởng lớn thấm nhuần trong những nền văn học tiến bộ, trong những tác phẩm văn học ưu tú.
Nói tới tư tưởng nhân đạo là nói tới thái độ của nhà văn trong cách khám phá đời sống và con người . Nhà văn đã nhìn thấy những bất công, nghịch cảnh, nghịch lí đối với con người và thủ phạm của nó; nhà văn thể hiện sự quan tâm, niềm cảm thương sâu sắc đối với những con người phải chịu áp bức,khổ đau, thiệt thòi; thể hiện thái độ căm ghét, lên án, tố cáo những cái xấu, cái ác. Quan trọng hơn, nhà văn khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người, thể hiện niềm tin vào cái đẹp, vào công lí, hướng tới những giải pháp đem lại hạnh phúc cho con người…
Giá trị nhân đạo thường không tách rời giá trị hiện thực( phải khổ người ta mới thương; phải bất công, ngang trái người ta mới lên án, tố cáo) và luôn được làm sáng rõ, thuyết phục trong những tìm tòi, sáng tạo về nghệ thuật.
Thể hiện niềm tin vào điều tốt đẹp: Đề cao giá trị nhân nghĩa “ở hiền gặp lành” qua kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân.
Qua số phận nhiều thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến có nhiều bất công ( Bi kịch của Vũ Nương ):
+ Cất lên tiếng nói tố cáo xã hội đã chà đạp lên quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người.
+ Thể hiện niềm cảm thông, thương xót cho số phận oan trái.
Miêu tả tính cách nhân vật một cách sắc sảo, già dặn. Nhân vật Vũ Nương hiện lên rõ nét cả về đức tính và thân phận. Việc nàng trỏ cái cái bóng nói là chồng để dỗ con, cái chết của nàng và việc nàng trở về trên sông… tuy không nhiều chi tiết nhưng đủ gây ấn tượng về một Vũ Nương chung thủy, tiết liệt nhưng vị tha… Nhân vật Trương Sinh cũng được khắc họa khá điển hình với tính ghen tuông và gia trưởng đến mức hồ đồ…
Việc vận dụng linh hoạt các loại hình ngôn ngữ: đối thoại, độc thoại cùng sự kết hợp nhuần nguyễn giữa yếu tố thực và kỳ ảo cũng góp phần làm nên thành công cho tác phẩm, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
III. LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1.
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“ Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, tính tình đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải bất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con hào phú nhưng không có học, nên phải ghi trong sổ lính vào loại đầu”.
Câu 1: Cho biết tên văn bản, tác giả có chứa đoạn trích trên?
Câu 2: Đoạn trích trên được viết theo phương thức biểu đạt nào?
Câu 3: Nội dung tổng quát của đoạn trích trên là gì?
Câu 4: Giải thích cụm từ “tư dung tốt đẹp” và từ “dung hạnh” được sử dụng trong hai câu đầu đoạn trích.
Câu 5: Em hãy nêu ra phương thức liên kết trong đoạn văn trên?
Câu 6: Tìm thành phần biệt lập được sử dụng trong đoạn trích trên?
Câu 2: Đoạn trích trên được viết theo phương thức tự sự.
Câu 3: Nội dung chính: giới thiệu về nhân vật Vũ Nương - người con gái đẹp người đẹp nết được Trương Sinh, con nhà hào phú, cưới về làm vợ.
Câu 4: Tư dung tốt đẹp: nhan sắc và dáng vẻ tốt đẹp.
- Dung hạnh: chỉ nhan sắc và đức hạnh.
Ý nói Vũ Nương là người con gái không chỉ đẹp về ngoại hình, dung nhan mà còn đức hạnh.
Câu 5: Phương thức liên kết trong đoạn văn trên: phép nối, phép lặp, phép thế.
- Phép nối: từ ngữ để nối “song”.
- Phép thế: từ “nàng”, “vợ” thế cho từ “Vũ Nương”.
- Phép lặp: từ “Trương Sinh”.
Câu 6: Thành phần biệt lập: thành phần phụ chú (người con gái quê ở Nam Xương), nhằm bổ sung thông tin về quê quán cho nhân vật được
Bài tập2 :Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa.
( Chuyện người con gái Nam Xương- Nguyễn Dữ)
Câu 1: Vũ Nương nói câu nói trên trong hoàn cảnh nào?
Câu 2: Cụm từ “thú vui nghi gia nghi thất” có nghĩa là gì?
Câu 3: Nêu hàm ý của câu “Nay đã bình rơi trâm gãy… Vọng Phu kia nữa.”
Câu 4: Chỉ ra phép tu từ được sử dụng trong đoạn văn trên, nêu tác dụng?
Câu 5: Viết đoạn văn quy nạp (khoảng 10 câu - 12 câu) có sử dụng phép lặp và một câu có thành phần biệt lập, cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong cả 2 đoạn trích trên.
Câu 2: Thú vui nghi gia nghi thất: ý nói nên cửa nên nhà, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình.
Câu 3: Vũ Nương đau khổ tới tột cùng vì hạnh phúc lứa đôi tan vỡ, ngay cả việc chờ đợi chồng, trông ngóng chồng như trước kia cũng không thể. Vũ Nương thất vọng khi bị Trương Sinh ruồng bỏ, tình vợ chồng gắn bó bấy lâu tan vỡ.
Câu 4: Trong câu nói của Vũ Nương có nhiều hình ảnh mang tính ẩn dụ:
+ Bình gãy trâm tan.
+ Sen rũ trong ao.
+ Liễu tàn trước gió.
+ Kêu xuân cái én lìa đàn.
+ Nước thẳm buồm xa.
- Chọn phân tích hình ảnh ẩn dụ “trâm gãy bình tan” hình ảnh của sự chia lìa, tan vỡ, mượn hình ảnh trâm gãy, bình tan để nói về hiện trạng tình vợ chồng của Vũ Nương nay đã tan vỡ.
Câu 5:
Vũ Nương, người con gái đức hạnh, luôn giữ gìn khuôn phép dù Trương Sinh có đa nghi và phòng ngừa quá sức thì gia đình vẫn chưa bao giờ xảy ra tranh chấp, bất hòa. Khi chiến tranh nổ ra, chồng nàng phải ra trận, Vũ Nương tiễn chồng ra trận vẫn ân cần dặn dò chồng những lời ân tình, mong ngày về chồng mang theo hai chữ bình an. Ở nhà, nàng một mực giữ tiết, chăm sóc chu toàn gia đình, những mong sớm có ngày đoàn tụ với chồng. Nào đâu, sóng gió ập tới, lời nói ngây thơ của đứa con bé bỏng đã khiến tính đa nghi của chồng nàng nổi dậy. Bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, nàng nói tới thân phận của mình và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng nhưng mối nghi ngờ ở Trương Sinh vẫn khôn nguôi. Không còn lại gì, lòng nàng dâng trào nỗi thất vọng tột cùng, nỗi đau đớn ê chề bởi hạnh phúc gia đình không có cách nào hàn gắn nổi. Nỗi oan khuất trời không thấu, khiến mọi sự chịu đựng, hy sinh trước đó đều vô nghĩa. Nàng giải thích trong sự bất lực và tuyệt vọng đắng cay trước sự đối xử nhẫn tâm của chồng.
Bài tập 3.Đọc kĩ phần văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“ Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt mà biến đi mất.”
( Theo sách Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2018)
Câu 1 ( 0,5 điểm) Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Do ai sáng tác?
Câu 2 ( 0,5 điểm) Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên và chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫn gián tiếp.
Câu 3 ( 0,5 điểm) Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người như thế nào?
Câu 4 ( 1,5 điểm) Có ý kiến cho rằng nếu nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc với chồng con thì kết truyện sẽ trọn vẹn hơn. Nêu suy nghĩ của em về vấn đề này (Nêu ngắn gọn không phân tích)
Gợi ý:
1. Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”.
Tác giả: Nguyễn Dữ.
2.
- Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa."
- Chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫn gián tiếp:
Chàng vội gọi, nàng vẫn dứng giữa dòng mà nói vọng vào rằng nàng cảm ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết không bỏ. Nàng đa tạ tình chàng nhưng nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa".
3. Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người
- Vũ Nương là người sống nặng nghĩa nặng tình, luôn biết ơn người đã có công giúp mình, sống có trước có sau(với Linh Phi)
- Nàng cũng là người bao dung nhận hậu (hiểu tấm lòng, ghi nhận sự ân hận của Trương Sinh)
=> Đó là một người phụ nữ tốt đẹp đáng được trân trọng, ngợi ca
4.
- Về ý kiến được nêu trong đề: Để Vũ Nương trở lại trần gian sông hạnh phúc bên chồng con là cách kết thúc quen thuộc trong truyện dân gian thể hiện mong ước ở hiền gặp lành, người tốt được đáp dền xứng đáng. ....
-> Cách kết thúc đó cũng có thể chấp nhận được. vì không trái với tinh thần truyện.
- Tuy nhiên, cách kết thúc câu chuyện của Nguyễn Dữ mang lại những ý nghĩa sâu xa hơn:
+ Kết thúc đó phần nào vẫn thể hiện được quan niệm của người xưa: người tốt đẹp như Vũ Nương đã được trở về trần gian để giải oan, khẳng định sự trong sạch, thủy chung.
+ Tính bi kịch của truyện : Khi xã hội phong kiến còn tồn tại bao bất công ngang trái, chiến tranh phi nghĩa vẫn còn Vũ Nương có trở lại thì hạnh phúc của nàng cũng khó bền lâu. Xã hội đó không cho những người như Vũ Nương cơ hội hạnh phúc.
+ Đồng thời thể hiện niềm thương cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa
( Chấp nhận cách diễn đạt linh hoạt của học sinh chỉ cần đảm bảo ý chính
Bài tập 4.Câu hỏi: Theo em, những lí do nào đã dẫn đến bi kịch oan khuất mà VũNương phải chịu?
=> Gợi ý:
– Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hết là lời nói ngây thơ của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hắt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ. (Trực tiếp)
– Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bản tính anh ta vốn vậy và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả một chế độ nắm quyền trọng nam khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phảingẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực làthượng đế có thể “nặn” ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. (Gián tiếp)
– Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên.(Gián tiếp)
– Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh – Mạc, Lê – Trịnh kéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tốcáo của tác phẩm
Bài tập 5. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
a. Cách kể chuyện:
– Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
– Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:
– Bé Đản ngây thơ
– Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
– Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc của người phụ nữ vốn đã hết sức mong manh. Hãy viết đoạn văn nêu ý nghĩa của chi tiết “cái bóng”?
Tham khảo đoạn văn sau:
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, chi tiết cái bóng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cách kể chuyện(1). “Cái bóng” có ý nghĩa thắt nút và mở nút câu chuyện (2). Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng tình cảm của người cha, nên hàng đêm Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha nó(3). “Cái bóng” đã nói lên tình yêu sâu nặng mà nàng dành chồng, bởi nàng coi mình là hình còn chồng là bóng, gắn bó không rời dù xa vời cách trở! (4). “Cái bóng” còn là tấm lòng của người mẹ, nhắc nhở con về người cha nó chưa từng gặp mặt(5). Ngờ đâu, lòng thủy chung và sự hi sinh âm thầm của nàng lại phải trả giá bằng cái chết bi thảm(6). Bé Đản mới ba tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp nên đã tin là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng nín thít và không bao giờ bế nó nên khi Trương Sinh hỏi đã trả lời: “Thế ông cũng là cha tôi ư?”(7). Lời nói của bé Đản về người cha khác (chính là cái bóng) đã làm nảy sinh sự nghi ngờ vợ không chung thủy, nảy sinh thái độ ghen tuông của Trương Sinh và chàng lấy đó làm bằng chứng để về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương đi, đẩy nàng đến cái chết đầy oan ức(8). Ngòi bút nhà văn xót xa đau đớn, thể hiện sâu sắc trái tim nhân đạo của ông(9). Chung với tấm lòng dân gian, Nguyễn Dữ đau cùng nàng Vũ Nương tội nghiệp, bất hạnh: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”….”(10). Bao nhiêu là đau đớn trong lời kêu than của Vũ Nương!(11).“Cái bóng” cũng là chi tiết mở nút câu chuyện(12). Chàng Trương sau này hiểu ra nỗi oan của vợ cũng chính là nhờ cái bóng của mình trên tường(13). Bao nhiêu nhiêu nghi ngờ, oan ức của Vũ Nương đều được hóa giải nhờ “cái bóng”(14). Chính cách thắt, mở nút câu chuyện bằng chi tiết “cái bóng” đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức; giá trị tố cáo xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc, càng thêm sâu sắc hơn(15).
Bài tập 6. Đọc kĩ phần văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳngthể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt mà biến đi mất.
(Theo sách Ngữ văn 9, tập 1, trang 48, NXB Giáo dục, 2014)
1. Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Do ai sáng tác?
2. Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên và chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫngián tiếp.
3. Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người như thế nào?
4. Có ý kiến cho rằng nếu nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc với chồng con thìkết truyện sẽ trọn vẹn hơn. Hãy trình bày suy nghĩ của em về vấn đề này bằng một đoạn văn tổng hợp - phân tích - tổng hợp khoảng 12-15 câu.Trong đoạn có một câu ghép và một câuchứa thành phần khởi ngữ (yêu cầu gạch chân, chú thích rõ).
GỢI Ý
Bài tập 7.
Câu 1: Cho đoạn trích và thực hiện yêu cầu:
“Chàng tuy giận là nàng thất tiết … nhưng việc chót đã qua rồi!”.
a) Thuộc văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”, tác giả Nguyễn Dữ.
b) Xác định các phép liên kết và phương tiện liên kết được sử dụng trong đoạn trích trên.
- Phép lặp: chàng, nàng.
- Phép thế: nó, bấy giờ.
c) Chi tiết nào trong đoạn trích là quan trọng nhất? Nêu ý nghĩa chi tiết đó?
- Chi tiết quan trọng nhất trong đoạn trích là chi tiết cái bóng.
- Ý ý nghĩa chi tiết đó:
+ Tạo nên cách thắt nút, mở nút hết sức bất ngờ, hấp dẫn.
+ Là biểu tượng của tình yêu thương, lòng chung thủy, là nguyên nhân trực tiếp của nỗi oan khuất, cái chết bi thảm của nhân vật Vũ Nương.
+ Làm nên sự hối hận của Trương Sinh và giải oan cho Vũ Nương.
+ Làm tăng giá trị tố cáo xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công với người phụ nữ.
Câu 2: Dựa vào những từ ngữ gạch chân, em hãy cho biết lời nói của nhân vật Vũ Nương sau đây liên quan đến phương châm hội thoại nào?
“Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trờ về nhân gian được nữa.”
⟶ Lời nói của Vũ Nương liên quan đến phương châm lịch sự.
Câu 3: Cho đoạn văn sau: “Chàng bèn theo lời … biến đi mất”.
a) Xác định phương thức biểu đạt chính.
⟶ Phương thức tự sự.
b) Trong đoạn văn trên lời thoại của nhân vật được tác giả sử dụng cách dẫn nào?
⟶ Trực tiếp.
c) Tìm từ Hán Việt trong các từ sau: đa tạ, loang loáng, sống chết, nhân gian.
⟶ Từ Hán Việt: đa tạ, nhân gian.
Câu 4: Ý nghĩa của các yếu tố kì ảo trong “Chuyện người con gái Nam Xương”.
- Các yếu tố kì ảo:
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương – người cùng làng đã chết, được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế.
+ Hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với kiệu hoa, võng lọng … lúc ẩn, lúc hiện rồi bóng Vũ Nương mờ nhạt dần rồi biến mất.
- Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo:
+ Làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương – một con người dù đã ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự.
+ Tạo nên cách kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời – người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được minh oan.
+ Tình tiết Vũ Nương trở lại dương thế: Hạnh phúc dương thế của những con người như Vũ Nương khao khát chỉ là ảo ảnh thoáng chốc, khó lòng tìm thấy được. Điều đó khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
V. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Bài tập 1 :Đề bài: Phân tích nhân vật của VN trong tác phẩm Chuyện người con gái của Nam Xương của Nguyễn Dữ
Phân tích đề:
- Thể loại: Nghị luận về một nhân vật văn học.
- Phạm vi kiến thức: Tác phẩm Chuyện người con gái của Nam Xương của Nguyễn Dữ
Dàn ý:
1, Mở bài
- ND là nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ XVI với tác phẩm Truyền kì mạn lục, trong đó Chuyện người con gái của Nam Xương là một trong những truyện tiêu biểu.
- Truyện viết về nàng Vũ Nương, một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại có số phận bất hạnh khổ đau.
2, Thân bài
* Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
- Ngay từ đầu truyện Vũ Nương đã được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người đẹp nết “ tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.
- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “ tam tòng, tứ đức”, “ công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ bề ngoài của nàng mà TS đã xin mẹ “ đem 100 lạng vàng cưới về:. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nagf.
-> Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hạo với nhứng nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến.
Song có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chunga ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:
Luận cứ 1: Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.
* - Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi” , “ phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng bất hòa.
-> Nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình, người phụ nữ đức hạnh. Qua đây ta thấy đã hé lộ mâu thuẫn tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo.
* Khi xa chồng:
- Vũ Nương là người vợ thủy chung yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “ mpooix khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “ thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.
- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên choingf như hình với bóng: Dỗ con, nagf chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha Đản.
- Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “ Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
-> Qua taam trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Du vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh.
* Khi bị chồng nghi oan:
- Nàng hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình:
+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “ Thiếp con kẻ khó được nâng tựa nhà giau”
+ Thiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “ Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.
+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan : “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”
-> Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những lời nói thiết tha đó, nó còn cho ta thấy thái độ trân trọng chồng và gia đình nhà chồng của nàng.
- Khi không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng:
+ Hạnh phúc gia đình, “ thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khát khao và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.
+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió.”
+ Đến nỗi đau chờ chồng dến hóa đá của “ cổ nhân” nagf cũng không có được: “ đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
-> Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của người vợ trẻ giờ đã không còn có ý nghĩa.
- Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại.
+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.
-> Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh, phẩm gí còn cao hơn sự sống.
* Những năm tháng sống dưới thủy cung
- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát đươ cj đoàn tụ.
+ Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng.
+ Nghe Phan lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương.
- Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với TS lập đàn giải oan cho mình.
- Nàng là người trọng tình , trong nghĩa: Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.
-> Với vai trò là một người vợ, VN là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha.
Luận cứ 2: Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là người con dâu hiếu thảo.
- Vũ Nương đã thay TS làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “ Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn”.
- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo đối với cha mẹ đẻ mình.
- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “ Xanh kia quyết chẳng phụ nàng cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
=> “Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi” là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến xua. Song lời cảm tạ , động viên của bà mẹ đã cho ta thấy VN là một người con dâu hiếu thảo. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.
Luận cứ 3: Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết mực.
- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn.
- Không chỉ trong vai trò là một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn. Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.
- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về vật chất, mà còn lo cho con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.
=> VN không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. N àng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.
* Luận điểm 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật VN được đặt vào nhiều tình huống: lấy Trương Sinh trái tính trái nết; Ts đi lính để gánh nặng gia đình cho VN; Ts đi lính trở về nghi oan cho VN,… từ đó, thể hiện số phận bất hạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật.
- Chi tiết chọn lọc, ngôn ngữ đối thoại và tự bạch phù hợp, yếu tố hoang đường, kì ảo mang đặc trưng của thể loại truyền kì và thể hiện ước vọng của nhân dân về kết thức có hậu cho số phận nhân vật.
3, Kết bài:
- VN tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và số phận bi thảm của người phụ n ữ VN dưới chế độ phong kiến.
- Nhân vật VN để lại trong lòng người đọc nỗi thương cảm và xúc động sâu sắc
Bài tập 2.Đề bài: Cho đoạn truyện:
“Bấy giờ nàng đương có mang … cha mẹ đẻ của mình”
Từ đoạn truyện trên, hãy phân tích làm nổi bật phẩm chất của nhân vật Vũ Nương.
Mở bài:
Đoạn truyện “Bấy giờ nàng đương có mang … cha mẹ đẻ của mình” trích trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã thể hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương – người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến.
Thân bài:
- Đoạn truyện trên kể về Vũ Nương, sau khi chồng đi lính, ở nhà có mang, sinh con và chăm sóc mẹ già, lo toan mọi việc.
+ Khi chồng vắng nhà, nàng một mình bụng mang dạ chửa, rồi sinh con. Nỗi nhớ chồng càng tăng lên khi ngày ngày mòn mỏi cùng đứa con nhỏ ngóng trông người chồng trở về.
+ Khi mẹ chồng không qua khỏi, nàng đã lo ma chay tế lễ rất chu đáo. Từ đó cho thấy nàng không chỉ yêu thương chồng con mà còn là một người con dâu hiếu thảo.
+ Một mình nàng phải gánh vác trên vai công việc của người chồng, người mẹ, người vợ. Nhưng nàng vẫn hoàn thành trách nhiệm, làm tròn đạo lí của người vợ, người mẹ, người con.
+ Điều đó chứng tỏ nàng là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, biết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống để giữ gìn hạnh phúc gia đình và làm tròn đạo lí. Nàng xứng đáng là người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có đầy đủ phẩm chất công, dung, ngôn, hạnh.
- Người phụ nữ trong xã hội phong kiến chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ nhưng họ vẫn vươn lên để sống tốt đời đẹp đạo. Và ngày nay những phẩm chất ấy vẫn mãi là truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên người phụ nữ ngày nay được Đảng và Nhà nước mang lại quyền tự do, bình đẳng nên cuộc sống của họ ấm no và hạnh phúc hơn.
- Bằng ngòi bút sắc bén, chỉ một đoạn truyện ngắn, Nguyễn Dữ đã làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương – người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội xưa. Với những lời đối thoại, những chi tiết, hình ảnh và ngôn ngữ trong đoạn truyện đã làm cho đoạn truyện thêm hấp dẫn và thuyết phục người đọc.
Kết bài:
Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương trong đoạn truyện là những phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ xứng đáng để chúng ta ca ngợi, yêu thương. Từ phẩm chất của Vũ Nương chúng ta học tập được những đức tính cao đẹp, từ đó tạo nên một xã hội văn minh và đầy nhân văn.
Bài tập 3:Đề bài:
Phân tích một số chi tiết trong Chuyện người con gái Nam Xương
Gợi ý:
1, Hình ảnh chi tiết chiếc bóng trên vách là chi tiết đặc sắc của truyện
a) Chi tiết chiếc bóng của nàng Vũ Nương
- Hoàn cảnh xuất hiện: trong đêm tối, VN hay trỏ vào chiếc bóng của mình trên vách và bảo con đó là cha Đản.
- Về nội dung: chiếc bóng thể hiện tình yêu thương của VN đối với con và tình yêu đối với chồng ( vợ chồng như hình với bóng) và khát vọng sum họp gia đình.
- Về nghệ thuật: đây là chi tiết thắt nút truyện, chiếc bóng có ý nghĩa gieo oan. Nhưng nhà văn không để TS nhận ra từ đầu mà đến khi VN không còn nữa, chàng mới vỡ lẽ nỗi hàm oan của vợ. Bằng cách đó, truyện có ý nghĩa bộc lộ tận cùng sự độc đoán, chuyên quyền, vũ phu đã làm tê liệt lí trí, giết chết tình người và dẫn đến bi kịch của Trương Sinh cũng như của chế độ phụ quyền phong kiến bất công.
b) Chi tiết: Chiếc bóng của Ts
- Hoàn cảnh xuất hiện: khi Vũ Nương mất rồi, trong một đêm phòng không vắng vẻ, bé Đản đã trỏ vào chiếc bóng của chàng trên vách và bảo là cha Đản.
- Về nội dung: TS hiểu ra nỗi oan của VN. Chàng ân hận, day dứt.
- Về nghệ thuật: cách cởi nút truyện bất ngờ, gây sự hấp dẫn cho người đọc.
Chi tiết chiếc bóng là bài học cho những người đàn ông có tính ghen tuông, phải biết bình tĩnh, sáng suốt để giải quyết sự việc. Vì có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn nhưng giữ được hạnh phúc còn khó khăn hơn nữa. Chiếc bóng còn là thông điệp cho chúng ta: đã yêu thương nhau, phải tin tưởng nhau, đừng để cái bóng rình rập, giết chết tình yêu hạnh phúc trong gia đình.
2, Các chi tiết kì ảo cuối truyện:
a) Chi tiết kì ảo cuối truyện
– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
– Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với Vũ Nương; được trở về dương thế.
– Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.
b) Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện
- Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì
- Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
- Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.
- Tạo nênmột kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:
+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của VN: Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được minh oan.
- Tuy nhiên yếu tố kì ảo chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi kịch của thiên truyện: Vn hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự huyền linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “ loang loáng mờ nhạt” trên sông mà dần biến đi mất. Tức là vẫn còn xa cách vẫn là sự chia ly âm dương đôi ngả. Hạnh phúc, sự đoàn tụ là những điều lớn lao cuối cùng của VN cũng không dành được, mà đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vn không trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất cho những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước trở về trần gian còn Vn thì không thể trở về là một minh chứng đanh thép.
Bài tập 4. Đề bài: Nhận xét về giá trị nhân đạo trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
1, Mở bài:
- Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ XVI với tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, trong đó tiêu biểu là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Dựa trên cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ đã lên tiếng tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa, những cổ tục nghiệt ngã, đồng thời thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến; trân trọng đề cao những vẻ đẹp của người phụ nữ…
- Điều đó đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của thiên truyện.
2, Thân bài:
a) Giải thích
- Giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học:
+ Hiểu một cách chung nhất, nhân đạo là lòng yêu thương con người.
+ Một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo là khi tác phẩm đó thể hiện thái độ bênh vực, cảm thông sâu sắc trước những nỗi đau khổ của con người, lên tiếng tố cáo tội ác của những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống chính đáng của con người.
- Giá trị nhân đạo là một trong những yếu tố quan trọng để làm nên thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương
b) Phân tích
Giá trị nhân đạo trong truyện là sự trân trọng đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng chân chính:
- Nàng VN đẹp về hình thức: “ tư dung tốt đẹp”
- Nàng VN đẹp về phẩm chất, tâm hồn:
+ Nàng là người phụ nữ trong trắng, thủy chung
+ Nàng là người mẹ yêu con, người vợ đảm đang tháo vát.
+ Nàng là người con dâu hiếu nghĩa.
+ Nàng còn là người nặng tình, nặng nghĩa với gia đình quê hương
Đặt trong xã hội phong kiến, người phụ nữ bị rẻ rúng coi thường, Nguyễn Dữ đã trân trọng đề cao vẻ đẹp của VN ( cả khi nàng đã sang một thế giới khác). Đó chính là ý nghĩa nhân văn, là nét bút thần diệu để viết lên áng “thiên cổ kì bút”
- Giá trị nhân đạo trong truyện còn là niềm thương cảm sâu sắc trước những nỗi đau khổ của con người.
+ Trong suốt đoạn truyện VN sống ở trần gian, Nguyễn dữ luôn thể hiện một thái độ yêu thương, đồng cảm với nỗi vất vả mà người phụ nữ phải chịu đựng: phái gánh vác giang sơn nhà chồng, chăm sóc mẹ già, con dại khi chồng đi xa; chồng độc đoán chuyên quyền, vũ phu, hay ghen, đa nghi; nỗi oan khiên và cái chết bi thảm của nàng. Lời văn đọc lên cho thấy xotx xa, đau đớn của Nguyễn Dữ thấm vào trong từng câu chữ.
+ Khi nàng sống ở thủy cung, với chất truyền kì huyền diệu, Nguyễn Dữ đã nói lên ước mơ mà người phụ nữ luôn khao khát trong tương lai: một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dẫu chỉ là khát vọng nhứng điều đó đã nói lên được tấm lòng, trái tim chan chứa tình yêu thương của nhà văn.
- Giá trị nhân đạo trong truyenj là sự tố cáo lên án những thế lực tàn bạo, tố cáo những cổ tục nghiệt ngã có trong xã hội phong kiến.
+ Chuyện hôn nhân không phải bằng tình yêu đôi lứa mà bằng trao đổi mau bán cho thấy thân phận người phụ nữ nhỏ nhoi, phụ thuộc..
+ quan niệm trọng nam khinh nữ khắc nghiệt, coi nam quyền là tuyệt đối, nên sự ghen tuông mù quáng của TS đã gián tiếp giết chết VN.
+ Khi VN bị nghi oan không thể bày tỏ, phải tự tử để khẳng định phẩm giá của mình, Nguyễn Dữ đã không để VN chết bột phát trong cơn phẫn uất như câu chuyện cổ tích Vợ chàng Trương mà chết rất tỉnh táo và lí trí, khiến sức tố cáo phê phán trong tác phẩm càng sâu sắc hơn. Xã hội phong kiến hà khắc không cho người phụ nữ một con đường sống, họ phải chọn cõi chết làm chốn dung thân.
- Tố cáo chiến tranh phi nghĩa góp phần gây ra sự đau khổ, tan vỡ của những mái ấm gia đình.
Những bất công ngang trái của xã hội phong kiến đã làm người phụ nữ không được sống hạnh phúc, quyến sống cũng không được đảm bảo, bất hạnh, khổ đau có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nguyễn Dữ đã mạnh mẽ lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ và tố cáo lên án sự bất công trong xã hội. Đây cũng là một trong những nét bút thần diệu để Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ vẫn còn nguyên sự hấp dẫn người đọc ngày nay.
3, Kết luận:
- Giá trị nhân đạo trong truyện không chỉ bộc lộ thái độ viết truyện của nhà văn mà còn là vẻ đẹp của tác phẩm để tạo nên sự cuốn hút vfa hấp dẫn. Tac sphaamr đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, quyết tâm sống và đấu tranh vì quyền sống và hạnh phúc của con người.
- Giá trị nhân đạo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương- một tác phẩm tiêu biểu trong “thiên cổ kì bút” Truyền kì mạn lục.
V. DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Bài tập 1. Từ tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” kết hợp với những hiểu biết xã hội, em hãy viết một đoạn văn (2/3 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về vai trò của niềm tin trong cuộc sống.
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Niềm tin là nguồn động lực to lớn, nguồn sức mạnh diệu kì, và nó thực sự đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Trước hết, chúng ta cần hiểu lòng tin hay niềm tin trong cuộc sống là gì? Đó chính là sự hi vọng, sự tin tưởng, hiểu rõ và đánh giá đúng năng lực, hiểu biết của bản thân hay sự tin tưởng vào những người xung quanh nữa. Lòng tin có rất nhiều biểu hiện đa dạng trong cuộc sống. Đó là khi, dù ta phải trải qua những khó khăn, gian khổ, những vấp ngã trong học tập hay trong công việc thì ta vẫn không hề bỏ cuộc, luôn tin rằng mình sẽ vượt qua và mình sẽ làm được. Hay niềm tin còn được thể hiện trong các mối quan hệ với những người xung quanh, ta tin tưởng vào những người tốt, mà không hề nghi ngờ, nghĩ xấu về họ. Vậy, tại sao chúng ta cần có lòng tin trong cuộc sống? Bởi vì, lòng tin chính là món quà ý nghĩa và quí giá nhất mà chúng ta đã nhận được từ Thượng Đế, lòng tin cho chúng ta đủ sự cam đảm, tiếp thêm cho chúng ta ý chí nghị lực để vượt qua những khó khăn, thủ thách, để đạt được những ước mơ, hoài bão. Trong năm vừa qua, chúng ta đã nhắc nhiều đến đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam, với chiến thắng vươn ra tầm châu lục; mặc dù các anh phải thi đấu với những đội tuyển rất mạnh như Irag, Uzbekistan…nhưng với niềm tin mãnh liệt vào khả năng chiến thắng cùng với sự nỗ lực hết mình, các anh đã đem về chiến thắng vinh quang cho đất nước là giải Á quân châu lục. Không chỉ có vậy, khi chúng ta có lòng tin vào người khác, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông, thấu hiểu họ nhiều hơn, tạo nên một sợi dây gắn bó bền chặt trong các mối quan hệ, yêu thương nhiều hơn và cho đi cũng nhiều hơn nữa. Ngay sau vụ khủng bố kinh hoàng tại Paris ngày 13/11/2015, khoảng 200.000 cư dân Paris đã chia sẻ từ khóa “Cửa mở đấy” trên mạng xã hội, để giúp những ai chưa về được nhà có một chỗ lánh an toàn; các tài xế taxi cũng tắt máy tính tiền để đưa miễn phí những người mắc kẹt đến nơi trú tạm. Chúng ta thấy rằng, nếu thiếu đi lòng tin, con người cũng mất đi tình yêu thương trong cuộc sống, nếu thiếu đi lòng tin, những dân Paris sẽ không giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, và qua câu chuyện đó, chúng ta có thêm lòng tin rằng, cuộc sống vẫn còn nhiều người tốt, và việc tốt. Tuy nhiên, thực tế hiện nay vẫn còn một số người dễ dàng đánh mất niềm tin vào bản thân mình, gặp khó khăn thử thách đã vội vàng bỏ cuộc và gục ngã; cũng có những người đặt nhiều quá niềm tin vào bản thân nên dễ bị ảo tưởng; cũng có những người lợi dụng lòng tin của người khác để lừa lọc và giả dối. Đó đều là những biểu hiện xấu, mà mỗi chúng ta cần nên tránh xa. Bản thân em là một học sinh lớp 9, em nhận thây rằng trong cuộc sống chúng ta thực sự cần phải có lòng tin không chỉ với bản thân, mà còn đối với những người tốt xung quanh. Dù phải đối mặt với những khó khăn, thử thách, em vẫn luôn cố gắng hết mình để vượt qua và không bao giờ đánh mất niềm tin vào bản thân. Bởi em hiểu “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì sẽ còn đánh mất nhiều thứ quí giá khác nữa”!
*********************************************************
CHUYÊN ĐỀ 2.
Văn bản: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
I) KIẾN THỨC CƠ BẢN
Cho đoạn trích:
“ Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỉ Dậu (1789) vua Quang Trung tới làng Hạ Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy rồi loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ra để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm lại làm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả hai mươi bức. Đoạn kém hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành chữ “nhất”, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ sung bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam nổi loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình”.
Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản nào? Tác giả?
Câu 2: Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt nào?
Câu 3: Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Câu 4: Tại sao gọi Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết lịch sử.
Câu 2: Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt là tự sự và miêu tả
Câu 3: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm:
Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Không chỉ dừng lại ở đó, cuốn tiểu thuyết này còn viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào những năm 30 cuối thể kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi.
Câu 4: Hoàng Lê nhất thống chí được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử vì:
- Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi đầu tiên có quy mô lớn của bộ sử thi. Tác phẩm mang giá trị về văn học và sử học.
- Tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến đầy biến động cuối thể kỉ XVIII:
+ Trong triều đình, vua chúa tham quan sống sa đọa. Vua tôi Lê Chiêu Thống bán nước, luồn cúi.
+ Đời sống cơ cực của người dân dưới thời Lê mạt: bất ổn, đói khổ.
+ Bên cạnh đó là hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn mà nổi bật là hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trí tuệ sáng suốt, có tài cầm quân, có công đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 2:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau ra mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán tới nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng ta làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy dều là chuyện cũ rành rành của triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quân huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn…
Câu 1: Nêu phương thức biểu dạt chính trong đoạn trích trên.
Câu 2: Trong câu “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Nhắc em nhớ tới tác phẩm nào đã học trong chương trình Ngữ văn THCS. Vua Quang Trung muốn khẳng định điều gì qua câu nói trên.
Câu 3: Em hãy giải thích nghĩa của từ “lương tri, lương năng”
Câu 4: Trong đoạn “ Đời Hán có Trưng Nữ Vương… các vua truyền ngôi lâu dài” giống với những câu thơ nào của Nguyễn Trãi. Từ đó, em hãy chỉ ra nét tương đồng về tư tưởng, thái độ của Nguyễn Trãi và vua Quang Trung.
Câu 5: Từ đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn diễn dịch khoảng 10 câu có sử dụng thành phần phụ chú và phép nối nêu về suy nghĩ của em về vấn đề: Tuổi trẻ Việt Nam hiện nay cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước?
Câu 6: Qua đoạn trích em thấy vua Quang Trung hiện lên là người như thế nào?
Câu 2: Trong câu “ Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” gợi nhắc tới hai câu thơ trong bài Sông núi nước Nam tương truyền của Lý Thường Kiệt.
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”
- Câu nói của vua Quang Trung có ý nghĩa khẳng định nền độc lập, tự cường của nước ta, đất nước có ranh giới lãnh thổ rõ ràng, có vua cai trị. Đồng thời đây cũng là câu nói nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trước mọi kẻ thù xâm lược.
Câu 3: Nghĩa của từ “lương tri” và “lương năng”.
Lương tri: Người có lương tâm, biết nhận thức đúng đắn, soi xét đúng sai.
Lương năng: người có tài năng, phẩm cách tốt.
Ý của vua Quang Trung: tất cả các tướng lĩnh, quân sĩ đều là những người biết phải trái, đúng sai, đều là những người có lương tâm, biết yêu nước thương dân.
Vua Quang Trung dùng cách nói này để khích lệ lòng tự tôn dân tộc của quân sĩ.
Câu 4: Trong bài Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi có viết.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Xong hào kiệt đời nào cũng có”
- Điểm tương đồng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi với Quang Trung:
+ Khẳng định sự tồn tại độc lập, bình đẳng của nước Nam với phương Bắc.
+ Nước ta đời nào cũng có anh hùng hào kiệt.
+ Tác giả nêu tấm gương sáng, ngợi ca anh hùng hào kiệt trong lịch sử và lên án hành động cướp nước, xâm lược của phương Bắc.
Câu 5:
- Tuổi trẻ Việt Nam khi thể hiện lòng yêu nước.
Tuổi trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo vận mệnh, tương lai non sông đất nước vì vậy tuổi trẻ cần hiểu được vị trí quan trọng của mình.
+ Vốn tri thức, đạo đức được rèn luyện từ nhà trường là nền tảng cơ bản để thực hành trong đời sống.
+ Tuổi trẻ phải nỗ lực không ngừng học hỏi, phát triển về khoa học, kĩ thuật để bắt kịp với sự phát triển của thế giới.
+ Tuổi trẻ cần nuôi dưỡng trong mình tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, niềm tự tôn dân tộc.
+ Cần ý thức việc trau dồi tri thức và đạo đức ngay khi còn trẻ.
Câu 6: Vua Quang Trung trong đoạn trích trên:
Trước hết, vua Quang Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán:
+ Nghe tin giặc tới Thăng Long ông vội vã đốc xuất đại binh ra Bắc.
+ Là người sáng suốt, nhạy bén:
Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, ông đã lên ngôi hoàng đế để chính danh ra dẹp giặc.
- Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch, ta.
+ Quang Trung khích lệ tướng lính bằng những những lời nói chân thành, những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập.
- Tầm nhìn chiến lược, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập của vua Quang Trung đã góp phần làm nên chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 3:
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
“ Vua Quang Trung liền gấp rút sau đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy đều cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới mà đánh.
Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái Thú Điều Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bạ”i.
Câu 1: Các sự việc trong đoạn trích trên được kể theo trình tự như thế nào?
Câu 2: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”.
Câu 3: Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích trên.
Câu 4: Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 5: Nhận xét về bút pháp tái hiện sự thực lịch sử của các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí qua đoạn trích hồi thứ mười bốn.
Câu 2: Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.”
Biện pháp nói quá trong chi tiết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối” nhằm nhấn mạnh tới sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 3: Cảm nghĩ về nhân vật vua Quang Trung.
- Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta kinh ngạc, chiến thắng thần tốc.
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc mà vua Quang Trung lên kế hoạch từ trước đã chiến thắng sớm hơn dự định 2 ngày.
- Hình ảnh vua Quang Trung oai phong lẫm liệt:
+ Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy khiến nghĩa quân Tây Sơn đánh thắng kẻ thù.
+ Hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với áo bào đỏ sạm đen khói súng.
- Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người có tổ chức và linh hồn của chiến công vĩ đại.
Câu 4: Thái độ của tác giả
- Ca ngợi trí tuệ, chiến lược của vua Quang Trung: tài dụng binh như thần, lẫm liệt trong trận chiến…
- Tỏ thái độ căm ghét, khinh thường trước sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 5: Khi các tác giả Ngô Thì, các tác giả chủ ý viết lại lịch sử, không phải sự sáng tạo văn học. Tâm lý này xuất phát từ việc người trung đại xem tiểu thuyết là thứ thấp kém, không có ý nghĩa với việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
- Nhưng Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn chương đích thực, chính điều này làm nên sự trường tồn của tác phẩm.
- Sự kết hợp giữa sáng tạo, gia công kết hợp giữa ngòi bút chân thực , nghiêm ngặt với bút pháp viết linh hoạt đã giúp người viết tái hiện một thời kì lịch sử dữ dội TK XVIII:
+ Sự kiện lịch sử được ghi chép cụ thể, chính xác với các mốc thời gian, địa điểm, không gian rõ ràng, tạo sự tin cậy cho người đọc.
+ Nhóm tác giả không chỉ dựa trên sự kiện đơn thuần mà còn chỉ ra bản chất của hiện thực, vẫn giữ nguyên lịch sử nhưng lại xây dựng hình tượng chân dung con người đại diện cho cả hai phía.
+ Lời văn miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng kể khách quan, đơn sắc của người viết sử với giọng kể đầy xúc cảm của người sáng tạo văn học.
Gợi ý:
Các tác giả là những người cẫm bút có lương tri, có ý thức tôn trọng sự thật lịch sử. Sống giữa những biến động của thời đại, họ nhận thấy rõ sự thối nát, hèn kém của vua Lê chúa Trịnh, đồng thời cũng không thể phủ nhận được công lao cũng như tài năng của người anh hùng Quang Trung- Nguyễn Huệ.
Các tác giả là những người tiến bộ, họ đã vượt lên khỏi định kiến giai cấp, vượt ra khỏi chỗ đứng giai cấp để phản ánh về Quang Trung-Nguyễn Huệ
Các tác giả là những người yêu nước, họ tự hào về chiến thắng vĩ đại của dân tộc, không thể không nhắc tới Quang Trung, là linh hồn và tổng chỉ huy của cuộc chiến đấu.
Bài tập 2: Trong hồi thứ 14 có đoạn viết “ …Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván….máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”
a. Nhận xét nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích trên?
b. Đoạn trích trên cho em hiểu gì về người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ?
Gợi ý:
a. Nghệ thuật đặc sắc : Trần thuật theo diễn biến sự việc; trần thuật xen lẫn miêu tả: tả việc làm -tả hình ảnh Quang Trung, tả quân sĩ Quang Trung, tả quân Thanh, tả không gian chung của trận đánh
b. Đoạn trích cho ta hiểu :
Nguyễn Huệ là người có tài thao lược, sáng tạo ra phương tiện độc đáo để chiến đấu
Là vị tướng có tài tổ chức trận đánh: bố trí quân lính, lúc thì sử dụng binh khí, lúc thì đánh giáp lá cà
Quang Trung không những là một vị tướng có tài mà còn là một người anh hùng trực tiếp xông pha chiến trận từ lúc bắt đầu trận đánh cho đến khi trận đánh kết thúc
Bài tập 3: Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả như thế nào? Cùng là miêu tả hai cuộc tháo chạy nhưng cách miêu tả khác nhau ra sao?
Gợi ý:
Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
Quân Thanh không chống nổi bỏ chạy toán loạn giày xéo lên….đại bại.
Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật………hướng bắc mà chạy
Quân sĩ các doanh trại nghe tin đều hoảng hồn,tan tác bỏ chạy……..tắc nghẽn không chảy được nữa
→ Miêu tả chính xác chân dung kẻ cướp nước. Cả đội quân trước đây hùng hổ, huênh hoang, ngạo mạn thì giờ đây xộc xệch, bấn loạn, dẫm đạp lên nhau mà chạy trốn. Quả là sự thảm bại nhục nhã
Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống:
Vua Lê……ra ngoài, cả bọn chạy……….sang bờ bắc
Vua Lê và những người tùy tùng……….mệt lử.
Gặp một người thổ hào………..tạm nghỉ
Vua sai………mâm dưới
Người thổ hào vội vã………….xấu hổ
→ Đường đường là vua của một nước nhưng tự biến mình thành kẻ thù của cả dân tộc → cuối cùng đã phải trả giá
Đoạn văn miêu tả sự tháo chạy của quân tướng nhà Thanh, nhịp điệu nhanh, mạnh hối hả. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng hàm chứa trong đó vẻ hả hê sung sướng của những người thắng trận trước sự thảm bại của lũ cướp nước. Miêu tả vua tôi Lê Chiêu Thống thì nhịp kể chậm hơn với những âm hưởng ngậm ngùi chua xót. Sở dĩ có sự khác biệt đó bởi là một cựu thần nhà Lê, tác giả không khỏi ngậm ngùi chua xót trước ngày tàn của triều Lê.
Bài tập vận dụng:
Bài tập 1.Đọc đoạn văn:
“- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”
(Hoàng Lê nhất thống chí – Hồi thứ mười bốn – Ngô gia văn phái, Ngữ văn 9, Tập một, NXB GD. H. 2009. tr 66)
Có ý kiến nhận xét: Đọc lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, ta nghe như âm vang của Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
Em hãy phân tích lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ và làm sáng tỏ nhận xét trên.
Gợi ý:
1. Giới thiệu khái quát về “Hoàng Lê nhất thống chí” và hồi thứ mười bốn của tác phẩm.
– “Hoàng Lê nhất thống chí” do một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Tác phẩm là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi viết ở những thời điểm khác nhau, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối của thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX.
– Hồi thứ mười bốn thể hiện niềm tự hào dân tộc của các tác giả qua việc tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
2. Khái quát vẻ đẹp của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ trong “Hoàng Lê nhất thống chí” (hồi thứ mười bốn).
Trong lịch sử các triều đại Việt Nam, Quang Trung là một vị vua văn võ toàn tài, có công lao lớn trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nhân vật lịch sử đi vào văn chương như một hình ảnh đẹp. “Hoàng Lê nhất thống chí” (hồi thứ mười bốn) đã làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng áo vải trong chiến công lừng lẫy đại phá quân Thanh: là một vị vua yêu nước thương dân; là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén; có tầm nhìn xa trông rộng; hành động mạnh mẽ quyết đoán, tài dụng binh như thần; ý chí quyết chiến quyết thắng…
3. Lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung thể hiện sự anh minh sáng suốt và mang âm hưởng hào hùng của các tác phẩm: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
a. Trước hết, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền của dân tộc.
“Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Đó cùng là lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt): “Nam quốc sơn hà Nam đế cư – Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở – Rành rành định phận ở sách trời); trong “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi): “Như nước Đại Việt ta từ trước – Vốn xưng nền văn hiến đã lâu – Núi sông bờ cõi đã chia – Phong tục Bắc Nam cũng khác – Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
b. Tiếp đến, ông nêu bật dã tâm của giặc để thổi bùng lên ngọn lửa căm thù giặc trong lòng tướng sĩ.
“Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, “Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa”. Hành động xâm lược của “giặc dữ” (nghịch lỗ) là hành động phi nhân nghĩa, trái đạo trời. Tội ác của giặc ngoại xâm được Trần Quốc Tuấn chỉ rõ “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho để khỏi tai vạ về sau” (Hịch tướng sĩ). Nguyễn Trãi cũng đã vạch trần: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ – Dối trời lừa dân đủ trăm ngàn kế…”, “Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội…” Đúng là tội ác “Trời không dung, đất không tha”.
c. Sau đó, ông nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
“Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”.
Lời phủ dụ tướng sĩ của người anh hùng áo vải Quang Trung trong cuộc đại phá quân Thanh đã nhắc đến Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn – một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với các tướng sĩ. Ý chí tinh thần chống giặc ngoại xâm trong bài hịch như còn mãi âm vang: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. (Hịch tướng sĩ)
Tấm gương Lê Thái Tổ không nỡ ngồi nhìn giặc Minh làm điều tàn bạo đã dấy nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn…Tổ kiến hổng phá toang đê vỡ”. Đó là những dẫn chứng xác thực về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: “Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau – Song hào kiệt đời nào cũng có”, “Việc xưa xem xét – Chứng cứ còn ghi” (Bình Ngô đại cáo).
d. Từ đó, ông bày tỏ lòng tin vào binh lính và kêu gọi họ dốc lòng, dốc sức vì sự nghiệp chung đánh đuổi kẻ thù để bảo vệ chủ quyền của dân tộc.
“Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”. Lời hiệu triệu toàn dân đứng lên đánh giặc giữ nước của vua Quang Trung cũng là lời khích lệ tinh thần chiến đấu của Trần Quốc Tuấn đối với các tướng dưới quyền: nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo tập luyện cung tên, học tập “Binh thư yếu lược”. Đó cũng là lời của Nguyễn Trãi: “Nhân dân bốn cõi một nhà … Hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.
e. Cuối cùng, ông khẳng định quyết tâm sắt đá đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh, đồng thời cũng tuyên bố kỷ luật nghiêm minh của quân đội để răn đe những kẻ bạc nhược có ý ăn ở hai lòng.
“Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”. Đó cũng là thái độ nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn chỉ ra con đường: sống – chết, vinh – nhục; đạo thần chủ – kẻ nghịch thù để tướng sĩ thấy rõ chỉ có thể chọn một hoặc địch – hoặc ta chứ không có chỗ đứng cho những kẻ bàng quan thờ ơ trước thời cuộc.
4. Khẳng định và nêu suy nghĩ bản thân.
– Lời phủ dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ tại cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An có thể xem như một bài hịch ngắn gọn, lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, giọng điệu hào hùng mà ý tứ thật phong phú sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật khởi của dân tộc.
– Trí tuệ, tấc lòng của một vị vua vì nghĩa lớn đã mạnh hơn thiên kiến giai cấp của các tác giả. Chính vì vậy mà các tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã xây dựng một tượng đài bất hủ về người anh hùng Nguyễn Huệ – một hình ảnh hiếm thấy trong lịch sử.
– Tinh thần yêu nước là sợi chỉ hồng xuyên suốt, là một trong những giá trị nổi bật nhất của văn học Việt Nam. Các tác phẩm: Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Hoàng Lê nhất thống chí mãi là những viên ngọc quý của văn chương dân tộc, lấp lánh nguồn cảm hứng yêu nước. Tự hào về chiến công của cha ông khi phá Tống, đuổi Nguyên, bình Ngô, đạp Thanh… ta cần giữ gìn phát huy truyền thống ấy hơn nữa để xứng đáng là con Lạc, cháu Hồng.
Bài tập 2.
"Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược đánh đã có sẵn. Chẳng qua mười ngày nữa có thể đáng đuổi quân Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo nói mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười lăm năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có gì sợ chúng?"
(Trích Hồi thứ mười bốn, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô gia văn phái)
1. Đoạn văn trên là lời của nhân vật nào? (0,5 điểm)
Lời nói đó đã thể hiện được những phẩm chất nào của nhân vật ấy? (1,5 điểm)
2. Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" (0,5 điểm)
3. Kể tên một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của văn học Trung Đại mà tên thể loại được ghi ngay trong tác phẩm.
Gợi ý:
1, * Đoạn văn trên là lời của nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích Hồi thứ mười bốn, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí (0,5 điểm)
* Lời nói đó thể hiện sự tự tin, quyết đoán, trí tuệ sắc sảo và đặc biệt là tầm nhìn xa trông rộng của một vị hoàng đế tài giỏi, hết lòng vì cuộc sống của nhân dân, chủ quyền của đất nước. (1,5 điểm)
2, Ý nghĩa nhan đề :
Hoàng Lê nhất thống chí : ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê (Không yêu cầu học sinh giải nghĩa của từ) (0,5 điểm)
3, Kể tên tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán: (0,5 điểm)
- Truyền Kì mạn lục, Vũ trung tùy bút,...
(học sinh chỉ cần nêu tên một tác phẩm)
Bài tập 3.: Hoàng Lê nhất thống trí là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt những thành công xuất sắc về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết của Văn học Việt Nam thời trung đại.
Trình bày ngắn gọn hiểu biết của em về tác giả bằng đoạn văn ngắn (5 - 7 câu).
Câu 2: Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Câu 3: Tóm tắt hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
Câu 4: Tại sao gọi Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết lịch sử.
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi từ câu số 5 tới câu số 10:
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau ra mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán tới nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng ta làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy dều là chuyện cũ rành rành của triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quân huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn…
Câu 5: Nêu ngắn gọn nội dung chính trong lời dụ của vua Quang Trung trong đoạn trích trên.
Câu 6: Trong câu “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Nhắc em nhớ tới tác phẩm nào đã học trong chương trình Ngữ văn THCS. Vua Quang Trung muốn khẳng định điều gì qua câu nói trên.
Câu 7: Em hãy giải thích nghĩa của từ “lương tri, lương năng”
Câu 8: Trong đoạn “ Đời Hán có Trưng Nữ Vương… các vua truyền ngôi lâu dài” giống với những câu thơ nào của Nguyễn Trãi. Từ đó, em hãy chỉ ra nét tương đồng về tư tưởng, thái độ của Nguyễn Trãi và vua Quang Trung.
Câu 9: Từ đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn diễn dịch khoảng 10 câu có sử dụng thành phần phụ chú và phép nối nêu về suy nghĩ của em về vấn đề: Tuổi trẻ Việt Nam hiện nay cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước?
Câu 10: Qua đoạn trích em thấy vua Quang Trung hiện lên là người như thế nào?
Bài tập 4.Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi: từ câu 11 tới câu 15
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỉ Dậu (1789) vua Quang Trung tới làng Hạ Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy rồi loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ra để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm lại làm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả hai mươi bức. Đoạn kém hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành chữ “nhất”, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ sung bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam nổi loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền gấp rút sau đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy đều cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới mà đánh.
Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái Thú Điều Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
Câu 11: Các sự việc trong đoạn trích trên được kể theo trình tự như thế nào?
Câu 12: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
Câu 13: Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích trên.
Câu 14: Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 15: Nhận xét về bút pháp tái hiện sự thực lịch sử của các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí qua đoạn trích hồi thứ mười bốn.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Hoàng Lê Nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết chương hồi do một nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê khi quân Tây Sơn diệt chúa Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê đến khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn thống nhất đất nước.
Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772 – 1840) làm quan triều nhà Nguyễn.
Bảy hồi đầu là phần chính biên do Ngô Thì Chí viết, mười hồi tiếp theo là phần tục biên trong đó có 7 hồi là do Ngô Thì Du viết, 3 hồi cuối là sự chắp vá, ghép nối những sự việc từ thời Tự Đức, tương truyền do Ngô Thì Thuyết viết.
Câu 2: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm:
Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Không chỉ dừng lại ở đó, cuốn tiểu thuyết này còn viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào những năm 30 cuối thể kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi.
Câu 3: Tóm tắt
Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn ở Thăng Long phải tạm rút lui về Tam Điệp và cho người vào Phú Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ.
Nhận được tin ngày 24/11 Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân thành hai đạo thủy - bộ. Ngày 25/15 làm lễ tế trời đất, lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, vừa tiến quân vừa mở cuộc tuyển binh. Ngày 30 tháng Chạp, quân Quang Trung ra tới Tam Điệp, hội quân với Sở và Lân. Quang Trung khẳng định, chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người thanh. Ông cho mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở Thăng Long mở tiệc lớn. Tiếp đó, nghĩa quân lên đường, tới rạng sáng mùng 3 Tết thì bí mật bao vây đồn Ngọc Hồi, dùng kế sách để quân Thanh đầu hàng nhanh, hạ đồn dễ dàng. Rạng sáng ngày 5 Tết, nghĩa quân tấn công đồn Ngọc Hồi, quân giặc dùng mưu hèn nhưng cuối cùng vẫn bị ta đánh bại. Cuối cùng, quân Thanh phải đầu hàng, thái thú Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung dẫn quân toàn thắng vào Thăng Long. Trong khi đó, vua tôi Lê Chiêu Thống và tướng giặc Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, bỏ chạy, tàn quân tháo chạy giẫm lên nhau mà chết.
Câu 4: Hoàng Lê nhất thống chí được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử vì:
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi đầu tiên có quy mô lớn của bộ sử thi. Tác phẩm mang giá trị về văn học và sử học.
Tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến đầy biến động cuối thể kỉ XVIII, những nhân vật ở tầng lớp trên của xã hội phong kiến không còn giữ đúng vai trò, trách nhiệm với dân. Trong triều đình, vua chúa tham quan sống sa đọa. Vua Cảnh Hưng cam chịu sống bạc nhược, Trịnh Tông trở thành con rối của đám kiêu binh. Vua tôi Lê Chiêu Thống bán nước, luồn cúi. Cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hồi này phản ánh rõ nét đời sống cơ cực của người dân dưới thời Lê mạt: bất ổn, đói khổ. Bên cạnh đó là hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn mà nổi bật là hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trí tuệ sáng suốt, có tài cầm quân, có công đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
Câu 5: Lời hiệu dụ của vua Quang Trung:
- Vua Quang Trung nêu hoàn cảnh lâm nguy của đất nước “quân Thanh sang xâm lấn nước ta”.
- Khẳng định chủ quyền dân tộc, nền độc lập tự cường của quốc gia.
- Nhắc lại cho nghĩa quân, tướng sĩ nhớ tới lịch sử đau thương của quốc gia dân tộc khi bị giặc đô hộ, xâm chiếm.
- Nêu tấm gương những người anh hùng đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc, để khơi dậy niềm tự hào, ý chí chiến đấu chống kẻ thù.
- Nêu rõ dã tâm của bọn giặc Thanh muốn mưu đồ cướp nước ta, và khẳng định kết cục thảm hại mà chúng phải nhận lấy.
- Quyết tâm giữ bờ cõi, khẳng định tướng lĩnh, nghĩa quân là người có lương tri, lương năng.
Câu 6: Trong câu “ Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” gợi nhắc tới hai câu thơ trong bài Sông núi nước Nam tương truyền của Lý Thường Kiệt.
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”
- Câu nói của vua Quang Trung có ý nghĩa khẳng định nền độc lập, tự cường của nước ta, đất nước có ranh giới lãnh thổ rõ ràng, có vua cai trị. Đồng thời đây cũng là câu nói nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trước mọi kẻ thù xâm lược.
Câu 7: Nghĩa của từ “lương tri” và “lương năng”.
Lương tri: Người có lương tấm, biết nhận thức đúng đắn, soi xét đúng sai.
Lương năng: người có tài năng, phẩm cách tốt.
Ý của vua Quang Trung: tất cả các tướng lĩnh, quân sĩ đều là những người biết phải trái, đúng sai, đều là những người có lương tâm, biết yêu nước thương dân.
Vua Quang Trung dùng cách nói này để khích lệ lòng tự tôn dân tộc của quân sĩ.
Câu 8: Trong bài Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi có viết.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Xong hào kiệt đời nào cũng có”
- Điểm tương đồng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi với Quang Trung:
+ Khẳng định sự tồn tại độc lập, bình đẳng của nước Nam với phương Bắc.
+ Nước ta đời nào cũng có anh hùng hào kiệt.
+ Tác giả nêu tấm gương sáng, ngợi ca anh hùng hào kiệt trong lịch sử và lên án hành động cướp nước, xâm lược của phương Bắc.
Câu 9:
- Tuổi trẻ Việt Nam khi thể hiện lòng yêu nước.
Tuổi trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo vận mệnh, tương lai non sông đất nước vì vậy tuổi trẻ cần hiểu được vị trí quan trọng của mình.
+ Vốn tri thức, đạo đức được rèn luyện từ nhà trường là nền tảng cơ bản để thực hành trong đời sống.
+ Tuổi trẻ phải nỗ lực không ngừng học hỏi, phát triển về khoa học, kĩ thuật để bắt kịp với sự phát triển của thế giới.
+ Tuổi trẻ cần nuôi dưỡng trong mình tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, niềm tự tôn dân tộc.
+ Cần ý thức việc trau dồi tri thức và đạo đức ngay khi còn trẻ.
Câu 10: Vua Quang Trung trong đoạn trích trên:
Trước hết, vua Quang Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán:
+ Nghe tin giặc tới Thăng Long ông vội vã đốc xuất đại binh ra Bắc.
+ Là người sáng suốt, nhạy bén:
Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, ông đã lên ngôi hoàng đế để chính danh ra dẹp giặc.
- Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch, ta.
+ Quang Trung khích lệ tướng lính bằng những những lời nói chân thành, những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập.
- Tầm nhìn chiến lược, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập của vua Quang Trung đã góp phần làm nên chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh.
Câu 11: Các sự việc trên được kể theo trình tự tuyến tính, trình tự thời gian (3/1 - 5/1 tết Kỉ Dậu).
Câu 12: Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.”
Biện pháp nói quá trong chi tiết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối” nhằm nhấn mạnh tới sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 13: Cảm nghĩ về nhân vật vua Quang Trung.
- Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta kinh ngạc, chiến thắng thần tốc.
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc mà vua Quang Trung lên kế hoạch từ trước đã chiến thắng sớm hơn dự định 2 ngày.
- Hình ảnh vua Quang Trung oai phong lẫm liệt:
+ Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy khiến nghĩa quân Tây Sơn đánh thắng kẻ thù.
+ Hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với áo bào đỏ sạm đen khói súng.
- Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người có tổ chức và linh hồn của chiến công vĩ đại.
Câu 14: Thái độ của tác giả
- Ca ngợi trí tuệ, chiến lược của vua Quang Trung: tài dụng binh như thần, lẫm liệt trong trận chiến…
- Tỏ thái độ căm ghét, khinh thường trước sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 15: Khi các tác giả Ngô Thì, các tác giả chủ ý viết lại lịch sử, không phải sự sáng tạo văn học. Tâm lý này xuất phát từ việc người trung đại xem tiểu thuyết là thứ thấp kém, không có ý nghĩa với việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
- Nhưng Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn chương đích thực, chính điều này làm nên sự trường tồn của tác phẩm.
- Sự kết hợp giữa sáng tạo, gia công kết hợp giữa ngòi bút chân thực , nghiêm ngặt với bút pháp viết linh hoạt đã giúp người viết tái hiện một thời kì lịch sử dữ dội TK XVIII:
+ Sự kiện lịch sử được ghi chép cụ thể, chính xác với các mốc thời gian, địa điểm, không gian rõ ràng, tạo sự tin cậy cho người đọc.
+ Nhóm tác giả không chỉ dựa trên sự kiện đơn thuần mà còn chỉ ra bản chất của hiện thực, vẫn giữ nguyên lịch sử nhưng lại xây dựng hình tượng chân dung con người đại diện cho cả hai phía.
+ Lời văn miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng kể khách quan, đơn sắc của người viết sử với giọng kể đầy xúc cảm của người sáng tạo văn học.
*****************************************************
CHUYÊN ĐỀ 3.
CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH – Phạm Đình Hổ
I) KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả:
- Phạm Đình Hổ (1768-1839), quê ở tỉnh Hải Dương.
- Ông sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư.
- Ông để lại nhiều công trình biên soạn,khảo cứu có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực bằng chữ Hán.
2. Tác phẩm:
- Thể loại: Tùy bút trung đại là một thể văn thuộc loại hình kí, ghi chép những sự việc, con người, phong tục tập quán, những sự kiện cụ thể có thực, qua đó, tác giả bộc lộ những cảm xúc, suy tư và nhận xét, đánh giá của mình.
- “Vũ trung tùy bút”( Tùy bút viết trong những ngày mưa) được viết vào khoảng đầu đời Nguyễn ( đầu thế kỉ XIX).
- Gồm 88 mẩu chuyện nhỏ viết theo thể tùy bút.
- “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” ghi chép về cuộc sống nơi phủ chúa thời Thịnh Vương Trịnh Sâm.
( Mở rộng: Lúc mới lên ngôi, Trịnh Sâm là con người “cứng rắn, thông minh, quyết đoán,sáng suốt,trí tuệ hơn người” nhưng dần dần kiêu căng, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc. Chúa say mê Đặng Thị Huệ, phế con trưởng, lập con thứ gây nhiều biến động, các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau,đất nước hỗn loạn, đời sống nhân dân cực khổ. Đó chính là hiện thực đen tối của lịch sử nước ta thời đó.)
* Bố cục (2 đoạn)
- Đoạn 1 (Từ đầu đến “triệu bất tường”): Cuộc sống sa hoa, hưởng lạc của chúa Trịnh Sâm
- Đoạn 2 (Đoạn còn lại) : Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền
* NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT
1. Nội dung:
- Đoạn trích đã phản ánh đời sống xa hoa của phủ chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh.
2. Nghệ thuật:
- Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động:
+ Các chi tiết, sự việc miêu tả về thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và quan lại được đưa ra cụ thể, sinh động, chân thực, khách quan, để tự sự việc lên tiếng nói, đem lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
+ Với thể loại tùy bút, các sự việc được ghi chép theo cảm hứng chủ quan, tản mạn, không gò bó theo hệ thống, kết cấu chặt chẽ, nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, đó là thái độ phê phán thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan lại hậu cần
II – Đọc - hiểu văn bản:
1. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận:
a. Thú chơi đèn đuốc, thú dạo chơi:
- Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở khắp nơi để thỏa thú chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp. Ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa vì việc xây dựng đình đài cứ liên miên, hao tiền tốn của.
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả rất tỉ mỉ:
+ Diễn ra thường xuyên “mỗi tháng ba bốn lần”.
+ Huy động rất đông kẻ hầu người hạ “Binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các nội thần, quan hộ giá, bọn nhạc công.
+ Còn bày đặt nhiều trò chơi giải trí lố lăng và tốn kém:
_ Giả trò mua bán: “các nội thần thì đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”, để “Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ”.
_ Bố trị dàn nhạc khắp nơi để tấu nhạc làm vui: “bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.
=> Kể, tả một cách chân thực, cụ thể, sinh động có tính liệt kê.
=> Tốn kém, lố lăng, xô bồ và thiếu văn hóa.
b. Thú chơi cây cảnh:
- Ngoài ra, chúa còn cho tìm thu, thực chất là cướp đoạt những của quý trong thiên hạ: “những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian” về tô điểm nơi phủ chúa.
- Chúa còn lấy cả một cây đa to, cành lá rườm rà, rễ dài đến vài trượng từ bên Bắc chở qua sông đem về, phải một cơ binh hàng trăm người mới khiêng nổi.
- Trong phủ bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non.
=> Các sự việc vẫn kể một cách chân thực, khách quan, không xen lời bình của tác giả, nhiều từ Hán Việt, có liệt kê và miêu tả tỉ mỉ vài sự kiện để khắc họa ấn tượng.
* Cảnh nơi phủ chúa được miêu tả là cảnh thực được bày vẽ, tô điểm như “bến bể đầu non”, xa hoa lộng lẫy. Nhưng âm thanh lại gợi những cảm giác ghê rợn, bí hiểm, ma quái trước một cái gì đang tan tác đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình,phồn thực. “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng,tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cảm xúc chủ quan của tác giả đến đây mới được bộc lộ, nhất là khi ông xem đó là “triệu bất tường”- tức là điểm gở, điểm chẳng lành. Nó như báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết chăm lo đến việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của dân lành. Và lịch sử cũng đã ứng nghiệm: sau khi Thịnh Vương mất thì nhà Trịnh cũng đi vào hồi kết, khép lại một trang sử thấm đẫm những bi kịch và cũng là để mở ra một trang sử khác với những bi kịch mới báo trước sự suy vong tất yếu của chế độ phong kiến Việt Nam.
2. Sự tham lam,nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ chúa:
- Bọn hoạn quan hậu cần trong phủ chúa rất được sủng ái, bởi chúng giúp chúa đắc lực trong việc bày các trò ăn chơi hưởng lạc.
- Ỷ thế hoành hành, tác oai, tác quái. Thủ đoạn của chúng là thủ đoạn vừa ăn cướp, vừa la làng:
+ Ra ngoài dọa dẫm.
+ Dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay,thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” (dâng chúa ).
+ Đêm đến lẻn ra thành, sai lính đem về, có khi phá nhà hủy tường để đưa cây hoặc non bộ đi.
+ Dọa nạt tống tiến bằng cách vu cho là giấu vật cung phụng.
=> Đây là thái độ nhũng nhiễu, ngang ngược của bọn hoạn cung giám “nhờ gió bẻ măng”,ỷ thế nhà chúa mà ngang nhiên hoành hành, tác oai tác quái, giở trò bịp bợm,dùng mọi thủ đoạn để dọa dẫm lấy tiền cướp của của nhân dân. Điều bất công vô lí ở đây là những tên hoạn quan đó vừa vơ vét ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc nhà chúa. Chúng đã khiến cho dân chúng quanh vùng phải rơi vào một cuộc sống bất ổn, cơ cực,khi thì phải bỏ của ra để kêu oan, khi thì phải tự mình đập bỏ núi non bộ, chặt cây cảnh để tránh tai vạ…
- Để tăng thêm sức mạnh tố cáo, tác giả kể thêm một sự việc của chính gia đình mình: bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý, có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai họa. Tác giả còn nêu những địa danh “phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương” -> càng làm tăng thêm tính chân thực và vì thế sức thuyết phục càng lớn. -> Tác giả kín đáo bày tỏ thái độ căm giận trước một vương triều thối nát.
Câu hỏi 3, sgk, trang 63: Theo em, thể văn “tùy bút” trong bài có gì khác so với thể “truyện” mà các em đã học ở bài trước?
=> Trả lời:
- Tùy bút: ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể có thực. Qua đó tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình. Sự ghi chép ở đây là theo cảm hứng chủ quan, không gò bó theo hệ thống kết cấu, lối ghi chép của tùy bút giàu chất trữ tình.
- Truyện: hiện thực của cuộc sống được phản ánh thông qua số phận con người cụ thể, có cốt truyện, có nhân vật. Cốt truyện được triển khai,nhân vật được khắc họa nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng,và cả những chi tiết tưởng tượng, hoang đường.
III . LUYỆN TẬP
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 - 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vượng (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đền đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hồ vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt kín khăn, mặc áo như đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.
Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt nào?
Câu 2: Nội dung của đoạn trích trên là gì?
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 3 tới câu 7:
Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài ra đến vài trượng, phải một cơ binh khiêng mới nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường.
Câu 3: Trong đoạn trích trên câu nào sử dụng biện pháp liệt kê, nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.
Câu 4: Hình ảnh chúa trong đoạn trích trên được thể hiện như thế nào?
Câu 5: Nhận xét thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 6: Nhận xét cách ghi chép của tác giả.
Câu 7: Ấn tượng về cảnh đêm nơi vườn chúa được miêu tả thế nào?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 8 tới câu 12
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậy trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân binh lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá hủy tường nhà để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Câu 8: Đoạn trích trên sử dụng chủ yếu phương thức biểu đạt nào?
Câu 9: Bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng nhưng thủ đoạn nào?
Câu 10: Hình ảnh người dân trong đoạn trích như thế nào?
Câu 11: Qua đoạn trích em cảm nhận về tình trạng nước ta thời vua Lê - Trịnh thế nào?
Câu 12: Theo em thể văn tùy bút có gì khác so với những thể truyện các em đã học ở bài trước.
Câu 13: Qua Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, em có nhận xét gì về cách viết kí của Phạm Đình Hổ.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính: tự sự.
Câu 2: Nội dung: Thói ăn chơi xa đọa của vua chúa và nhũng nhiễu của bọn vua chúa, quan lại thời Trịnh được Phạm Đình Hổ miêu tả rất cụ thể, sinh động.
+ Chúa cho xây dựng đền đài, cung điện ở khắp nơi liên miên, thỏa ý thích chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp.
+ Chúa bày ra các cuộc dạo chơi tốn kém ở li cung: tháng ba lần, huy động binh lính dàn hầu bốn mặt hồ.
+ Nơi linh thiêng của phật giáo cũng trở thành nơi hòa nhạc của bọn vũ công.
Câu 3: Câu văn sử dụng biện pháp liệt kê: “Buổi ấy, biết bao nhiêu những loại trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.
Các từ ngữ liệt kê: trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh.
- Nhấn mạnh những thứ quý hiếm trong dân gian đều bị chúa ra sức vơ vét, chiếm làm của riêng. Chúa Trịnh là kẻ tham lam, tàn ác.
Câu 4: Hình ảnh chúa Trịnh trước ngòi bút miêu tả của tác giả Phạm Đình Hổ.
- Dùng quyền lực để cướp bóc những thứ của quý trong thiên hạ về tô điểm cho phủ chúa.
- Cảnh điển hình của cuộc cướp đoạt: bọn lính tráng khiêng một cây đa cổ thụ về phủ chúa.
- Tác giả miêu tả kĩ lưỡng, công phu, bằng ngôn từ chân thật, sống động.
Câu 5: Tác giả thể hiện thái độ căm ghét, phẫn nộ trước hành động tham lam của bọn quan lại, đặc biệt là hành động cướp bóc thức quý hiếm trong dân gian của chúa.
- Tác giả đau xót trước hiện trạng đất nước ngày càng suy yếu, còn vua chúa sa đọa, quan lại thì nhũng nhiễu, vơ vét đầy túi.
Câu 6: Cách ghi chép của tác giả trong đoạn trích: ngòi bút chân thực, việc ghi chép cụ thể, sinh động.
Câu 7: Cảnh tượng vườn đêm của chú được miêu tả bằng một câu liệt kê dài: “ Mỗi khi cảnh đêm thanh vắng… là triệu bất thường.”
- Cảnh được miêu tả là cảnh thực, gợi lại cảm giác ghê rợn trước cái tan tác, đau thương chứ không phải cảnh yên bình.
- “Triệu bất thường”, hình ảnh ẩn dụ cảnh bất thường của đêm thanh vắng như báo trước sự suy vong tất yếu của triều đại chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ.
Câu 8: Đoạn trích trên sử dụng phương thức tự sự là chủ yếu.
Câu 9: Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại ở phủ chúa.
- Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại lớn nhỏ trong phủ đều được sủng ái, chúng là tay chân đắc lực bày ra các trò ăn chơi, hưởng lạc cho chúa.
- Chúng ỷ thế vào chúa để ra ngoài ăn chơi, hưởng lạc, sách nhiễu dân chúng: “bọn hoạn quan cung giám thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”.
- Bọn quan lại ra sức cướp bóc, trấn lột khắp nơi, chúng “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Câu 10: Hình ảnh người dân khốn đốn, khổ cực, bị vu oan, bị đòi tiền trước những cuộc ăn cướp của bọn quan lại, tay sai.
+ Nhà giàu bị họ vu cho giấu của cung phụng, phải bỏ của ra kêu van chí chết.
Câu 11: Cảm nhận về tình trạng của đất nước thời vua Lê - chúa Trịnh.
- Thời đại phong kiến Lê Trịnh là thời đại thối nát, mục ruỗng, quan lại không chăm lo cho dân chúng mà ra sức cướp bóc, hà hiếp dân chúng.
- Vua chúa bày ra những trò lố lăng, kịch cỡm, tốn kém để ăn chơi, tiệc tùng.
- Nhân dân không chỉ chịu đói khổ mà còn chịu ấm ức bởi bị ấm ức vì bị bóc lột, ăn cướp.
→ Triều đại thối nát, mục riễng dự báo tiền đồ, triều ấy sụp đổ là điều không tránh khỏi.
Câu 12: Sự khác nhau giữa tùy bút với thể truyện mà em đã học từ trước.
Câu 13: Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ khẳng định bước tiến lớn trong nghệ thuật viết kí sự thời trung đại. Qua đoạn trích cho thấy:
+ Cách viết linh hoạt, lối ghi chép tự nhiên, mạch lạc, logic.
+ Lối viết chân xác, cụ thể với nhiều thông tin đáng tin cậy.
+ Sự kết hợp giữa cách tái hiện hiện thực khách quan, điềm đạm tưởng chừng như tác giả lạnh lùng của tác giả với những chi tiết được đưa vào tác phẩm một cách đầy đủ dụng ý.
+ Tùy bút của tác giả không bóng bẩy, hoa mĩ như thường thấy ở các cây bút hiện đại nhưng chất trữ tình của thiên bút kí vẫn toát lên qua những cảm xúc được gửi qua những trang viết.
ĐỀ : Viết đoạn văn từ 10 – 15 dòng nêu ý nghĩa của đoạn văn sau:
“Nhà ta ở phường Hà Khẩu … cũng vì cớ ấy”.
GỢI Ý:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm: đoạn văn được trích trong văn bản “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ.
- Tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình. Bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai họa.
- Ý nghĩa:
+ Cách dẫn dắt câu chuyện làm tăng sức thuyết phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép, cách viết phong phú và sinh động.
+ Qua đó cảm xúc của tác giả (thái độ bất bình, phê phán), cảm xúc được gửi gắm một cách kín đáo. Sự vật được kể mang tính khách quan.
+ Thủ đoạn của bọn hoạn quan khiến cho người dân phải tự hủy bỏ cây quý của nhà mình.
* Liên hệ: Trong xã hội phong kiến thời Chúa Trịnh cuộc sống của nhân dân khổ cực, oan uổng, luôn phải sống trong sợ hãi, vô lí, bất công. Một xã hội thối nát đáng để chúng ta lên án.
ĐỀ BÀI: Phân tích văn bản : “ Chuyện cũ trong phủ chúa trịnh”
Dàn ý phân tích :
I. Mở bài
- Giới thiệu những nét cơ bản nhất về tác giả Phạm Đình Hổ và tác phẩm Vũ trung tùy bút: Một tác giả mang cốt cách thanh cao của kẻ sĩ Bắc Hà lo cho dân, cho nước. Vũ trung tùy bút là tác phẩm đặc sắc tiêu biểu của ông với bút pháp nghệ thuật tinh tế
- Vài nét về đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”: phản ánh đời sống sa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê- Trịnh, đưa đến một góc nhìn chân thực về sự đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ
II. Thân bài
1. Thói ăn chơi hưởng lạc sa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm
- Sự xa hoa trong cuộc sống của chúa Trịnh Sâm đã được ghi chép lại chân thực, tỉ mỉ:
+ Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài chỉ để thỏa mong muốn “thích chơi đèn đuốc”
+ Việc xây dựng đền đài vì mục đích cá nhân này đã làm cho nhân dân hao tiền tốn của
+ Chúa thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi Tây Hồ ba bốn lần một tháng, mỗi cuộc dạo chơi lại huy động rất nhiều người hầu hạ cùng những trò giải trí lố lăng, tốn kém
+ Việc tìm thu vật “phụng thủ” chính là cướp đoạt những vật quý giá trong thiên hạ. Việc tập trung miêu tả việc đưa một cây đa cổ thụ về ừ bên kia sông, cần tới cơ binh hàng trăm người ⇒ sự kì công, cũng cho thấy sự sa hoa tốn kém
⇒ Thói ghi chép tỉ mỉ, chân thực, khách quan, không đưa thêm bất cứ một lời bình luận nào nhưng cũng đủ để cho thấy sự xa xỉ ăn chơi, không màng đến quốc gia đại sự của một người nắm binh quyền ⇒ Sự dự báo trước sụp đổ, suy vong là điều không tránh khỏi đối với một triều đại chỉ ăn chơi hưởng lạc
2. Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền
- Sự sa hoa hưởng lạc của người đứng đầu đưa đến thói nhũng nhiễu của quan lại dưới trướng:
+ Bọn hoạn quan được sủng ái vì giúp vua trong những trò chơi sa hoa nên ỷ thế hoành hành, tác oai tác quái
+ Chúng tìm thu vật “phụng thủ” mà thực ra chính là vừa ăn cướp, vừa la làng ⇒ người dân bị cướp đến hai lần, hoặc phải tự hủy bỏ những sản vật quý giá của mình, mà chúng thì lại vừa vơ vét làm của riêng lại vừa được tiếng mẫn cán
+ Phạm Đình Hổ kể câu chuyện từ chính gia đình mình khi bà mẹ ông phải sai chặt đi một cây kê và hai cây lựu quý chỉ vì muốn tránh tai họa ⇒ Càng tăng sức thuyết phục cho sự chân thực của những ghi chép
⇒ Qua cách ghi chép, tác giả đã kín đáo bộc lộ thái độ bất bình, phê phán của tác giar
III. Kết bài
- Khái quát lại những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công nội dung của đoạn trích: Cách ghi chép hết sức tỉ mỉ, chân thực, ngòi bút Phạm Đình Hổ là một ngòi bút trầm tĩnh mà sâu sắc,...
- Tác phẩm không chỉ mang giá trị văn chương mà còn mang giá trị lịch sử đáng ghi nhận
- Mở rộng trình bày suy nghĩ bản thân về những nội dung phản ánh trong đoạn trích
***************************************************
CHUYÊN DỀV4. NGUYỄN DU VÀ "TRUYỆN KIỀU".
Tác giả:
Nguyễn Du (1765-1820), tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên.
Quê ông ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Đó là một vùng quê nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng là địa linh, nơi sinh ra những bậc anh tài, hào kiệt.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở kinh thành Thăng Long nghìn năm văn hiến, lộng lẫy và hào hoa.
+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng ở ngôi Tể tướng mười lăm năm.
+ Mẹ ông là Trần Thị Tần, vợ thứ, người Bắc Ninh, có tài hát xướng.
+ Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh.
-> Vì thế, mà lúc bấy giờ, trong dân gian người ta thường truyền tụng câu ca:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây Sông Rum hết nước họ này hết quan”.
( “Ngàn Hống”: núi rừng Hồng Lĩnh; “Sông Rum” : sông Lam, ở đây là chữ Nôm cổ. Ý cả câu: Khi nào mà núi rừng Hồng Lĩnh không còn cây, dòng sông Lam không còn nước thì lúc đó dòng họ này mới hết người làm quan)
+ Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, xã hội loạn lạc, tăm tối. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết về thời đại Nguyễn Du sống:
Cha ông ta từng đấm nát tay trước cánh cửa cuộc đời Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.
+ Bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi,đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.
Thời đại ấy đã được Nguyễn Du viết trong “Truyện Kiều” bằng hai câu thơ mở đầu:
“Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cuộc đời Nguyễn Du phải trải qua những năm tháng gian truân, trôi dạt, vất vả, long đong ( Trải qua “mười năm gió bụi” Nguyễn Du lang thang hết ở quê vợ, rồi quê mẹ, quê cha trong nghèo túng, hết sức khổ cực và tủi nhục).
Nguyễn Du có ra làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, ông giữ nhiều chức vụ khác nhau: Tham tri bộ Lễ, Cai bạ Quảng Bình, Chánh sứ bộ…Nhưng đó là những năm tháng làm quan bất đắc chí.
Ông mất tại Huế năm 1820, thọ năm mươi lăm tuổi.
Nhà thơ đã sống nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều con người, nhiều cảnh đời, nhiều số phận khác nhau, đã tạo cho ông một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với mọi kiếp người bị đày đọa.
Nguyễn Du là người có trái tim giàu lòng nhân ái, nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông hàm chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn thơ Việt Nam.
Về thơ chữ Hán, ông có ba tập thơ:
+ “Thanh Hiên thi tập” ( 78 bài) được viết trước khi ông ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ “Nam trung tạp ngâm”(40 bài) viết trong thời gian ông ở Huế, Quảng Bình.
+ “Bắc hành tạp lục” ( 131 bài) viết trong thời gian Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc.
Về chữ Nôm: có bài “Văn chiêu hồn” ( Văn tế thập loại chúng sinh) được viết theo thể thơ song thất lục bát dài 184 câu. Đặc biệt là “Truyện Kiều”, với tác phẩm này đã đưa Nguyễn Du lên đỉnh cao của nền thi ca dân tộc, xứng đáng được tôn vinh “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư”.
=> Tiểu kết: Năng khiếu văn chương, vốn sống phong phú kết tinh ở một trái tim yêu thương vĩ đại đối với con người trong một bối cảnh lịch sử cụ thể đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Thiên tài ấy được thể hiện trước hết ở tác phẩm “Truyện Kiều”.
Tác phẩm:
Nguồn gốc và sự sáng tạo:
Nguyễn Du viết “Truyện Kiều” vào đầu thế kỉ XIX( 1805 –1809). Truyện dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc). Lúc đầu, Nguyễn Du đặt tên là “Đoạn trường tân thanh” ( Khúc ca mới đứt ruột hay Tiếng kêu đứt ruột) say này, người ta quen gọi là “Truyện Kiều”.
Một biểu hiện nữa về sự sáng tạo của Nguyễn Du qua “Truyện Kiều” là:
+ “Kim Vân Kiều truyện” viết bằng chữ Hán, thể loại văn xuôi, có kết cấu thành từng chương (hồi). Toàn bộ tác phẩm gồm 20 chương.
+ Đến Nguyễn Du đã trở thành tác phẩm trữ tình,viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát có độ dài 3254 câu. Ông đã có những sáng tạo lớn về nhiều mặt nội dung cũng như nghệ thuật.
Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.
Phần thứ ba: Đoàn tụ.
Giá trị hiện thực:
Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công.
Phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Giá trị nhân đạo: Giá trị chính của “Truyện Kiều” là giá trị nhân đạo. Giá trị này được thể hiện ở hai phương diện sau:
“Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người:
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim – Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc.
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải – người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả cái xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ.
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh,lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó!
“Truyện Kiều” còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo,chà đạp lên quyền sống con người. Thế lực tàn bạo đó, khi là bộ mặt bọn quan lại tham lam, đê tiện, bỉ ổi – đầu mối của mọi xấu xa trong xã hội ( Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà…), có khi lại là sự tàn phá, hủy diệt hung hiểm của đồng tiền trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, trong tay bọn người bất lương tàn bạo đã phát huy tất cả sức mạnh của nó, đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán.
Với “Truyện Kiều”,ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
Với “Truyện Kiều”,nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.
* Nhận xét về “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường chủ nhân có nói:
“…Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, thì tài nào có bút lực ấy…”
với mọi tầng lớp độc giả.
+“Truyện Kiều” không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống của nhân dân, và đã trở thành lời ăn tiếng nói của những người dân bình dị nhất cho đến những người trí thức, am hiểu về văn chương bác học.
+ Trong ca dao, người ta thấy có rất nhiều câu có vận dụng những hình ảnh trong “Truyện Kiều”. Ví dụ:
“Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Liễu xa đào liễu ngả liễu nghiêng.
Anh xa em như bến xa thuyền.
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi!”
+ “Truyện Kiều” đã trở thành sức sống của dân tộc, là thứ thưởng ngoạn cho tao nhân mặc khách của mọi thời. Có câu:
“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo, xem Nôm Thúy Kiều”.
“Truyện Kiều” còn được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Người ta đã dịch“Truyện Kiều” ra nhiều thứ tiếng và nhiều người nước ngoài đã nghiên cứu về “Truyện Kiều”.
Tổng kết:
Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.
“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học, được lưu truyền rộng rãi và chinh phục nhiều thế hệ người đọc từ xưa đến nay.
Rất nhiều những nhà văn, nhà thơ đã viết về “Truyện Kiều”:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!”
( Tố Hữu )
Đã mấy trăm năm trôi qua rồi, nhưng “Truyện Kiều” vẫn có sức sống mãnh liệt trong dân tộc Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã thay chúng ta trả lời cho Nguyễn Du câu hỏi mà người nhắn nhủ:
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
VĂN BẢN:: CHỊ EM THÚY KIỀU
CẢNH NGÀY XUÂN,
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
I.Kiến thức trọng tâm:
*. Tác phẩm
Ý nghĩa nhan đề:
Đoạn trường tân thanh: tiếng kêu mới đến xé lòng, đứt ruột bộc lộ chủ đề (tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ.
*Nội dung:
Phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và các thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống, hạnh phúc của con người. Truyện phơi bày nỗi khổ của con người bị áp bức đặc biệt những người yếu thế, phụ nữ. Ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người: tài hoa, lòng hiếu thảo, bao dung, yêu thương…
*Nghệ thuật
Truyện Kiều đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ văn học giàu và đẹp đạt đến đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật.
- Ngôn ngữ tự sự có sự phát triển vượt bậc
+ Ngôn ngữ kể chuyện có 3 hình thức: trực tiếp, nửa trực tiếp. Nhân vật trong truyện xuất hiện với con người hành động và con người cảm nghĩ.
+ Nghệ thuật khắc họa nhân vật: khắc họa theo phương thức tự sự, miêu tả bằng một vài nét chấm phá.
+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh thiên nhiên chân thực, đặc biệt những bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
* CÁC DẠNG ĐỀ THƯỜNG GẶP.
Cảm nhận vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
Cảm nhận bức tranh cảnh ngày xuân trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
II.Phân tích:
Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Du là thiên tài văn học, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
“Truyện Kiều” của ông được coi là kiệt tác ngàn đời trong kho tàng văn chương dân tộc.
Vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Dưới cái nhìn trân trọng và mến thương, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả được vẻ đẹp đặc sắc của hai cô con gái nhà họ Vượng. Vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều cũng như vẻ đẹp của từng người đã được Nguyễn Du khắc họa một cách rõ nét bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Tiếp đến, tác giả giới thiệu một cách khái quát nét đẹp chung và riêng của hai chị em:
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ”.
-> Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người.
Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
+ Chỉ hai chữ “trang trọng” đã gợi tả ở Vân một vẻ đẹp cao sang, quí phái. Vẻ đẹp ấy được so sánh với cái đẹp chuẩn mực của thiên nhiên
như “trăng”,”hoa”,”mây”,”tuyết”,”ngọc”. Dưới ngòi bút cuả thi nhân, chân dung Thúy Vân hiện ra toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc đến nụ cười giọng nói.
Khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm, lông mày sắc nét như mày ngài, miệng
cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, ý tứ. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, ắt hẳn Vân sẽ có cuộc đời bình yên, không sóng gió.
Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn.
Như vậy, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn. Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”,”mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
-Vẫn là những hình tượng nghệthuật ước lệ được nhà thơ sửdụng đểgợi tảnhan sắc nàng Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước, nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Song thi nhân không thiên về cụ thể như tả Thúy Vân mà ở đây, ông chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”– vẽ hồn của chân dung. “Làn thu thủy nét xuân sơn” – những hình ảnh ẩn dụ gợi đôi mắt trong sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cô Kiều hiện lên với vẻ đẹp khiến hoa phải ghen, liễu phải hơn, nước phải nghiêng, thành phảiđổ. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy,tả sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy. “Nghiêng nước nghiêng
thành” là cách nói sáng tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người.
Tạo hóa không chỉ ban cho nàng vẻ đẹp tuyệt vời mà còn phú cho nàng trí tuệ thông minh tuyệt đối:
Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậcngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương.
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng của Kiều đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, đủ cả cầm – kì – thi – họa. Chỉ riêng tài thơ của nàng cũng đã làm nhiều người khâm phục. Chẳng hạn, lúc đi tảo mộ “Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần”, hay khi buộc phải cầm bút đề thơ trước cửa quan liền được khen ngợi “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả “ làu bậc ngũ âm”. Nàng đã soạn riêng một khúc Bạc mệnh mà ai nghe cũng não lòng. Đây chính là biểu hiện của một con người có trái tim đa sầu,
đa cảm.
Nguyễn Du đã nhuốm màu định mệnh. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghét, phải
ghen, các vẻ đẹp khác phải đố kị. Sắc đẹp và tài năng của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa thì:
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Đây cũng là điềm báo trước về cuộc đời đầy sóng gió, chông gai của nàng.
Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Nghệ thuật tả người qua hai bức chân dung chị em Thúy Kiều
Nói về Truyện Kiều, không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Quả thật, mặc dù xuất phát từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng nếu Kim Vân Kiều không để lại dấu ấn gì trong văn học Trung quốc thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một tác phẩm lớn trong văn học thế giới.
Điều gì đã làm nên giá trị và sức sống của Truyện Kiều ? Có rất nhiều yếu tố tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Nhưng nét bút đặc sắc của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả người thì không ai có thể phủ nhận được. Ông đã sáng tạo ra những chi tiết, ngôn ngữ, tâm lý nhân vật… tạo nên một thế giới nhân vật phong phú. Chân dung chị em Thuý Kiều là một điển hình.
Với ngòi bút thiên tài, đoạn trích Chị em Thuý Kiều đã ca ngợi vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, những trang tuyệt sắc giai nhân tiêu biểu trong dòng văn học trung đại. Đó là một vẻ đẹp toàn mĩ trong tính ước lệ của văn chương:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”
Câu thơ hiện lên hình ảnh hai cô gái vóc dáng mảnh dẻ, yểu điệu như cành mai, tâm hồn trắng trong như tuyết. Nhịp thơ 3/3 tách câu thơ thành hai tiểu đối tạo âm điệu nhịp nhàng, nhấn mạnh vẻ đẹp hài hoà cân đối của hai chị em. Một vẻ đẹp đã đến độ hoàn hảo. Mượn các yếu tố thiên nhiên để lột tả vẻ đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ “mỗi người một vẻ”. Quả thật, trong tác phẩm cũng như trong đời thực, không ai hoàn toàn giống ai, chính điều ấy đã tạo nên cái diện mạo và tính cách riêng của từng nhân vật.
Đây là vẻ đẹp của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Hình ảnh ước lệ, nhưng người đọc có thể hình dung một Thúy Vân xinh đẹp, thuỳ mị, đoan trang với khuôn mặt phúc hậu, tươi thắm như trăng rằm, nụ cười rạng rỡ như hoa hàm tiếu, giọng nói dịu dàng, trong trẻo như tiếng ngọc. Nhà thơ ca ngợi mái tóc của Thúy Vân óng mượt đến mây cũng phải thua, làn da trắng ngần mà tuyết cũng phải nhường. Tạo hoá đã ban cho nàng một sắc đẹp mà biết bao phụ nữ hằng ao ước ! Một vẻ đẹp đầy chất ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại “mặt hoa da phấn”, “mắt phượng mày ngài”. Tạo hoá phải nhường bước, chịu thua trước sắc đẹp của nàng. Biện pháp nhân hoá “mây thua, tuyết nhường” kết hợp với từ ngữ gợi tả “đầy đặn, nở nang” vừa diễn tả vẻ đẹp của nàng vừa gợi lên sự tròn đầy viên mãn. Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng hài hòa, như nét đan thanh của một cô gái thùy mị, nết na chừng như dự báo một cuộc sống yên vui, tốt đẹp của nàng trong tương lai. Hạnh phúc dang rộng cánh tay chờ đợi những bước chân nhịp nhàng, khoa thai của nàng trong tương lai.
Nếu Thúy Vân là vẻ đẹp của bức tranh tố nữ, thì Thúy Kiếu là vẻ đẹp của người ngọc hiện diện giữa trần đời đầy sắc sảo, mặn mà. Hoàn tất bức chân dung Thúy Vân, nhà thơ mới từ tốn, hình như có chút hoang mang bối rối khi họa nên bức chân dung Thúy Kiều. Nếu chỉ với 4 câu thơ, chân dung Thúy Vân đã hoàn thiện thì khi tả Kiều, nhà thơ đã khẳng định:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.”
Có người nói, nhà thơ dùng Thúy Vân làm nền để tôn lên vẻ đẹp của Thúy Kiều trong nghệ thuật “tả khách hình chủ”. Lẽ nào trái tim nhân hậu của Nguyễn Du có thể làm tổn thương một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như Thúy Vân ư ? Chẳng phải đức hạnh và vẻ đẹp của Thúy Vân đã được thừa nhận, ca ngợi đó sao ? Ngòi bút nhân văn như Nguyễn Du, chắc chắn ông rất trân trọng và yêu thương nhân vật của mình. Ông yêu thương, nâng niu tất cả những tài hoa trác tuyệt ấy. Có điều đối với Thuý Vân là sự yêu thương, nâng niu trân trọng, còn đối với Thuý Kiều là sự đồng cảm, yêu thương, ưu tư cho một số kiếp con người:
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm,liễu hờn kém xanh.”
Từ “càng” vừa là sự chuyển tiếp vừa diễn tả một mức độ thái quá, một điều gì đáng lo ngại. Nỗi băn khoăn lo lắng ấy không kềm chế được nên câu trước thì khoan thai hào hứng“Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Câu thơ ngắt ra thành 2 dòng để nhấn mạnh, để điểm tô vẻ đẹp tuyệt vời ấy mà sao nghe như có gì uất nghẹn. Nguyễn Du đã sáng tạo trong miêu tả nhân vật. Chỉ một nét thần, nhà thơ không chỉ miêu tả ánh mắt, nét mày mà còn lột tả tâm hồn nhân vật. Thúy Kiều đẹp quá, ánh mắt nàng đẹp như mặt nước hồ thu mênh mông, vời vợi trong sắc xanh của mây trời, trong chút vàng của nắng, của chiếc lá thu phai. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong đáy mắt màu thu ươn ướt, man mác buồn ấy, lại chất chứa trái tim đa sầu đa cảm mà đằm thắm tình người, tình đời bao dung. Chính “làn thu thủy” ấy đã rung cảm “dầm dầm châu sa” trước nấm mồ hoang vô chủ của Đạm Tiên, rồi lại trước cơn gia biến đã quyết hy sinh mối tình đầu chớm nở với Kim Trọng mà “Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”. Rồi phải trầm luân trong mười lăm năm gió bụi cuộc đời với niết bao đắng cay tủi nhục. Nét độc đáo của thiên tài Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của nét mày nàng đẹp như dáng núi mùa xuân xanh cong quyến rũ, tràn đầy sức sống. Mùa xuân với sắc xanh mượt mà mơn mỡn “Xuân du phương thảo địa” (cổ thi), “cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du), ẩn sau “nét xuân sơn” ấy là sức sống dâng trào của cô gái “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê” (Nguyễn Du). Chính trong vẻ yêu kiều ấy, Thúy Kiều đã rung động trong lần đầu gặp Kim Trọng “hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” để rồi sau lần đầu gặp gỡ ấy trái tim dào dạt yêu thương đã tự nhủ:
“Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không.”
Rồi chính nàng đã chủ động “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tìm đến chàng Kim. Nàng đã chủ động vượt qua những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt để tìm đến mối tình đầu trong sáng. Theo những bước chân mạnh mẽ ấy, trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thể hiện một quan niệm sống, một khái niệm tự do trong hôn nhân hiếm thấy trong văn học trung đại.
Ánh mắt nét mày ấy ẩn chứa một tâm hồn đa sầu đa cảm, đầy ắp yêu thương, tràn dâng sức sống. Nhưng ngay sau vẻ đẹp tuyệt trần ấy, dường như có điều gì oan ức “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Việc gì phải ghen, phải hờn ? Thói đời là vậy ! Cái sâu sắc nhân tình thế thái, cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ chỉ nhân tả vẻ đẹp của Kiều mà đã gợi ra được một phần cuộc đởi ô trọc, nhỏ nhen sẵn sàng vùi dập cuộc đời một trang tuyệt sắc giai nhân.
Nguyễn Du đã nhấn mạnh “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Tác giả đã sử dụng điển tích, mượn ý thơ của Lý Diên Niên đời Hán Vũ Đế (Trung quốc):
“Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.”
(Quay lại một lần tướng giữ thành mất thành, quay lại lần nữa nhà vua mất nước). Câu thơ làm ta liên tưởng đến nụ cười của Bao Tự, cái liếc mắt của Điêu Thuyền, một chút nũng nịu của Dương Quí Phi, cái nhăn mặt của Tây Thi, hay nét u buồn của Chiêu Quân… - những người đẹp đã từng làm xiêu đổ bao thành trì và triều đại phong kiến Trung quốc. Tác giả ngầm so sánh Kiều như một trang quốc sắc thiên hương, một sắc đẹp có một không hai. Nhưng nàng đẹp đến nỗi thiên nhiên phải hờn ghen. Đoạn thơ đã phảng phất dự cảm về cuộc đời đầy sóng gió bất trắc của nàng Kiều.
Tạo hoá ban cho nàng không chỉ là sắc đẹp mà còn tài năng hơn người:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.”
Nàng có đủ phẩm chất, tài năng của một nghệ sĩ: Thơ ca, hội hoạ, âm nhạc nàng đều tỏ ra tài hoa rất mực. Nàng có một năng lực cảm nhận nghệ thuật tinh tế, cho thấy một tâm hồn mẫn cảm, phong phú. Nhưng có lẽ nổi bật nhất là ngón đàn:
“Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.”
Tiếng đàn ấy như phát ra từ chính con tim đa sầu đa cảm, và nó gắn với số phận đời nàng. Như một sự xui khiến của số phận, khúc nhạc nàng chọn cho riêng mình là khúc “bạc mệnh”:
“Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bậc mệnh lại càng não nhân.”
Âm điệu câu thơ như chùng xuống, như nghẹn đắng theo cung đàn. Một linh cảm về kiếp đoạn trường. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại để cô gái xuân xanh vừa chớm lại gieo cung bạc mệnh. Chừng như trong sâu thẳm tâm hồn, thiên tài Nguyễn Du đã cảm nhận, đã dự báo những nỗi bất hạnh sẽ phủ xuống đời nàng.
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng chưa thoát khỏi thuyết “thiên mệnh”: “tài mệnh tương đố”, “tài tử đa cùng, hồng nhan đa truân”. Cuộc đời mỗi người đều do số phận an bài, mệnh trời là một thế lực vạn năng “Cho hay muôn sự tại trời”, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Kiều đẹp quá, tài năng quá nên không tránh khỏi “hồng nhan bạc phận”. Thế nhưng, nếu chỉ thế thì Truyện Kiều cũng không thể trở thành tuyệt tác. Chính tấm lòng nhân hậu, chính trái tim yêu thương, trân trọng con người, nhà thơ đã phản ánh “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” để phơi bày hiện thực xã hội tàn ác bất nhân, thế lực đồng tiền và quyền lực bọn quan lại đã vùi dập, chà đạp lên ước mơ về hạnh phúc của con người, đã đẩy một nhân cách cao đẹp, một trang tuyệt sắc giai nhân vào vũng bùn tăm tối của cuộc đời.
Khép lại đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tô thêm về cuộc sống và đức hạnh của hai chị em:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Những thành ngữ “trướng rủ màn che” diễn tả cuộc sống khuôn phép, êm ấm hạnh phúc của hai cô gái con nhà tử tế, được giáo dục hẳn hoi. Một lần nữa Nguyễn Du đã khẳng định nhân cách và phong thái của hai chị em.
Khổ thơ cuối đã khép lại và hoàn chỉnh hai bức chân dung tuyệt tác của Thuý Vân và Thuý Kiều. Qua đó, người ngắm tranh không chỉ thấy được chân dung nhân vật mà còn nhìn thấy bức tranh thói đời ghét thương, đố kị. Không chỉ thấy được ngoại hình nhân vật mà còn thấy được tâm hồn tính cách của nhân vật, và dự báo cả về tương lai, số phận của nhân vật. Nguyễn Du đã đẩy nghệ thuật tả người đạt đến đỉnh cao của văn học trung đại.
II. ÔN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU.
Câu 1: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết:
"Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
a, Câu thơ trên được trích từ đoạn trích nào của Truyện kiều, nêu vị trí của đoạn trích đó.
b, Em giải thích cụm từ “ mai cốt cách, tuyết tinh thần”? Tác giả sử dụng bút pháp nghệ thuật gì?
Câu 2: Cho câu thơ:
"Vân xem trang trọng khác vời"
a, Hãy chép tiếp 3 câu thơ tiếp theo.
b, Phân tích biện pháp nghệ thuật sử dụng trong câu thơ: "Hoa cười ngọc thốt đoan trang".
c, Viết đoạn văn theo phương thức quy nạp (10 câu) nêu cảm nhận về vẻ đẹp của Thúy Vân trong đoạn trích vừa chép thơ. Trong bài viết có sử dụng lời dẫn trực tiếp và phép nối.
Cho đoạn thơ sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Câu 3: Em hiểu thế nào về hình tượng “thu thủy”, “xuân sơn”. Cách nói “làn thu thủy, nét xuân sơn” là cách nói ẩn dụ hay hoán dụ? Vì sao?
Câu 4: Dụng ý của tác giả trong câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”? Theo em có nên thay thế từ “hờn” bằng từ “buồn” được không?
Câu 5: Sử dụng câu chủ đề sau để viết đoạn văn:
“Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà cả về tài lẫn sắc”.
Câu 6: Qua cung đàn của Thúy Kiều (ở câu thơ cuối đoạn trích) em hiểu thêm gì về nhân vật này?
Câu 7: Qua đoạn trích, tác giả Nguyễn Du bày tỏ tình cảm gì với nàng Kiều?
Câu 8: Chép chính xác một câu thơ trong bài thơ em đã học trong chương trình ngữ văn THCS nói về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Câu 9: Viết đoạn văn quy nạp khoảng 10 câu để phân tích nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật của Nguyễn Du trong đoạn trích. Trong đoạn trích có sử dụng câu ghép và phép thế.
Câu 10: Hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều có những điểm nào giống và khác nhau?
Hướng dẫn trả lời
Câu 1:
Câu thơ trên được trích từ văn bản Chị em Thúy Kiều. Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của phần gặp gỡ và đính ước.
b, Cụm từ “mai cốt cách, tuyết tinh thần”:
- Mai cốt cách: cốt cách thanh tao, mảnh dẻ như cây mai.
- Tuyết tinh thần: tinh thần trong trắng, khôi nguyên như tuyết.
Câu thơ sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng để nói tới sự duyên dáng, thanh cao, trong trắng của chị em Thúy Kiều. Vẻ đẹp đạt mức hoàn hảo của hai chị em.
Câu 2:
a
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
b, Biện pháp ước lệ tượng trưng trong câu thơ “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”. Vẻ đẹp của Vân được so sánh với những điều đẹp đẽ nhất của tự nhiên: hoa, ngọc.
Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp nền nã, hiền dịu, quý phái.
c, Gợi ý viết: Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân
- Câu thơ mở đầu đoạn khái quát vẻ đẹp của nhân vật, hai chữ “sang trọng” gợi vẻ cao sang, quý phái.
- Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp nhất trên đời trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc.
+ Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt tới làn da, mái tóc, nụ cười, giọng nói.
- Tác giả sử dụng những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc: khuôn mặt phúc hậu, đầy đặn, tươi sáng như trăng tròn.
- Chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vân đẹp hơn những vẻ đẹp trong tự nhiên. Vẻ đẹp của nàng khiến tự nhiên “thua”, “nhường” dự báo cuộc đời êm đềm, không sóng gió.
Câu 3:
- Thu thủy: làn nước mùa thu.
- Xuân sơn: nét núi mùa xuân.
Cả câu thơ sử dụng hình ảnh mang tính ước lệ và biện pháp ẩn dụ gợi lên đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân.
Câu 4:
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ đẹp của một trang tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”.
- Nguyễn Du không miêu tả nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê vẻ đẹp đó.
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ đẹp có sức hút, chiều sâu đến lạ lùng.
- Không thể thay thế từ “hờn” bằng từ “buồn” bởi từ “buồn” không làm nổi bật được tính chất hờn ghen hiểm họa của tự nhiên trước vẻ đẹp của Thúy Kiều.
Câu 5:
- Tác giả rất tinh tế khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều: tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Với thủ pháp đòn bẩy, tác giả làm nổi bật vẻ của Kiều cả về nhan sắc lẫn tài năng.
+ Ngay trong câu thơ: “Kiều càng sắc sảo mặn mà” tác giả gợi lên sự sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, bức họa về nàng Kiều với đôi mắt trong sáng, long lanh thể hiện tâm hồn trong trắng, trí tuệ sắc sảo của nàng.
+ Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa ghen, liễu hờn dự báo trước cuộc đời đầy sóng gió của Kiều.
+ Thúy Vân tác giả tập trung tả về nhan sắc, với Thúy Kiều, tác giả một phần tả sắc và hai phần để tả về cái tài của nàng.
Câu 6:
Cung đàn của nàng Kiều là “cung thương lầu bậc ngũ âm” - cung đàn bạc mệnh của Kiều là tiếng của trái tim đa cảm.
- Tâm hồn Kiều đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi số phận nghiệt ngã, éo le, gian khổ của bởi “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” và trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Câu 7:
- Tác giả ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều - một trang tuyệt thế giai nhân có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
- Tác giả cũng bày tỏ sự thương xót, lo lắng trước vận mệnh của Thúy Kiều.
- Một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo ấy là đoạn trích ca ngợi đề cao những giá trị, phẩm chất con người như nhan sắc, tài hoa, nhân phẩm, khát vọng, ý thức về nhân phẩm, thân phận.
Câu 8:
Câu thơ nói về vẻ đẹp của người phụ nữ xã hội phong kiến:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
(Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)
Câu 9:
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du, khắc họa nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển.
- Tác giả sử dụng bút pháp tượng trưng để gợi tả vẻ đẹp nhan sắc, tài năng, tâm hồn, qua mỗi bức chân dung đều gửi gắm những dự báo về cuộc đời và số phận.
- Qua hai bức chân dung về Thúy Vân và Thúy Kiều đều thể hiện thái độ trân trọng ngợi ca nhưng ông ưu ái dành nhiều câu thơ miêu tả bức chân dung của Thúy Kiều nổi bật cả về nhan sắc và tài năng.
- Cái tài của tác giả là từ việc miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp về tính cách và tâm hồn đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ là dự báo về số phận con người.
+ Thúy Vân: vẻ đẹp khiến tự nhiên nhường nhịn nên nàng chắc chắn cuộc đời nàng êm đềm.
+ Thúy Kiều: vẻ đẹp khiến tự nhiên danh ghét, ghen tị, chắc chắn cuộc đời gặp nhiều sóng gió, gập ghềnh.
- Tác giả sử dụng những hình ảnh tươi đẹp nhất, ngôn từ hoa mĩ để xây dựng, miêu tả vẻ đẹp của con người đạt tới mức lý tưởng.
Đó cũng chính là cảm hứng nhân đạo cao cả xuất phát từ tấm lòng đồng cảm với mọi người.
Câu 10:
- Giống nhau: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Phong lưu rất mực hồng quần/ Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
- Khác nhau:
+ Thúy Vân: trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da…
+ Thúy Kiều: sắc sảo mặn mà/ So bề tài sắc lại là phần hơn - Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
- Quan niệm của tác giả Nguyễn Du về mối quan hệ giữa nhan sắc, tài năng và số phận.
+ Vẻ đẹp sắc sảo, lôi cuốn, tài năng hơn người → bị đố kị, ghen ghét, số phận long đong.
- Quan niệm này xuất phát từ cơ sở tâm lí - xã hội cụ thể.
III.LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước cái đẹp thật sâu sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
“Đầu lòng hai ả tố nga,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt dến trình độ điêu luyện và là một thành công đặc biệt ở Truyện Kiều. Tuy sử dụng bút pháp ước lệ mà vẫn giúp người đọc hình dung rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, để lại một ấn tượng khó phai trong lòng mỗi chúng ta.
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
“Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang thơ của Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngoài cho đến tam hồn bên trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong, thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Điều ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao độ của nhà thơ bởi lẽ ở đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ.
“Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Chỉ vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một từ “thốt” thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của Thúy Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,…, những báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò, chũng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Về mặt này, con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn.
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không phải là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về. Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh sáng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đôi mắt nàng Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa tượng trưng để tô đậm, tạo ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một náng Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ ông không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng”
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn đề cao trí tuệ và tài năng của nàng, cho thấy rằng Kiều không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người con gái vốn có thiên tư thông minh bẩm sinh và rất mực tài hoa.
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhac, mọi thứ Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa lại rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, “ăn đứt” gợi lên sự hoàn mỹ của nàng. Tài năng của Thúy Kiều qua cách khắc họa của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ tròn tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại sao Nguyễn Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen.
“Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trên mỗi từ ngữ của Tố Như. Có lúc ông đã phải thốt lên rằng:
“Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Nhưng làm sao khác được, “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi. Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiều trước vòng xoáy nghiệt ngã của định mệnh.
Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều.
“Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú quý. Hai cô gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến những chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong cảnh êm đềm của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ nào phải sự vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết, khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu mến Tố Như và nhân vật của ông khi đến với Truyên Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
*************************************
CẢNH NGÀY XUÂN
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Vị tri - Cảnh ngày xuân là đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của hai chị Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều.
2. Nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt.
- Nghệ thuật: Sử dụng nhiều hình ảnh sáng tạo, ngôn ngữ miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình có sức gợi tâm trạng con người.
II. ÔN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1.Cho đoạn thơ sau:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Câu 1: Đoạn thơ trên sử dụng kết hợp những phương thức biểu đạt nào, em hãy nêu tác dụng của cách kết hợp đó.
Trả lời:
- Đoạn thơ trên sử dụng phương thức miêu tả và tự sự.
+ Miêu tả: không gian, màu sắc, ánh sáng tươi đẹp, đặc trưng của mùa xuân.
+ Tự sự: Kể về sự việc, sự vật trong những ngày tháng 3 - tiết Thanh Minh, thời gian trôi nhanh, sắp kết thúc mùa xuân.
Câu 2: Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi cho em điều gì? Chép chính xác câu thơ có sử dụng hình ảnh “thoi” ghi rõ tên bài thơ và tên tác giả.
Trả lời:
- Hình ảnh “con én đưa thoi” ý nói: thời gian trôi nhanh, chín mươi ngày mà nay đã qua sáu mươi ngày.
- Câu thơ có sử dụng hình ảnh thoi:
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Câu 3: Qua câu thơ “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” gợi lên thời điểm nào của mùa xuân? Qua đó tác giả muốn thể hiện cảm xúc gì?
Trả lời:
Qua câu thơ: Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi, gợi lên thời gian Tiết Thanh minh trong mùa xuân.
Tác giả cảm thấy nuối tiếc, ngỡ ngàng trước sự chảy trôi nhanh chóng của thời gian.
Câu 4: Câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa sử dụng biện pháp tu từ nào? Chỉ ra tác dụng của biện pháp ấy tới việc thể hiện nội dung.
Trả lời:
Câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” sử dụng bút pháp gợi tả và biện pháp nhân hóa.
Trên nền trời xanh lam trong sáng của chiều xuân được điểm xuyết những đốm trắng của hoa lê.
+ Chữ “trắng”được đảo lên trước tạo sự mới mẻ tinh khôi, thanh khiết, kết tinh những tinh hoa của trời đất.
+ Chữ “điểm” nhấn mạnh, gợi hình ảnh bàn tay người họa sĩ tạo nên những điểm chấm phá cho bức tranh cảnh mùa xuân.
→ Câu thơ đắt giá, diễn tả vẻ đẹp tự nhiên bình dị, trong trẻo và giàu sức sống của mùa xuân.
Câu 5: Nếu thay thế từ “tận” bằng từ “rợn” thì ý nghĩa của câu thơ thay đổi không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu thay từ “tận” bằng từ “rợn” thì ý nghĩa của câu thơ sẽ thay đổi hoàn toàn.
+ Từ tận mở ra không gian bao la ngút ngàn tới hút tầm mắt, tạo cảm giác mênh mông khoáng đạt.
+ Từ rợn sẽ khiến không gian bị thu hẹp có vẻ huyền bí, không tạo được vẻ khoáng đạt cho không gian.
Câu 6: Hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa".
Hãy so sánh với hai câu thơ của Nguyễn Du khi miêu tả về vẻ đẹp của mùa xuân.
Trả lời:
Hai câu thơ cổ của Trung Quốc sử dụng hình ảnh cỏ thơm (phương thảo) trong khi câu thơ của Nguyễn Du lại thiên về việc tả màu sắc, gợi hình ảnh.
Bức tranh mùa xuân mà tác giả tạo ra mang màu sắc độc đáo, dung hòa giữa sắc độ lạnh trong sáng của nền trời buổi chiều xuân, làm thành gam nền cho bức tranh.
Sự phối màu giữa nền và khung cảnh chính của bức tranh mang lại cảm nhân mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, mùa xuân trở nên có hồn và sống động hơn.
Bài tập 2.Cho đoạn thơ sau:
Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Câu 7: Câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây” gợi đến khoảng thời gian nào trong ngày? Việc đó có tác dụng gì?
Trả lời:
Câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây” gợi tả thời gian chênh chếch xế chiều, đó là thời gian trong văn học gợi nỗi buồn.
- Việc tả cảnh hoàng hôn khi cảnh vật đang đi vào hoạt động nghỉ ngơi, tĩnh lặng, dường như con người cũng đi vào trạng thái bâng khuâng, trống trải khó tả.
- Tâm trạng con người cũng biến chuyển theo sự biến chuyển của thời gian.
- Buổi chiều sẽ gợi lên trong lòng người tâm trạng buồn man mác.
Câu 8: Các từ láy được sử dụng trong bài là những từ láy nào? Nêu tác dụng của việc sử dụng các từ láy đó.
Trả lời:
Các từ láy được sử dụng trong bài: thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ để gợi tả sắc thái cảnh vật cũng như tâm trạng của con người.
Đặc biệt từ láy “nao nao” gợi nên nét buồn khó hiểu, không thể gọi tên.
+ “Thơ thẩn”: tâm trạng nuối tiếc khi tan hội trong sự bần thần, lắng buồn.
→ Cảm giác buồn, bâng khuâng xao xuyến một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn, thiếu nữ tha thiết với vẻ đẹp của tạo vật, niềm vui với cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.
Những từ láy này đã nhuồm màu tâm trạng lên cảnh vật, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, cảnh tình càng trở nên tương hợp hơn.
Câu 9: Giải thích nghĩa của từ Tiểu khê trong câu “Bước dần theo ngọn tiểu khê”.
Trả lời:
Từ tiểu khê trong câu “Bước dần theo ngọn tiểu khê” có nghĩa là ngọn nước nhỏ, dòng suối nhỏ.
Câu 10: Trong câu thơ: “Nao nao dòng nước uốn quanh”. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ nào?
Trả lời:
Trong câu thơ “Nao nao dòng nước uốn quanh” tác giả sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình: tả cảnh gắn với tâm trạng con người, tình và cảnh tương hợp, cảnh thể hiện tâm trạng của con người, tâm trạng nhuốm màu lên cảnh vật.
Chị em Kiều khi trở về sau khi tan hội trong sự tiếc nuối, bần thần, bâng khuâng khó tả.
Cảm giác nao nao khó tả đã mở ra vẻ đẹp tâm hồn tha thiết với cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.
Câu 11: Theo em, bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du có gì đặc sắc?
Trả lời:
- Bút pháp tả cảnh của tác giả là bút pháp kết hợp giữa gợi và tả, tả cảnh ngụ tình gợi lên tâm trạng tiếc nuối, thơ thẩn, quyến luyến của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.
+ Tác giả sử dụng nhiều từ láy vừa gợi tả cảnh sắc vừa nêu bật được tình cảm, tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
- Trong đoạn trích có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc: cảnh ngày xuân, cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh thông qua bút pháp tả và gợi.
Câu 12: Cảm nhận bức tranh phong cảnh được miêu tả trong 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân.
Trả lời:
- Hai câu thơ : Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thời gian chiều tà thường xuất hiện trong văn học gợi lên nỗi buồn, những điều ảm đạm, hiu hắt.
+ Thời gian chiều tà cũng nhuốm màu tâm trạng bần thần, thẫn thờ của chị em Kiều khi phải chia tay với hội.
+ Cảnh vật và con người cùng chìm trong tâm trạng bâng khuâng khó tả, tâm hồn của con người cũng chuyển điệu cùng tâm hồn, cảnh vật.
- Cảnh vật như lắng dần, mọi chuyển động đi vào nhẹ nhàng, mang dáng dấp nhỏ bé, phảng phất nỗi buồn.
- Tác giả sử dụng nhiều từ láy: nao nao, tà tà, thanh thanh không những biểu đạt được sắc thái của cỏ cây, cảnh vật lúc hoàng hôn mà còn góp phần thể hiện được tâm trạng của nhân vật.
- Hai câu thơ cuối, gợi lên nét buồn khó hiểu, mơ hồ, mông lung khi tác giả dùng từ láy “nao nao”.
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình càng nhấn mạnh thêm tâm trạng tiếc nuối, buồn bã khi tan hội.
⇒ Cảnh vật mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân đã nhuốm màu tâm trạng tiếc nuối, thẫn thờ của chị em Kiều khi tan hội.
III.LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Bài tập 1..Cảm nhận bức tranh cảnh ngày xuân trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”.
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du trình bày bối cảnh Thúy Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đó là cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh,chị em Kiều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc “bộ hành chơi xuân” của chị em Thúy Kiều.
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
+ Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én chao liệng trên bầu trời tràn ngập ánh xuân tươi tắn, trong sáng. Đồng thời, thông qua bút pháp nghệ thuật ẩn dụ tinh tế, nhà thơ cũng ngụ ý thời gian trôi nhanh quá như “con én đưa thoi”, chín mươi ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi” ( (tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và đã bước sang tháng ba). Cách tính thời gian, sự cảm nhận về thời gian của thi nhân thật sâu sắc, tinh tế và thi vị. Hai chữ “thiều quang” không chỉ gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân mà còn gợi lên cái mênh mông bao la của đất trời mùa xuân. Cảnh ngày xuân hiện nên trong thơ Nguyễn Du vừa bình dị vừa sống động.
+ Có lẽ đây là thời điểm đẹp nhất:
Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm mộtvàibông hoa
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họanữa. Thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Điểm xuyết, chấm phá trên nền xanh bất tận ấy là sắc tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác khoe sắc, khoe hương. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa”, Nguyễn Du chỉ thêm một chữ “trắng” cho cành lê mà bức tranh mùa xuân đã khác. Không gian như khoáng đạt,trong trẻo và nhẹ nhàng hơn, cảnh đẹp mà có hồn, chứ không tĩnh tại, chết đứng. Bằng nghệ thuật đảo ngữ “trắng điểm”, thi nhân đã tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh, tô đậm sắc trắng của hoa lê nổi bật trên nền xanh non của cỏ. Màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống ; khoáng đạt, trong trẻo ; nhẹ nhàng, thanh khiết . Nguyễn Du quả là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ. Chỉ với hai câu thơ, bằng một vài nét chấm phá, mà thi nhân đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, diễm lệ và hấp dẫn lòng người. Ẩn sau những vần thơ là cả một tâm hồn nhạy cảm của tác giả trước vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên, là niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống đến tha thiết!
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Một bức tranh có lễ, có hội, có gần, có xa, có sự tham gia của rất nhiều người, nhất là nam thanh, nữ tú “nô nức yến anh”. Tác giả vừa sử dụng cách nói ẩn dụ, hoán dụ vừa sử dụng hàng loạt động từ, danh từ, tính từ ghép láy hai âm tiết: “gần xa”, “yến anh”, “chị em”, “giai nhân”, “nô nức”, “sắm sửa”, “dập dìu”, “ngổn ngang”… làm cho không khí lễ hội trở nên sống động, rộn ràng.
Bức tranh mùa xuân trong tiết Thanh minh đã gợi lên nét đẹp truyền thống của văn hóa lễ hội ngày xưa. Các trang tài tử giai nhân vui xuân mở hội nhưng không quên những người đã mất:
Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Cuộc vui rồi cũng đến hồi kết thúc. Sáu câu thơ cuối là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở vê. Bức tranh tả cảnh ngụ tình mẫu mực, cổ điển trong “Truyện Kiều”, mỗi bức tranh thiên nhiên còn là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Đây là cảnh chiều xuân rất đẹp nhưng thoáng buồn. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt,khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang.Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, không khí nhộn nhịp , rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần.
Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”,”nao nao”… không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi
vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh
khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
BT2: CẢNH NGÀY XUÂN
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:
Ngày xuân con én đưa thoi,
.........
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của "Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn tượng. Không gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều quang" - ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân", Nguyễn Du không chỉ nói lên một lờithoong báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:
ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có thể hôm nay, sau hơn hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,
............
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.
Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
nhà thơ, ngôn ngữ như chạm khắc, như thoát khỏi khuôn khổ trói buộc của công thức, ước lệ để làm sống lại bức tranh xuân và tâm trạng con người. Cả một khung cảnh xuân thơ mộng, tràn đầy ấy như hiện ra trước mắt. Ta bỗng nhớ đến những ngày ngây thơ, trong sáng của kiều rồi ngẫm lại chẵng đường trôi dạt mười lăm năm của người phụ nữ tài sắc ấy mà cảm thương cho số phận một con người. Bỗng nhớ tới lời thơ của Chế Lan Viên đến nao lòng:
Ta yêu những Hịch, những Bình Ngô gọi lòng ra hỏa tuyến,
Nhưng không quên ngọn lau trắng bên đường Kiều thồi lại tự xa xưa.
****************************************************
VĂN BẢN: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Vị trí đoạn tríc
- Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và Lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều không chịu tiếp khách làng chơi, Tú Bà sợ mất vốn nên giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu mới, đê tiện, tàn bạo hơn
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Miêu tả chân thực sự cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng chung thủy, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
- Nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình.
II. ÔN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1:Cho đoạn thơ sau:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Câu 1: Em hãy nêu nội dung của đoạn thơ trên?
Trả lời:
Đoạn trích diễn tả nỗi nhớ thương cha mẹ và người yêu của Thúy Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Câu 2: Cụm từ “tấm son” có nghĩa gì?
Trả lời:
“Tấm son” là từ ngữ dùng để chỉ tấm lòng son sắt, thủy chung, khôn nguôi nhớ về Kim Trọng của Thúy Kiều.
Cũng có thể Kiều đang cảm thấy tủi hờn, nhục nhã khi tấm lòng son bị vùi dập, hoen ố, không biết gột rửa thế nào cho hết.
Câu 3: Nêu dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sử dụng từ “tưởng” và “xót” trong đoạn thơ trên.
Trả lời:
- Từ “tưởng” gợi lên được nỗi lòng khắc khoải, nhớ mong về người cũ tình xưa của Thúy Kiều. Trong lòng nàng luôn thường trực nỗi nhớ người yêu đau đớn, dày vò tâm can.
- Từ “xót” tái hiện chân thực nỗi đau đớn đến đứt ruột của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Nàng không thể ở cạnh báo hiếu cho cha mẹ, nàng đau đớn tưởng tượng ở chốn quê nhà cha mẹ đang ngóng chờ tin tức của nàng.
Câu 4: Thành ngữ nào được sử dụng trong đoạn trích trên?
Trả lời:
Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” được sử dụng nhằm nhấn mạnh nỗi đau xót dày xé tâm can của Kiều khi lo lắng nghĩ về cha mẹ. Nàng băn khoăn không biết cha mẹ có được phụng dưỡng, chăm sóc chu đáo không.
Câu 5: Em hãy nhận xét về trình tự thương nhớ của Thúy Kiều trong đoạn trích trên. Theo em thứ tự đó có hợp lý không?
Trả lời:
Trình tự thương nhớ của Thúy Kiều: nhớ Kim Trọng trước, sau đó nhớ cha mẹ. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, thật ra lại là rất hợp lý.
+ Kiều bán mình chuộc cha mẹ và em là đã thể hiện sự hiếu đễ của bản thân với công lao cha mẹ, nên nàng phần nào đỡ day dứt.
+ Đối với Kim Trọng, Kiều nhận thấy mình như một kẻ phụ tình, không đền đáp được tình cảm và tấm lòng của người yêu.
Câu 6: “Người tựa cửa hôm mai” được nói tới trong đoạn thơ trên là ai? Những suy nghĩ của nàng Kiều về người đó được thể hiện như thế nào?
Trả lời:
“Người tựa cửa hôm mai” được nói tới trong đoạn thơ trên chính là cha mẹ Kiều.
- Kiều cảm thấy đau đớn, xót xa khi tưởng tượng ở quê nhà, cha mẹ và nàng vẫn tựa cửa ngóng đợi tin tức về nàng.
- Nàng xót thương, cảm thấy day dứt khi không thể “quạt nồng ấp lạnh” phụng dưỡng song thân.
Câu 7: Viết đoạn văn theo phương pháp diễn dịch nêu cảm nhận của em về tâm trạng của nhân vật Kiều trong đoạn thơ trên.
Trả lời:
Kiều một mình trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng thì nỗi cô đơn của Kiều càng lúc càng dâng cao, và tâm trạng thương nhớ người yêu và người thân khắc khoải, da diết.
- Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng: Kiều luôn day dứt vì không thể đáp lại tình cảm và tấm lòng của Kim Trọng.
+ Nỗi nhớ về cảnh thề nguyền khiến Kiều thấy thương thân tủi phận, nàng thấy lại kỉ niệm thiêng liêng trong niềm nuối tiếc.
+ Thương xót, đau đớn nghĩ rằng Kim Trọng sẽ ngóng đợi khi không thấy Kiều.
+ Tấm lòng son sắt của nàng bị vùi dập, hoen ố không biết bao giờ gột rửa cho được.
→ Nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ da diết, đau đớn tới dày xé tâm can.
- Nỗi nhớ cha mẹ: thấy “xót” khi tưởng tượng cha mẹ vẫn ngóng đợi nàng.
+ Kiều tưởng tượng cha mẹ nơi quê nhà già yếu đi, không biết có ai chăm sóc chu đáo.
+ Mỗi khi nhớ về cha mẹ nàng luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dưỡng của cha mẹ.
→ Nỗi nhớ thương của Kiều nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng thật xót xa, đau đớn. Nàng đã quên đi nỗi khổ, thực trạng của bản thân để hướng về người thân. Trái tim của nàng giàu tình yêu thương và đức hi sinh.
⇒ Kiều là người chung thủy, người con hiếu thảo, một người giàu đức hi sinh, lòng vị tha cao cả, đáng trân trọng.
Bài tập 2:Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xăm
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Câu 8: Cảnh vật trong đoạn thơ được miêu tả theo những trình tự nào?
Trả lời:
Cảnh vật trong đoạn thơ được miêu tả theo trình tự từ xa tới gần.
Từ “cửa bể chiều hôm” tới “ghế ngồi”, bốn khung cảnh khác nhau:
+ Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển.
+ Những cánh hoa lụi tàn trôi man mác trên ngọn nước mới.
+ Nơi cỏ héo úa, rầu rầu.
+ Cảnh tưởng tượng sóng quanh ghế ngồi.
→ Diễn đạt nỗi buồn dâng lên đầy ắp, càng ngày như muốn nhấn chìm Kiều trước cuộc bể dâu.
Câu 9: Trong đoạn trích trên điệp từ “buồn trông” có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu, khắc họa nỗi buồn trông ra bốn phía, ngóng đợi những thứ xa xôi, mơ hồ làm thay đổi hiện tại bế tắc.
- Buồn trông cái thảng thốt, lo âu, mỗi sợ hãi của người con gái non nớt khi lạc vào cuộc đời ngang trái.
- Cụm từ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với những sắc thái cao độ khác nhau.
- Điệp ngữ lại kết hợp với các từ láy chủ yếu là từ láy tượng hình, dồn dập, tạo nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày càng dâng kín bủa vây lấy Kiều.
- Điệp ngữ tạo nỗi buồn trầm hùng, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Câu 10: Em hãy nêu tác dụng của hai câu hỏi tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên.
Trả lời:
Câu hỏi tu từ: “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
- Hình ảnh cánh buồm nhỏ, đơn độc giữa mênh mông sóng nước, cũng giống như tâm trạng của Kiều trong không gian thanh vắng ở hiện tại nghĩ tới tương lai mịt mù của bản thân.
+ Nàng cảm thấy lênh đênh giữa dòng đời, không biết ngày nào mới được trở về với gia đình, đoàn tụ với người thân yêu.
Câu hỏi tu từ: “Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Những cánh hoa trôi vô định trên mặt nước càng khiến Kiều buồn hơn, nàng nhìn thấy trong đó số phận lênh đênh, chìm nổi, bấp bênh giữa dòng đời ngang trái.
Kiều lo sợ không biết số phận của mình sẽ trôi dạt, bị vùi lấp ra sao.
Câu 11: Ghi lại các từ láy có trong đoạn thơ trên và cho biết dụng ý nghệ thuật của chúng.
Trả lời:
Các từ láy được sử dụng trong bài: man mác, thấp thoáng, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm.
- “thấp thoáng”: gợi tả sự nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của ánh mặt trời sắp tắt.
- “man mác”: sự chia ly, chia cách biệt, khi Kiều càng ngày càng thấy bản thân lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi ba chìm sóng nước.
- “xanh xanh”, “ầm ầm”: chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đang đổ dồn tới đè nặng lấy tâm trạng và kiếp người nhỏ bé của Kiều.
Câu 12: Em hãy so sánh hai câu thơ của Nguyễn Du: Cỏ non xanh tận chân trời.
Hãy chỉ ra nội dung của câu thơ đó với câu: Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Trả lời:
- Câu thơ: Cỏ non xanh tận chân trời là câu thơ trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, diễn tả hình ảnh đẹp đẽ về sức sống của mùa xuân. Màu xanh của cỏ non ngút ngàn tới chân trời, mở ra không gian khoáng đạt, giàu sức sống.
- Câu thơ: Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Nội cỏ “rầu rầu” là hình ảnh “sắc xanh héo úa” mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây tới mặt đất, không còn cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm.
Màu xanh của sự héo tàn gợi cho Kiều một nỗi nhàm chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô đơn, quạnh quẽ vô vọng vì sống cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày sống vô vị tẻ nhạt không biết kéo tới bao giờ.
Câu 13: Phân tích hình ảnh ẩn dụ:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Trả lời:
- Nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” là sự tưởng tượng của Kiều trước thực tại mù mịt, chênh vênh của Kiều.
- Âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập xuống cuộc đời nàng và còn tiếp tục đè lên kiếp người đè nặng lên trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công.
- Tất cả những đợt sóng đang gầm thét trực chờ nhấn chìm Kiều, nàng không chỉ buồn mà là sợ, kinh hãi trước khi rơi vào vực thẳm một cách bất lực.
Nỗi buồn đã lên tới đỉnh điểm khiến Kiều thực sự tuyệt vọng.
→ Cảnh vật được nhìn thông qua lăng kính tâm trạng của Kiều “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Câu 14: Cảm nhận về nàng Kiều trong đoạn văn trên (khoảng 7 - 10 câu).
Trả lời:
Chỉ với 8 câu thơ tả thực cảnh nhưng thực chất là tâm cảnh đã nói lên sự vô định, buồn bã, nỗi lo âu kinh hãi dồn tới đỉnh điểm trong cảm xúc của Kiều. Hình ảnh cánh buồm xa xa nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt khi thể hiện được nội tâm nhân vật Kiều. Cánh buồm nhỏ nhoi vô định cũng chính là hình ảnh Kiều vẫn lênh đênh giữa dòng đời không biết khi nào mới về đoàn tụ với gia đình. Tiếp nối là hình ảnh những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên mặt nước mới xa thì Kiều lại càng buồn hơn bởi nàng nhìn thấy thân phận vô định giữa dòng đời của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu như khắc họa sâu thêm nỗi buồn không lối thoát của Kiều. Nàng vô vọng vì những chuỗi ngày vô định xung quanh tẻ nhạt, không biết kéo tới bao giờ. Dường như nỗi buồn ngày càng tăng lên tới vô định, dồn dập. Nỗi buồn và sợ hãi dâng lên tột đỉnh, khiến Kiều rơi vào tuyệt vọng. Tất cả như muốn nhấn chìm, à dìm Kiều xuống tận đáy của sự đau khổ cùng cực.
Câu 15: Nhận xét tình cảm của tác giả đối với Thúy Kiều.
Trả lời:
Tác giả xót thương trước thân phận và hoàn cảnh của Kiều. Tác giả tái hiện chân thực nỗi đau, nỗi buồn và sự tuyệt vọng của Kiều trong những ngày tháng vô định, mù mịt, không có tương lai.
Tác giả thấu hiểu cặn kẽ nỗi cô đơn, buồn tủi mà Kiều đang phải đối mặt, vì thế mà ông có thể diễn tả thông qua hình ảnh của ngoại cảnh nhưng chạm tới được dụng ý nghệ thuật của mình.
Cảnh thiên nhiên trong bài cũng chính là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc chân thật của mình.
Câu 16: Phân tích biện pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích trên bằng đoạn văn tổng phân hợp có sử dụng phép thế và phép lặp (gạch chân phía dưới các phép liên kết đó).
Trả lời:
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong đoạn thơ cuối bài (8 câu cuối) chính là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.
Để diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển để khắc họa tâm trạng của Kiều trong lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Mỗi biểu hiện của cảnh chính là ẩn dụ về tâm trạng con người, mỗi một cảnh khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau trong khi nỗi buồn ấy lại ẩn chứa tâm trạng.
Thông qua điệp từ “buồn trông” kết hợp cùng với hình ảnh đứng sau và hệ thống các từ láy tượng hình, gợi sự dồn dập, chỉ có một từ tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng lên, lớp lớp nỗi buồn vô vọng, vô tận.
III. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
BT1hân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
DÀN Y
Mộng Liên Đường đã từng nói: “Nguyễn Du có con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Và với con mắt tinh tế, nhạy cảm nhất, Nguyễn Du đã nhìn thấu tâm hồn Thúy Kiều để rồi thấu hiểu mọi tâm tư, nỗi lòng của nàng bằng cả trái tim yêu thương và trân trọng. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã rất thành công trong việc miêu tả tâm trạng nàng Kiều với những diễn biến tâm lí đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Thúy Kiều là một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng nàng phải nếm trải một cuộc đời đầy sóng gió, chìm nổi. Người con gái giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp ấy phải hi sinh mối tình đầu dang dở để làm tròn chữ hiếu. Khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh đầy cay đắng và tủi nhục, nàng đã định tự vẫn kết liễu cuộc đời mình nhưng Tú Bà độc ác đã giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích. Thúy Kiều đã phải một mình đối chọi với sự cô đơn, trống trải đến tuyệt vọng giữa không gian mênh mông, hoang vắng ở nơi đây:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng.
+ “Khóa xuân” nghĩa là khóa kín tuổi xuân, chôn vùi tuổi thanh xuân tươi đẹp ở nơi đây. Ở lầu Ngưng Bích lúc này Kiều chỉ có một mình, quạnh hiu và trơ trọi, chỉ biết làm bạn với ánh “trăng gần” và thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích mà thôi. Nhìn ra xung quanh là cả một không gian bao la xa vời. “Bốn bề” là “cát vàng”, là “bụi hồng”, không một nếp nhà, không một bóng người. Dường như cảnh vật bị bao trùm bởi một nỗi buồn nặng trĩu, u uất. Nỗi buồn đau trong Kiều đang thấm vào cảnh vật, hòa vào cảnh sắc thiên nhiên.
Cuộc sống của Kiều như bị tách khỏi thế giới bên ngoài, không một chỗ đứng, chơ vơ, lơ lửng trên một tòa lầu cao ngất. Kiều cố đưa ánh mắt nhìn ra xung quanh, mong ngóng tìm thấy bóng dáng của con người nhưng vô vọng. Trước mắt nàng chỉ là cồn cát hoang vu, bụi đường gió cuốn mịt mùng. Không gian dường như trải dài vô tận, rất hoang vắng, quạnh hiu, buồn thương như chính tâm trạng của Kiều vậy!
+ Tháng ngày đằng đẵng trôi qua, trang trải với dòng thời gian tuần hoàn khép kín: sớm làm bạn với mây trời, đêm đến làm bạn với ánh đèn khuya leo lét…cuộc đời dài cô độc, mòn mỏi, không sức sống, không một niềm tin hi vọng. Không một ai hiểu được tâm trạng của nàng, chia sẻ với nỗi buồn đau trong nàng, chỉ có một mình nà ng đối diện với chính bản thân mình. Nỗi buồn vì thế mà ngày càng giằng xé, không khi nào cạn vơi và dường như mở ra vô cùng với không gian, cảnh vật. Thúy Kiều bỗng thấy mình thật nhỏ bé, đáng thương, khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi ngoài kia? Khung cảnh nhuốm màu tâm trạng càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều. Bốn chữ “như chia tấm lòng” đặc tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau đớn. Ta như đồng cảm với Thúy Kiều, buồn chung nỗi buồn trong lòng nàng. Một đời tài sắc, hiếu nghĩa, thủy c hung bị giam hãm, còn gì đáng thương, đáng tiếc hơn thế?
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ
Thúy Kiều đang hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc bên người mình yêu thương. Chén rượu thề nguyền dưới ánh trăng giữa nàng với Kim Trọng vẫn còn đang hiện hữu mồn một trong tâm trí nàng. Tình yêu đẹp đẽ, trong sáng vừa nảy nở bỗng nhiên bị chia phôi. Nàng nhớ Kim Trọng, nhớ lại lời thề ước nhưng chính nàng đã phụ lời thề, phụ chàng Kim. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà dùng chữ “tưởng”. Tưởng vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu. Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu mình cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng. Nhưng chàng đâu có hay biết, Thúy Kiều đã thuộc về người khác, tự bán thân vào nơi hang hùm, miệng rắn, đang một mình bơ vơ nơi góc bể chân trời ngày ngày ngóng trông:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
“Tấm son” ở đây là tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng đối với Kim Trọng. Nhưng giờ đây đâu còn nguyên vẹn như trước nữa!Tình yêu mà nàng danh cho chàng Kim sẽ mãi mãi không thay đổi, không bao giờ phôi pa, mờ nhạt, thế nhưng…tấm lòng son sắt trong trắng đã bị vùi dập, hoan ố, không biết bao giờ gột rửa cho sạch. Đó chính là điều khiến nàng đau đớn, xót xa nhất, trái tim nàng đã nát tan. Nàng thấy mình không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa, không xứng đáng với tình yêu bấy lâu chàng dành cho mình. Nỗi ân hận, đắng cay đang trào dâng trong nàng, dày vò, cắt rứt lương tâm người con gái…Các động từ “tưởng”,”trông”,”chờ”,”bơ vơ”,”gột rửa”,”phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại đặc sắc cực tả tâm trạng Thúy Kiều. Cái tình trong ngòi bút của Nguyễn Du đã chạm tới cái hồn sâu thẳm trong Kiều…
+ Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ nơi quê nhà:
Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành. Nàng xót xa vô hạn nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần. Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người “quạt nồng ấp lạnh” chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay. Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai,gốc Tử” để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ. Thúy Kiều vô cùng day dứt, ân hận vì đã phụ công dưỡng dục, sinh thành của cha mẹ. Những lúc cha mẹ cần chăm sóc, cần đỡ đần nhất thì mình lại không có ở bên để phụng dưỡng. Điều đó khiến nàng cắt rứt biết bao nhiêu.
+ Lưu lạc, bơ vơ, trăm cay nghìn đắng, nhưng Kiều vẫn nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ, cho người mình yêu. Tình cảm ấy thật thiết tha, nhân hậu, đáng quý, đáng trọng biết nhường nào! Tại sao Nguyễn Du lại để nàng Kiều nhớ đến người yêu trước chứ không phải là nhớ đến cha mẹ trước tiên? Bởi vì, Thúy Kiều cho rằng, việc nàng bán mình chuộc cha và em cũng là một phần đáp đền chữ hiếu cho cha mẹ. N hưng đối với chàng Kim, nàng chưa đáp đền được tình cảm cho nàng mà còn phụ lời ước nguyện, phụ tình yêu đầu đẹp đẽ. Như vậy, Thúy Kiều là một người con gái thấu tình đạt lí, hiểu tường tận
lí lẽ ở đời. Nàng vừa là người con hiếu thảo, vừa là người tình thủy chung. Nguyễn Du đã sử dụng những ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và nét riêng độc đáo trong miêu tả tâm trạng nhân vật tạo nên những vần thơ biểu cảm, thấm thía nghĩa tình mà tràn ngập niềm xót thương vô hạn.
Sau nỗi nhớ thương là nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi buồn đau như giằng xé tâm can, cứ xiết chặt lấy tâm hồn nàng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bức tranh phong cảnh nhuốm màu buồn tê tái. Nguyễn Du đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Cảnh vật đượm buồn một vẻ thê lương, chia lìa tan tác bởi nó được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía, nỗi buồn vời vợi mênh mông giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. “Buồn trông” là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi cuộc sống hiện tại. Nhưng trông mà vô vọng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Thúy Kiều trông về “cửa bể chiều hôm”. Bầu trời đã dần tối, tối như chính cuộc đời nàng Kiều – tối tăm, u ám, không lối thoát. Trên cái nền trống vắng ấy xuất hiện một chiếc thuyền “thấp thoáng”, “xa xa” lạc lõng, cô đơn. Cánh buồm mờ mờ, ảo ảo, chợt ẩn, chợt hiện không rõ, mơ hồ như ảo ảnh ở phía cuối chân trời. Con thuyền ấy cũng cô đơn, cũng lưu lạc một mình, lạc lõng giữa đất trời mênh mông. Con thuyền ấy có khác chi cuộc đời Kiều đơn độc, vô định, lặng lẽ trôi giữa dòng đời trôi nổi…
Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trước mắt Kiều là dòng nước chảy trôi vô định. Nước chảy làm cánh hoa “trôi man mác”, bồng bềnh, lặng lẽ, buồn bã, không phương hướng… Cuộc đời Kiều nào có khác thế? Cuộc đời Kiều giờ đây cũng mỏng manh tan tác, vô định như cánh hoa kia, không
biết phiêu dạt đến phương trời xa xăm nào nữa…Lòng đã buồn, cảnh lại quá đỗi buồn thương…
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng… “nội cỏ rầu rầu” dàn trải típ tắp tới tận chân trời xa. Vẫn không có một bóng cây, chẳng một bóng nhà để phá bớt cái màu xanh đơn điệu ấy. Màu cỏ không phải là màu xanh tươi tốt mà “rầu rầu” buồn bã, héo hắt không chút sức sống. Ấy thế mà màu xanh ấy cứ trải rộng ra mãi, nối tiếp với vùng trời mênh mang mờ mịt. Màu xanh ấy nhợt nhạt,xa xôi làm gợi lên một nỗi niềm ngao ngán tẻ nhạt vô cùng. Và có lẽ, màu xanh ấy là màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau của Thúy Kiều. Tương lai của nàng cũng mờ mịt, ủ ê như chính sắc cỏ vậy…không sức sống, không niềm tin, vô vọng và đầy ngao ngán…
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi
Dường như đến đây, nỗi buồn đã dâng cao đến đỉnh điểm, đang trào dâng mạnh mẽ như vỡ ra trong lòng Kiều. Gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng gào thét “ầm ầm” như chực cuốn phăng đi tất cả mọi thứ hiện hữu, kể cả Kiều. Nàng cảm nhận thấy tiếng sóng đang bủa vây xung quanh, như bao bọc lấy nàng, xiết chặt, gào thét trong tâm hồn nàng. Thúy Kiều dường như không còn lối thoát. Từng lớp sóng như muốn nhấn chìm nàng xuống vực thẳm đáng sợ! Chi tiết này đã dự báo trước cuộc đời nàng sẽ vẫn còn nhiều sóng gió, hiểm họa phía trước. Kiều đã phải gánh chịu quá nhiều thương đau, mất mát vậy mà vẫn chưa đủ, dòng đời vẫn cuốn nàng đi, xô đẩy, vùi dập số phận mong manh nhỏ bé của nàng…
Một lần nữa, Nguyễn Du đã chạm ngòi bút đến đáy sâu tâm hồn Thúy Kiều. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả ngoại cảnh đều mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và bất hạnh của một người con gái tài sắc. Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt những từ láy “thấp thoáng”,”xa xa”, “man mác”,”rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm” tạo nên âm điệu trầm buồn ghê sợ. “Buồn trông” được lặp lại bốn lần ở đầu câu như cất lên tiếng kêu ai oán, đau thương não nề. Tám câu thơ khổ cuối như một bài ca buồn cất lên thổn thức khiến người đọc rưng rưng xúc động. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du vô cùng đặc sắc và tinh tế đã khắc họa lên bức tranh tâm trạng Thúy Kiều vừa có màu sắc, vừa có âm thanh. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du rất điêu luyện. Cảnh mang hồn người, cảnh và tình hòa hợp, sống động, giàu trị biểu cảm. Tám câu thơ cuối là linh hồn của cả đoạn thơ, để lại trong lòng người đọc những âm vang mạnh mẽ nhất!
VĂN BẢN: “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Quê cha ở Thừa Thiên – Huế, ông được sinh tại quê mẹ ở Gia Định.
Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều khổ đau,bất hạnh:
+ Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết.
+ Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường Gia Định.Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹmất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang mẹ (1849).Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Ông bị người yêu bội ước, công danh dang dở.
Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu đã ngẩng cao đầu sống một cuộc sống có ích: mở trường dạy học, bốc thuốc chữ bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh:
+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ,được nhiều thế hệ học trò
kính yêu.
+ Là thầy thuốc, ông xem trọng y đức, lấy việc cứu người làm trọng.
+ Là nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu quan tâm đến việc dùng văn chương để hướng con người đến cái thiện, đến một lối sống cao đẹp, đúng đạo lí làm người. Khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, ông dùng thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu còn là tấm gương sáng ngời lòng yêu nước và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm:
+ Ông là lá cờ đầu trong nền thơ ca yêu nước chống Pháp. (Lên lớp 11, các em sẽ được học hai tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu viết về nội dung yêu nước. Đó
là “Chạy giặc” và “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”).
+ Ngay từ những ngày đầu giặc Pháp xâm lược Nam Bộ (1858),Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm; kiên quyết giữ vững lập trường kháng chiến; cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn bạc việc chống giặc và sá ng tác thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đầu của các nghĩa sĩ. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu có tác động tích cực đối với cuộc chiến đấu của nhân ta đương thời. Bởi vậy, mà ông được mệnh danh
là “Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (ý thơ Tùng Thiện Vương).
+ Khi triều đình nhà Nguyễn bại nhược, bất lực đến mức phải dâng cả Nam Kì lục tỉnh cho giặc Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao khí tiết,giữ gìn lối sống trong sạch, cao cả, từ chối mọi cám dỗ của thực dân, không chịu hợp tác với kẻ thù.
+ Truyền bá đạo lí làm người như “Truyện Lục Vân Tiên”, “Dương Từ - Hà Mậu”…
+ Cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước như “Chạy giặc”,”Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,”Thơ điếu Trương Định”…
*Trong một bài viết của mình, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có những lời so sánh, ví von diệu vợi để tưởng nhớ tới nhà thơ, người chiến sĩ yêu nước đầy tự hào của dân tộc ta ở thế kỷ 19 – N guyễn Đình Chiểu:
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, thoạt nhìn thì chưa thấy sáng, song càng nhìn thì càng thấy sáng. Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ yêu nước vĩ đại của nhân dân Nam Bộ thế kỉ XIX là một trong những ngôi sao như thế!”.
* “Một con người tật nguyền như vậy, nếu chỉ sống bình thường, trong sạch cũng là quý, không ai nỡ đòi hỏi phải gánh vác việc đời. Ấy mà cụ đã sống và đã làm việc với ba cương vị trí thức, luôn luôn có mặt ở phía trước, luôn luôn gương mẫu, cống hiến không kể mình, và như vậy cho đến ngày từ giã cõi đời. Còn có tấm gương người mù nào đáng soi hơn cho người có đủ hai mắt”.
(Lê Trí Viễn)
Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của truyện phương Đông, theo chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của nhân vật chính.
Nội dung của truyện là truyền dạy đạo lí làm người, cụ thể là:
+ Ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình nghĩa vợ chồng, tình cha con, mẹ con, tình cảm bạn bè, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.
+ Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy.
+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời: thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của truyện:
Vân Tiên trên đường lên Kinh Đô dự thi, chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành. Chàng đã bẻ cây bên đường làm gậy. Xông thẳng vào những kẻ trong tay có vũ khí. Chàng đã đánh tan chúng, cứu được Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Lời thơ giản dị nhưng là một quan niệm đạo đức xuyên suốt tác phẩm. Với Nguyễn Đình Chiểu, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương, mà trước hết, quan trọng hơn hết, viết văn là để giáo dục đạo đức, để khẳng định và tôn vinh đạo nghĩa, đạo lí ở đời. Truyện thơ “Lục Vân Tiên” là tác phẩm tiêu biểu cho quan niệm đó của Nguyễn Đình Chiểu. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã xây dựng thành công chân dung người anh hùng trượng nghĩa. Lục Vân Tiên chính là nhân vật tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu.
Lục Vân Tiên là chàng trai dũng cảm, có lòng “nhân” sẵn sàng làm việc “nghĩa”. Lục Vân Tiên vốn con nhà thường dân, nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Trên đường lên kinh, bất ngờ gặp toán cướp đang trêu ghẹo con gái nhà lành, Lục Vân Tiên nhanh nhẹn “ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy” xông thẳng vào giữa bọn cướp. Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp “mặt đỏ phừng phừng”, dữ tợn như một con ác thú. Chúng “truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng”. Lực lượng thật là quá chênh lệch. Vậy mà, Vân Tiên không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Tác giả không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một câu so sánh và sử dụng linh hoạt thành ngữ “tả đột hữu xông”. Hình tượng Vân Tiên hiện lên giống như một dũng tướng, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Chương Dương, Trường Bản ngày xưa. Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dầu sao vẫn là nghĩa vụ của một bề tôi trung thành. Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, xuất phát từ lòng nhân. Giản dị, vô tư mà trong sáng cao đẹp biết bao! Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh, diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch:
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ giản dị, mộc mạc, song người đọc có thể cảm nhận được sức mạnh của người anh hùng. Đó là sức mạnh của một người anh hùng sẵn sàng xả thân vì việc nghĩa, sức mạnh xuất phát từ một người có lòng nhân. Chiến thắng của Lục Vân Tiên là sự khẳng định của chân lí: chính nghĩa thắng hung tàn.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Chàng đã ôn tồn thăm hỏi tận tình từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Khi Nguyệt Nga định xuống kiệu để tạ ơn Vân Tiên, chàng đã vội vàng can ngăn:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Lời nói của Lục Vân Tiên cho ta thấy chàng ý thức rất rõ về lễ giáo phong kiến, câu nói đã bộc lộ một quan niệm tư tưởng đạo đức xã hội thời phong kiến. Qua đó, ta thấy Lục Vân Tiên là một người hiểu biết, đúng mức, đáng trân trọng.
Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe tiểu thư Kiều Nguyệt Nga – nạn nhân
được chàng cứu giúp – kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn báo ân thì:
Vân Tiên nghe nói liền cười Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
Lục Vân Tiên đã “cười” khi nghe Nguyệt Nga nói sẽ đền ơn. Đây là hành động cho thấy vẻ đẹp trong phẩm chất, khí tiết của Lục Vân Tiên. Đây không phải là cái cười khinh bạc mà là cử chỉ chứng tỏ ý nghĩa cao cả của hành động cứu người: cứu người không phải để màng trả ơn, cứu người đơn giản chỉ là để giúp đỡ con người thoát khỏi vòng luân lạc.
Câu nói “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” nôm na, giản dị nhưng đã cho ta thấy tấm lòng chất phác và nghĩa khí của Lục Vân Tiên. Chàng đã khẳng định việc mình làm là hoàn toàn “tự nguyện”. Chàng đã hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Gọi là ơn cũng được nhưng chàng làm ơn không phải để màng trả ơn. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc tới các bậc hiền nhân xưa:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô dũng dã”. Nghĩa là: Thấy việc nghĩa mà không làm, hèn nhát. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. “Phi anh hùng” là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên. Đó chính là lẽ sống của chàng.Hình ảnh Lục Vân Tiên, lời chàng nói, nhân cách và hành động của chàng khiến ta liên tưởng đến Từ Hải trong “Truyện Kiều”:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Họ đều là những người anh hùng, là hiện thân cho khát vọng công bằng, công lí trong xã hội.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là đoạn trích hay không phải bởi vì nó có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tếmà vì những chi tiết, sựviệc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Trong đó, hình tượng Lục Vân Tiên đã được khắc họa thành công với phong cách sống phóng khoáng, với vẻ đẹp phẩm chất của người dân vùng Nam Bộ: anh hùng, chính trực, giàu lòng yêu thương con người. Đây cũng là hình tượng tiêu biểu cho quan niệm nhân sinh tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu: việc nhân nghĩa là hành đạo giúp đời.
**********************************************************
CHUYÊN ĐỀ 5. VĂN BẢN: ĐỒNG CHÍ( Chính Hữu)
Nhà thơ Chính Hữu tâm sự về bài thơ “Đồng chí”
MỘT VÀI KỈ NIỆM NHỎ VỀ BÀI THƠ "ĐỔNG CHÍ"
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên.Chúng tôi phục kích từng chăng đánh, truy kích binh đoàn Beaufré.Khi đó tôi là chính trị viên đại đội.Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khố.Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phái có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại
điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khiốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí.
Bài thơ Đồng chí được làm sau bài thơ Ngày về.Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình.Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội.Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có một chỗ dựa dườngnhưlàduy nhấtđếtồntại, để chiếnđấulàtìnhđồngchí,tìnhđồngđội.Đồngchíở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi.Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình.Bài thơ viết có đối tượng.Tôi hiểu và quý mếnngườiđồngđộicủatôinêntiếngnóithơcagiảndịvàchânthật.TuynhiênĐồngchí không phải là bài thơ nôm na. Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ.Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.Tôi là lính của Trung đoàn Thù đô.Tôi vào bộ đội ngày 19 - 12 -1946. Bước vào cuộc kháng chiến, tuổi trẻnhiều lúc bốc men say. Bài Ngày về phán ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài Đồng chí cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi.Bài thơ được làm nhanh.Tôi làm để tặng bạn.Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh "nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá.Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi.Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật... bạn và tôi đều cùng trải qua.Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội.Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên vềkhaithácđờisốngnộitâm,tìnhcảm,ítcónhữngchuyệnđùngđoàng, chiếnđấu.
Tôi làm bài Đồng chí cũng là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca quen thuộc của tôi.Bài thơ có những hình ảnh cô đúc như đầu súng trăng treo. Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ có thể gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn.Vấn đề đối vối tôi đơn giản hơn. Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng.Đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh "đầu súng trăng treo". Lúc đầu tôi viết là "đầu súng mảnh trăng treo" sau đó bớt đi một chữ. "Đầu súng trăng treo", ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối.Sương muối làm buốt tê da như những mũi kimchâm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác. Tất cả những gian khố của đời lính trong giai đoạn này thật khó kế hết nhưngchúng tôi vẫn vượt lên được nhờ ở sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội trong quần ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động, bồi hồi.(Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội,1994)
I, Kiến thức cơ bản
II.ĐỌC HIỂU
BÀI TẬP 1:
Gợi ý :
BÀI TẬP 2:
Gợi ý :
BÀI TẬP 3:
Gợi ý:
BT4:
Gợi ý:
Câu 1:
- Đối diện cảnh núi rừng lạnh lẽo và hoang vu và hoàn cảnh chiến đấu nguy hiểm, những người lính cùng sát cánh bên cạnh nhau.
+ Nhiệm vụ canh gác, đối mặt với hiểm nguy trong gang tấc cũng chính nơi đó sự sống cái chết cách nhau trong gang tấc.
+ Trong hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm tình đồng đội thực sự thiêng liêng, cao đẹp
- Tâm thế chủ động, sẵn sàng “chờ giặc tới” thật hào hùng:
+ Những người lính sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi khó khăn, nguy hiểm trực chờ phía trước của cuộc kháng chiến gian khổ.
→ Ca ngợi tình đồng chí, sức mạnh đồng đội giúp người lính vượt lên khắc nghiệt về thời tiết và nỗi nguy hiểm trên trận tuyến.
Câu 2:
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, cũng chính là điểm nhấn của toàn bài thơ.
+ Hình ảnh thực và lãng mạn.
+ Súng là hình ảnh đại diện cho chiến tranh, khói lửa.
+ Trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, thanh bình.
- Sự hòa hợp giữa trăng với súng tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và đồng đội , nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc.
→ Câu thơ như nhãn tự của toàn bài thơ, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí.
Câu 3:
- Yêu cầu về hình thức: một đoạn văn theo lối viết nào cũng được, có câu cảm thán
- Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo nội dung sau:
+ Bức tranh đẹp về tình đồng chí
+ Biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ
** Đoạn văn tham khảo:
Ba câu thơ trên được trích trong văn bản “ Đồng chí” của tác giả Chính Hữu đã rất thành công trong việc miêu tả biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ, về tình đồng chí. Hai người lính luôn kề vai sát cánh bên nhau, sưởi ấm lòng nhau, xua đi cái rét ở chiến tranh Việt Bắc. dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu họ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ giặc tới. Trong đêm phục kích, vầng trăng trên đầu trở thành người làm chứng cho tình đồng chí trong các anh. Trong lúc chờ giặc tới, trong không khí căng thẳng của giờ phút xuất kích sắp đến họ vẫn tràn đầy một tâm hồn lãng mạn, họ đã nhận ra “ đầu súng trăng treo”. Câu thơ vừa có nghĩa tả thực, vừa giàu nghĩa tượng trưng: súng và trăng vốn là hai sự vật rất xa nhau nhưng trong con mắt người chiến sĩ chúng lại rất gần nhau. Súng và trăng là gần và xa, là thực và mộng, là chiến tranh và hòa bình là chiến sĩ và thi sĩ. Hình ảnh thơ khép laị đã trở thành một biểu tượng đẹp của người chiến sĩ cách mạng với sự đan cài: cuộc sống chiến đấu của họ dù khó khăn, gian khổ nhưng trong họ tràn đầy sự lãng mạn. Hình tượng đó trở thành nền thơ ca cách mạng Việt Nam- cảm hứng hiện thực- lãng mạn. Ôi, yêu biết mấy những người lính cụ Hồ!
TÌM HIÊU, PHÂN TÍCH VĂN BẢN. ĐỒNG CHÍ
Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
DÀN Ý 2
IV.LUYỆN TẬP NÂNG CAO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu
THAM KHẢO
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm xúc, giản dị. Bài thơ "Đồng chí" là một trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá"
Hai câu đàu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian "nước mặn đồng chua", cách nói sáng tạo từ tục ngữ "đất cày lên sỏi đá", giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển "nước mặn đồng chua", một người ở miền trung du "đất cày lên sỏi đá". Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen "anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau :
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: "súng bên súng, đầu sát bên đầu" đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. "Súng bên súng" là chung nhiệm vụ, chung hành động; "đầu sát bên đầu" là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ "sát, bên, chung" gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh "đêm rét chung chăn" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành những người "đồng chí".
"Đồng chí!" Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng "đồng chí" đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái "mặc kệ" vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: "giếng nước gốc đa nhớ người ra lính". Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương - nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh - những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng "anh - tôi", "áo anh - quần tôi" tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan "miệng cười buốt giá", bằng tình yêu thương gắn bó "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hình ảnh "miệng cười buốt giá" gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: "rừng hoang sương muối"
"Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ "chờ" đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của mình: "đầu súng trăng treo". Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng - trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, "Đồng chí" giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.
Đề 1 : Phân tích bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu
1. Mở bài :
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội, thành công chủ yếu về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu giản dị và chân thực, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
- Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948 sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947). Bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính Cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Thân bài
* Luận điểm 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí( 7 câu thơ đầu)
a, Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân
- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm mới mẻ.
+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người” anh” và “tôi”.
+ Mượn thành ngữ “ nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm , nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước
+ Hình ảnh “ đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất
-> “ Quê hương anh”- “ làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.
-> Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội với nhau.
b, Cơ sở thứ 2: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập traí tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.
- Hình ảnh thơ “ súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:
+ “ Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.
+ “ Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
- Điệp từ “ Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.
- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh”- “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi găp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.
-> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.
c, Cơ sở thứ 3: Cùng trải qua những khó khăn , thiếu thốn.
- Bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
+“ Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.
+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành” tri kỉ”
+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “ chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.
- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “ đôi” ở câu thơ trên:
+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi”. Vì đôi cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.\
+ Từ “ đôi người xa lạ” họ đã trở thành “ đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt. Câu thơ “ Đồng chí!” được tách riêng ở một dòng thơ rất đặc biệt, chỉ gồm một từ, hai tiếng và dấu chấm than như một sự phát hiện, một lời khẳng định, nhấn mạnh tính đồng chí là một tình cảm mới mẻ nhưng hết sức thiêng liêng cao đẹp là sự kết tinh của tình bạn, tình người giữa những người lính nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Câu thơ “ Đồng chí” như một bản lề gắn kết tự nhiên, khéo léo giữa hai phần của bài thơ: khép lại phần giải thích cội nguồn cao quý thiêng liêng của tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp hơn của tình đồng chí.
=> Tóm lại, 7 câu thơ đầu, đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
* Luận điểm 2: Những biểu hiện của tình đồng chí( 10 câu thơ tiếp)
a, Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:
+ Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: neo nguời, thiếu sức lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.
+ Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn. Hình ảnh “ gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình các anh. Đồng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh- người trụ cột trong gia đình các anh
- Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân tộc.
+ “ Ruộng nương”, “ căn nhà” là những tài sản quí giá, gần gũi gắn bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc
+ Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc nhưng giaù sức gợi: Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ những gì quí giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn. Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một cách thầm lặng của các anh vì đất nước.
- Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính
+ Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà , nhớ quê và trên hết là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để trí ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhúng càng trở nên da diết.
+ Hình ảnh “ giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.
+ “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho “ giếng nước gốc đa” một tâm hồn.
=> Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã hiện lên tràn dầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc lập, tự do của TQ.
c, Biểu hiện thứ 2: Những người lính đã đồng cam cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ
Chính Hữu là người trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống pháp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết là những cơn sốt rét rừng:
+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.
+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những khoa khăn, gian khổ.
- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ:
+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác những thiếu thốn của người lính: “ áo rách vai, quần vài mảnh, chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.
+ Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối.
-> Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến.
- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.
-> Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.
c, Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó
Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ảnh thơ rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghiã:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Những cái bát tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần
- Những cái bắt tay là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.
- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm truyền cho nhau thêm sức mạnh.
- đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.
=> Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
* Luận điểm 3: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội
- Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm nay rừng hoang sương muối”
+ Thời gian: Một đêm phục kích giặc
+ Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phr đầy sương muối.
- Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện trong tâm thế:
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
+ Hình ảnh “ đứng cạnh bên nhau” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu của người lính.
- Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn: Đầu súng trăng treo.
+ Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: Trăng lơ lửng như treo đầu mũi súng.
+ Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “ treo” ở đây rất thơ mộng. nối liền mặt đất với bầu trời.
+ Hình ảnh “ đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa: Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình, hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ- vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ. Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa cam go khốc liệt. Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
-> Hình ảnh “ đầu súng trăng treo” xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến: một nền thơ ca có sự kết hợp giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
* Đánh giá về nghệ thuật: Với thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết, hình ảnh chân thực cô đọng, hàm súc nhưng giàu sức biểu cảm, bài thơ Đồng chí đã để lại những ấn tượng sâu sắc về tình đồng chí, đồng đội và chân dung anh bộ đội Cụ Hồ thời kì kháng chiến chống Pháp : chân thực, giản dị mà vô cùng cao đẹp.
3. Kết bài
Tóm lại, với bài thơ “Đồng chí” nhà thơ Chính Hữu đã thành công trong việc thể hiện tình đồng chí, đồng đội. Đồng chí là một trong những bài thơ hay viết về người lính. Cái hay, cái đẹp của bài thơ không chỉ còn trên trang giấy mà đã lan tỏa thấm vào lòng người đọc để mỗi chúng ta biết sống đẹp hơn, biết yêu quê hương, đất nước hơn, sống xứng đáng hơn với thế hệ cha anh đã không tiếc xương máu đổi lấy hòa bình, hạnh phúc hôm nay.
Đề 2: Kết thúc bài thơ đồng chí, Chính Hữu viết:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cảm nhận sâu sắc của em về vẻ đẹp của đoạn thơ trên.
* Gợi ý trả lời:
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả.
- Phong cách sáng tác.
- Giới thiệu văn bản.
- Giới thiệu nội dung chính của đoạn thơ ta đi cảm nhận.
2. Thân bài: Cần đi cảm nhận nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ.
- Câu thơ đầu gợi ra hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 đem đến ba thông tin về thời gian: “ đêm nay”, về không gian: “ Rừng hoang”, về thời tiết, “ Sương muối”. Tất cả đều nhấn vào cái hoang vu, cái lạnh thấu xương khi những người lính đứng gác, nơi rừng sâu giá lạnh trong khi trang phục các anh lại phong phanh: áo rách, quần vá, đầu trần, chân đất, khó có thể chống được cái lạnh thấu xương. “ Đêm nay” là một đêm phục kích cụ thể nhưng có ý nghĩa khái quát như bao đêm khác, việc phục kích trong hoàn cảnh khắc nghiệt với các anh đã thành thường lệ.
- Câu thơ thứ hai:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Có sự đối lập giữa hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt với vẻ đẹp của lí tưởng cách mạng và tình đồng chí keo sơn. Dù cho cái rét có thấm vào xương thịt, các anh vẫn bất chấp tất cả, vẫn “ Đứng cạnh bên nhau”, vẫn kề vai sát cánh, đoàn kết chung một chiến hào trong tư thế chủ động “ chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng các anh, xua đi cái hoang vu, giá lạnh của núi rừng. Việt Bắc. Trong cái bát ngát của núi rừng, hai người lính hiện lên sừng sững, hiên ngang, cao cả sánh ngang cùng núi rừng Việt Bắc.
- Bài thơ khép lại bằng hình ảnh đẹp “ Đầu súng trăng treo”. Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa tả thự và biểu tượng.
+ Ý nghĩa tả thực: Hình ảnh thơ được nhận ra sau ngiều đêm đi phục kích của tác giả ; Đêm đã về khuya, nơi rừng hoang, sương muối xuống mỗi lúc một nhiều, bầu trời như sả xuống thấp dần, vầng trăng cũng như sà xuống thấp hơn. Hai người lính đang kề vai sát cánh trong tư thế chủ động xuất kích, nhìn ở một góc độ nào đó họ nhận ra trăng như đang treo lơ lửng trên đầu mũi súng.
+ Ý nghĩa biểu tượng: từ ý nghĩa tả thực, hình ảnh “ súng” và “ trăng” còn gợi ra trong lòng người đọc những liên tưởng sâu xa. Súng và trăng – hai hình ảnh vốn rất xa nhau nhưng trong cảm nhận của người chiến sĩ lại đan cài, gắn kết tự nhiên. Súng và trăng là biểu tượng của gần và xa, của chiến tranh và hòa bình, của hiện thực và lãng mạn, của cứng dắn và dịu hiền, là chất chiến sĩ và chất thi sĩ, chất thép và chất trữ tình … đã trở thành biểu tượng về người lính: cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng tâm hồn các anh luôn trong trẻo, tràn đầy cảm hứng lạc quan, lãng mạn. Hình ảnh thơ đã trở thành biểu tượng cho thơ ca cách mạng – nền thơ ca kết hợp hài hòa giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn.
3, Kết bài: Khẳng định lại nội dung và nghệ thuật của khổ thơ trên.
Tham khảo kết bài: Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ tự do, sử dụng hình ảnh biểu tượng khổ thơ đã khắc họa thành công biểu tượng về người lính cụ Hồ với những phẩm chất cao đẹp.
Đề 3: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tượng đài tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến.
Gợi ý dàn bài:
C) DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾ CHỦ ĐỀ
ĐỀ 1: * Hãy viết 1 đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vài trò của tình bạn trong cuộc sống của mỗi con người
1. Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), Đoạn văn cần có câu mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn
2.Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :
* Câu mở đoạn: Tình bạn là mối quan hệ không thể thiếu trong đời sống của tất cả chúng ta.
* Các câu thân đoạn:
- Giải thích:
+ Tình bạn là tình cảm gắn bó thân thiết giưa những người có nét chung về sở thích, tính tình, ước mơ, lí tưởng...
+ Tình bạn đẹp là tình bạn gắn bó, yêu thương, chia sẻ, đồng cảm trách nhiệm và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Tình bạn đẹp được hình thành trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, chân thành, tin tưởng lẫn nhau.
- Bàn luận: Tình bạn đẹp có vai trò, ý nghãi quan trọng trong cuộc sống của mỗi người.
+ Là nguồn động viên tinh thần, giúp ta vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống.
+ Giúp con người có thể chia sẻ với nhau cho niềm vui nhân lên và nỗi buồn được vợi đi, được xoa dịu.
+ Cho ta học hỏi thêm những điều hay lẽ phải để hoàn thiện bản thân. chúng ta đã thấy tình bạn tri âm tri kỉ như Lưu Bình – Dương Lễ, hay Nguyễn Khuyến – Dương Khuê, Các Mác và Ăng -ghen,…
- Mở rộng vấn đề:
+ Để nuôi dưỡng và giữ gìn tình bạn đẹp, phải sống chân thành, tôn trọng, tin tưởng, bảo vệ lẫn nhau và có lòng vị tha. Tuy nhiên, bảo vệ không có nghĩa là bao che cái xấu màphải thẳng thắn chỉ ra lỗi lầm của nhau để giúp nhau cùng tiến bộ.
+ Phê phán việc rủ rê, lôi kéo, kích động bạn bè làm việc xấu bởi đó là biểu hiện của tình bạn xấu.
- Bài học:
+ Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cùng xây dựng những tình bạn đẹp để động viên, giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong học tậ và cuócống.
+ Cần chọn bạn mà chơi, tránh những mối quan hệ xấu có hại cho mình hoặc làm hại bạn.
+ Liên hệ bản thân
* Câu kết đoạn: Vì vậy, tất cả chúng ta cần đối xử với những người bạn của mình bằng tất cả sự chân thành và không ngừng giúp đỡ nhau vươn lên trong cuộc sống.
ĐỀ 2: Em hãy nêu suy nghĩ về hình ảnh người lính trong kháng chiến và trong thời bình?
Gợi ý:
-Hình tượng người lính trong kháng chiến:
- Họ là những người yêu nước, có lí tưởng sống, chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước (lấy DC, phân tích)
- Họ dũng cảm, coi thường hiểm nguy, pha chút ngang tàng đầy chất lính
- Họ cũng là những người giàu tình cảm, có tình đồng đội sâu sắc, chính tình đồng đội tiếp thêm sức mạnh cho họ
- Họ cũng là những người có tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, lạc quan phơi phới
b-Hình tượng người lính trong thời bình:
-Đó là những chiến sĩ bảo vệ biên giới, hải đảo, những chiến sĩ ngày đêm luyện tập trong quân ngũ-> họ đang tiếp tục bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Ở họ vẫn sáng ngời những phẩm chất : yêu nước, dũng cảm, có tình đồng đội sâu sắc, trẻ trung, lãng mạn.
ĐỀ 3: SUY NGHĨ VỀ LÒNG YÊU NƯỚC
I. Mở bài: giới thiệu lòng yêu nước
Đất nước Việt Nam là một dân tộc chịu nhau đau thương và khó khăn do chịu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng ta đã trải qua 1000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giắc tây và 20 năm đô hộ nôi chiến. Một thời kì mà chúng trải qua bao nhiêu đau thương và mất mát. Và trải qua từng thời kì giặc ngoại xâm thì chúng ta mới biết bao nhiêu anh hùng bao nhiêu người Việt Nam có lòng yêu nước, đứng dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về lòng yêu nước.
II. Thân bài:
1. Khái niệm lòng yêu nước:
- Tình yêu nước là tình yêu quê hương, yêu nơi chon nhau cắt rốn
- Yêu nước là một tình cảm cao quý và thiêng liêng sẵn sang đem tài năng và trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Lòng yêu nước là hành động góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
2. Biểu hiện về lòng yêu nước:
a. Thời chiến tranh:
- Sẵn sàng ra chiến trường cầm súng chiến đấu vì dân tộc vì dất nước
- Không ngại khó khan, gian khổ để xây dựng đất nước
- Yêu nước là nguyện hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc
- Những tấm gương về lòng yêu nước: Võ Thị Sáu; Nguyễn Văn Trỗi; Kim Đồng; Nguyễn Đình Giót;….
b. Thời bình:
- Cống hiến trí tuệ và tài năng để xây dựng đất nước ngày càng phát triển
- Luôn giữ vững quyết tâm đưa đất nước sánh vai với các cường quốc
- Lòng yêu nước còn được thể hiện ở lòng tự hào dân tộc: biểu hiện cụ thể qua các áng thơ văn ngợi ca tinh thần ngoan cường của dân tộc; lưu giữ các kỉ vật của các anh hung; mang lại các huy chương vàng cho đất nước qua các cuộc thi trí tuệ và sức khỏe;….
3. Vai trò của lòng yêu nước:
- Là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn đưa ra các áng văn bất hủ
- Làm cho con người yêu thương gia đình, cuộc sống; khi yêu nước sẽ yêu mọi thứ dù nhỏ nhặt nhất.
*Phê phán những biểu hiện tiêu cực, sống vô ơn,phản bội tổ quốc,cần phải bị loại bỏ.
4. Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong thời kì hiện nay:
- Không ngừng học tập và nỗ lực phấn đấu
- Nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật
- Tố cáo các hành vi không thể hiện lòng yêu nước
- Dung cảm đối mặt với cái xấu
- Bảo vệ môi trường hay việc nhỏ nhất cũng là thể hiện lòng yêu nước
- Biết ơn các chiến sĩ, anh hung liệt sĩ;…..
III. Kết bài:
- Khẳng định lòng yêu nước của bản thân
- Kêu gọi mọi người thể hiện lòng yêu nước
- Phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật
Đề bài: Viết đoạn văn từ khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1. Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, đoạn văn nghi luận xã hội, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), Đoạn văn cần có câu mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
2.Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :
* Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận
Tham khảo câu mở đoạn: Thế hệ trẻ đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay là vô cùng quan trong.
* Thân đoạn: Cần có các ý sau:
- Nhận thức được vai trò , trách nhiệm của thế hệ trẻ: thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, đất nước mạnh hay yếu đều tùy thuộc vào lớp trẻ. Bởi vậy, những người trẻ hôm nay cần nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, gánh vác những trách nhiệm mà cha ông giao cho.
- Đặc điểm , tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay:
+ Chúng ta vẫn giữ được những thành quả cách mạng của ông cha, đanng trên đà phát triển, hướng tới là một nước công nghiệp giàu mạnh, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc.
+ Chúng ta đang trong thời kì hội nhập với thế giới, có nhiều cơ hội giao lưu học hỏi, phát triển song cũng có không ít thách thức.
+ Chủ quyền của dân tộc vẫn thường đe dọa, nhất là trên biển Đông.
- Trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay:
+ Khắc sâu công ơn của các thế hệ đi trước, bảo vệ giữ gìn nền hòa bình, độc lập toàn vẹn lãnh thổ.
+ Biến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trở thành sự thực.
+ Đưa nước ta sánh ngang tầm các nước phát triển trên thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Những việc nên và không nên của lớp trẻ hiện nay.
+ Nên ra sức học tập, trau dồi kiến thức, kĩ năng (nhất là học ngoại ngữ), rèn luyện thể chất để có sức khỏe, trí tuệ, phục vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng, phát triển kinh tế đất nước.
+ Nên sống chủ động, tự lập, phát huy thế mạnh của người Việt: cần cù, chăm chỉ, đoàn kết, nhân ái, ham học hỏi,..tránh xa lười biếng, ỷ lại, sự ích kỉ, đố kị; nên mạnh dạn sáng tạo, tránh sự dập khuôn, máy móc; yêu lao động, tránh lãng phí thời gian vào những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội hay những thứ vô bổ như rượu, bia, thuốc lá, cờ bạc…
+ Nên đề cao cảnh giác và sự tỉnh táo trước những âm mưu chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; sẵn sàng chiến đấu khi tổ quốc cần.
* Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề
Tham khảo câu kết đoạn: Tóm lại, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong giai đoạn hiện nay.
CHUYÊN ĐỀ 6.
VĂN BẢN: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
( Phạm Tiến Duật)
I- KIẾN THỨC CƠ BẢN
II, ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
III- ĐỀ BÀI LUYỆN TẬP PHẦN ĐỌC HIỂU
BT1: Cho hai khổ thơ sau:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Câu 1: Hãy cho biết những câu thơ trên trích trong bài thơ nào, do ai sáng tác. Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Trả lời:
Những câu thơ trên trích trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trên tuyến đường chiến lược.
- Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi báo Văn nghệ 1969 và được đưa vào tập “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.
Câu 2: Có ý kiến cho rằng bài thơ hấp dẫn ngày từ nhan đề độc đáo. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại sao?
Trả lời:
Bài thơ độc đáo ngay từ nhan đề tác phẩm.
Nhan đề tưởng dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc bởi vẻ độc đáo, lạ lẫm của nó.
Bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính.
- Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy lăng kính nhìn hiện thực khốc liệt của chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ, hiên ngang, bất khuất, dũng cảm vượt qua thiếu thốn, gian khổ nguy hiểm của thời chiến.
Câu 3: Nội dung của ba khổ thơ đầu bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là gì?
Trả lời:
Ba khổ thơ đầu gợi lên hình ảnh những chiếc xe không kính, và hình ảnh người lính lái xe trên trong tư thế hiên ngang, lạc quan, coi thường nguy hiểm tiến về phía trước.
- Hình ảnh tàu xe thường được mĩ lệ hóa đưa vào sáng tác nhưng những hình ảnh này càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu. Bom đạn chiến tranh làm chúng trần trụi hơn, biến dạng hơn. Những hình ảnh có hồn thơ hay nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được vào thành hình tượng độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
Câu 4: Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức diễn dịch để làm rõ tư thế, cảm giác của người lính lái xe trên chiếc xe không kính?
Trả lời:
Trong bom đạn chiến tranh hình ảnh những chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu không làm khuất phục được ý chí chiến đấu lại khiến người lính lái xe bộc lộ được những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao của họ đặc biệt là lòng dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn. Họ chính là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả, tác giả đã khắc họa những ấn tượng sinh động khi đang ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã bị bom đạn làm mất kính. Những câu thơ tả thực tới từng điểm diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra đường:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Những hình ảnh thực như gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, lại cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Dù trải qua hiện thực chiến tranh khốc liệt những người lính vẫn hướng về phía trước, xem thường mọi hiểm nguy với tinh thần thể hiện cái hiên ngang, trẻ trung của tuổi trẻ.
Câu 5: Tại sao có thể nói hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật.
Trả lời:
Hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật bởi xưa nay hình ảnh tàu xe đi vào thơ ca đều được lãng mạn hóa, mỹ lệ hóa nhưng Phạm Tiến Duật lại không ngần ngại đưa vào thơ của mình hình ảnh trần trụi, thực tế “những chiếc xe không kính”.
Hình ảnh những chiếc xe không kính là nhân chứng hùng hồn, chân thực cho hiện thực chiến tranh khốc liệt lúc bấy giờ.
Với tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm cùng với nét tinh nghịch, ngang tàng hình tượng những chiếc xe không kính xuất hiện trong thơ như để thử thách con người, cũng như để khẳng định chất thép, tinh thần dũng cảm, lạc quan coi thường hiểm nguy của những người lính lái xe Trường Sơn.
BT2:Cho câu thơ:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi”
Câu 1: Chép tiếp 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thiện hai khổ thơ tiếp theo.
Trả lời:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Câu 2: Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật và bài thơ Đồng chí – Chính Hữu có điểm gì giống và khác nhau gì khi viết về người lính?
Trả lời:
- Giống nhau:
Bài thơ về tiểu đội xe không kính và bài Đồng chí cùng viết về những người lính kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn hiểm nguy. Họ cùng phải trải qua những hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất, những điều kiện vô vùng khó khăn, nguy hiểm.
+ Những người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những người lính trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ có những điểm chung: lòng yêu nước, tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm, gian khổ.
- Khác nhau:
+ Bài thơ Đồng chí nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất. Vẻ đẹp nhất ở những người lính đó là tinh thần đồng đội, đồng chí sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ sự chia sẻ, thấu hiểu và tinh thần yêu nước, luôn sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nhấn mạnh tới tinh thần quả cảm, hiên ngang của những người lính lái xe trẻ trung, vui tươi trước thách thức vô vàn nguy hiểm phía trước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, bất chấp hiểm nguy, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sục sôi, quyết liệt. Đó là thế hệ anh hùng, bất khuất, mạnh mẽ.
Câu 3: Em hiểu thế nào về hình ảnh trong hai câu thơ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Trả lời:
Bếp Hoàng Cầm ra đời trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là bếp dã chiến, có công dụng làm tan loãng khói bếp tỏa ra, khi nấu ăn tránh máy bay phát hiện.
Hình ảnh bếp Hoàng Cầm trong thơ Phạm Tiến Duật gợi lên tình cảm thắm thiết như ruột thịt của những người lính.
Tác giả đưa ra cách định nghĩa thật thú vị về gia đình, vừa hài hước, tếu táo lại tình cảm sâu lắng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau hơn trong những cái chung: chung bát, chung đũa, chung nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách thức nguy hiểm.
Câu 4: Cảm nhận của em khi đọc hai câu thơ:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Trả lời:
Những hình ảnh sinh hoạt, nghỉ ngơi ngắn ngủi nhưng tâm hồn người chiến sĩ không vì thế mà nhụt chí, ngược lại, họ còn rất mạnh mẽ và kiên định, không gì lung lay nổi.
Hai câu thơ gợi nên sự chông chênh trên con đường gập ghềnh mà những người lính phải vượt qua. Nhưng ý chí chiến đấu, khí phách, nghị lực kiên cường, định kiến vượt lên tất cả.
Nhịp thơ đều đều 2/2/3 gợi lên sự bền bỉ trên từng cung đường của những người lính. Hình ảnh trời xanh thêm yên bình cũng tô đậm thêm niềm tin về ngày chiến thắng, về công bằng của những người chiến sĩ chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.
Câu 5: Em viết đoạn văn 12 câu theo phương thức diễn dịch trình bày cảm nhận của em về tình đồng đội của những người lính lái xe trong những khổ thơ vừa chép.
Trả lời:
- Tâm hồn tươi trẻ, sôi nổi của tình đồng đội, đồng chí trong bài thơ:
+ Những người chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui vẻ, hài hước, tinh nghịch. Họ hồn nhiên tếu táo cũng thật cảm động trong không khí đoàn kết, trong đồng chí, đồng đội.
+ Sự khốc liệt của chiến tranh tạo nên những tiểu đội xe không kính. Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới”.
+ Chỉ một cái bắt tay cũng ấm long, đủ động viên nhau, cảm thông với nhau. Cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên, cảm thông với nhau.
+ Tình cảm giữa những người lính ấm áp, thắm thiết như anh em trong gia đình “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” – Một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật hài hước, sâu lắng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung bình dị, thân thuộc.
+ Cảnh những phút nghỉ ngơi sinh hoạt thật ngắn ngủi nhưng ý nghĩa, giản dị, tâm hồn người lính vẫn tươi vui, lạc quan.
+ Tình đồng đội đã gắn kết họ, tiếp cho họ sức mạnh để cùng nhau “lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
+ Hình ảnh “trời xanh thêm” cũng là hình ảnh diễn tả được tinh thần lạc quan, yêu đời, đầy hi vọng của người lính lái xe Trường Sơn.
Câu 6: Dựa vào khổ thơ cuối của bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, cho biết từ “trái tim” dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển. Nêu ý nghĩa của hình ảnh ấy trong việc thể hiện vẻ đẹp người lính lái xe?
Trả lời:
- Từ “trái tim” được dùng theo nghĩa chuyển.
- Trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn trên xe “không kính, không đèn, không mui”, hợp nhất với tinh thần, ý chí của người lính lái xe không gì có thể ngăn cản, tàn phá được.
- Xe được chạy bằng chính trái tim, xương máu của chiến sĩ, trái tim ấy là niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những chiếc xe do ý chí, niềm tin sắt đá cầm lái.
Hình ảnh trái tim được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và hoán dụ: trái tim tượng trưng cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ cao đẹp thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh, chất ngang tàng, lòng dũng cảm cùng tinh thần lạc quan vào ngày thống nhất.
- Trái tim trở thành nhãn tự toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Câu 7: Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức quy nạp nêu cảm nhận về khổ thơ cuối bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".
Trả lời:
Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thể hiện ý chí kiên cường vì Tổ quốc, đó là sức mạnh sâu sắc, phi thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá.
+ Biện pháp liệt kê, điệp ngữ được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ác liệt của chiến tranh ngày càng tăng, và sự thiếu thốn, mất mát ngày càng lớn.
- Điều kì diệu và đặc biệt là không gì có thể cản trở, tàn phá được chuyển động của chiếc xe vì “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”.
- Mọi thứ trên xe không còn nguyên vẹn nhưng vẫn nguyên vẹn trái tim, ý chí của người lính. Đó chính là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tinh thần yêu nước.
- Đối lập với những cái “không có” ở trên là một cái “có”, sức mạnh từ trái tim có thể chiến thắng bom đạn kẻ thù. Những chiếc xe chạy bằng sức mạnh của trái tim.
- Trái tim là hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, kết tinh cho vẻ đẹp về tâm hồn và phẩm chất của người lính lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp: vì miền Nam, vì sự thống nhất đất nước.
Hình ảnh những người lính chiến đấu với lý tưởng độc lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội, họ ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình. Hình ảnh của họ đã thể hiện thế hệ anh hùng, mạnh mẽ, hiên ngang.
BT3:
Gợi ý :
b) Đoạn thơ vừa chép trong bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả PTD sáng tác năm 1969- trong cuộc kháng chiến chống Mĩ .
Nội dung: thể hiện tình yêu tổ quốc thiết tha của người lính lái xe.
c) Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng được dùng với nghĩa chuyển( hoán dụ), chỉ người lính lái xe , chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước ý chí quyết tâm giải phóng miền nam tổ quốc.
d) Yêu cầu về hình thức: Viết đoạn văn theo lối diễn dịch, khoảng 8-10 câu, có sử dụng câu ghép
Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo các nội dụng sau:
- Đoạn trích trên được trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã thể hiện tình yêu tổ quốc của người lính lái xe.
-Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ ác liệt ( qua hình ảnh những chiếc xe méo mó, biến dạng)
-Bất chấp khó khăn, gian khổ hi sinh những chiếc xe vẫn nối nhau thẳng đường ra tiền tuyến.
-Những người lính lái xe quả cảm vẫn vững tay lái vì họ có một trái tim tràn đầy nhiệt tình, c/m, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá
*Đoạn văn tham khảo:
Đoạn trích trên được trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, sáng tác năm 1969 đã thể hiện rõ hình ảnh những chiếc xe không kính và tình yêu tổ quốc của người lính lái xe(1). Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động(2).Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính” , “không có đèn”,”không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ đồng thời phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường(3) . Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước(4). “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà(5). Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”(6). Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích(7). Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường(8). Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước(9) Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù, trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.(10)
BT 4:
Gợi ý:
Câu 3: Từ láy “chông chênh” diễn tả trạng thái đu đưa không vững trắc, gợi ra con đường gập ghềnh khó đi, thể hiện những gian khổ, khó khăn, nguy hiểm của những người lính trên con đường ra mặt trận
Câu 4: Các bptt được sử dụng trong hai câu cuối là
Điệp ngữ “lại đi”
Ẩn dụ “chông chênh” và “trời xanh thêm”
Tác dụng: Diễn tả không khí chồng chất, song với nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận tinh thần lạc quan, chứa chan niềm hi vọng
Câu 5:
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn diễn dịch khoảng 6-8 câu theo lối diễn dịch, có sử dụng lời dẫn trực tiếp và câu cảm thán.
Yêu cầu về nội dung:
Câu mở đoạn: Đoạn trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã nói lên tình cảm, sự khó khăn vất vả và niềm hi vọng của những người lính lái xe Trường Sơn.
Các câu khai triển:
- Trong phút giây sinh hoạt ngắn ngủi: Họ cùng nhau nấu cơm khi đến bữa, lúc này họ là những người thân ruột thịt trong gia đình với tình cảm ấm cúng, hạnh phúc.
- Tình cảm đồng chí đã hòa thành tình cảm gia đình để họ sống chết có nhau
- Họ tiếp tục cuộc hành trình chiến đấu với bao khó khăn, nguy hiểm chồng chất nhưng với lòng quyết tâm quả cảm, sẵn sàng hi sinh, họ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” vì đó cũng là công việc thường nhật của họ vẫn tiếp tục trên đường đầy mưa bom bão đạn, những đoàn xe vẫn nối nhau trở những người lính, lương thực, thực phẩm ra tiền tuyến.
Biện pháp điệp ngữ “lại đi” và ẩn dụ “chông chênh” và “trời xanh thêm”
đã diễn tả không khí chồng chất, song với nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận tinh thần lạc quan, chứa chan niềm hi vọng
- Trên những chặng đường ấy, họ vẫn tin ngày mai sẽ chiến thắng.
- Tình đồng chí, đồng đội của họ thật cao cả biết bao!
Câu kết đoạn: Khẳng định lại nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ.
Tóm lại, với việc sử dụng nghệ thuật điệp ngữ, ẩn dụ, từ láy tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn .
III. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NÂNG CAO
Đề 1 : Hình tượng con đường trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Là một nhà thơ, chiến sĩ tiêu biểu cho các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước – con chim lửa của rừng già, cây săng lẻ trên cánh rừng Trường Sơn huyền thoại, Phạm Tiến Duật đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng người yêu thơ.
1. Những bài thơ được viết ngay trong khói lửa đạn bom của ông đã làm sống lại hình ảnh của tuổi trẻ, đặc biệt là lớp trẻ trên tuyến đường Trường Sơn như nhà thơ Tố Hữu đã có lần ca ngợi:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Lớp trẻ ấy chính là những anh lính lái xe, cô thanh niên xung phong băng mình trong lửa đạn. Những nhân vật ấy là hình tượng trung tâm trong nhiều thi phẩm như Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ, Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi... Có một tác phẩm như thế được bao thế hệ học sinh yêu mến là Bài thơ về tiểu đội xe không kính trong chương trình Ngữ văn 9.
Điều làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính, trước tiên tác giả đã dụng công xây dựng nhiều hình tượng đẹp xuyên suốt bài thơ: Những chiếc xe không kính – hình ảnh trần trụi đậm chất hiện thực.
Bàn về thơ Phạm Tiến Duật, nhà phê bình Vũ Quần Phương từng nói: “Cái đặc sắc trong thơ Phạm Tiến Duật chính là lấy cuộc sống để nói tình cảm, cái tình cảm sâu sắc của thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”.
2. Nhưng bên cạnh đó còn có một hình tượng nghệ thuật khác mà nhiều bạn đọc còn ít quan tâm, đó là hình tượng con đường. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ tôi muốn lý giải thêm về điều này mong góp thêm một cách hiểu để làm đậm thêm nét đẹp vốn có của bài thơ.
Có thể nói rằng, hình tượng con đường trước hết là một không gian nghệ thuật độc đáo trong bài thơ. Chính vì thế, con đường dường như có mặt xuyên suốt từ đầu đến cuối, có khi hình ảnh ấy diễn ra, hiện lên một cách trực tiếp nhưng cũng có khi xuất hiện gián tiếp.
Đó là một con đường cụ thể, con đường Trường Sơn huyền thoại, con đường mang tên Bác, con đường mịt mù khói lửa, con đường từng ngày từng giờ đang phải hứng chịu bom rơi đạn nổ mà quân thù đánh phá ác liệt. Trên con đường ấy con người cũng đang phải đối mặt với cái chết, phải chịu tất cả những hiểm nguy, tàn lụi của chiến tranh. Chính hình ảnh những chiếc xe không kính đã nói lên điều đó:
Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi...
…Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Đó còn là một con đường khúc khuỷu, gập ghềnh, đầy đèo dốc trên dải đất miền Trung, trên dãy núi Trường Sơn bên mưa bên nắng. Có đôi lúc người đọc dường như được hoá thân vào những người lính lái xe để cảm nhận thật rõ những con đường như thế với nhịp phanh gấp của chiếc xe qua nhịp thơ: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Thế nhưng qua cảm nhận của người lính lái xe, đó còn là một con đường đậm chất thơ, là một tiểu vũ trụ chứa cả đất trời, cả nắng gió và cả những cánh chim.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Trên con đường ấy thiên nhiên đã trở thành người bạn đồng hành cùng người lính trong dặm dài ra trận. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của một anh lính lái xe. Vượt lên tất cả khó khăn những chiếc xe vẫn ngạo nghễ lên đường.
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi...
...Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu
thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, thanh thản. Đó là khúc nhạc sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Câu thơ rộn rã, sôi động như sự hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
3. Con đường ấy còn là một hình ảnh trừu tượng hoá bởi đó chính là con đường cách mạng, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, con đường tiến về phía trước, hướng về tương lai tràn đầy lạc quan, tin tưởng: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Con đường ấy đã được biết bao thế hệ người Việt Nam tiếp bước, lớp này ngã xuống lớp khác lại lên đường Mà lòng phơi phới dậy tương lai hay Đường ra trận mùa này đẹp lắm mà nhà thơ Tố Hữu hay chính Phạm Tiến Duật đã từng khẳng định.
Con đường ấy còn là tình yêu cháy bỏng trong trái tim người lính khi nhà thơ để nhân vật trữ tình “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Điều đó xuất phát từ một thực tế là khi xe chạy nhanh con đường như chạy ngược lại làm cho người lính có một liên tưởng thật độc đáo. Đó là con đường chạy thẳng vào tim – ngay cả khi xe bị tàn phá, hư hại, biến dạng đến trơ trụi, méo mó thì nó vẫn vượt lên phía trước hướng ra tiền tuyến với tình cảm thiêng liêng.
Con đường chạy thẳng vào tim còn là con đường được nhìn thẳng từ trái tim mình để xác định một lẽ sống cao đẹp, hoặc là vì Tổ quốc mà chết, mà thành anh hùng bởi vì cuộc đời mãi mãi đẹp ở tuổi 20 và đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù như cách nói của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hay như câu nói bất hủ của Hoàng Văn Thụ “Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản. Tinh thần trong suốt như pha lê, rắn chắc như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng” mà bác sĩ – liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã đặt làm lời tựa như trong cuốn nhật ký của mình.
Chính tình yêu của người lính, trái tim của người lính đã cầm lái, hướng người đọc đến một chân lý của thời đại “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là sức mạnh quyết định của chiến thắng không phải vì vũ khí, không phải vì công cụ mà ở con người.
Trái tim chính là hình ảnh hoán dụ biểu tượng cho những con người với tâm hồn nồng nàn yêu thương, với ý chí kiên cường, dũng cảm, lạc quan luôn tin tưởng ở tương lai. Tất cả đã hoà quyện vào nhau để tạo nên vẻ đẹp chân dung người lính lái xe. Con đường ấy vẫn theo suốt họ cùng với những chiếc xe không kính để rồi trở thành những con người đẹp nhất của lịch sử Việt Nam một thời và mãi về sau.
BT2 :Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
1. Mở bài :
- Phạm Tiến Duật ( 1941 – 2007) là nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng tự nhiên tinh nghịch, tươi trẻ, đã góp phần làm sống mãi hình ảnh thế hệ thanh niên thời chống Mĩ, không khí của thời kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt mà phơi phới tin tưởng.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang gay go, khốc liệt. Từ việc khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính, bài thơ đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu lãnh liệt giải phóng Miền Nam.
2. Thân bài:
Luận điểm 1: Hình ảnh chiếc xe không kính:
- Những người lái xe giải thích, giới thiệu một cách tự nhiên, chân thực về người bạn đường thủy chung, gắn bó của họ.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Tác giả lí giải những chiếc xe “ không có kính” “ bởi” . “ bom giật, bom rung”, bởi sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh. Hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng điệu thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe không kính.
- Chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe không có kính sao bao chặng đường lăn lộn khó nhọc đã bị bom Mĩ tàn phá, hủy diệt trở nên méo mó, biến dạng:
Không có kính, rồi xe không còn đèn
Không có mui xe, thùng xe không có xước
Điệp ngữ “ không có” kết hợp với biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh chiếc xe không chỉ không có kính mà còn không có đèn, không có mui xe, thùng xe găm đầy những vết đạn xước … Hàng loạt các từ phù định “ không” đã diễn tả một cách độc đáo, chân thực đến trần trụi những chiếc xe trên đường ra trận. Mặc dù bị biến dạng, thiếu nhiều điều kiện để bảo vệ người lái nhưng những chiếc xe vẫn băng ra chiến trường. Đó là mình chứng cho sự tàn phá khốc liệt của bom đạn chiến tranh đồng thời là cách khám phá ra chất thơ độc đáo trong hình ảnh những chiếc xe không kính, chất thơ từ hiện thực chiến trường - chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam, để tôn vinh những chiến sĩ lái xe anh hùng.
Luận điểm 2: Hình ảnh những người lính lái xe
Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phấm chất cao đẹp, sức mạnh thinh thần lớn lao của họ.
a, Tư thế ung dung, hiện ngang sẵn sàng ra trận:
- Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính lái xe TS với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.
+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính
+ Thủ pháp liệt kê “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã cho ta thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của người lính laí xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.
+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.
+ Điệp ngữ “ nhìn thấy…nhìn thấy…thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường
+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “ vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.
+ Hình ảnh “ con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. . Đồng thời cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng MN
+ Đặc biệt hình ảnh so sánh “ như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.
=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.
b, Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ hiểm nguy của người lính( khổ 3+ 4)
Những gian khổ nguy hiểm đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe TS. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
- Hình ảnh “gió”, “bụi”, “ mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.
- Cấu trúc lặp: “ không có…, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “ chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe TS
- Hình ảnh so sánh: “ Bụi phun tóc trắng như người già” và “ Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính TS.
- Hình ảnh “ phì phèo châm điếu thuốc” và lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách
- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh…làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giwuax gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.
-> Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
c, Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của những người lính lái xe( khổ 5+ 6)
Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
- Hình ảnh “ Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.
- Hình ảnh “ Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:
+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính.
+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau
+ Là sự sẻ chia vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.
- Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh, dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
- Các định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.
- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút hạng phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp họh coa cảm giác gần gũi thân thương như ruột thịt.
- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng- đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi
- Nghệ thuật ẩn dụ: “ trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ . Màu xanh đó là màu của của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần
- Điệp từ “lại đi lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi.
d, Lí tưởng cách mạng của những người lính lái xe.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phái trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim
+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường
+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước
=> Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
** Thành công về nghệ thuật: Với lời thơ mộc mạc gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu ngang tàn, trẻ trung; cách khai thác chất liệu của chiến tranh … nhà thơ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo nên một bài thơ với những hình tượng độc đáo.
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề
- Từ hình ảnh những chiếc xe không kính, bài thơ đã khắc họa bức tượng đài nghệ thuật về người lái xe Trường Sơn. Đó là những con người sôi nổi trẻ trung, có tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, lạc quan phơi phới. Họ đã vượt lên sự ác liệt của chiến tranh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với khí thế tuổi xuân phơi phới “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
BT3:
BT 4
BT 5: Phân tích và so sánh hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
1. Mở bài: Cần nêu được:
- Giới thiệu tác giả.
- Giới thiệu hai bài thơ.
- Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
Tham khảo mở bài:
- Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì, anh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp Việt Nam tập trung những phẩm chất cao quý nhất của cơn người thời đại.
- Hai bài thơ Đồng chí ( Chính Hữu ) và bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật) giúp ta hiểu sâu sắc hơn về chân dung con người Việt Nam đẹp nhất ấy, những con người đã không tiếc máu xương chiến đấu để giữ gìn nền độc lập dân tộc.
2. Thân bài
a) Cảm nhận người lính trong từng bài thơ
Người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: vẻ đẹp chân dung anh bộ đội Cụ Hồ buổi đầu kháng chiến chống Pháp.
- Đó là những anh bộ đội xuất thân từ nông dân giàu lòng yêu nước. Họ sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn “ Ruộng nương anh …lung lay”.
- Trong gian khổ, thiếu thốn buổi đầu cách mạng ( áo rách, quần vá, chân không giầy những cơn sốt run người …) họ vẫn sáng ngời tinh thần lạc quan, dũng cảm, vượt khó.
- Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thấm thiết:
+ Tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về ảnh ngộ xuất thân nghèo khó:.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Tình đồng chí được nảy sinh bởi họ cùng chung mục đích, chung lí tưởng từ đôi người xa lạ, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ đã nhanh chóng tập hợp trung đội quân Cách mạng và quen nhau, rồi cùng chung nhiệm vụ, chung chiến hào.
+ Tình đồng chí nảy nở và càng bền chặt khi họ cùng chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ: “ đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Trong gian khổ thiếu thốn buổi đầu cách mạng, họ tìm đến bên nhau, chia nhau từng hơi ấm yêu thương từ tấm chăn mỏng, thấu hiểu, đồng cảm, kết thành đôi tri kỉ rồi trở thành Đồng chí.
+ Là đồng chí, họ luôn đoàn kết, sát cánh bên nhau nơi chiến hào đánh giặc:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ kết là bức họa tuyệt đẹp về hình ảnh hai người lính canh gác bên nhau trong cái hoang vu bát ngát của núi rừng Việt Bắc. Mặc cho cái lạnh thấm vào da thịt, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau chung một chiến hào.
Tình đồng đội là sức mạnh tinh thần kì diệu nhất để các anh vững vàng tay súng bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.
* Hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vô cùng ác lieejtm người lính đã ngời lên phẩm chất cao đẹp.
- Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, coi thường hiểm nguy.
- Tình đồng chí đồng đội cao đẹp, gắn bó keo sơn.
- Tình yêu Tổ quốc thiết tha và ý chí chiến đấu vì Miền Nam ruột thịt.
b) Điểm giống và khác nhau về hình ảnh người lính trong hai bài thơ
* Điểm giống nhau:
- Người lính trong hai câu thơ đều có những phẩm chất cao quý của anh bộ đội Cụ Hồ
+ Lòng yêu nước thiết tha, sự dũng cảm, can trường
+ Tinh thần lạc quan, lãng mạn, yêu đời
+ Tình đồng chí đồng đội thiêng liêng cao đẹp.
- Bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn, tìm ra chất thơ ngay trong những chi tiết đời thường đã tạo ra chân dung người lính chân thực nhưng cũng rất lãng mạn.
* Điểm khác nhau:
- Hoàn cảnh của hai cuộc kháng chiến khác nhau. Cuộc kháng chiến chống Pháp buổi đầu, người kính gặp muôn vàn gian khổ, thiếu thốn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ. Họ phải chịu sự khốc liệt của bom đạn chiến tranh, sự tàn bạo dã man của kẻ thù.
- Tiếp nối vẻ đẹp của người lính thời chống Pháp, người lính thời chống Mĩ đã nâng tình cảm đồng chí lên thành tình cảm gia đình ruột thịt để họ có thêm sức mạnh quyết tâm tiêu diệt kẻ thù.
- Ngôn ngữ thơ trong bài Đồng chí giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày của những người lính nông dân, cảm xúc dồn nén, hình ảnh cô đọng ,hàm súc. Còn Bài thơ về tiểu đội xe không kính , người lính trong thời chống Mĩ lại hiện lên sinh động qua ngòi bút trẻ trung, ngôn ngữ hóm hỉnh, ngang tàn, đậm chất khẩu ngữ …
3. Kết bài :
- Khẳng định : lòng yêu nước và sự quyết tâm chống giặc ngoại xâm là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam xưa nay. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, vẻ đẹp đó được tỏa sáng và phát huy trong hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
- Liên hệ bài học: Thế hệ cháu con tiếp nối cha ông, giữ gìn dất nước tươi đẹp và sống có trách nhiệm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.
IV DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LÊN QUAN ĐỀ TÀI.
Đề 1: Viết đoạn văn khoảng hơn 200 chữ theo lối tổng- phân- hợp trình bày cảm nhận, suy nghĩ về lí tưởng sống của người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
1.Yêu cầu:
Về hình thức:
+ Độ dài khoảng 200 chữ tương đương với khoảng trên 20 dòng
+ Trình bày theo lối tổng- phân- hợp
Về nội dung:
+ Luận điểm 1: Hoàn cảnh sống và chiến đấu hết sức gian khổ, hiểm nguy: bom đạn giặc Mĩ, thời tiết khắc nghiệt( gió, mưa, nắng..)
+ Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn cao quí đáng khâm phục:
. Tư thế ung dung, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi gian khổ
. Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết như tình anh em ruột thịt
. Ý chí chiến đấu vì MN ruột thịt.
2. Hướng dẫn viết:
- Cặp câu chủ đề:
+ Câu mở đoạn: Đọc bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD, ta vô cùng cảm phục lí tưởng sống cao đẹp của những người chiến sĩ lái xe.
+ Câu kết: Lí tưởng sống cao đẹp của những người lính lái xe cũng là lí tưởng của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ
- Các câu phát triển đoạn( Các câu khai triển):
+ PTD đặt hình ảnh những người lính trong bài thơ của mình vào một không gian đặc biệt- không gian của chiến tranh.
+ Những người lính làm việc ở binh đoàn vận tải trường Sơn- nơi tập trung nhiều nhất trận mưa bom, bão đạn mà giặc Mĩ trút xuống hòng cắt đứt sự tri viện vào MN.
+ Những chiếc xẻ vận tải lăn lộn trên con đường TS ấybị bom đạn giặc Mĩ tàn phá làm mất kính.
+ Bước lên buồng lái, không có kính mà những chiến sĩ lái xe vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi; Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Với họ việc xe “không có kính”, không ảnh hưởng gì đến tư thế, đến tầm nhìn, họ vẫn hiên ngang đoàng hoàng đối mặt thẳng thắn với những gian khổ, hi sinh. Ngồi trong buồng lái, xe vẫn tiến nhanh về phía trước để họ luôn nhận thấy “ Con đường chạy thẳng vào tim”, các anh vẫn giao hòa trực tiếp với thiên nhiên. Cả thiên nhiên đã đồng hành cùng các anh trên mỗi con đường ra trận, để các anh nhận ra: “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Ngồi trong buồng lái không có kính, bên cạnh những trận mưa bom bão đạn, những người lính còn phải đối mặt trực tiếp với những gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết TS là “Gió vào xoa mắt đắng”, là “ bụi phun tóc trắng như người già” và còn là “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.
+Những thử thách ấy cứ chồng chất lên để thử thách tinh thần của các anh. Song, dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu, bụi đường có thể nhuộm trắng mái đầu tuổi trẻ, mưa có thể khiến áo quần các anh ướt sũng nhưng các anh không cần quan tâm “ chưa cần rửa, chưa cần thay”.
+ Nhiệt tình cách mạng của các anh là trên hết. Nó được cụ thể hóa bằng độ dài cung đường “ lái trăm cây số nữa”|. Biểu hiện cao đẹp nhất trong lí tưởng sống của các anh còn là lòng yêu TQ, ý chí chiến đấu vì MN thân yêu.
+Cuộc chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe sau bao nhiêu lặn lội đã bị bom đạn giặc Mĩ tàn phá, hủy diệt đến mức trơ trụi: không kính, không đèn, thùng xe xước. Điệp ngữ “không có” ba lần lặp lại như nhân lên khó khăn thử thách với các anh ba lần. Những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích như thế nhưng các anh không chùn bước, bất chấp tất cả, tiến về phương Nam.
+Các anh lính đã giải thích lí do xe chạy hết sức đơn giản: Vì MN phía trước”. Hơn ai hết, những chiến sĩ hiểu rằng MN đang cần có họ. Điều kiện cần và đủ để chiếc xe ấy chạy: chỉ cần trong xe có một trái tim. Trái tim ấy chứa đựng tình yêu TQ, lòng căm thù giặc sục sôi, khát khao MN giải phóng, chính trái tim các anh đã thắp lên ngọn lửa để xe thẳng tiến về MN. Con đường TS không một ngày, một giờ đứt mạch.
*********************************************************
CHUYÊN ĐỀ 7. Văn bản: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
(Huy cận)
Cảm hứng chủ đạo:
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ ( từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ( từ lúc ra khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.
Chủ đề tư tưởng:
Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển HạLong,
bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
…
Yêu biết mấy, những con người đi tới Hai cánh tay như hai cánh bay lên Ngực dám đón những phong ba dữ dội Chân đạp bùn không sợ các loài sên!
( “Mùa thu mới” – Tố Hữu ).
I. Kiến thức cơ bản
II, Đọc – hiểu văn bản:
III. LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
BÀI TẬP 1: : Cho câu thơ sau: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”
a. Chép chính xác ba câu thơ tiếp theo. Dựa vào trình tự ra khơi của đoàn thuyền thì khổ thơ vừa chép mang nội dung gì?
b. Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong câu thơ: Thuyền ta lái gió với buồm trăng. Các biện pháp đó đã góp phần khắc hoạ những vẻ đẹp nào của người ngư dân? (Hình ảnh buồm trăng trong khổ thơ trên là phép tu từ ẩn dụ hay hoán dụ?).
c. Trong một bài thơ khác đã học ở chương trình lớp 9 cũng có 1 hình ảnh lãng mạn được xây dựng trên cơ sở quan sát như hình ảnh buồm trăng. Hãy chép lại câu thơ đó và ghi rõ tên tác giả, tác phẩm. Hình ảnh buồm trăng gợi cho em tới câu thơ nào trong chương trình Ngữ văn 8? Hãy chép lại câu thơ đó và ghi tên tác giả, tác phẩm
d. Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu cảm nhận vẻ đẹp của khổ thơ vừa chép. Trong đoạn văn sử dụng 1 thành phần khởi ngữ và một phép lặp.
Gợi ý:
a. “Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Gợi ý:
BÀI TẬP 3:
Gợi ý:
IV. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NÂNG CAO.
Đề 1 : Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận chọn tả thời điểm lao động vào ban đêm là có ý nghĩa gì?
Gợi ý trả lời :
Trong bài thơ Quê hương, Tế Hanh chọn chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá là một ngày “ Trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng” còn Huy Cận lại viết về chuyến ra khơi của đoàn thuyền theo hành trình : Hoàng hôn – đêm trăng – bình minh: Việc chọn tả thời điểm lao động như thế nhằm:
- Gợi cho người đọc hình dung về cuộc sống lao động khẩn trương, nhộn nhịp ngày đêm không lúc nào ngừng trong những năm miền Bắc dựng xây chủ nghĩa xã hội.
- Dễ dàng tạo dựng được những hình ảnh đẹp về biển trời rộng lớn vì cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ luôn dạt dào trong thơ ông.
- Ngợi ca sự hòa hợp sóng đôi giữa con người và vũ trụ bao la để tôn vinh những người lao động trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước.
Đề 2 : Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
1. Mở bài:Cần nêu được:
- Giới thiệu tác giả
- Phong cách sáng tác
- Giới thiệu văn bản.
- Nêu vấn đề nghị luận.
Tham khảo mở bài:
Có lẽ, con người đẹp nhất là khi làm việc, say mê lao động, thực sự hòa mình vào thiên nhiênđất trời, hòa mình vào vũtrụbao la… Huy Cậnđã gửi gắm hồn mình qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với một tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm! Bài thơ vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la – những con người thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới!
2. Thân bài
Luận điểm 1: Đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người đi biển ( hai khổ đầu)
* Cảnh biển vào đêm : vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người qua những liên tưởng độc đáo.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
- Chi tiết “ Mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở biển nước ta, trừ vùng tây nam thường chỉ thấy cảng mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Ở đây, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như mặt trời xuống biển.
- Phép so sánh: “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa”. gợi cảnh tượng tráng lệ khi hoàng hôn rực lên lần cuối phía chân trời. Giữa bốn bề là nước, nhìn về phía tây có cảm giác mặt trời như một hòn than cháy hồng đang lặn xuống biển.
- Nhân hóa : “ sóng đã cài then, đêm sập cửa”, Huy Cận đã có một liên tưởng thật bất ngờ: vũ trụ bao la trở thành ngôi nhà lớn, màn đêm bao phủ là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng lăn qua lăn lại trên đại dương là những then cửa.
* Đoàn thuyển ra khơi và tâm trạng náo nức của con người:
- Hoàng hôn buông xuống, vũ trụ nghỉ ngơi, người lao động lại bắt đầu một chuyến ra khơi. Họ chủ động mở cửa vũ trụ, đi trong biển đêm như đi trong ngôi nhà thân thuộc của mình. Phó từ “ lại” khẳng định công việc đánh cá đêm đã trở thành nhịp sống thân quen.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
- Khí thế phấn chấn, hào hứng, ngập tràn niềm vui, niềm lạc quan của người lao động: “ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Ba hình ảnh: câu hát, cánh buồm, gió khơi bỗng hòa vào nhau trong một câu thơ thể hiện trí tưởng tượng phong phú, lãng mạn. Người đánh cá năng buồm và cất lên câu hát, nhà thơ có cảm giác như chính câu hát ấy đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cụ thể cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi.
- Câu hát của người lao động còn mang theo một niềm mong môi tha thiết, vừa hiện thực vừa lãng mạn:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày diệt biển muôn luồng sáng.
Đến diệt lưới ta, đoàn cá ơi!
+ Ngắt nhịp linh hoạt : ba câu thơ dưới ngắt theo nhịp 4/3 cổ điển, câu mở đầu khổ thơ ngắt nhịp phá cách 2/5 tạo âm hưởng vừa trang trọng vừa khỏe khoắn.
+ Hình ảnh so sánh đẹp, độc đáo: từ dáng cá hình thoi, nhà thơ chợt liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là “ đoàn thoi” đang vun vút qua lại. Liên tưởng này lại kéo theo một liên tưởng khác, “ đoàn thoi” cá diệt nên tấm lưới của người dân chài. Tiếng hát thể hiện mong ước hồn hậu của ngư dân: mong ước biển lặng, sóng êm ngợi ca vẻ đẹp và sự giàu có của biển cả và cả mong ước chuyển đi chiến thắng trở về.
Luận điểm 2: Đoàn thuyền đánh cá trên biển và khí thế của người lao động ( bốn khổ giữa).
- Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la, qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn lao, kì vĩ, hòa nhập với kích thước của vũ trụ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
+Hình ảnh “ thuyền” được đặt trong mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên, là trung tâm được vũ trụ, thiên nhienr quây quần trợ giúp: gió là bánh lái, gió lái thuyền đi: trăng là buồm, buồm đầy trăng sáng, thế hiện trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn
+ Động từ “lưới” diễn tả vận tốc rất lớn, sự điêu luyện của tay lái. Đoàn thuyền trinh phục đại dương. Đoàn thuyền chủ động “ Ra đậu dặm xa dò bụng biển”, lập thế trận “ lưới vây giăng”. Người lao động chủ động nắm bắt thiên nhiên bằng trí tuệ, lòng dũng cảm và cả sự quyết tâm làm giàu cho đất nước.
- Công việc lao động của người đánh cá vốn nặng nhọc đã được nhà thơ diễn tả thật hào hứng, khỏe khoắn và lãng mạn.
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
…
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chìm cá nặng.
+ Khí thế lao động mỗi lúc một hăng say, hào hứng. Người lao động cất cao tiếng hát mê say lao động, ngợi ca biển cả với bao ân tình sâu nặng, thiết tha.
+ Thiên nhiên thơ mộng không chỉ là nơi diễn ra công việc lao động mà còn giúp sức lao động cùng con người: sao lùa nước Hạ Long, trăng gõ vào mạn thuyền… cùng người lao đông đuổi cá vào lưới. Hoạt động của con người nhịp nhàng cùng thiên nhiên vũ trụ.
+ Công việc lao động ngày càng khẩn trương. Người lao động biện lên đẹp nhất, khỏe khoắn nhất là giây phút kéo lưới, Thành quả lao động của họ mĩ mãn “ chùm cá nặng” mà mẹ biển đáp đền. Từng khoang thuyền đầy ắp cá “ vẩy bạc đuôi vàng” lấp lánh chào đón ánh bình minh.
- Cảnh biển đẹp lộng lẫy với hình ảnh đàn cá. Có khi đàn cá được miêu tả trong ánh trăng sao:
Cá thu biển Đông như đàn thoi
Đêm ngày diệt biển muôn luồng sáng
…
Cả song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Có khi hiện lên trong ánh bình minh
Vẩy bạc đuôi vàng lóe dạng đông
…
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hình ảnh đàn cá trên biển có vẻ đẹp của tranh sơn mài lung linh, huyền ảo là biểu tượng cho vẻ đẹp kì thú, tráng kệ về biển cả quê hương. Ở đây, trí tưởng tượng đã nối dài, chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên; khiến công việc lao động nặng nhọc trở nên thi vị, đầy niềm vui khi bội thu những mẻ cá lớn.
Luận điểm 3: Đoàn thuyền đánh cá trở về ( khổ cuối).
- Đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh bình minh một ngày mới rự rỡ huy hoàng.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
Đoàn thuyền chạy qua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biểu nhỏ màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
+ Khổ thơ cuối hô ứng với khổ thơ đầu. Đối xứng với cảnh : “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa” là cảnh “ Mặt trời đội biển nhô màu mới”, biểu hiện nhịp tuần hoàn của vũ trụ.
+ Lặp lại dòng thơ “ Câu hát căng buồm cùng gió khơi” chủ đổi chữ “ với” thành chữ “ cùng”. Tiếng hát của người dân chài xuất hiện trong toàn bài thơ: từ lúc ra khơi, trong khi đánh cá cho đến lúc trở về. Chữ “ hát” xuất hiện bốn lần trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui, khỏe khoắn của một khúc ca lao động đầy hào hứng, say mê.
Sau một đêm thức trắng giữa biển khơi, đoàn thuyền trở về trong khúc ca khải hoàn thắng lợi vẫn có thiên nhiên bầu bạn bên mình. Người lao động vẫn trong tư thế sáng ngang cùng vũ trụ, làm chủ thiên nhiên vũ trụ trong cách nói khoa trương giàu màu sắc lãng mạn: “ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Hành trình về bến của đoàn thuyền hòa nhập với khí thế đi lên của mặt trời vũ trụ hứa hẹn cuộc sống tươi đẹp đang bắt đầu nở hoa từ trong loa động.
3. Kết bài
- Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ đẹp tráng lệ về biển trời vũ trụ bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và độc đáo; âm hưởng khỏe khoắn, sôi nổi, hào hùng, lạc quan; cảm hứng hiện thực và lãng mạn hòa hợp đan cài.
- Theo hành trình chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, bài thơ là một khúc tráng ca về lao động, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và về thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Từ đó, nhà thơ bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng trước đất nước, con người và cuộc sống mới.
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận *
Bài làm:
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được ông sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một khúc tráng ca, ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới .
Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.
Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hoà cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như một chiến sĩ.
Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thuỷ triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến.
Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỏ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá tư nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc bức tượng đồng về người ngư dân:
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng loé rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang chạy đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá mặt trời đội biển đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn. Ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang màu mới cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả.
Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hoà cùng luồng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
Đề 3. Hình ảnh trăng xuất hiện trong ba bài thơ : Đồng chí của Chính Hữu, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Ánh trăng của Nguyễn Duy. Em hãy phân tích và so sánh hình ảnh trăng trong ba bài thơ đó để làm rõ những nét thống nhất và những nét đặc sắc riêng trong mỗi tác phẩm.
1. Mở bài
- Thơ ca dân tộc viết về trăng.
- Ba bài thơ: Đồng chí của Chính Hữu, Đoàn Thuyền đánh cá của Huy Cận, Ánh trăng của Nguyễn Duy đều nhắc đến vầng trăng thiên nhiên nhưng mỗi nhà thơ lại khai thác vẻ đẹp vầng trăng theo cảm quan riêng để làm nổi bật tư tưởng, chủ đề mỗi tác phẩm.
2. Thân bài
a) Cảm nhận về hình ảnh trăng trong từng bài thơ.
* Hình ảnh trăng trong bài Đồng chí của Chính Hữu.
- Trăng là vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống, của thiên nhiên lãng mạn, là biểu tượng cho cuộc sống hòa bình, là hình ảnh đất nước quê hương.
- Trăng soi sáng cho những người lính trong những đêm phục kích nơi núi rừng hoang vu lạnh giá. Trăng là nhân chứng soi sáng cho tình đồng chí gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu gian khổ. Trăng là đích hướng về của những người lính, họ phục kích trong những đêm nay là để hướng tới vầng trăng hòa bình, để bầu trời mãi có ánh trăng soi:
- Trăng còn là vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ: lạc quan và lãng mạn .bên cạnh những phút giây phục kích, sẵn sàng chờ giặc tới căng thẳng, hồi hộp nhưng tâm hồn các anh lúc nào cũng trong trẻo, tròn đầy.
+ Trăng trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận:
- Trăng là hình ảnh của thiên nhiên. Trăng lên khi đoàn thuyền đánh cá ra khơi trăng như cánh buồm chuyên chở và nâng bổng niềm vui hào hứng của những người lao động “ Thuyền ta lái gió với buồm trăng”.
- Trăng là nét vẽ tài tình tinh tế dệt nên biển đêm tráng lệ, rực rỡ sắc màu lóng lánh như bức tranh sơn mài:
Cá nhụ, cá chim cùng cá đẻ,
Cá song lấp lánh đuối đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
- Trăng là bầu bạn giúp đỡ con người, cùng lao động với người để hoạt động của con người nhịp nhàng cùng thiên nhiên, vũ trụ.
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
* Trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:
-Vầng trăng trong hoài niệm:
+ Thời thơ ấu: Trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên Vĩnh hằng, là bầu bạn của tuổi thơ trăng ngập tràn trên cánh đồng, dòng sông, bãi bể … người đi đâu, làm gì cũng có vầng trăng làm bạn. Trăng đã nuôi lớn tâm hồn tuổi ấu thơ của người lính.
+ Khi trưởng thành: Người lính chiến đấu ở rừng sâu, “ vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng là ánh sáng trong những đêm tối chiến tranh. Trăng làm bạn với người chân thành, vô tư, tình cảm giữa người với vầng trăng là tri kỉ, là tình nghĩa.
- Vầng trăng hiện tại:
+ Đó là vầng trăng hiện thực: cuộc sống thay đổi, trăng vẫn như xưa, vẫn ngày ngày qua ngõ, vẫn dõi theo người nhưng người đã ngoảnh mặt làm ngỡ, coi trăng như người dưng xa lạ.
+ Là ánh trăng cảm hóa : khiến lòng người xúc động trào dâng: “ có cái gì rừng rưng” ánh trăng đánh thức quá khứ tươi đẹp đã ngủ yên trong lòng người “ từ hồi về thành phố”. Sự bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc của vầng trăng đã có sức cảm hóa lớn khiến người “ giật mình” nhìn lại mình, nhận ra lối sống bạc bẽo, vô tình của mình để sống tốt hơn, tình nghĩa hơn. Ánh trăng là ánh sáng của lương tri, ánh sáng của đạo làm người.
b) Điểm giống nhau và khác nhau
* Điểm giống nhau:
- Đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, thanh bình.
- Đề là người bạn tri kỉ với con người trong lao động, trong chiến đấu và trong sinh hoạt hằng ngày.
- Đều mang ý nghĩa tả thực và biểu tượng, thể hiện cách cảm nhận của tác giả về con người, cuộc sống và đất nước.
* Điểm khác nhau:
- Trăng trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ hiện lên chốc lát nhưng vầng trăng trong ánh trăng lại gắn bó với một đời người trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
- Nếu như vầng trăng trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ soi vào phần tươi đẹp cuộc sống con người, vào chính diện của cuộc đờim thì Ánh trăng lại soi rọi vào góc khuất tâm hồn của con người để thức tỉnh lương tri, giúp người ta biết sống ân nghĩa,thủy chung.
- Bút pháp miêu tả :
+ Trăng trong Đoàn thuyền đánh cá được thể hiện chủ yếu bằng cảm hứng lãng mạn gắn liền với cảm hứng vũ trụ thường thấy trong thơ Huy Cận kết hợp bút pháp phóng đại góp phần tạo ra bức tranh kì vĩ tráng lệ, ca ngợi sự giàu đẹp của quê hương, đất nước.
+ Trăng trong Đồng chí của Chính Hữu có sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn góp phần thể hiện nét đẹp tâm hồn của người lính.
+ Trăng trong Ánh trăng của Nguyễn Duy thể hiện bằng ngòi bút hướng nội với những suy tư của con người đương đại về cách sống, cách ứng xử của con người. Từ ánh trăng mà gợi ra nhiều chiêm nghiệm mamg tính triết lý.
3. Kết bài
Với sự sáng tạo tài tinh của ba nhà thơ, hình ảnh trăng trong ba tác phẩm thật sự là hình ảnh đẹp, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào, sâu lắng.
V. DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ
ĐỀ BÀI: Viết đọan văn ngắn Suy nghĩ về tình yêu lao động
1.Mở đoạn: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận, ý nghĩa của lao động và yêu thích lao động.
2. Thân đoạn:
a. Giải thích khái niệm:
- Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người.
- Yêu thích lao động là luôn mong muốn được làm việc hết mình để góp phần tạo ra các sản phẩm phục vụ con người: “lao động là đôi cánh của ước mơ, là cội nguồn của niềm vui và sáng tạo” (Mác-xim Groki).
b. Biểu hiện:
- Người yêu lao động trong văn học, thơ ca và cuộc sống thực tế (lấy dẫn chứng).
- Biểu hiện của những kẻ lười lao động là vừa thấy khó khăn mệt mỏi đã vội bỏ cuộc.
c.Ý nghĩa
- Lao động là biến mơ ước của con người thành hiện thực: Chỉ có lao động mới giúp con người thực hiện được mơ ước, đem lại niềm vui, thúc đẩy con người sáng tạo.
- Điều tốt đẹp trong cuộc sống không tự dưng mà có, không ai đem cho mà bản thân mỗi con người phải tự làm ra, tự lao động để có.
- Lao động là cơ sở để con người tồn tại, phát triển, đi từ tiến bộ này đến tiến bộ khác.
- Lao động tạo ra giá trị vật chất và tinh thần phục vụ cho đời sống con người.
- Lao động đem lại niềm vui, khơi dậy những sáng tạo, thúc đẩy cuộc sống, xã hội phát triển
- Lao động giúp con người làm chủ bản thân, thực hiện trách nhiệm, bổn phận với gia đình, đóng góp xây dựng xã hội.
- Lao động giúp con người thực sự sống tự do.
d.Phê phán lối sống lười biếng, dựa dẫm, ăn sẵn
3. Kết đoạn: khẳng định tầm quan trọng của tình yêu lao động, liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức
+ Mỗi người không ngừng phấn đấu, rèn luyện để trở thành người lao động chân chính, có ích, người lao động giỏi trong tương lai.
+ Cần có quan điểm lao động mới, có thái độ lao động tự giác, có kĩ thuật, có kỉ luật và đạt năng suất cao.
+ Chống lại thái độ lười biếng lao động, ỷ lại, không sáng tạo,…
Đề : Ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Bài làm:
Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ của đất nước ta, qua nghìn năm nó luôn gắn bó với đời sống của cư dân nước Việt cả về vật chất lẫn tinh thần nên ta phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo. Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của nhân dân. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học được công bố thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục. Biển nước ta có nguồn tài nguyên tiềm tàng và nhiều loại khoáng sản như than, sắt, cát thuỷ tinh,… Đây còn là nguồn cung cấp hải sản lớn cho ngư dân của nước ta suốt bao nhiều đời, là nơi nương tựa và không gian sinh tồn của dân tộc. “Chủ quyền” là có quyền lực độc lập đối với một khu địa lí nên “bảo vệ chủ quyền biển đảo” là quyền lãnh thổ hợp pháp của đất nước ta ở biển. Vùng biển và ven biển của nước ta nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch có giá trị như những cánh cửa mở ra để chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Biển Đông còn là vị trí đặc biệt quan trọng về quân sự, biên giới phía Đông nơi có đường tiếp cận, bàn đạp tấn công của các thế lực xâm lược. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của biển. Những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm phạm đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam, làm cho tình hình biển Đông ngày càng thêm phức tạp. Cho nên, để bảo vệ chủ quyền biển đảo thì các thanh niên trước hết phải xác định giữ biển đảo bằng tri thức về chủ quyền dân tộc. Muốn vậy, học sinh cần cố gắng trong học tập, tiếp thu tri thức, nắm vững kiến thức lịch sử nói chung và kiến thức về biển đảo nói riêng. Ta phải nhận thức rõ về ý nghĩa thiêng liêng và giá trị to lớn mà cha ông ta đã đổ máu để xây dựng để từ đó tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh việc tiếp thu kiến thức, học sinh cũng cần rèn luyện kĩ nâng và những phẩm chất tốt đẹp với định hướng của lòng yêu nước để phấn đấu trở thành một người sống có ích xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
***************************************************************
CHUYÊN ĐỀ 8:VĂN BẢN: BẾP LỬA
(Bằng Việt)
CẤU TRÚC BÀI THƠ BẾP LỬA
Bếp lửa có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của đời thơ Bằng Việt, một trong những bài thơ “đi cùng năm tháng” với nhiều thế hệ người Việt, nhất là những ai trải qua quãng đời thơ ấu ở với bà của tác giả. Điều gì làm nên một Bếp lửa đánh thức trong tâm hồn bạn đọc những kí ức tuổi thơ bên cạnh người thân ruột thịt như thế? Là cảm xúc chân thành của tác giả, là hình tượng bếp lửa, là hình ảnh người bà cứ trở đi trở lại trong bài? Tất cả đều đúng, và theo ý kiến chủ quan của tôi, cái hay, cái độc đáo của Bếp lửa còn được làm nên từ cấu trúc bài thơ: Cấu trúc kể chuyện.
Cấu trúc kể chuyện (hay truyện kể) là dạng cấu trúc khá quen thuộc trong thơ ca. Một bài thơ theo cấu trúc này có cốt truyện rành mạch, rõ ràng được thể hiện bằng những câu thơ. Cấu trúc này thường được dùng nhiều với thể lục bát mà Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu là những minh chứng điển hình. Bếp lửa dù viết bằng thể thơ tự do nhưng cũng tuân theo cấu trúc kể trên. Tuy nhiên Bếp lửa có những nét độc đáo riêng so với các tác phẩm cùng chung kết cấu.
Thứ nhất, Bếp lửa là bài thơ có dung lượng ngắn. Đây là điều khá lạ so với một bài thơ có cấu trúc dạng này. Truyện Kiều gồm 3254 câu, Lục Vân Tiên có tổng cộng 2082 câu, một tác phẩm thuộc thơ ca hiện đại như Núi Đôi của Vũ Cao cũng có tới 64 câu…còn Bếp lửa chỉ gồn có 41 câu thơ. Chính dung lượng ngắn này đã quy định những đặc trưng của tác phẩm. Bộ môn Lí luận văn học đã chỉ rõ một tác phẩm có cốt truyện thông thường sẽ bao gồm tình tiết, chi tiết và biến cố. Nhiều tình tiết hợp lại thành chi tiết, nhiều chi tiết hợp lại thành biến cố. Những tác phẩm như Truyện Kiều hay Lục Vân Tiên do có dung lượng lớn nên bao gồm đầy đủ các thành phần trên. Bếp lửa với vẻn vẹn 41 câu nên buôc phải theo hướng tinh gọn, nghĩa là bỏ qua tình tiết, chi tiết mà chỉ gồm những biến cố chính trong cuộc đời tác giả. Bài thơ được bắt bằng hình ảnh Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, rồi từ đó điểm qua các sự kiện quan trọng ghi dấu ấn không thể nào quên của Bằng Việt. Đó là khi gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn: đói mòn đói mỏi / Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy, đó là tám năm trời đằng đẵng cháu cùng bà nhóm lửa, là câu chuyện về Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, là những hạnh phúc trong nghèo khổ và yêu thương khi được ở bên bà… Cứ thế mạch thơ kéo dài đến việc nhà thơ đang hiện thực hóa “giấc mơ có thật” của mình: Sinh sống và học tập ở Nga
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
Có thể nói bằng việc tập trung khắc họa những biến cố “đắt giá”, thấm thía nhất, gạt bỏ những “chi tiết bình thường” trong độ tuổi “Chăn trâu đốt lửa ngoài đồng”, Bằng Việt đã lay động đến con tim của hàng triệu bạn đọc.
Thứ hai, trong cấu trúc kể chuyện ở tác phẩm thơ, đa phần thời gian sẽ tuân thủ theo trật tự tuyến tính. Thời gian trong Bếp lửa của Bằng Việt về cơ bản cũng như thế. Bắt đầu từ khi tác giả còn là chú bé chập chững “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, trải qua những năm tháng đằng đẵng để đến lúc trưởng thành có thể “đi xa”. Tuy nhiên, thời gian trong Bếp lửa thú vị ở chỗ đó là sự tuyến tính trong cái nhìn là hồi cố. Hồi cố là từ điểm nhìn hiện tại hướng về quá khứ, chiêm nghiệm quá khứ. Bằng Việt sáng tác Bếp lửa vào năm 1963, khi nhà thơ đang theo học ở xứ sở bạch dương, nhớ về những năm tháng “rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” của mình. Mạch thơ từ khổ đầu đến khổ thứ bảy tuẫn theo nguyên tắc sự việc xảy ra trước miêu tả trước, sự việc xảy ra sau miêu tả sau. Chỉ đến khổ cuối cùng khi tác giả mới “tiết lộ” cụ thể thời điểm sáng tác thì kết cấu thời gian hồi cố mới hoàn toàn lộ diện. Từ điểm nhìn hiện tại, nhà thơ buông cảm xúc trôi theo dòng quá khứ. Nhưng đó là một quá khứ có “trình tự, lớp lang” chứ không không phải một quá khứ hỗn độn “nhớ gì kể nấy”.
Điều này giúp bạn đọc dễ nắm bắt được mạch cảm xúc, mạch câu chuyện và cũng… dễ thuộc hơn.
Thứ ba, ở cấu trúc truyện kể thông thường mỗi lần thời gian xê dịch sẽ kéo theo sự dịch chuyển không gian và ngược lại. Dù cũng thay đổi vài lần (cánh đồng xa, Huế, nước Nga) song về cơ bản không gian chủ đạo trong Bếp lửa vẫn giữ nguyên – căn bếp với ánh lửa bập bùng “ấp iu nồng đượm”. Sự phi đối xứng giữa hai yếu tố quan trọng này chỉ nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của không gian bếp lửa, nơi nuôi dưỡng tuổi ấu thơ của tác giả. Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại đóng vai trò “người kết nối” các yếu tố trong thi phẩm lại với nhau. Không gian bếp lửa đã trở thành một “ nhân vật” đúng nghĩa trong tác phẩm.
Dù có dung lượng ngắn, nhưng Bằng Việt đã lựa chọn (một cách vô thức) cấu trúc truyện kể cho đứa con tinh thần của mình. Cùng với sự thăng hoa của cảm xúc, lựa chọn này đã đem đến cho tác giả thành tựu lớn nhưng không bất ngờ trong sự nghiệp.
BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính song đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc nét chạm vậy. Khi viết bài thơ này, tác giả đang là sinh viên theo học ở nước ngoài. Không gian xa cách. Bên này nỗi nhớ thương là người bà và bên kia là cháu. Nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Trong vô vàn những kỉ niệm không đầu không cuối hiện về, có lẽ kỉ niệm ám ảnh nhất là hình dáng người bà và bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ thế, như một thôi thúc tự nhiên, kỉ niệm và nỗi nhớ ấy bật lên thành các chữ: “Một bếp lửa…Một bếp lửa…Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Mở đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay lập tức và được điệp lặp lại. Và thế từ đây, hình ảnh bếp lửa với sức ấm và ánh sáng của nó quán xuyến, lan tỏa toàn bài. Tựa như bếp lửa, nỗi nhớ của cháu đối với bà cũng ấm nóng da diết, thấm thía trong từng câu chữ.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả mọi ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Bà, bếp lửa, tuôi thơ của cháu trong những năm nạn đói và trong những năm giặc giã. Bà, bếp lửa trong kí ức của chính bà. Và cuối cùng là bà, bếp lửa của thì hiện tại, của hôm nay. Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích…
Khổ thơ thứ hai nhắc đến nạn đói năm bốn nhăm, trước ngày cả nước giành chính quyền, người chết đói thê thảm khắp nơi. Cái mùi khói, khói hun trong khổ thơ có sức gợi rất nhiều, nhắc người đọc nhớ đến cảnh hun khói xua đuổi mùi tử khí được miêu tả trong thiên truyện Vợ nhặt nổi tiếng của Kim Lân. Ông viết: “Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Nhà thơ Bằng Việt chỉ với chi tiết rất tiêu biểu này đã gợi ra được một quá khứ tang thương, đầy những thảm cảnh gắn liền với những thân phận trong đó có người bà, người bố. Tình cảm của nhà thơ mang bao nỗi ngậm ngùi, xót xa.
Cũng có thể hình dung hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng nhà thơ tựa như những thước phim đang chạy, làm hiện lên những khung cảnh quá khứ đầy cảm động. Đây là hình ảnh người bà: “Tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng xa…bà hay kể truyện những ngày ở Huế”. Đến đây, hình ảnh người bà và bếp lửa gắn liền với tiếng kêu khắc khoải của loài chim tu hú. Tiếng kêu của loài chim này trong truyền thống văn học của ta thường gợi nhắc đến những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi… Đó là những âm thanh mang một sắc điệu buồn. có thể bên bếp lửa, bà bỗng nhớ về những vui buồn thời con gái. Hình ảnh tiếng chim tu hú còn được nhắc lại ở cuối khổ tiếp theo. Phải nói rằng, sự có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình, và nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, vời vợi. Câu thơ “Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” như treo lên một nỗi khắc khoải khôn nguôi.
Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã. Bố mẹ ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động; “Bố ở chiến khu bố con việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung đều phải giấu đi cho người ở xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con thương cháu, ân cần, chu đáo xiết bao.
Nếu từ đây hắt trở lên là hình ảnh bếp lửa, thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực, cụ thể, đến đây đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trung, khái quát. Bếp lửa với những ấm áp, tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống con người. Nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp ngọn lửa là một vẻ đẹp “kì lạ và thiêng liêng”. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng,trường tồn. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà và ngọn lửa được kết lại trong một câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Đó là một nỗi nhớ đau đáu, da diết, thường trực. Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những lán áng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc.
Nếu ai đã đọc Đaghexxtan của tôi của nhà văn Raxun Gamdatốp, hẳn còn nhớ trong một thiên tuyệt bút với nhan đề Cha và mẹ, lửa và nước có nói về người mẹ dân tộc Avar trong cuộc đời chỉ có ba việc diễn ra đều đặn, nhưng bao giờ cũng khoan thai, chậm rãi, cẩn trọng, tựa hồ như những gì cần thiết và quý giá nhất, đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này chỉ ở trong ba việc thường nhật mà trọng đại đó. Ba công việc ấy vừa cổ sơ, nguyên thủy vừa bền bỉ vĩnh hằng. Người đàn bà ấy đã sinh thành, nhen nhóm và duy trì sự sống. Thế thì người bà trong Bếp lửa đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì nước vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm chờ đợi và hi vọng… đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người đó sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!...
BẾP LỬA CỦA TÌNH ĐỜI
Nhớ về tuổi thơ của mình, nhà thơ xứ Đaghextan, Raxun Gamzatôp đã nhớ đến người mẹ thân yêu với những việc làm trở đi trở lại trong mỗi ngày vào sáng sớm, hay ban trưa và buổi tuối, suốt cả bốn mùa xuân – hạ - thu - đông. Đó là : đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Nhóm lửa, đi lấy nước, đưa nôi. Đưa nôi, nhóm lửa và đi lấy nước. Bà đã làm những việc ấy như nhen nhóm, gìn giữ và nâng niu những gì quý giá nhất của đời mình.
Do hoàn cảnh riêng, những năm tháng tuổi thơ, Bằng Việt cũng chỉ sống với bà. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa. Bởi mỗi ngày của tuổi thơ lận đận đều bắt đầu từ ngọn lửa bà nhen. Bên bếp lửa ấy, bà đã bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Sự sống của cháu đã được nhen lên và ấp iu cùng ngọn lửa ấy. Thì ra thế, ở đất nước nào ngọn lửa cũng là cội nguồn của sự sống, bếp lửa nào cũng nhọc nhằn, tần tảo, bếp lửa nào cũng nồng đượm, ấp iu.
Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa!
Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn, cũng là lời thốt lên khi chợt nhận ra trong một vật đơn sơ thế lại ẩn náu bao điều kì diệu đến thế.
Bếp lửa là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà thân yêu ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa dâng trào vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Mặc dù tác giả đã có ý sắp xếp theo trật tự thời gian nhưng toàn bài vẫn cứ là một dòng chảy tự nhiên xáo động. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ giành lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ thơ, đoạn thơ dài ngắn không đều. Giọng điệu bài thơ là sự hoà điệu giữa hai sắc điệu : kể lể (tự sự) nắm vai trò tổ chức chung đối với toàn bài, và cảm thương (trữ tình) thấm đượm vào mỗi kỉ niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy sắc thái cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự kể lể mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc.
Trước hết hãy nói đến mạch chuyện, mạch kể. Kể bao giờ cũng nhằm tái hiện lại sự việc. Các sự việc được kể tiếp nối thành một chuỗi, tạo thành mạch chuyện nào đó trong bài thơ. Bằng Việt kể không nhiều, nhưng khá rành rọt. Nhớ từng thời điểm, rành rõ từng quãng thời gian, từng cảnh ngộ gia đình trong những biến động chung của cuộc đời, của đất nước: Lên bốn tuổi, Tám năm ròng, Năm giặc đốt làng, Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, rồi thì Giờ cháu đã đi xa…. Lần theo những mốc thời gian ấy, các sự kiện được kể dù tản mạn nhưng cứ chắp nối và tạo thành một một cái cốt chung cho cuộc chuyện trò với bà trong tâm tưởng. Nhưng những sự việc sống trong nỗi nhớ bao giờ cũng được bao bọc bởi tâm tình. Huống chi đây lại là những sự việc thuộc về quãng ngọn nguồn của đời người. Vì thế mỗi một kỉ niệm thức dậy là biết bao tâm tình sống dậy. Cứ thế, theo với mạch sự việc, mạch tâm tình cũng hiển hiện và dâng trào. Thiếu một tâm tình sâu nặng, thì các sự việc thời thơ ấu gian khổ có được tái hiện kĩ đến mấy, cũng khó mà thành thơ.
Ngần ấy sự việc suốt mấy chục năm đó chỉ xoay quanh hình ảnh bếp lửa của bà. Lửa là ánh sáng, lửa là hơi ấm. Bếp lửa lặng thầm nuôi dưỡng mọi gia đình, nuôi dưỡng cả sự sống này. Nép mình trong góc nhà, xó bếp, còn gì mộc mạc khiêm nhường hơn bếp lửa? Nhưng cũng có gì cao quý thiêng liêng hơn? Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, bếp lửa cứ lụi cụi, hi sinh, tần tảo. Cho nên, nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ ba câu. Thì đó chính là sự gắn bó tự nhiên kì lạ giữa hai hình ảnh thân thương:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết máy nắng mưa.
Ngọn lửa chờn vờn sương sớm là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa ấp iu nồng đượm đã là ngọn lửa của lòng bà chăm sóc, cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tỏ dần, tỏ dần: bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, qua năm tháng.
Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong những kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu biết nhớ mùi khói là khi lên bốn. Thì đó cũng là năm đói kém (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cố bươn bả đưa gia đình qua khỏi thì đói kém, nhưng vẫn cứ chìm đi. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu… Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ còn nguyên trong kí ức, chẳng thể tiêu tan:"Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!" Mùi khói của quá khứ làm cay sống mũi hiện tại? Hay là nhớ thương từ hiện tại đã làm sống dậy ngọn khói từng hun nhèm mắt cháu của mấy chục năm xưa? Trong khoảnh khắc ấy, hồi ức hoài niệm của con người đã xoá đi cái khoảng cách thời gian mấy chục năm trời.
Trong những năm tháng ấy, bên cạnh bà cháu, bên cạnh bếp lửa còn có một nhân vật nữa, giờ đây nhớ lại cháu cũng chẳng hề quên: ấy là chim tu hú – “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Tiếng chim gợi lên cái không gian mênh mông mà buồn vắng. Tiếng tu hú nhắc cảnh mùa màng sao trớ trêu trong những ngày đói kém. Tiếng chim tu hú lạc lõng chơ vơ côi cút như khát khao được che chở, ấp iu. Đứa cháu được sống trong sự săn sóc ấm áp của tình bà đã chạnh lòng thương con tu hú bé bỏng, thiệt thòi:
"Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Thương con chim tu hú bất hạnh bao nhiêu là biết ơn những ngày hạnh phúc được bà đùm bọc, chi chút bấy nhiêu. Nếu chim tu hú đáng thương là cảnh ngộ tương phản với đứa cháu được yêu thương, thì bếp lửa ân cần, ấm cúng, nhẫn nại của bà lại tương phản với ngọn lửa thiêu huỷ dã man của bọn giặc.
Một ngọn lửa thù địch với sự sống:
"Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi"
Một ngọn lửa nhen lên sự sống:
"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng".
Bà đã chịu đựng tất cả nhọc nhằn, mất mát, hi sinh. Bà đã góp gom, ấp ủ, chắt chiu, nhen nhóm. Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man của bọn giặc, kì lạ thay, lại đang hồi sinh trong ngọn lửa của lòng bà !
Cứ thế cuộc đời cháu được chở che ân cần qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được gìn giữ, nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia ! Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ biết ơn, vừa suy tư. Đến đây nhà thơ mới đúc kết về sự kì lạ và linh thiêng bếp lửa của bà :
"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa !"
Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến ngọn khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Cháu đã đi ra với đất rộng trời cao, đến với những chân trời hạnh phúc. Nhưng trong lòng cháu vẫn chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, chỉ nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên bếp lửa, bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ ngọn lửa ấy:
"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
Lời nhắc ấy là lời nhắc của ngọn lửa mà cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà ! Thế là ngọn lửa của bà giờ đây đã cháy trong lòng cháu ! Một bếp lửa mới của cuộc đời đã được nhen lên ! Cứ thế, ngọn lửa của sự sống truyền đời, bất diệt !
Vậy là, nhìn vào hình tượng thơ, có thể thấy một cấu trúc tinh vi và sống động. Cặp hình tượng căn bản là Cháu – Bà, trong đó Bà là trung tâm. Nhưng để làm nổi bật ấn tượng sâu nặng về bà, thi sĩ còn khai triển một tương quan đa dạng với nhiều hình tượng khác. Trầm tư trước mỗi tương quan ấy, lòng thi sĩ lại sống dậy một niềm thương cảm. Thế giới trữ tình của thi phẩm lại được làm giàu lên. Cứ thế, tiếng nói tâm tình càng lúc càng được mở rộng thêm, sâu nặng hơn, lan xa mãi.
Bếp lửa là bài thơ cảm động! Tình cảm dào dạt trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp. Ấy là giọng nồng đượm của lửa. Ấy là nhịp bập bùng của lửa! Giọng kể lể và bộc bạch cứ tràn ra, cứ dâng lên, mỗi lúc một nồng nàn, ấm nóng. Đâu phải ngẫu nhiên bài thơ bắt đầu bằng một đoạn ba câu, rồi càng những đoạn sau, số câu trong từng đoạn cứ nhiều lên mãi. Khi số lượng không nhiều, thì giọng thơ lại như cuồn cuộn lên. Lối trùng điệp được sử dụng hết sức biến hoá. Những kiểu câu lặp lại, những vế câu láy lại, những lời nhấn nhá thật nhiều. Tất cả phối hợp với nhau góp phần tạo nên sự dạt dào xáo động của tâm tình, tất cả góp mình tạo nên cái nhịp chờn vờn, bập bùng dai dẳng của ngọn lửa. Này là “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”, “ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”, “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi, Nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui. Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Này là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa… Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa". Này là: “Bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Có ngọn khói trăm tàu. Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Vì lối viết như vậy mà người đọc bị cuốn vào một âm điệu thật đặc biệt. Đọc Bếp lửa chẳng những thấy được một dòng tâm tư sâu nặng dạt dào của một đứa cháu nghĩa tình hiếu thảo mà còn như thấy rõ ngọn lửa cứ chờn vờn, bập bùng suốt cả âm điệu nồng hậu của bài thơ. Đọc bài thơ này, nhìn lại bếp lửa thân quen trong góc bếp nhà mình, hẳn cái nhìn của chúng ta cũng chẳng thể còn như trước.
*************************************************
I, Kiến thức cơ bản:
II, Đọc- hiểu văn bản
III, LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1
Gợi ý:
1. Bài thơ “Bếp lửa” của tác giả Bằng Việt. Bài thơ được sáng tác 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên ngành luật tại Liên Xô và mới bắt dầu đến với thơ. Mạch cảm xúc: Đi từ liên tưởng đến hiện tại, từ những kỉ niệm đến suy ngẫm
2.
- Cách hiểu của bạn học sinh không đúng.
- Vì đây là ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa được thắp lên từ lòng yêu thương, từ niềm tin sự sống
3.
- “Chờn vờn” : Ánh sáng ngọn lửa bếp bập bùng, lúc to lúc nhỏ gợi ta nhớ đến hình ảnh bếp lửa bình dị quen thuộc của làng quê Việt Nam trước kia.
- Ba câu thơ đầu nổi bật lên với những từ tượng hình như “ chờn vờn, ấp iu”. Từ “ chờn vờn” gợi hình ảnh một bếp lửa vừa cụ thể, hữu hình, vừa vô hình khó nắm bắt. Không phải là “ bập bùng” hay” chập chờn”. Nếu là “ bập bùng” thì thực quá, lửa mạnh quá, ngọn lửa lúc cao, lúc thấp. Nếu “ chập chờn” thì ảo quá, ngọn lửa lúc to, lúc nhỏ khó nắm bắt. Chỉ với tư “chờn vờn” là từ láy tượng hình vừa gợi được cái dáng lửa thanh mảnh uốn lượn quyện làn sương sớm vừa gợi được sắc lửa hồng. Ngọn lửa nửa thực, nửa hư. Đó chính là ngọn lửa của hồi ức. Từ “ ấp iu” gợi sự chăm chút, nâng niu, giữ gìn bếp lửa của người bà với một bàn tay khéo léo, kiên nhẫn. Tóm lại, đó là một bếp lửa trong hoài niệm vừa gợi hình vừa biểu cảm. Một bếp lửa rực lên trong tình thương mến của bà và cháu.
4. Hai bài thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9 viết về tình cảm gia đình hoà quyện với tình yêu quê hương đất nước là:
- Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm
- Nói với con của Y Phương.
5.Câu chủ đề: Người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của BV luôn dành cho cháu những tình cảm lớn lao, sâu sắc.
Các câu khai triển:
Gợi ý:
b, Lời dạy của bà vi phạm phương châm về chất
Vì: +) Người bà không muốn cho ba mẹ đứa cháu biết về hoàn cảnh thực tế của hai bà cháu ở nhà để họ yên tâm công tác đánh giặc.
+) Qua lời bà dặn không chỉ cho thấy sự đảm đang, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ mà còn thấy tình yêu nông nàn của người bà.
c, Là những câu thơ có dấu ngoặc kép và dấu gạch đầu dòng.
d, Nội dung chính: Đoạn thơ nói về sự tàn phá của chiến tranh qua đó làm nổi bật tinh thần đoàn kết của xóm làng và sự vượt qua khó khăn, gian khổ, cam chịu đồng thời thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của người bà.
*Câu chủ đề: Chiến tranh đã để lại cho con người tổn hại về vật chất và tinh thần.
* Các câu khai triển:
+) Thực trạng:
IV. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Đề 1 Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt
Hình ảnh người bà trong kí ức tuổi thơ mỗi người là hình ảnh gẫn gũi, thiêng liêng, là bao yêu thương, chở che và đùm bọc. Với Bằng Việt, bao điều xúc động về người bà tần tảo, hi sinh cứ vẹn nguyên trong kí ức và tỏa sáng trong tâm hồn tuổi thơ, trong tấm lòng yêu kính của người cháu đối với bà, nhất là khi xa bà, nhớ về bà.
áp:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc đi nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc da diết ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Bếp lửa được nhóm lên vào buổi sáng sớm, rung rinh, mờ tỏ. Hình ảnh ấy gợi cái ấm áp giữa “chờn vờn sương sớm”, gợi cái thân thương với biết bao“ấp iu nồng đượm”. Từláy “chờn vờn” giúp ta hình dung được ngọn lửa bập bùng,
lay động, khi tỏ khi mờ; hai chữ “ấp iu” không chỉ diễn tả thật chính xác công việc nhóm bếp cụ thể mà còn gợi liên tưởng tới đôi bàn tay kiên trì, khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn
hậu của người nhóm lửa. Từ hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên, dòng hồi tưởng về bà chợt ùa về: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Khổ thơ đầu kết thúc trong cảm xúc của người cháu. Cảm xúc ấy bật ra bằng một chữ“thương”,nó lan toả trong câu thơ và thấm sâu vào lòng người đọc. Cả bài thơ có hai chữ“thương”, Bằng Việt đã dành trọn để “thương bà” (Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc).“Biết mấy nắng mưa”, chỉ 4 chữ đã gợi ra hình ảnh của bà với bao lo toan,vất vả, lặng lẽ, âm thầm. Người cháu hiếu thảo cũng đôi lần nhắc lại: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” - nỗi vất vả nhọc nhằn của bà trở thành nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi trong lòng cháu suốt đời. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.
Hình ảnh người bà hiện lên trong kí ức tuổi thơ cháu với biết bao gian khổ, thiếu thốn. nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Đó là bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương một thời của ta, đói đến nỗi phải ăn đất sét ( trong văn của Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao…Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm
rạ”. Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện. Quá khứ và hiện tại cùng động hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu. Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng...Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy...Trong lòng cháu...!
Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bép lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Tám năm sống cùng bà là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, dạy bảo, dưỡng nuôi tâm hồn– “bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Cảm cái công ơn ấy,người cháu càng thương bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khóc nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, của tình bà còn gợi nhớ kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về.Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong. Phải chăng, đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Có thể nói, ngời sáng từ những dòng thơ là hình người bà tần tảo, trọn vẹn yêu thương. Bà vừa là cha, vừa là mẹ của đứa cháu trong những năm tháng gian khổ, bần hàn. Đặc biệt, hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm đau thương, vất vả. Mặc kệ “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, mặc cho chiến tranh tàn phá, khổ đau chất chồng, bà vẫn vững lòng trước tai họa, thử thách:
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
Có thể nói, những câu thơ chẳng có gì là hình, là nhạc, kĩ xảo cũng không, chỉ như lời nói thường thôi mà như có một thứ gió lay động tâm hồn ta mãi. Hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm gánh vác mọi loan toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Bà thật giàu lòng yêu thương! Đó cũng là vẻ đẹp của những người phụ nữ Việt Nam anh hùng.
Chúng ta nhớ tới hình ảnh người bà trong bài thơ“Đò Lèn”của Nguyễn Duy:Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”.Trước cái liệt của chiến tranh đạn lửa,khi mà dường như các đấng tối cao, linh thiêng cũng khó mà trụ vững thì người bà vẫn dũng cảm, kiên cường đi bán trứng để nuôi cháu. Phải chăng, tấm lòng thơm thảo, yêu thương cháu chính là sức mạnh giúp bà chống chọi lại những khó khăn,gian khổ?
Bếp lửa gợi người cháu nghĩ đến bà ngày ngày âm thầm làm công việc nhóm bếp. “Bếp lửa” được bà nhen lên thành “ngọn lửa” mang nhiều ý nghĩa tượng trưng.Đó là ngọn lửa được nhóm lên từ trong lòng bà – ngọn lửa của sức sống, tình yêu thương, niềm tin vào tương lai cháu, tương lai của quê hương, dân tộc và cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Kỉ niệm tuổi thơ lắng xuống, mạch thơ chuyển từ cảm xúc nhớ thương của người cháu với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về bà, về gia đình và những ân nghĩa sâu nặng:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa”diễn tả cảm nhận của nhà thơ về sự tần tảo, đức hi sinh, tâm lòng yêu thương,sẻ chia của bà. Suốt cuộc đời bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luô n giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Điệp từ “nhóm” với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động nhóm lửa, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp mỗi sớm mai là nhóm lên tình yêu thương, niềm vui sưởi ấm,sự san sẻ tình làng nghĩa xóm, những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà hiểu thêm cả dân tộc mình, nhân dân mình. Bằng những từ ngữ
có giá trị biểu cảm “ôi”,”kì lạ”,”thiêng liêng”, cấu trúc thơ đặc biệt,” bếp lửa” được tách riêng thành một vế câu chốt lại ý khái quát của cả đoạn, hình ảnh người bà luôn gắn với hình ảnh “bếp lửa”,”ngọn lửa”. Bếp lửa là tình bà ấm nóng, là tay bà chăm chút, gắn với những khó khăn, gian khổ của đời bà. Bếp lửa vốn gần gũi với mỗi gia đình bỗng trở nên kì lạ bởi ngọn lửa được bà nhóm lên không chỉ từ nhiên liệu củi rơm, mà còn được nhen lên từ chính tấm lòng nhân hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với cháu con.Ngọn lửa ấy có sức sống mãnh liệt, cháy sáng trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy, nhà thơ đã cảm nhận được hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng.
Bà như quả đã chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng.
Tấm lòng của bà, tình yêu thương bà dành cho mỗi người là tình cảm cao đẹp.
Đề 2hân tích bài thơ Bếp lửa của tác giả Bằng Việt.
1, Mở bài:Cần nêu được:
- Giới thiệu tác giả
- Phong cách sáng tác
- Giới thiệu văn bản.
a, Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc nhơ thương
+ Bên bếp lửa, cháu nhớ: “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, khiến cho: “Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Cuộc sống của hai bà cháu trước cảnh càn quét của giặc Pháp cũng chất chồng những vất vả, khó khăn. Từ trong cảnh hoang tàn đổ nát của làng xóm quê hương, bà một mình chịu đựng, một mình hi sinh để các con yên tâm lo việc kháng chiến. Bà lại gượng dậy, chắt chiu, gom góp, hồi sinh sự sống:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ...
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Âm điệu tha thiết của câu thơ gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu
=> Mỗi kỉ niệm, cháu đều được bà chở che, nâng niu, ôm ấp, vỗ về. Bằng Việt vừa gợi những kỉ niệm tuổi thơ, vừa trực tiếp bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình về những kỉ niệm đó về bà kính yêu. Mỗi kỉ niệm mở ra không chỉ gắn với tuổi thơ Bằng Việt, không chỉ gắn với cuộc đời bà mà còn gắn liền với những dấu ấn của quê hương, đất nước ngày hôm qua.
c, Suy ngẫm về bà và bếp lửa quê hương
Cháu suy ngẫm về cuộc đời, về ân nghĩa sâu nặng của bà, về bếp lửa khi cháu khôn lớn trưởng thành
-Cháu thấu hiểu cuộc đời bà là cuộc đời lận đận gian nan chưa từng một ngày an nhàn, sung sướng. Cuộc đời bà là hiện thân cuộc đời dân tộc. Cháu thấu hiểu vì vất vả khó khăn nên đức hi sinh, sự tảo tần, “thói quen dậy sớm” của bà đã trở thành nếp sống không thể đổi thay trong suốt mấy chục năm qua
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
-Cháu hiểu: “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm” là để nhóm lên bếp lửa hồng, nhóm lên tình yêu thương trong lòng cháu. Giữa bà và bếp lửa như có nét tương đồng. Bà là người ấp iu giữ lửa, Nhóm lửa để ngọn lửa của tình yêu thương trong mỗi gia đình cháy sáng, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai:
+ Bếp lửa bà nhóm lúc nào cũng lung linh cháy sáng trong lòng cháu. Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại đầu mỗi câu thơ đã bồi đắp, tỏa sáng dần dần nét kì lạ của bếp lửa và soi sáng chân dung, tình nghĩa của bà
+ Bà nhóm “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” để cháu có “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới”. Cao hơn nữa, bếp lửa bà nhóm lên để sẻ chia niềm vui với làng xóm, cộng đồng. Bà nhóm bếp đâu chỉ bằng nguyên liệu rơm, củi, ... mà bằng “ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn” để truyền cho cháu tình yêu thương, đoàn kết:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngon lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ...
- Từ bếp lửa, bài thơ đã gợi đến hình ảnh ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bếp lửa của bà đâu chỉ có ngọn lửa cụ thể được nhen bằng rơm, bằng củi! Ở đó còn có ngọn lửa thiêng liêng trong lòng bà, ngọn lửa của lòng yêu thương, của niềm tin, của cuộc sống thầm lặng mà mãnh liệt. Hình ảnh bếp lửa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: tình thương – sự sống – niềm tin bất diệt
- Kì diệu hơn, bà còn “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” để vun đắp ước mơ cho cháu. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa:
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
-Trưởng thành, sống xa bà, cháu hiểu bếp lửa là hiện thân của tình bà, của tình yêu thương bà dành cho cháu, là kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hồn quê Việt Nam. Nó là hành trang, là chỗ dựa tinh thần nâng bước chân cháu suốt hành trình dài rộng của cuộc đời cháu để có được sự trưởng thành như ngày hôm nay. Khi cảm xúc trào dâng, khi lòng biết ơn bà sâu sắc, cháu thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu của cháu với bà:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng mở. Nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu”, “ngọn lửa trăm nhà”, cháu vẫn luôn nhớ về bếp lửa nồng đượm của quê hương vì nơi đó có bà. Nỗi nhớ bà nồng nàn chất đầy trong câu nghi vấn: “Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?” Câu hỏi là lời khẳng định, lời hứa đinh ninh, chẳng bao giờ cháu quên quá khứ, chẳng bao giờ cháu quên bà và bếp lửa tuổi thơ
-> Một người con xa quê hương, đất nước, nhớ về bà, nhớ về bếp lửa là nhớ về tổ ấm gia đình, nhớ quê hương, đất nước, là tri ân sâu sắc với cội nguồn. Bài thơ đã khéo léo mở rộng từ tình bà cháu thành tình quê hương đất nước, từ kỉ niệm gần gũi, thiêng liêng thành lẽ sống đời thường.
3, Kết bài:
Bài tập1: Từ bài thơ “ Bếp lửa” và bằng những hiểu biết của em, suy nghĩ về tình yêu quê hương, đất nước của thế hệ trẻ trong thời đại hiện nay?
Bài viết tham khảo :
Nhà thơ Tố Hữu nói: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt.” Quả đúng như vậy, quê hương đất nước chính là nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi gắn bó với ta biết bao nhiêu kỉ niệm. Từ xưa đến nay, tình yêu nước cũng như mạch nguồn chính, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong văn học . Và đến ngày nay, tình yêu quê hương đất nước vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng cần được trân trọng và phát triển hơn nữa.
Tình yêu quê hương đất nước là một khái niệm rất rộng, là sự nỗ lực, cố gắng không ngừng và dựng xây và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Tình yêu quê hương đất nước trước hết xuất phát từ tình yêu gia đình, làng xóm, yêu những gì giản dị nhất trên quê hương đất nước như cây đa, bến nước, cánh đồng, dòng sông,… Chính xuất phát từ những điều giản dị, bình dị ấy, lòng yêu nước của ta càng được bồi đắp hơn. Tình yêu quê hương từ thuở xa xưa, trong những câu ca dao như tấm gương phản chiếu tâm hồn con người và inh thần dân tộc. Lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, cả thế giới biết đến Việt Nam như một biểu tượng của tinh thần đấu tranh bảo vệ, hòa bình, độc lập. Chúng ta vẫn luôn tự hào về nước Việt Nam, từ thời phong kiến, các triều đại Việt Nam đã đánh đuổi được giặc Trung Hoa, quân dân hời Trần đã ba lần đánh đuổi được quân Mông Nguyên ra khỏi bờ cõi- đạo quân hùng mạnh nhất lúc bấy giờ. Trong “ Đại cáo bình Ngô” cũng đã khẳng định:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Quân thù hung ác nhưng ý chí quyết tâm của dân tộc ta ngày càng phải được nâng cao.
Tình yêu nước, yêu quê hương là cội nguồn, là nơi ta sinh ra và lớn lên, gắn bó biết bao nhiêu kỉ niệm gốc rễ bền chặt cho sự phát triển bền vững của ta.Tình yêu nước phải xuất phát từ trong sâu thẳm mỗi con người, gắn bó lâu dài, bền chặt chứ không phải một lúc rồi thôi hay chỉ xuất hiện khi có những ham muốn của bản thân mà không khắc ghi cội nguồn, đạo lí truyền thống dân tộc thì sớm muộn sự phát triển của ta cũng sẽ như cây cao bị trơ rễ, bật gốc dù chỉ là một cơn gió nhẹ. Tình yêu nước góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trở nên phong phú. Nó còn gắn bó với tình yêu tiếng nói dân tộc. Tiếng nói là linh hồn của một quốc gia, một dân tộc. Nó mang bản sắc không thể trộn lẫn dân tộc này với dân tộc khác. Khi ta cất tiếng nói là trái tim đang đập nhịp cộng hưởng với cuộc đời bao la rộng lớn. Với một dân tộc lúc nguy nan, giữ vững tình yêu đối với tiếng nói dân tộc cũng là một biểu hiện cụ thể, sâu sắc của tình yêu nước. Tình yêu quê hương đất nước còn là tình yêu đối với những cảnh sắc tươi đẹp, trù phú trên quê hương như cánh đồng, dòng sông, con đường, cây đa, bến nước,… Nó là tình cảm xuất phát tự nhiên nảy nở trong tâm hồn nên những ai đã có thì hãy biết trân trọng và chưa có thì hãy biết nuôi dưỡng.
Thực tế ngày nay, có nhiều người không hiểu được tình yêu quê hương đất nước, chà đạp nên những giá trị văn hóa dân tộc từ hàng ngàn đời nay.Có những người sống mà không biết nguồn cội, quê hương, luôn chạy heo những xu hướng vật chất tầm hương, sống ích kỉ, không quan tâm tới những người xung quanh, những người đấy sớm muộn cũng sẽ trở nên bị cô đơn lạc long giữa cuộc sống xô bồ, tấp nập này. Thế giới thay đổi từng ngày, muốn không lạc hậu ta phải theo kịp thời gian học lấy những bài học từ quá khứ để đối mặt với thực tại, hướng tới tương lai với nỗ lực hết mình. Hãy mang khát vọng lớn, tình yêu dân dộc cao cả để một Việt Nam lớn mạnh.
Trong cuộc sống hiện đại đang ngày càng phát triển, con người đang có xu hướng hội nhập toàn cầu thế giới, là những người trẻ tuổi hãy trau dồi kiến thức, rèn luyện bản thân để đáp ứng nhu cầu thế giới. Đó cũng là biểu hiện cao cả của tình yêu quê hương đất nước.
Bài viết tham khảo :
Trong sâu thẳm trái tim mỗi người, chắc hẳn đều có một nơi dành cho quê hương đất nước như một nhà thơ đã từng thốt lên:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông"
Thật khó để định nghĩa một cách rõ ràng về tình yêu quê hương đất nước. Nó chính là tình yêu, sự trân trọng, nâng niu, yêu mến và sẵn sàng hi sinh cho quê hương- nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người, cho tổ quốc- lãnh thổ thiêng liêng mang hai tiếng Việt Nam. Đây là một tình cảm nhân văn, cao đẹp, luôn thường trực ở mỗi người dù già hay trẻ, dù gái hay trai.
Đã bao giờ bạn tự hỏi, cuộc sống hòa bình và đáng sống này ai đem lại cho bạn? Đó là những giọt mồ hôi của ông cha từ buổi khai phá, là biết bao nhiêu giọt máu của nhiều thế hệ đổ xuống để bảo vệ lãnh thổ bờ cõi. Nên ta yêu hơn cả từng con người, từng mảnh đất, từng nhành cây ngọn cỏ trên khắp đất nước. Bởi đâu đâu cũng in dấu “một dáng hình một ao ước cha ông”. Nơi ta đã gắn bó từ ngày ấu thơ đến khi trưởng thành và mãi mãi về sau, nơi yêu thương và hạnh phúc luôn đong đầy thì tại sao ta lại không yêu, không quý, không trân trọng và nâng niu cho được?
Tình yêu quê hương đất nước không phải thứ tình cảm to lớn hay xa xôi gì. Nó bắt nguồn từ tình yêu những điều nhỏ bé, bình dị nhất. Tình yêu nhà, yêu mỗi con sông quê hương, yêu những con người chân chất thật thà, yêu gia đình trở nên tình yêu đất nước. Khi bờ cõi đất nước đứng trước sự lâm nguy, những thế hệ thanh niên nhiệt tình đã sẵn sàng lên đường bảo vệ tổ quốc, những cô thanh niên xung phong sẵn sàng vào mặt trận. Đó là hình ảnh của chú bé Lượm, mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà Bầm bà Ủ.... Trong thời bình thì tình yêu quê hương đất nước lại ở sự phấn đấu nỗ lực để cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Tình yêu ấy không còn là những định nghĩa trừu tượng mà còn thể hiện bằng những hành động thiết thực. Đó là nỗi nhớ quê da diết mỗi khi xa nhà, luôn móng ngóng về quê hương và chờ đợi đến ngày được trở về. Khi đất nước phát triển, họ cùng góp một chút sức lực nhỏ để đầu tư cho sự phát triển của đất nước. Lòng yêu nước yêu quê hương của họ thật đáng quý biết bao.
Tình yêu quê hương gắn liền với tình yêu tổ quốc. Đó là thứ tình cảm vừa giản dị, chân thành song lại thiêng liêng cao đẹp biết bao. Mỗi giai cấp, mỗi thế hệ, mỗi con người lại có những biểu hiện khác nhau để yêu nơi ta đã cất tiếng khóc chào đời, nới rộng mở cánh tay đón chào ta. Các nhà thơ yêu quê bằng những vần thơ ngọt ngào, tha thiết ngợi ca cảnh sắc quê hương đất nước. Anh kĩ sư yêu đất nước bằng những đêm thức trắng vẽ nên những bản công trình, đưa đất nước dần hội nhập cùng thế giới. Các bạn học sinh yêu quê hương mình bằng cách nỗ lực, chăm chỉ không ngừng học tập để đưa đất nước "sánh vai với các cường quốc trên thế giới".
Bên cạnh những hành động đẹp, những tấm gương sáng như vậy thì vẫn còn không ít người ngày càng xa lánh và rời bỏ quê hương. Thậm chí họ còn tìm cách chống phá nhà nước, đưa ra các luận điệu sai trái về chính quyền ta. Đôi khi, họ sống quá thực dụng và vụ lợi. Sẵn sàng lừa dối những người xung quanh mình, tàn phá thiên nhiên và hủy hoại môi trường. Nhiều kẻ bất nhân còn chà đạp lên quyền sống, bán rẻ lương tâm để hãm hại người khác một cách dã man. Những hành động như vậy đáng bị lên án và trừng trị.
Trong bối cảnh hiện đại, yêu quê hương đất nước còn gắn với việc bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa cổ truyền. Yêu tiếng mẹ đẻ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt và lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Hãy là người yêu nước bằng một trái tim nóng và cái đầu lạnh.
Bài tập 2.
Từ ý nghĩa của bài thơ “Bếp lửa” cùng với những kiến thức xã hội em có, hãy trình bày suy nghĩ của em về vai trò của tình cảm gia đình đối với mỗi con người. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ.
Gợi ý:
* Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Gia đình luôn có vai trò quan trong trong cuộc đời mỗi con người.
* Thân đoạn:
- Giải thích: Gia đình là khái niệm chỉ những người cùng chung sống dưới một mái nhà, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống, thường gồm có ông bà, cha mẹ, con cái và cháu chắt.
- Bàn luận: Vì sao gia đình có vai trò quan trọng đối với mỗi con người?
+ Gia đình là nơi ta sinh ra trong sự đón chờ của ông bà, cha mẹ, ang chị; nơi ta lớn lên mỗi ngày trong tình yêu thương, sự quan tâm, che chở.
+ Gia đình với nếp nghĩ, nếp sống riêng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tính cách, suy nghĩ, ứng xử và sự phát triển của mỗi người. Không có sự chăm lo, giáo dục của gia đình là một điều kiện thiệt thòi lớn về tinh thần, cũng có thể dẫn tới sự thiếu hụt, lệch lạc trong phát triển nhân cách con người.
+ Gia đình là nơi chan chứa tình yêu thương, cho ta sức mạnh tinh thần quí giá để đứng vững giữa cuộc đời; cũng là nơi sẵn sàng đón lấy ta, cho ta trở về sau những thăng trầm, vấp ngã bên ngoài cuộc đời rộng lớn.
+ Ta có thể có nhiều bạn bè nhưng gia đình chỉ có một mà thôi.
( Lấy dẫn chứng để làm rõ)
- Đánh giá, mở rộng vấn đề:
+ Gia đình là tài sản quí giá của mỗi người, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong cuộc sống mỗi người.
+ Phê phán những kẻ bất hiếu, coi nhẹ gia đình.
- Bài học:
+ Cần trân trọng , biết ơn, xây dựng, gìn giữ hạnh phúc gia đình.
+ Liên hệ bản thân với tư cách là một người con , người cháu trong gia đình.
* Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề.
Bài tập3 : Suy nghĩ về hiếu thảo được gợi ra từ bài thơ?
Bài làm
Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ vốn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta và là phẩm chất cần có trong mỗi con người.
Hiếu là hiếu nghĩa, biết ơn người sinh thành dưỡng dục mình, biết cung kính bề trên. Thảo là mở rộng tấm lòng của mình, là chia ngọt sẻ bùi. Tóm lại lòng hiếu thảo là sự biết ơn, tôn trọng và đáp đền cha mẹ, ông bà, người có công sinh thành hoặc dưỡng dục mình.
Trong thời kì phong kiến, lòng hiếu thảo đóng vai trò trung tâm của đạo đức Nho giáo. Lòng hiếu thảo được biểu hiện phong phú trong cuộc sống hằng ngày. Nó không chỉ được thể hiện trong thái độ tình cảm mà còn qua hành động, việc làm cụ thể. Người có lòng hiếu thảo là người luôn biết cung kính, lễ phép, biết vâng lời và làm cho cha mẹ, ông bà luôn được vui vẻ, thoải mái về tinh thần. Lúc cha mẹ khỏe mạnh, con cái hiếu thuận, vâng lời, lắng nghe dạy bảo. Lúc cha mẹ già yếu hết lòng chăm sóc phụng dưỡng. Khi cha mẹ qua đời phụng thờ chu đáo. Trong thực tế cuộc sống chúng ta đã có nhiều người con hiếu thảo trở thành tấm gương để người đời sau noi theo. “Hiếu tử truyện” có ghi lại những tấm gương hiếu thuận đáng để noi theo. Đó là một người con nhà nghèo, mùa đông, nằm ủ ấm chiếc giường rồi mời cha mẹ lên, mùa hè thức đêm để quạt cho cha mẹ ngủ. Đó là lão Lai Tử, tuổi đã già những vẫn diễn hài mua vui cho cha mẹ. Cũng có những người con như Nguyễn Trãi vì hiếu thảo mà dằn lòng, gạt dòng nước mắt, từ biệt cha già Nguyễn Phi Khanh để trở về nuôi giấc mộng như lời cha dặn “Hãy rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đạo hiếu”. Còn bao nhiêu người con đã vâng lời, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ trở thành người có ích làm rạng danh cha mẹ, tổ tiên.
Chúng ta sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ bởi ai cũng có cội nguồn, thân tộc. Ông bà cha mẹ là người đã sinh ra ta, nuôi dưỡng ta khôn lớn, dành cho ta những gì tốt đẹp nhất một cách vô điều kiện. Hơn nữa con cái sống hiếu thảo thì gia đình sẽ giữ được hòa khí, trên kính dưới nhường gia đình hòa thuận, yên vui, hạnh phúc là động lực để chúng ta học tập và làm việc. Lòng hiếu thảo đã gắn kết các thành viên trong gia đình. Sống hiếu thảo góp phần hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách của mỗi con người. Người sống hiếu thảo luôn được người khác trân trọng, yêu mến và dễ thành công trong cuộc sống bởi giá trị của con người không phải được nhìn nhận bằng sự giàu sang, quyền quý mà nó được thể hiện bằng nhiều yếu tố tinh thần đep đẽ trong đó nền tảng là chữ “hiếu”.
Mặc dù vậy không phải ai cũng thấm thía ý nghĩa của chữ Hiếu trong đạo làm người. Họ sống lỗi đạo, bất hiếu, vô lễ, thậm chí bỏ bê hoặc hành hạ đánh đập cha mẹ, ông bà. Những “con sâu làm rầu nồi canh” ấy là biểu hiện của lối sống vô ơn, nhân cách kém cỏi và bị xã hội lên án mạnh mẽ.
Là học sinh - thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước phải lấy chữ hiếu làm đầu, kính trọng lễ phép, lắng nghe ông bà, cha mẹ dạy bảo, phấn đấu trong học tập và rèn luyện, trở thành người tốt để ông bà, cha mẹ được vui lòng. Đó là cách để đền đáp phần nào công ơn của người đi trước. Lòng hiếu thảo thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, là nét đẹp cao quý của văn hóa Việt Nam. Vì thế mỗi chúng ta cần nhớ làm lòng “Tội lớn nhất của đời người là bất hiếu”.
Bài tập 4: Suy nghĩ về ý nghĩa của những kí ức tuổi thơ trong cuộc đời mỗi con người.
Hướng dẫn lập dàn ý:
I. Mở bài: Từ bài thơ đầy xúc động – “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt, thêm một lần chúng ta nhận ra ý nghĩa quan trọng của những kí ức tuổi thơ trong cuộc đời mỗi con người.
II. Thân bài:
1. Giải thích: Kí ức tuổi thơ là gì?
Kí ức là những hình ảnh, sự việc đã qua được trí nhớ ghi lại. Vậy kí ức tuổi thơ được hiểu là những kỉ niệm sâu sắc mà ta nhớ mãi về thuở thiếu thời, khi ta còn nhỏ.
2. Bàn về vai trò của kí ức tuổi thơ:
Tuổi thơ là nền tảng quyết định tương lai của mỗi con người do vậy kí ức cũng góp phần quan trọng vào việc xây dựng tương lai của chúng ta bởi nó chính là một phần không thể thiếu của nền tảng đầu tiên trong cuộc đời.
Phần lớn kí ức tuổi thơ của mỗi người thường là tươi đẹp. Bởi tuổi thơ như hạt sương tinh khôi trong nắng mai. Đó là tuổi hồn nhiên chẳng có so đo tính đếm lợi ích cá nhân, chẳng có được mất, sẵn sàng hết mình giúp bè bạn. Phải chăng vì thế mà khi chúng ta lớn lên ai cũng mong ước có cho mình một chiếc vé về tuổi thơ. Hơn nữa, tuổi thơ là giai đoạn đứa trẻ được gia đình, nhà trường và xã hội chăm lo, bao bọc trong tình yêu thương. Chúng không vướng bận gì cả, chúng chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là cố gắng trong học tập, rèn luyện. Vì thế nhân cách và phẩm chất của mỗi đứa trẻ khi trưởng thành phản ánh môi trường mà chúng ta sinh ra và lớn lên.
Kí ức tuổi thơ là một phần đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Dù vui hay buồn thì mỗi lần nhớ về nó, mọi người đều có một cảm xúc thật khó tả. Nó khiến ta thêm gắn bó với gia đình, quê hương, nguồn cội. Nó là một phần điểm tựa tinh thần tạo ra sức mạnh để ta vượt qua những khó khăn, vấp ngã trên đường đời muôn nẻo.
3. Phản đề: Như đã nói kí ức tuổi thơ có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của mỗi người khi lớn lên. Một tuổi thơ hạnh phúc hay không là nền tảng quyết định con người chúng ta sẽ trở thành. Vậy mà đâu đó trong cuộc sống này vẫn có những đứa trẻ phải lớn lên với những đứa trẻ phải lớn lên với những kí ức không hề đẹp đẽ. Chúng có thể vượt qua được để một sống một cuộc đời có ích hoặc không.
III. Kết bài:
- Là học sinh, sống trong thời thơ ấu, mỗi chúng ta cần cố gắng học tập, rèn luyện để tạo ra những kí ức tốt đẹp.
- Mong sao mọi trẻ em trên thế giới đều có một tuổi thơ hạnh phúc.
*******************************************
CHUYÊN ĐỀ 9:Văn bản: ÁNH TRĂNG
(Nguyễn Duy)
I, Kiến thức cơ bản
II, Đọc- hiểu văn bản
III. LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC- HIỂU
Bài tập1.
Gợi ý:
1. Hs chép chính xác hai khổ thơ. Nội dung chính: Hai đoạn thơ đã ghi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.
2. Tác giả Nguyễn Duy:
- Tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa.
- Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
+ Trước đổi mới: ND tập trung viết về đề tài chiến tranh và quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của người nông dân.
+ Sau đổi mới: Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời.
- Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối lập: mộc mạc, dân dã mà tinh tế sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà thiết tha sâu lắng, nhân tình; tự nhiên ngẫu hứng mà trau truốt công phu.
* Hoàn cảnh sáng tác:
- Được sáng tác năm 1978, ba năm sau khi đất nước được thống nhất. Lúc này tác giả đang sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh.
-Thời điểm đó, có những người từng trải qua thử thách gian khổ, từng gắn bó với thiên nhiên, nhân dân, đồng đội, sau khi ra khỏi thời đạn bom, được sống trong hòa bình, giữa những tiện nghi hiện đại…đã quên đi những nghĩa tình của thời đã qua. Trước hiện tượng đó, nhà thơ viết bài thơ như lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao xưa. Đồng thời, bài thơ còn có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
3. Biện pháp tu từ ở khổ thơ 1:
- Điệp ngữ và liệt kê: Từ “ với” được lặp lại cùng phép liệt kê( đồng, sông, bể, rừng) nhấn mạnh sự gắn bó gần gũi, chan hòa giữa con người và thiên nhiên qua các khong gian sống khác nhau.
- Nhân hóa: “ Vầng trăng” được nhân hóa thành “ tri kỉ”, thể hiện sự gắn bó thấu hiểu giữa con người và vầng trăng.
4. Nghĩa của câu thơ “Vầng trăng thành tri kỉ”: vầng trăng là bạn bè thân thiết với con người.
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”( Đồng chí- Chính Hữu)
5.
- Hai dòng đầu của khổ thơ thứ hai miêu tả những kí ức đẹp của người lính- đó là những năm tháng được sống hồn nhiên, tâm hồn rộng mở.
+ “Trần trụi…”: giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách
+ So sánh “hồn nhiên như cây cỏ”: con người hoàn toàn vô tư, không tính toán.
- “ Ngỡ” có nghĩa là tưởng vậy mà không phải vậy, diễn tả một sự ngộ nhận. Xuất hiện trong câu thơ cuối khổ thơ thứ hai, nó báo hiệu những chuyển biến của câu chuyện cũng như trong tình cảm của con người với vầng trăng.
6. Gồm các ý cơ bản sau:
Câu chủ đề: Hai đoạn thơ đã ghi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.
Các câu khai triển:
- Nhân hóa: “ Vầng trăng” được nhân hóa thành “ tri kỉ”, thể hiện sự gắn bó thấu hiểu giữa con người và vầng trăng.
- Hai dòng đầu của khổ thơ thứ hai miêu tả những kí ức đẹp của người lính- đó là những năm tháng được sống hồn nhiên, tâm hồn rộng mở.
+ “Trần trụi…”: giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách
+ So sánh “hồn nhiên như cây cỏ”: con người hoàn toàn vô tư, không tính toán.
- “ Ngỡ” có nghĩa là tưởng vậy mà không phải vậy, diễn tả một sự ngộ nhận. Xuất hiện trong câu thơ cuối khổ thơ thứ hai, nó báo hiệu những chuyển biến của câu chuyện cũng như trong tình cảm của con người với vầng trăng.
- Liên hệ: Đoạn thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc
- Bài học: Mỗi chúng ta phải biết sống yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, từ đó mỗi người phải làm cho thiên nhiên ngày một đẹp hơn.
Câu kết: Tóm lại, với việc sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ, so sánh, hai khổ thơ đã làm hiện kên những kỉ niệm trong quá khứ đầy lãng mạn và đẹp đẽ giữa con người và vầng trăng.
Bài tập 2.
Gợi ý:
1. Chép chính xác hai khổ thơ 3,4 của bài thơ. Nội dùng chính: Hai đoạn thơ đã ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ của tác giả về vầng trăng trong hiện tại.
2. Cả bài thơ chỉ có duy nhất một dấu chấm cuối bài, làm cho cảm xúc thơ được liền mạch, đồng thời khiến bài thơ như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian.
3.
- Hoán dụ “ ánh điện, của gương” tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ tiện nghi nơi phố thị. Phép hoán dụ đã làm rõ sự thay đổi về hoàn cảnh sống của con người từ hồi về thành phố: khép kín, tách biệt và xa rời thiên nhiên. Đó là một trong những lí do dẫn đến sự thay đổi trong thái độ, tình cảm của con người với vầng trăng.
- Hình ảnh nhân hóa, so sánh: “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: Vầng trăng thì vẫn còn đấy, thủy chung tình, nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra.
-> Các phép tu từ ở khổ 3 đã vẽ lên chân dung người lính năm nào, nay là một con người bội bạc, quay lưng lại với quá khứ.
4.
- Các từ “ thình lình, đột ngột”
+ Từ láy “ thình lình” diễn tả sự bất ngờ của tình huống đèn điện tắt.
+ Từ láy “đột ngột” diễn tả sự bất ngờ của cuộc gặp gỡ giữa người và trăng cũng như tâm trạng thảng thốt của con người khi gặp lại người bạn tình nghĩa năm nào mà mình đã lãng quên.
5. Cách sử dụng từ ngữ trong câu thơ “ vội bật tung của sổ”: Tính từ “vội” và động từ mạnh “ bật tung” đi liền nhau, diễn tả sự gấp gáp vội vàng, cho thấy sự ngột ngạt của một con người ( đã quen với tiện nghi, sung sướng) khi đứng trước bóng tối. Hành động đó gợi giây phút tâm hồn con người khao khát dược thoát khỏi không gian tù túng, chật hẹp.
- Câu thơ cho ta thấy sự vội vàng, khẩn trương của con nguwoif khi đi tìm nguồn sống.
Bài tập 3.
Gợi ý:
1.
- Giải thích: từ “mặt” thứ nhất chỉ một bộ phận trên cơ thể người, tính từ trán xuống cằm( nghĩa gốc). Từ “ mặt” thứ hai chỉ mặt trăng( nghĩa chuyển)
- Từ “mặt” thứ hai được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ
- Phân tích cái hay của từ “mặt”:
+ Từ “mặt” (thứ 2) mang ý nghĩa ẩn dụ sâu xa, gợi cái hồn, tinh thần của sự vật :
+ “Mặt” gợi hình ảnh mặt trăng, thiên nhiên tươi mát, là gương mặt người bạn tri kỉ, quá khứ nghĩa tình, lương tâm của chính mình (tự vấn).
+ Hai từ “mặt” trong cùng 1 câu thơ tạo tư thế mặt đối mặt, đối diện đàm tâm giữa người và trăng, thức tỉnh mọi người hướng tới lối sống cao đẹp: ân nghĩa thủy chung, bao dung, độ lượng.
2.
- Xét theo cấu tạo từ “ rưng rưng” thuộc kiểu từ láy, diễn tả sự xúc động nghẹn ngào của con người khi gặp lại vẩng trăng. “ Rưng rưng” là khoảnh khắc đầu tiên của sự thức tỉnh.
3,
- Nghệ thuật điệp ngữ “ như là” và phép liệt kê” đồng, sông, bể, rừng” cho thấy những kỉ niệm trong quá khứ đang ùa về đồng hiện trong tâm trí người lính cũng như niềm xúc động của người lính khi gặp lại vầng trăng- người bạn tình nghĩa năm nào
Nghệ thuật nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy khiến chi nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.
4. - Hình ảnh “ Vầng trăng tròn” và “ Trăng cứ tròn vành vạnh” nói lên sự tròn đầy cũng như sự vẹn nguyên, thủy chung, không thay đổi của quá khứ.
5 .
- Từ láy “vành vạnh” miêu tả sự tròn đầy của vầng trăng, cho thấy sự vẹn nguyên của quá khứ.
- Từ láy “phăng phắc” miêu tả sự im lặng tuyệt đối, gợi cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung độ lượng của vầng trăng, đủ khiến con người giật mình thức tỉnh.
6,
- Ý nghĩa “vầng trăng”: Vầng trăng trong bài thơ là một hình ảnh đa nghĩa
+) Vầng trăng là hình ảnh thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời tuổi thơ, rồi thời chiến tranh ở rừng.
+) Vầng trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên, chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng vầng trăng trong quá khứ thì luôn tràn đầy, bất diệt
Trong bài thơ, bốn lần tác giả viết là “vầng trăng” trong khi nhan đề và khổ thơ cuối lại là “ánh trăng” vì
+) Đối với tác giả, “vầng trăng” là người bạn tri ân tri kỉ, từ hồi thơ ấu và khi ở chiến trường. Vì thế xuyên suốt bài thơ là hình ảnh “vầng trăng”
+) Còn hình ảnh “ánh trăng” là ánh sáng của vầng trăng, quầng sáng của vầng trăng, là sự tinh tế, nhẹ nhàng ở thiên nhiên. Vầng trăng có lúc tròn, lúc khuyết nhưng ánh trăng luôn có màu vàng không đổi, soi sáng, tỏa mát xuống cõi lòng con người làm cho con người thêm thanh thản, nhẹ nhàng. Ánh trăng còn là ánh sáng trong mỗi tâm hồn con người. Hình ảnh ánh trăng mang ý nghĩa rộng hơn hình ảnh vầng trăng.
+) Tác giả đã rất tinh tế trong việc dùng ánh trăng thay vì vầng trăng trong nhan đề và khổ thơ cuối. Đó cũng là sáng tạo độc đáo của thơ góp phần làm cho bài thơ “ánh trăng” có giá trị về nội dung và nghệ thuật.
7.
- Cái “ giật mình” của con người là sự thức tỉnh, thể hiện sự ăn năn, hối lỗi, tự đấu tranh để sống tốt đẹp hơn, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
- Nhận ra những cám dỗ vật chất khiến con người đánh mất đi những giá trị tinh thần đẹp đẽ.
- Nhận ra bài học không được lãng quên quá khứ, thờ ơ, bội bạc với nghĩa tình sâu nặng, thiêng liêng phải biết nâng niu, trân trọng quá khứ, sống ân nghãi thủy chung
=> Với khoảnh khắc “giật mình”, nhà thơ đã gieo vào lòng người đọc niềm tin và sức sống mạnh liệt của lương tri con người.
Câu khái quát nhất về cái “giật mình” của những con người: Giật mình để con người tự hoàn thiện mình.
8. Từ bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã cho em một bài học sâu sắc:
- Thiên nhiên không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, mỗi chúng ta phải yêu quý và hòa hợp với thiên nhiên. Không chỉ thế bài thơ còn cho ta thấy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” , ân nghĩa thủy chung – đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chúng ta phải luôn biết ơn quá khứ, biết ơn những người đã biết ơn xây dựng đất nước.
- Bên cạnh đó, bài thơ còn cho ta thêm một bài học, cuộc sống phải biết bao dung độ lượng, biết nhận ra lỗi lầm và sửa chữa lỗi lầm để cuộc sống tốt đẹp hơn
9, Chủ đề bài thơ (nội dung bài ánh trăng): Bài thơ là tiếng lòng, là những suy ngẫm thấm thía, nhắc nhở ta về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ, gian lao, nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở củng cố người đọc thái độ sáng “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa cùng quá khứ.
- Câu mở đoạn: Đoạn thơ được trích trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy - một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Kĩ cứu nước- đã thể hiện tình cảm, thái độ của vầng trăng và cái giật mình, hối hận của con người .
- Các câu khai triển:
- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”:
+ Diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la
+ Bên cạnh đó, còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, vẫn tròn đầy, tron vẹn mặc cho con người thay đổi, vô tình.
+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần phải thay đổi cách sống
+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay.
Trong chương trình ngữ văn lớp 9 em đã học, một số bài thơ có hình ảnh vầng trăng là:
+”Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận
Câu thơ: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
+”Đồng chí” – Chính Hữu – Câu thơ “Đầu súng trăng treo”
Bài tập 4 : Đọc bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy và trả lời các câu hỏi sau:
a)Tại sao trong cả bài thơ Ánh trăng tác giả đều dùng từ “Vầng trăng”nhưng đến cuối bài lại viết “ánh trăng”?
b)Hình ảnh : “Ánh trăng im phăng phắc –đủ cho ta giật mình”giúp em biểu gì về nhân vật trữ tình trong bài bài thơ?
c) Trong cuộc đời con người khi nào cần có những cái giật mình như vậy?
*Gợi ý trả lời:
a) Cả bài thơ Ánh trăng tác giả đều dùng từ “Vầng trăng” nhưng đến cuối bài lại viết “ánh trăng”vì:
-vầng trăng: là hình ảnh của tự nhiên vĩnh hằng, tượng trưng cho sự viễn mãn trọn vẹn, không bao giờ đổi thay. Vầng trăng được nhân hóa trở thành người bạn thân của nhân vật trữ tình, thủy chung trong mọi hoàn cảnh
- ánh trăng: là ánh trăng của vầng trăng tỏa xuống trần gian. Ánh sáng ấy không chỉ soi tô không gian nơi thành phố, soi vào phòng buyn – đinh mà còn soi tỏ cả góc khuất trong lòng người, cảm hóa và thức tỉnh con người, giúp người giật mình nhận ra lỗi lầm trong cách cư xử. Đó là ánh sáng của lương tri, của đạo làm người nên nhà thơ đặt nhan đề là ánh trăng
Cả bài thơ dùng từ “vầng trăng” để chỉ đối tượng khách quan và biểu tượng ẩn dụ. Khổ cuối cùng “ánh trăng” với ý nghĩa gọi sự cảm hóa, thức tỉnh con người như một điểm nhấn của toàn bài
B, Qua “ánh trăng im ... giật mình” giúp ta hiểu nhân vật trữ tình:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
....
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Từ vẻ đẹp của đoạn thơ trên, trình bày những suy nghĩ của em về vấn đề mà đoạn thơ đặt ra
Gợi ý trả lời
1, Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 như một thông điệp giàu ý nghĩa nhắc nhở mỗi chúng ta về tình cảm uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với qua khứ gian lao mà tình nghĩa. Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thứ tư chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc thể hiện chủ đề của tác phẩm:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
......
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
IV. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
BÀI LÀM THAM KHẢO, ĐỌC VÀ CẢM NHẬN
BAI 5. Bài phân tích, cảm nhận
Tình cảm là thứ quan trọng nhất đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho cái hạt giống tinh thần bên trong ta nảy nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm, ta sẽ chỉ như cái ống nước rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ. Tình cảm trong quá khứ gian khổ khó khăn lại càng đáng nhớ hơn, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương không điều kiện, đồng cam cộng khổ vượt qua những chông gai đường đời. Thế nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay vẫn có một số người vì mải mê chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ quên mất tình cảm yêu thương của một thời đã qua, hờ hững với những gì thuộc về quá khứ.
Qua bài thơ "Ánh trăng" của mình, nhà thơ Nguyễn Duy đã nhắc nhở một cách nhẹ nhàng những kẻ đang tự cuốn mình theo cái vòng xoay vô tận của phù du hãy dừng lại, dù chỉ một chút thôi, mà nhớ về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Rằng những cái mình có được hôm nay là nhờ đâu, cái gì đã từng là một phần trong cuộc sống của mình...để từ đó biết trân trọng quá khứ hơn, sống đẹp hơn, "Uống nước nhớ nguồn" hơn.
Vầng trăng luôn là cảm hứng bất tận trong thơ ca, luôn gắn bó mật thiết với đời sống của con người: Trăng soi bóng những tối cùng nhau lao động vui tươi của người nông dân:
"Trong đêm thanh, trăng tàn canh, bao tiếng ca theo tiếng chày nhanh nhanh
Dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà"
("Gạo trắng trăng thanh")
là chút gì đó lãng mạn như "Say trăng" của Hàn Mặc Tử:
"Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm..."
là chứng nhân cho lời nguyện thề tình tự của bao đôi lứa yêu đương:
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song"
("Truyện Kiều")
Trăng còn là tri âm, tri kỉ, là người bạn gắn bó thở ấu thơ, là nỗi niềm gợi nhớ quê hương như trong chủ đề "Nguyệt vọng hoài hương" của thơ văn cổ. Và Nguyễn Duy đã đem lại cho ta một góc nhìn, một cách nhìn mới về trăng qua tác phẩm của ông. Trăng trong "Ánh trăng" mang đậm dấu ấn của tình cảm qua từng chặng đường khác nhau của thời gian, là hình ảnh sống động của quá khứ, là những gì tốt đẹp của một thời đã qua: tình cảm bạn bè, lý tưởng chiến đấu,... và là biểu tượng của nghĩa tình. Tác phẩm được sáng tác sau khi đất nước thống nhất, tác giả giã từ cuộc đời người lính đến sống tại thành phố Hồ Chí Minh để rồi từ đây, bao cảm xúc chân thành trào dâng đã cô đọng thành bài thơ có lối viết đặc biệt: chữ đầu mỗi câu thơ không viết hoa. Chính nét sáng tạo đặc biệt đó đã làm "Ánh trăng" trở nên khác biệt: vừa như một bài thơ với những vần, những âm điệu nhịp nhàng, đều đặn, vừa như một câu chuyện với mạch xúc cảm tuôn dâng, hiện lên dần dần theo trình tự thời gian.
Mở đầu bài thơ là dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình về tuổi thơ, về quãng thời gian chiến đấu giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do:
"Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ"
"Hồi" biểu thị thời gian trong quá khứ. Trong khoảng thời gian ấy con người đã có những phút giây sống chan hòa với thiên nhiên. Các hình ảnh lớn dần "đồng, sông, bể" mang nhiều ý nghĩa đặc biệt khác nhau, nhưng có một điểm chung là đều mang nét hồn nhiên trong trẻo của thời trẻ con vô tư. Cánh đồng lúa, hay cỏ hoa, lúc nào cũng ngập tràn nắng gió, ngập tràn những tâm tư dịu dàng, ngập tràn cái thanh bình, hạnh phúc. "Sông" dạt dào chảy, nước sông trong vắt "soi tóc những hàng tre", soi bóng cả cái tâm hồn ngây thơ, đong đầy biết bao ước mơ trẻ nhỏ. "Bể" hiền hậu nhưng cũng hung hăng, mang theo bao con sóng vỗ bờ, mang theo bao hoài bão của tuổi hồng mộng mơ. Và "đồng, sông, bể" đã gắn bó với nhân vật trữ tình, một cách thắm thiết, như người bạn thuở ấu thơ thân thương gần gũi. Từ "với" được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự kết nối con người với những tươi đẹp tuổi thơ, với vầng trăng dung dị của quá khứ. Bức tranh không gian về thiên nhiên đằm thắm ấy đã kéo theo sự vận động của thời gian, mang vầng trăng tròn đầy thời ấu thơ đi qua quãng đời chiến đấu của người lính:
"hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ"
Biện pháp nhân hóa đã được sử dụng để biến trăng thành "tri kỷ", thành người bạn chí cốt lúc nào cũng hiểu hết về nhau. Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi "Rừng hoang sương muối" ("Đồng chí"), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bốn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê. Vầng trăng vẫn tròn đầy dù trải qua bao mưa bom bãođạn, vẫn sáng trong dù đã trải qua thời gian khó khăn nhất, tối tăm nhất, vẫn:
"Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ"
Vầng trăng ngày ấy mới đẹp làm sao! Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật "trần trụi với thiên nhiên" cho ta thấy rõ hơn vẻ đôn hậu hiền hòa của ánh trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: không giả tạo, giả dối, không lọc lừa nhỏ nhen, không có những toan tính thiệt hơn, những đố kị ghen ghét. Trong sáng vô tư như tuổi thơ, chân thành và thật thà như nhiệt huyết sục sôi của người lính trẻ cách so sánh trăng với vẻ hồn nhiên như cây cỏ của nhà thơ Nguyễn Duy đã đem lại cho ta ấn tượng đó về ánh trăng quá khứ. "Cây cỏ" những sự vật tưởng chừng vô tri giác nhưng lại mang một hàm ý lớn lao: cây cỏ tạo ra dưỡng khí giúp ích cho đời, sống cuộc sống hồn nhiên, không chen lấn giành giật với đời, không nghi kị xảo trá mà tự nhiên, chan hòa với mọi người mọi vật. Vầng trăng của ngày ấy thật tự nhiên, không giấu, không che đậy, gần gũi hoang sơ như dáng vóc mộc mạc của người lính, tỏa sáng vằng vặc, đẹp đến nỗi nhân vật trữ tính - người lính đã phải nói rằng:
"ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa"
Từ "ngỡ" ở đây không dưng lại làm ta hình dung rõ cái mầm mống, cái dự báo của sự lãng quên. Lãng quên cái vầng trăng tròn ắp đầy tình nghĩa, hoang sơ mộc mạc như cây cỏ, chân chất đôn hậu như người chiến sĩ đã trải lòng mình ra với thiên nhiên. Đoạn thơ cũng diễn tả một cách rõ nét những nỗi đau trong lòng con người: Lúc nào cũng nghĩ là mình sẽ nhớ, cũng khăng khăng sẽ khắc sâu vào tâm tưởng nhưng rồi tự bao giờ, ta đã không thể cùng ánh trăng tình nghĩa kia đi trọn kiếp người được nữa. Bởi vì nó đã bị ta bỏ lại đằng sau, cùng với những kỉ niệm đáng nhớ của một thời xưa cũ ấy ta đã quên. Ý thơ lay động tâm hồn, thức tỉnh lương tâm những kẻ vô tình, gợi nhắc về cái "vầng trăng tình nghĩa", về biểu tượng đẹp của một thời quá khứ hào hùng.
Chiếc thuyền mang bao kỉ niệm gắn bó đã lùi xa vào quá khứ, theo dòng chảy bất tận của thời gian. Theo dòng chảy đó, chiến tranh cũng đã kết thúc, và người lính ngày xưa trở về, nhưng không phải là về nơi "đồng, sông, bể" dung dị và thân thương, mà là trở về chốn phồn hoa đô hội, chốn thị thành tấp nập đông vui. Bao khó khăn gian khổ của cuộc sống chiến đấu nay đã trở thành dĩ vãng, còn cái tình cảm gắn kết xưa kia giờ nay đã đi về đâu? Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả đã nói về điều đó:
"Từ hồi về thành phố
..........
như người dưng qua đường"
Câu thơ đột ngột quay trở về thực tại, dứt khỏi khoảng không kí ức của nhân vật trữ tình. Ở cái thực tại không xa ấy, nhân vật trữ tình bắt đầu quen với những thuận lợi vật chất, những "ánh điện cửa gương" bóng loáng giả tạo. Hình ảnh ẩn dụ đối lập giữa "vầng trăng tình nghĩa" mộc mạc, hiền hòa với "ánh điện cửa gương" tuy có sáng hơn ánh trăng thật, nhưng thứ ánh sáng nhân tạo đó không thể nào bằng được cái ánh sáng nghĩa tình mà trăng đem lại. Biện pháp liệt kê "ánh điện, cửa gương" như cũng đồng thời liệt kê ra cái tiện nghi đủ đầy vật chất xuất hiện trong đời sống người lính, bên cạnh những bộn bề lo toan của cuộc sống thường ngày. Và mới thật bạc bẽo làm sao, cái đủ đầy vật chất, cái ngổn ngang bận bịu của sự đời đã lấn át đi nhu cầu đủ đầy về mặt tinh thần, về tình cảm son sắt từng một thời được coi như máu thịt của người lính.
Vầng trăng bây giờ đối với anh lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. Cái bóng của sự xa hoa đã che lấp đi "vầng trăng tình nghĩa", vòng xoay của thời gian đã thay đổi cả bản chất, tâm hồn con người. Để rồi giờ đây, khi mà anh lính năm xưa bị che mắt bởi những phồn vinh thành thị, người đã không thể thấy được sự hiện diện của trăng, dù trăng vẫn đều đặn "đi qua ngõ". Trăng vẫn tồn tại, vẫn thủy chung, tròn đầy, sáng vằng vặc, không thay đổi nhưng thật đau xót làm sao, lòng người đã lại đổi thay không còn đủ sáng để hòa nhịp tâm hồn cùng trăng, không còn đủ yêu thương để gắn bó với những ân tình quá khứ. Đối với người lính lúc này, trăng chẳng khác gì "người dưng qua đường", hờ hững, lạnh nhạt, không đáng để bận tâm. Trăng được nhân hóa, đi qua ngõ mà như người dưng. Một hình ảnh đối lập tinh tế mang nặng màu chua xót: "ngỡ không bao giờ quên" - "như người dưng qua đường". Một sự đổi thay quá là phũ phàng của con người. Tình cảm là thứ dễ bị chia lìa đến thế sao, lòng người dễ dàng phôi pha chỉ bởi những phù phiếm vật chất đến thế sao?
Trăng lại xuất hiện, trong một tình huống bất ngờ, cùng với kết cấu thơ pha chút kịch tính, hồi hộp:
"Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn"
Mất điện. Cả căn phòng "tối om". Không còn chút ánh sáng nào cạnh bên, nhân vật trữ tình bèn theo phản xạ tự nhiên mà "bật tung cửa sổ", và cái mà người lính nhìn thấy, cảm nhận thấy đầu tiên không phải là ngọn gió mát rượi hay ngọn đèn đường rọi vào phòng mà là vầng trăng vầng trăng tròn như những nghĩa tình thủy chung không phai nhòa theo thời gian xuất hiện một cách "đột ngột". Các từ ngữ "thình lình, vội, bật tung, đột ngột" gợi tả cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ của con người. Ánh trăng tròn hiện lên sừng sững giữa bầu trời đen đặc kia đâu phải chỉ lúc "đèn điện tắt" mới có? Trăng vẫn luôn ở đó, vẫn luôn mang tấm lòng trọn vẹn thủy chung với người, nhưng chính sự vô tâm lạnh lùng đã ngăn cản nhân vật trữ tình để ý đến trăng, nhìn thấy trăng.
"Bật tung cửa sổ", cái cửa sổ ấy có lẽ không chỉ đơn thuần là cửa sổ bình thường, mà là cái cửa sổ của lạnh nhạt che khuất tâm hồn người lính, là rào cản đưa lòng người rời xa tình cảm quá khứ, là bức tường vốn đang từng ngày đưa tâm hồn con người vào bóng tối của sự hững hờ, bạc bẽo, tách dần khỏi ánh sáng nghĩa tình của vầng trăng yêu thương. Đến khi người lính vội vàng "bật tung cửa sổ", không còn gì ngăn cách, không còn một ranh giới rào cản nào nữa, người chiến sĩ xưa mới nhận ra trăng, một cách thình lình và đột ngột, như không hề ngờ tới, không hề nghĩ tới. Trăng vẫn tròn như những nghĩa tình vẫn đầy ắp không sứt mẻ, vẫn hiện diện bên cạnh nhân vật trữ tình như thuở ấu thơ, như thời chiến đấu; nhưng người đã không còn nhớ gì cả. Để khi gặp mặt, người lính cảm thấy ngỡ ngàng tột độ, và sau đó:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng"
Vần thơ có cái gì đó khiến lòng người cảm động. Hai từ "mặt" trong cùng một dòng thơ: mặt người và mặt trăng, mặt đối mặt, lòng đối lòng. Bao cảm xúc bên trong nhân vật trữ tình lúc này cũng như cánh cửa sổ "bật tung" ra, trào dâng đến nỗi như "có cái gì rưng rưng". Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái "rưng rưng", cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính. Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng_ biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư.
Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, "như là đồng là bể, như là sông là rừng". Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm. Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như "có cái gì rưng rưng", đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc. Đọc bốn câu thơ, ta thấy thương thay cho trăng và tiếc thay cho người chiến sĩ.
"Khéo trách người sao quá vội vàng
Bỏ lại bao kỉ niệm quá khứ
Khá trách người sao quá phũ phàng
Lãng quên những yêu thương tình tự".
Nhân vật trữ tình đã có biết bao lần có thể hội ngộ cùng trăng, nhưng người đều bỏ lỡ dịp đó. Người đã xem trăng như người dưng, và giờ là lúc người bị cắn rứt lương tâm tột độ. Mặc dù như vậy, trăng - gương mặt của ân tình quá khứ, vẫn điềm đạm, cao thương và bao dung:
"Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình."
Trăng vẫn tròn như tình nghĩa trọn vẹn thủy chung son sắt, nhân hậu của đất nước, cuộc đời, trái ngược với cái hờ hững của kẻ sống bạc bẽo. Trăng không lên tiếng trách móc mà im lặng, chẳng giận dỗi "người vô tình" mà bao dung. Tuy vậy, người lính vẫn không tránh khỏi bản án lương tâm, không tránh khỏi ám ảnh bởi ánh nhìn im lặng đầy vẻ trách cứ. Trăng độ lượng, khoan dung, nhưng chính cái khoan dung ấy của trăng lại khiến lòng người nhói đau hơn bao giờ hết. Phải chi trăng cứ hờn dỗi, cứ trách mắng người lính năm xưa thì người lính đã chẳng phải đau lòng như thế.
Đôi khi sự im lặng lại là sự trừng phạt nặng nề nhất. "Ánh trăng im phăng phắc" - cái im lặng của trăng lại càng làm cho sóng gió trỗi dậy trong tâm trí, càng làm lương tri nhân vật trữ tình - người lính cảm thấy đau xót, đau xót đến "giật mình". Giật mình đồng nghĩa với việc thức tỉnh, nhưng không phải sự thức tỉnh nhẹ nhàng mà lại vô cùng dữ dội. Cả bài thơ như lắng đọng trong từ "giật mình", và tâm trạng giật mình đó cũng chính là cái kết của bài thơ, của một câu chuyện đời đầy ý nghĩa. Bài học tình nghĩa về tri ân quá khứ được viết ra, nhưng con người đã phải trả cái giá quá đắt để học nó. Người ta không thể nào mãi chìm đắm trong quá khứ mà tiến lên, nhưng cũng không thể nào tiến lên mà không có bước đệm của quá khứ. Trân trọng, khắc ghi, tri ân kỉ niệm. Luôn nhớ, yêu thương, không quên ngày đã qua. Một triết lý sống giản đơn nhưng sâu sắc: tình người.
Với ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, cô đọng, giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm được thể hiện qua thể thơ năm chữ kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, cùng đạo lý làm người không bao giờ cũ: uống nước nhớ nguồn; bài thơ như một lời tâm sự, nhắc nhở người ta sống tình cảm với những quá khứ đã qua, trân trọng, biết ơn những thứ mình đã có và đang có. Nhịp thơ sâu lắng làm người đọc phải suy ngẫm. Cùng nói về vầng trăng gợi nhớ nhưng trăng trong "Ánh trăng" không phải là vầng trăng cố hương như "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch:
"Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương."
mà là vầng trăng trữ tình đong đầy yêu thương, chất chứa hằng bao xúc cảm, về một thời "ngày ấy" của thiên nhiên, đất nước, cuộc đời, và cả tâm hồn con người. "Ánh trăng" thực sự để lại trong lòng người đọc rất nhiều những suy tư đáng quý.
Bài thơ kết thúc nhưng ánh trăng vẫn còn đó, như muốn soi tỏ những ngổn ngang nơi lòng người, để những tâm hồn chìm đắm trong phù du có thể tìm đường về với những ân tình ân nghĩa, có thể tìm lại phút giây bình yên trong khoảng trời kỉ niệm thân thương. Bài thơ đã đem lại cho dàn hợp xướng như bài thơ về trăng một nốt nhạc mới lạ, lắng sâu vào trái tim độc giả. Ta cũng như chợt bắt gặp lời gửi gắm đầy ý nghĩa qua câu thơ:
"Xin đừng tham đó bỏ đăng
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn"
Đề 1: Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả.
- Giới thiệu văn bản.
- Nêu ội dung chính của văn bản.
Tham khảo mở bài:
a, Vầng trăng trong hoài niệm
b, Vầng trăng thời hiện tại
-Chiến tranh qua đi, cuộc sống bình yên trở lại, người lính may mắn từ rừng sâu trở về nơi thành phố. Cuộc sống thị thành đủ đầy, hiện đại văn minh với ánh điện, cửa gương, phòng buyn – đinh, ... đối lập hoàn toàn với quá khứ khi xưa. Cuộc sống đổi thay, lòng người cũng thay đổi. Mối quan hệ giữa người và trăng không còn như xưa nữa:
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Trăng vẫn như xưa, vẫn ngày ngày qua ngõ, vẫn dõi theo người nhưng người đã ngoảnh mặt lằm ngơ, coi trăng như người xa lạ. Sự vô tình đến mức tàn nhẫn
-Tình huống bất ngờ xảy ra:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
Giữa bóng tối của màn đêm là ánh sáng rực rỡ tràn đầy của vầng trăng. DÙ cuộc gặp gỡ giữa người và trăng không hẹn trước, người vẫn bất ngờ nhận ra “đột ngột vầng trăng tròn”. Phải đến khi đèn tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra vầng trăng tròn”. Dù cuộc sống đổi thay, lòng người đổi thay, trăng vẫn thủy chung, tình nghĩa, vẫn là thứ ánh sáng trong ngần như xưa
-Trong cuộc gặp gỡ đột ngột, bất ngờ, vầng trăng đã làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Người ngửa mặt nhìn trăng: “Ngửa mặt lên nhìn mặt” trăng và người đã có cuộc đối diện đàm tâm. Đó là khoảnh khắc bất ngờ gặp lại cố nhân. Nhìn trăng, lòng người xúc động trào dâng: “có cái gi rưng rưng”. Cùng với trạng thái rưng rưng, tất cả những kỉ niệm hồn nhiên tuổi ấu thơ, kỉ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu nơi rừng sâu cũng ùa về.
Như vậy, vầng trăng hiện tại đánh thức quá khứ tươi đẹp đã ngủ yên trong lòng người “từ hồi về thành phố”. Trăng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình chẳng thể mờ phai, luôn tròn đầy, bất diệt.
c, Vầng trăng suy ngẫm
-Trong niềm xúc động rưng rưng, người lính nhìn trăng và suy ngẫm. Trăng vẫn tròn, vẫn sáng đẹp, vẫn thứ ánh sáng rực rỡ trong ngần, vẫn vẹn nguyên, thủy chung không hề hao khuyết.
+ “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ,vẹn nguyên chẳng thể phai mờ
+ “Ánh trăng im phăng phắc” : Phép nhân hóa khiến vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình chỉ lặng lẽ, vị tha, bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ.
-Sự bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc của vầng trăng đã có sức cảm hóa lớn khiến con người “giật mình” nhìn lại mình, nhận ra sự vô tình không nên có, sự lãng quên đáng trách của mình. Thấy trăng tròn bao nhiêu, người nhận ra mình hao khuyết bấy nhiêu.
Ánh sáng đẹp đẽ, vô nguồn của vầng trăng không chỉ soi tỏ không gian đêm thành phố, soi vào “phòn buyn – đinh tối om”, gọi về những kỉ niệm người đã vô tình quên lãng mà còn cảm hóa, đánh thức lương tri, lẽ sống làm người, nhắc nhở con người phải sống ân tình, thủy chung cùng quá khứ. Ánh trăng là ánh sáng của lương tri, ánh sáng của đạo làm người
3, Kết luận:
-Với thể thơ năm trữ, ngôn ngữ thơ giản dị mà hàm xúc sâu xa, kết hợp hài hòa giữa tự sự , trữ tình và suy ngẫm sâu lắng, Ánh trăng là một câu chuyện đời thường được kể bằng thơ rất giàu ý nghĩa triết lí
ĐỀ 2. Cảm nhận về vẻ đẹp của đoạn thơ
Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng - người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (Vọng nguyệt- NKTT). Và với bài thơ “Ánh trăng”, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.
Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ trữ tình của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ . Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của
Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Ba khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc:
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dài, hùng vĩ.
Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng.
Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm không ngờ. Tình huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đã quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại.
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương, hối hả của tác giả để đi tìm nguồn sáng. Và hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ mà tự nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời, chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng kia. Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng.
Vầng trăng đến đột ngột đã làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn đổi khác.
Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng
Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc, dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động, cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm
hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa. Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng
là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về
đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.
Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
GỢI Ý:
Bài viết tham khảo:
Đất nước ta trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trang lịch sử hào hùng đó được viết nên bằng máu và nước mắt của bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ. Để cho con cháu được tận hưởng “trái ngọt” như ngày hôm nay. Chúng ta những người đi sau cần phải biết phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Bởi nó chính là gốc rễ cội nguồn của mọi giá trị đạo đức nhân văn trong xã hội.
Uống nước nhớ nguồn là một tinh thần đạo đức quý báu của dân tộc ta nó được lưu truyền và tiếp nối qua bao nhiêu thế hệ. Trở thành kim chỉ nam xuyên suốt trong mấy ngàn năm lịch sử. Vậy uống nước nhớ nguồn nghĩa là gì? Uống nước là một hành động thể hiện sự hưởng thụ thành quả. “Nguồn” chính là nơi bắt nguồn của những con sông, con suối, nơi khởi nguồn cho tất cả những mạch nước mát lành nuôi sự sống. Sở dĩ có câu tục ngữ trên vì nó mang ý nghĩa răn đe dạy dỗ con cháu sống phải biết nhớ về quá khứ, nhớ đến cha ông những lớp người đã hi sinh cuộc đời để làm đẹp cho thế hệ mai sau. Đây cũng là một phạm trù đạo đức để đánh giá một con người. Bởi sâu trong tâm khảm ai cũng có trong mình một tư tưởng truyền thống sâu sắc.
Con người không phải ngẫu nhiên mà sinh ra và lớn lên được. Đó là một quá trình dài đằng đẵng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao dạy dỗ của thầy cô. Chính vì thế chúng ta hãy biết ơn những người thân xung quanh mình, bằng hành động bằng suy nghĩ thực tế trong đời sống hàng ngày. Trên thực tế hiện nay truyền thống uống nước nhớ nguồn đã và đang được lưu truyền và phát huy vô cùng mạnh mẽ bằng những bằng chứng thiết thực như: Mỗi năm vào ngày 27/7 ( ngày thương binh liệt sĩ), toàn dân lại dành những giây phút thiêng liêng để tưởng nhớ những vị anh hùng dân tộc, những con người đã xả thân vì độc lập tự do của tổ quốc. Đó không chỉ là ngày chúng ta nhớ về các anh hùng dân tộc, mà còn là dịp các con cháu ôn lại những trang sử hào hùng bi tráng, những năm tháng “đầy đau thương nhưng cũng đầy vẻ vang”. Không chỉ trong những dịp lễ lớn mang tính dân tộc mà còn ngay trong đời sống gia đình truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cũng được phát huy sâu rộng. Hàng năm chúng ta có rất nhiều những dịp lễ tết, giỗ chạp mà tiêu biểu nhất đó là dịp Tết nguyên đán. Đó không chỉ là thời gian kết thúc một năm cũ mở ra một năm mới với nhiều khởi sắc mà nó còn là những ngày con cháu tưởng nhớ về cội nguồn cha ông của mình.
Các lễ hội truyền thống khắp cả nước diễn ra quanh năm cũng là một cách thức để con cháu thể hiện niềm biết ơn sâu sắc tới những người đã khai hoang mở lối cho thế hệ sau. Thế nhưng bên cạnh những hành động thể hiện truyền thống vô cùng quý báu đó cũng có không ít những cá nhân những con người đang ngày một đi ngược lại với tư tưởng đạo lí. Con đánh cha, cháu mắng chửi ông bà còn diễn ra rất nhiều. Tuy nhiên nó chỉ là những tồn tại rất nhỏ bên trong một tập thể vô cùng nhân văn đó. Nhiệm vụ của con cháu chúng ta những người đi sau hưởng thụ những “trái ngọt” của thế hệ trước là phải biết phát huy và tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc. Bằng những hành động nhỏ nhất hàng ngày như giúp đỡ cha mẹ, ông bà học tập thật tốt, vâng lời thầy cô… Hãy hành động để góp phần khiến cho xã hội này trở nên văn minh hơn và tốt đẹp hơn.
Uống nước nhớ nguồn là một trong những tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc. Nó sẽ mãi mãi lưu truyền và tỏa sáng qua mọi thế hệ. Hãy khiến cho xã hội, cho môi trường sống của chúng ta trở nên văn minh và tốt đẹp hơn bằng những suy nghĩ hành động tích cực nhất
Đề bài 2:
Bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy) có ý nghĩa thức tỉnh lối sống ân nghĩa trong mỗi người chúng ta. Em hãy viết đoạn tổng – phân – hợp, 2/3 trang giấy thi, bày tỏ suy nghĩ của mình về thế hệ cha ông – những người đã làm nên lịch sử, đã hi sinh cuộc đời mình cho quê hương đất nước.
Bài viết tham khảo:
Bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy) với ý nghĩa thức tỉnh lối sống ân nghĩa trong mỗi người chúng ta đã gợi cho chúng ta nhớ về thế hệ cha ông – những người đã làm nên lịch sử, đã hi sinh cuộc đời mình cho quê hương đất nước. Thế hệ cha ông là tập thể quần chúng nhân dân, những người đi trước, là tổ tiên của chúng ta từ đời nay qua đời khác. Đó là thế hệ đã tạo ra các giá trị vật chất và truyền thống văn hóa tinh thần, tập quán phong tục, văn hiến cho các thế hệ sau kế thừa. Nói cách khác, từ thuở khai thiên lập địa cha ông ta đã thành lập, xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước. Lịch sử 4000 năm của dân tộc ta là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bờ cõi nước nhà liên tục bị ngoại bang nhòm ngó và xâm phạm. Trong cuộc trường chinh vạn dặm bảo vệ bờ cõi, cha ông ta đã đổi bao máu xương. Hành trình viết tên Việt Nam lên bản đồ thế giới là hành trình của mồ hôi, công sức, nước mắt, nhiệt huyết và biết bao nhọc nhằn lam lũ của người dân Việt Nam qua hàng ngàn thế hệ. Tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió vẫn vững vàng qua bao cuộc bể dâu bởi
“Cha ông ta đâu bố trí những binh đoàn
Trên vai đỉnh Trường Sơn, dọc bờ Đông Hải
Tên tổ quốc vang vang ngoài bờ cõi
Ta đội triệu tấn bom để hái mặt trời hồng”
Cha ông ta là những người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ đã làm nên đất nước bằng cách hi sinh, hóa thân cuộc đời mình vào hình sông dáng núi, viết lên lịch sử đáng tự hào của dân tộc. Ý thức được những hi sinh của cha ông trong quá khứ, mỗi chúng ta cần thức tỉnh lối sống ân nghĩa, thủy chung, biết ơn quá khứ, biết ơn những người đi trước. Trong thực tế các phong trào đền ơn đáp nghĩa, ngày kỉ niệm thương binh liệt sĩ, phong tặng bà mẹ Việt Nam anh hùng,… là cách thế hệ đi sau đã và đang thể hiện và nhắc nhở con cháu lòng biết ơn với tổ tiên. Tuy nhiên, vẫn có một số ít những người sống thờ ơ, ích kỉ, quay lưng với quá khứ, với dân tộc. Ý thức được lối sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ là một biểu hiện của lòng yêu nước, một cách thiết thực nhất với học sinh, thế hệ trẻ là cần cố gắng học tập và rèn luyện để hiểu biết về lịch sử dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, trở thành người có ích, góp phần xây dựng đất nước, sống xứng đáng với những gì đã cho và nhận.
Đề bài 3 : Suy nghĩ về bao dung (Từ bài “Ánh trăng” – Nguyễn Duy…)
Bài làm:
Con người thường không tránh khỏi những vấp ngã, lỗi lầm trong cuộc sống. Để có thể đứng lên, bước tiếp ngoài nghị lực của bản thân, người ấy cần cả sự bao dung của người khác và của chính bản thân mình. Nói như Pi-e Bê-noa có câu: “Bao dung dung là đức tính đem lợi về cho cả ta lẫn người khác”.
Bao dung là lòng rộng lượng, khoan dung , thương yêu con người, sẵn sàng tha thứ, không khắt khe, không trừng phạt, hoặc sẵn sàng xoá bỏ những lỗi lầm mà người khác thường là người dưới đã phạm phải.
Trong cuộc sống khó tránh khỏi những va chạm, xung đột trong lời nói, hay việc làm, hành động có thể dẫn tới những hậu quả đáng tiếc nếu ta không biết nhìn nhận lại chính mình, xem xét khách quan sự việc, chủ động giảng hòa, sẵn sàng tha thứ, bắt tay cởi bỏ oán thù.
Tha thứ cho lỗi lầm của người khác có tác dụng cảm hóa người phạm phải sai lầm. Họ thấy lòng bao dung của ta mà ăn năn, hối hận, sửa chữa lỗi lầm. Lòng khoan dung của một người còn có thể tiếp thêm nghị lực sống cho nhiều người khác. “Sự khoan dung là món trang sức của đức hạnh”. Trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của V.Huy-go, chẳng phải tấm lòng bao dung đức độ của Cha xứ như một tia sáng soi rõ, giúp Giăng-văng-giăng tìm lại được con người thật của mình trước khi bị chính cái tòa án với những bản án khắc nghiệt điên rồ biến ông thành kẻ trộm cắp xấu xa, một người tù khổ sai khốn cùng. Và rồi ông đã bắt đầu lại cuộc đời dựa trên chính lòng bao dung mà ông đã được con người cao thượng kia trao tặng trở thành một ngài thị trưởng đáng kính được người người tán thưởng. Rồi: “đem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân để thay cường bạo” những câu thơ hùng hồn đó chẳng phải đã in sâu vào lòng người Việt ta từ bao đời nay, đã trở thành phẩm chất quý giá, tài sản, dũng khí sắc bén thể hiện qua từng cuộc chiến thắng giặc ngoại xâm?
Một người có tấm lòng bao dung sẽ không bao giờ chấp nhặt những chuyện cỏn con mà người khác đã gây ra cho mình. Đó là cách ứng xử rộng lượng, có văn hóa, vị tha. Vì vậy, cuộc sống của họ trở nên thoải mái, họ thấy nhẹ lòng, tránh xa những suy nghĩ tiêu cực, không hẹp hòi hay có những suy nghĩ việc làm trả thù, độc ác và họ sống chan hòa với mọi người xung quanh mà không hề để tâm những mâu thuẫn, xung đột xảy ra. Nhờ thế mà họ sẽ được nhiều người yêu quý, cảm mến. “Người hạnh phúc nhất là người không bao giờ giận”.
Thói xấu của con người trong cuộc sống (ấn tượng, thành kiến, ích kỉ, hẹp hòi,…). Nếu dùng lòng khoan dung để đối nhân xử thế thì những thói xấu đó sẽ không có cơ hội tồn tại. Trong mối quan hệ xã hội, một điều nhịn bằng chín điều lành, hãy thử đặt mình vài địa vị đối phương, sẵn lòng bỏ qua những thiếu xót và cùng nhau bắt tay làm lại, mọi việc nhờ đó sẽ thuận buồm xuôi gió. Trong mối quan hệ thứ bậc, giả dụ như không có lòng khoan dung cao cả, tấm lòng vị tha to lớn vì thương yêu con cái, dù chúng có làm gì sai trái đi chăng nữa, cha mẹ vẫn luôn sẵn dang rộng cánh tay chào đón chúng trở về, con cái nhờ đó biết được tình thương yêu sâu rộng của đấng sinh thành luôn dành trọn cho mình, rồi biết chọn cho mình đường mình sẽ bước, rằng con cũng sẽ cho đi và chia sẻ với cả mọi người lòng khoan dung cha mẹ đã dành cho con; rồi trong mối quan hệ giữa anh em trong nhà, nhường nhịn nhau, luôn hòa thuận, luôn biết đùm bọc nhau mà sống thì ngoài trời dù tuyết rơi nhưng trong nhà vẫn ấm. Trong mối quan hệ vợ chồng “Chồng giận thì vợ bớt lời - Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê”. Có thế thì con người mới được sống trong sự bình an, sung sướng được.
Trong thực tế, chúng ta cần lên án những người sống nhỏ nhen, ích kỉ, không biết khoan dung và chúng ta cũng không nên khoan dung với cái xấu, cái ác.
Như vậy, nhận thức được bao dung là niềm vui to lớn, đích thực để trước hết là mình thanh thản, mỗi chúng ta phải rèn luyện lòng khoan dung, đối xử với người khác bằng tình yêu thương, biết tha thứ cho lỗi lầm của người khác cũng như chính bản thân mình. Khi người ta biết bao dung, cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn, tâm hồn mỗi người cũng trở nên thanh thản hơn, cuộc sống vì thế cũng trở nên đáng sống hơn. Hãy luôn nhớ “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”.
*******************************************
CHUYÊN ĐỀ 10
VĂN BẢN: KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ
(Nguyễn Khoa Điềm)
I) Kiến thức cơ bản
II) Đọc- hiểu văn bản
III. BÀI TẬP
Bài tập1: Trình bày bằng một đoạn văn ngắn cảm nghĩ của em về hình ảnh người mẹ Tà Ôi trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
* Gợi ý:
1. Yêu cầu về nội dung: Có thể nêu một số cảm nghĩ về hình ảnh người mẹ Tà Ôi: trong bài thơ tương đối tự do, nhưng cần làm rõ cảm nghĩ về những tình cảm sau của người mẹ:
- Người mẹ Tà-ôi làm những công việc vất vả: giã gạo, phát rẫy, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng.
- Tình cảm của mẹ: Tình thương con hoà quyện trong tình thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước. Chính tình thương ấy làm cho mẹ có sức mạnh bền bỉ, dẻo dai để nuôi những đứa con hiến dâng cho kháng chiến.
* Người mẹ Tà-ôi vô danh là tiêu biểu cho người mẹ Việt Nam anh hùng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
2. Yêu cầu về hình thức:
- Hình thức là một đoạn văn ngắn (có độ dài từ 7 đến 10 câu văn).
- Các câu liên kết chặt chẽ.
- Lời văn có cảm xúc.
- Diễn đạt lưu loát.
Bài tập 2. Trong bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, tại sao chỉ có một em cu Tai mà tác giả lại viết là “ những em bé lớn trên lưng mẹ”? Nhan đề bài thơ có ý nghĩa như thế nào?
* Gợi ý:
- Chỉ có một em cu Tai, nhưng tác giả lại viết là những em bé. Đây là cách khái quát ở trong thơ. Em cu Tai là một hình ảnh cụ thể, nhưng có bao nhiêu em bé ở rừng đã lớn trên lưng của các bà mẹ người dân tộc Tà- ôi. Cũng có bao nhiêu bà mẹ ngoài đời, nhưng nhà thơ lại chỉ viết một từ mẹ mà thôi. Một em bé để nói rất nhiều em bé. Một bà mẹ , nhưng là để nói về nhiều người mẹ.
- Nhan đề bài thơ là một ý thơ. Bài thơ ca ngợi người mẹ miền núi, cũng là người mẹ Việt Nam, kết hợp lòng thương con, yêu con với yêu thương bộ đội, yêu thương dân làng, yêu nước. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh tượng trưng đã nuôi lớn những người con của mình để hiến dâng cho cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bài tập 3. Có bao nhiêu người ru trong bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”? Khúc hát này có điều gì đặc biệt về nhịp điệu, nội dung tình cảm?
*Gợi ý:
- Có hai người ru em cu Tai, một là lời ru của tác giả, một lời ru khác là của mẹ em “ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời. Hai lời ru này hoà quyện vào nhau trong suốt bài thơ tạo thành khúc hát ru độc đáo. Hai lời ru trong một khúc hát. Mỗi lời ru gồm hai phần: lời ru của tác giả và lời ru của mẹ. Lời ru của tác giả kể ra những công việc mẹ làm. Lời ru của mẹ mong ước về em và về kết quả công việc đó.
- Điều đặc biệt của khúc hát:
+ Về nhịp điệu: Âm điệu có phần lặp lại, nhưng cũng có phần phát triển làm cho lời ru vừa du dương, lại vừa biến hoá.
+ Nội dung tình cảm: Không phải là lời ru buồn quen thuộc với những sung chát đào chua, với những con cò và cơn mưa mù mịt. Nội dung lời ru là những công việc của một bà mẹ kháng chiến: giã gạo nuôi bộ đội, phát rẫy tỉa bắp lấy lương thực cho kháng chiến, chuyyển lán, đạp rừng đánh Mỹ. Tình cảm không chỉ dành cho con trai bé bỏng, mà còn dành cho bộ đội, cho dân làng, cho lãnh tụ và cho đất nước. Đấy chính là những nét mới mẻ, độc đáo của bài hát ru.
Bài tập 4. Hãy nêu tư tưởng chủ đề của bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
* Gợi ý:
Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm và tấm lòng trân trọng, tác giả ca ngợi người mẹ dân tộc Tà-ôiyêu con, thương làng, thương bộ đội, yêu nước đã làm những công việc phục vụ cho cuộc kháng chiến và nuôi những người con hiến dâng cho cuộc kháng chiến cứu nước.
Bài tập 5. Cho câu thơ sau:
“…Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng…”
Phân biệt nghĩa của từ “nghiêng” trong câu thơ trên? Cho biết đó là hiện tượng gì trong tiếng Việt?
* Gợi ý:
- Từ “nghiêng” trong “giấc ngủ em nghiêng” được sử dụng với nghĩa chuyển miêu tả trạng thái của giấc ngủ, đứa trẻ trên lưng mẹ ngủ không yên giấc, nghiêng theo nhịp chày giã gạo, nỗi vất vả của người mẹ lan truyền sang đứa con, em cu Tai chia sẻ gian truân cùng với mẹ.
- Đây là hiện tượng chuyển nghĩa của từ trong tiếng Việt.
Bài tập 6. Trong bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, giữa từng lời ru của người mẹ với hoàn cảnh, công việc mà mẹ đang làm được miêu tả trước đó có mối quan hệ thật chặt chẽ. Hãy chứng minh điều đó.
*Gợi ý:
- Cần đọc kĩ từng đoạn thơ để chỉ ra hoàn cảnh cụ thể, công việc mà người mẹ ở chiến khu đang làm.
- Phân tích nội dung cảm xúc, ước vọng được gửi vào từng khúc ru.
- Chứng minh hai phần này có mối liên hệ chặt chẽ và tự nhiên:
+ Vì đang giã gạo nuôi bộ đội nên mẹ ước: “ Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần – Mai sau con lớn vung chày lún sân”.
+ Vì đang tỉa bắp trên núi nên mẹ ước: “ Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười ka-lưi”.
+ Vì đang chuyển lán, đạp rừng, đang địu con đi để giành trận cuối nên mẹ ước: “ Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ – Mai sau con lớn làm người tự do”.
Bài tập 7. Đọc bài thơ: “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm, đối chiếu với bài thơ “ Con cò” của Chế Lan Viên, chỉ ra cách vận dụng lời ru ở mỗi bài thơ có điểm gì giống và khác nhau?
* Gợi ý:
Cả hai bài thơ đều thấm đẫm trong âm điệu con của người mẹ, nhưng hai bài thơ lại có những điểm khác nhau:
- Bà mẹ Tà- ôi ru trực tiếp đứa con, trực tiếp nói lên tình hình người mẹ. Còn bà mẹ trong “Con cò” của Chế Lan Viên gửi gắm tình cảm suy nghĩ về con qua hình ảnh con cò trong ca dao.
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm : Thể thơ 8 chữ. Thơ Chế Lan Viên: Thể thơ tự do.
- Hình ảnh con cò ở bài thơ của Chế Lan Viên thay đổi theo suy nghĩa, tình cảm, mang tính đa nghĩa. Còn ở bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” hình ảnh người mẹ Tà- ôi được nâng dần lên từ người mẹ thương con đến người mẹ- chiến sĩ.
- Ở bài thơ “Con cò”, người mẹ ru con trong cuộc sống hoà bình trên miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở “Khúc hát ru nhưng em bé lớn trên lưng mẹ” người mẹ - chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt của dân tộc.
Bài tập 8. Trong bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” có câu thơ:
“Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.”
a/ Em hiểu hai câu thơ trên như thế nào?
b/ Chép chính xác năm câu thơ trước hai câu thơ trên.
c/ Có kiến cho rằng trong tác phẩm không chỉ có một lời ru. Theo em điều đó có đúng không?
d/ Viết một đoạn văn 10 câu theo cách tổng - phân- hợp trong đó sử dụng câu hỏi tu từ, câu tình thái để phân tích đoạn thơ em vừa chép.
* Gợi ý:
a. Hai câu thơ trên vừa tả việc làm của mẹ, vừa biểu hiện tình cảm, xúc động của mẹ với con, với bộ đội cách mạng. Người mẹ nhỏ nhắn vừa giã gạo, vừa địu con trên lưng. Trong lúc lao động cật lực, mẹ vẫn chăm chú đến giấc ngủ của con. Câu thơ gợi lên hình ảnh người mẹ chịu thương, chịu khó trong lao động và vô cùng yêu con.
b. Chép năm câu thơ trước hai câu thơ trên:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi.
c/ Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” không chỉ có một lời ru: Bài thơ có ba khúc hát, mỗi khúc hát được tạo nên bằng hai lời ru ( Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ).
- Lời ru “ em” ( Tác giả nhập vai) được mở đầu bằng câu: “ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi.”
- Lời ru “ con”( mẹ) được mở đầu bằng câu: “Ngủ ngoan a - kay ơi, ngủ ngoan a - kay hỡi”.
d. Viết đoạn văn:
* Nội dung.
- Câu chủ đề: Hình ảnh người mẹ Tà-ôi chịu thương chịu khó trong lao động và vô cùng yêu con.
- Các câu triển khai.
+ Mẹ vừa địu con trên lưng vừa giã gạo góp phần nuôi bộ đội ăn no đánh giặc.
+ Từ láy “ Nghiêng”: Giàu chất tạo hình và gợi nhiều xúc động, diễn tả dáng điệu nghiêng nghiêng vất vả của mẹ bên cối gạo đồng thời cũng giúp ta cảm nhận về giấc ngủ của em cu Tai. Trong giấc ngủ say nồng trên tấm lưng gầy của mẹ, cả người em cũng nghiêng nghiêng áp vào lưng mẹ và nhấp nhô lên xuống theo mỗi nhịp chày.
+ Hình ảnh “ giọt mồ hôi nóng hổi”: khiến ta cảm nhận được sự vất vả, chịu thương, chịu khó của mẹ.
+ Hình ảnh “ vai mẹ gầy” kết hợp với từ láy “ nhấp nhô“: không chỉ diễn tả sự thiếu thốn mà còn cho ta thấy tất cả sự cố gắng, nỗ lực, kiên trì, nhẫn nại trong công việc của mẹ.
+ Dù lao động cật lực nhưng mẹ vẫn chăm chú đến giấc ngủ của đứa con yêu.
- Câu kết: Hình ảnh người mẹ Tà - ôi cần cù, nhân hậu chính là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
* Hình thức:
- Đoạn văn viết theo kiểu tổng- phân- hợp.
- Sử dụng câu hỏi tu từ và tình thái.
Bài tập 9.
1. Chép chính xác những đoạn thơ diễn tả trực tiếp lời ru của bà mẹ Tà-ôi trong bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm.
2. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của bài thơ này.
3. Em hiểu thế nào về hai câu thơ:
“ Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
4. Cho câu chủ đề: “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ không chỉ là lời ru thiết tha ngọt ngào của người mẹ mà còn thể hiện tình cảm ngọt ngào của nhân dân Tây Nguyên đối với cách mạng.”
Hãy viết tiếp câu trên bằng một đoạn văn theo kiểu tổng - phân - hợp có độ dài khoảng 10 câu. Trong đoạn có sử dụng câu cảm thán, câu hỏi tu từ.
* Gợi ý:
1. Những đoạn thơ diễn tả trực tiếp lời ru của bà mẹ Tà-ôi trong bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm:
“… Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”
“…Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười ka-lưi…”
“…Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do…”
2. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: Bài thơ được sáng tác năm 1971, khi tác giả ở chiến khu Thừa Thiên. Lúc này cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn gay go quyết liệt nhất “ tất cả vì miền Nam ruột thịt”
3.- Mặt trời ở đây là một hình ảnh so sánh, ẩn dụ rất sáng tạo, giàu ý nghĩa thẩm mĩ, thể hiện một liên tưởng đẹp: “ mặt trời của bắp” là mặt trời của thiên nhiên vĩnh hằng, đem ánh sáng và sự sống cho muôn loài, đem lại sự tốt tươi cho ngô lúa, sắn khoai…Từ mặt trời của vũ trụ, nhà thơ đã liên tưởng đến “ mặt trời của mẹ”, đó là em cu Tai. Em là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, niềm tự hào của mẹ.
- Ca ngợi lòng mẹ, tình yêu thương tha thiết của mẹ dành cho con thì đây là hai câu thơ tuyệt vời nhhất, nó vừa bình dị nhưng vừa thấm thía biết bao! Đứa con chính là mặt trời trong lòng mỗi người mẹ, một ẩn dụ sáng tạo làm rung động lòng người. Thế mới thấy tình mẫu tử thiêng liêng biết nhường nào.
4. Viết đoạn văn nghị luận:
* Nội dung:
- Câu chủ đề: “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” không chỉ là lời ru thiết tha, ngọt ngào của người mẹ mà còn thể hiện tình cảm của nhân dân Tây Nguyên đối với cách mạng.
- Các câu triển khai: Bài thơ có ba khúc ru thể hiện tình cảm yêu con tha thiết.
+ Ơ khúc ru thứ nhất tình yêu thương con gắn liền với tình yêu thương bộ đội.
+ Ơ khúc ru thứ hai tình yêu thương con gắn liền với tình yêu dân làng.
+ Ơ khúc ru thứ ba tình yêu thương con gắn liền với tình yêu đất nước đang anh dũng kháng chiến.
+ Trong ước mơ của người mẹ Tà-ôi, bên cạnh mong muốn đứa con trưởng thành, khát khao con được tự do, được thấy Bác Hồ còn là tình yêu sâu đậm mẹ dành cho kháng chiến, cho cách mạng, cho Bác Hồ.
- Câu kết: Phải chăng tình cảm của bà mẹ Tà-ôi chính là một biểu tượng đẹp đẽ cho tình cảm của nhân dân Tây Nguyên đối với cách mạng.
* Hình thức.
- Đoạn văn trình bày theo kiểu tổng - phân - hợp.
- Trong đoạn văn có sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán.
III. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
ĐỀ BÀI1: Cảm nhận hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ?
Dàn bài:
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, văn bản.
- Nêu vấn đề nghị luận: hình tượng người mẹ Tà-ôi.
2, Thân bài:
a) Cảm nhận về hình tượng người mẹ Tà-ôi
- Đó là một người mẹ đảm đang, giàu nghị lực.
+ Bà mẹ luôn được miêu tả trong trạng thái làm việc: “ giã gạo nuôi bộ đội”, “ tỉa bắp trên núi Ka-lưi”, “ đi chuyển lán, đi đạp rừng.”
+ Dù công việc nhọc nhằn, vất vả, khổ cực, vừa phải địu con vừa làm, “ mồ hôi mẹ rơi”, “ lưng núi thì to, lưng mẹ thì nhỏ”, thậm chí là nguy hiểm “ Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối” thì người mẹ vẫn không quản ngại, vẫn chăm chỉ, nỗ lực.
- Đó là một người mẹ giàu tình yêu thương con.
+ Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn có bên cạnh và mong cho con giấc ngủ ngon “ Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ.” ( điệp 3 lần).
+ Lưng mẹ là chiếc nôi, mẹ ru con bằng tiếng hát từ trái tim: “ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.”
+ Mẹ yêu con, ví con như “mặt trời”- con là nguồn sống, là niềm hi vọng soi sáng cuộc đời mẹ. Hình ảnh ẩn dụ “ mặt trời của mẹ” thực sự gây ấn tượng về tình mẹ sâu sắc, bao la.
+ Tình yêu thương còn bộc lộ trực tiếp qua lời ru: “ Mẹ thương a-kay”( điệp ngữ 3 lần).
+ Mẹ luôn mong ước cho con những điều tốt đẹp nhất:
. Mong con lớn lên có sức khỏe phi thường “ Mai sau con lớn vung chày lún sân”/ “ Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”
. Mong con lớn lên trở thành “người tự do.
-> Tình yêu con của người mẹ Tà-ôi thật lớn lao, xúc động.
- Đó còn là bà mẹ yêu nước, có tinh thần cách mạng cao.
+ Mẹ tham gia vào kháng chiến cả trực tiếp và gián tiếp : “ giã gạo nuôi bộ đội”, “ chuyển lán”, “ đạp rừng”, “ đi giành trận cuối”, “ mẹ “ đến chiến trường”, mẹ “ vào Trường Sơn”.
+ Tình yêu nước được bộc lộ trực tiếp qua lời ru: “ mẹ thương bộ đội”, “ mẹ thương làng đói”, “ mẹ thương đất nước”.
+ Khát vọng của mẹ đều hướng tới những điều tốt đẹp cho kháng chiến. Cho đất nước:” Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần”, “ Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”, mong đất nước sớm được độc lập, tự do.
+ Lòng kính yêu đối với lãnh tụ của bà mẹ cũng là một biểu hiện đẹp của tinh thần yêu nước: “ Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ”
-> Bà mẹ Tà- ôi mang những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam và tinh thần thời đại: vừa yêu thương con , vừa yêu đất nước và giàu tinh thần chiến đấu.
b) Nghệ thuật xây dựng hình tượng
- Đặt bà mẹ trong hoàn cảnh đặc biệt- chiến tranh, đói nghèo, vất vả để làm nổi bật hơn vẻ đẹp của người mẹ dân tộc thiểu số.
- Sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ, nói quá.
- Kết cấu lời ru thể hiện tình mẹ chan chứa, dạt dào trong toàn bài.
3, Kết bài
- Hình tượng người mẹ Tà-ôi là điển hình cho những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới.
- Khẳng dịnh sức sống của hình tượng nhân vật trong lòng độc giả.
Bài viết tham khảo:
Hình ảnh người mẹ Tà-Ôi được miêu tả trong bài thơ qua lời ru của tác giả Từ lời ru của tác giả tượng hình lên vóc dáng người mẹ được gắn với hoàn cảnh và công việc cụ thể qua từng đoạn thơ. Người mẹ vừa địu con vừa làm biết bao công việc của người dân nơi chiến khu, việc nhà mà cũng là việc nước, việc kháng chiến. Đầu tiên là mẹ giã gạo góp phần nuôi bộ đội kháng chiến. Công việc thì vất vả nhưng tình cảm mẹ giành cho con thì sâu nặng vô cùng:
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi mà em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Hai mẹ con cùng chung một nhịp, theo nhịp chày giã, nhịp lao động của mẹ. Tấm thân của mẹ như dành trọn cho con: vai làm gối, lưng đưa nôi và tim hát thành lời ru cho con ngủ. Tiếp đến là hình ảnh người mẹ “Tỉa bắp trên núi Ka-lưi”, nghĩa là đang làm công việc lao động sản xuất của người dân ở chiến khu – bám đất bám làng chiến đấu. Sự chịu đựng gian khổ của người mẹ giữa núi rừng mênh mông, heo hút được thể hiện qua hình ảnh đối lập: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ”. Tấm lưng người mẹ nhỏ nhưng bền bỉ như lưng núi và kiêu hãnh hơn lưng núi vì con trai – mặt trời của mẹ nằm ở trên lưng:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Lối nói ẩn dụ đã diễn tả tình cảm mẹ yêu con thật cảm động. Mặt trời là kì vĩ, quý giá nhất trong vũ trụ này, thì con cũng là mặt trời của mẹ, là nguồn cảm xúc ấm áp vừa gần gũi, vừa thiêng liêng của đời mẹ, góp phần sưởi ấm lòng tin yêu, ý chí của mẹ trong cuộc sống, con là ánh sáng, là sự sống, là hi vọng của đời mẹ. Mặt trời con cứ trẻ trung và ngày càng rực rỡ trên thế gian này như mặt trời kia là vĩnh hằng. Từ trên sân nhà, mẹ ra nương rẫy rồi mẹ đến chiến trường: “Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng”. Mẹ cùng các anh trai, chị gái cầm súng, cầm chông, “mẹ địu em đi để dành trận cuối”. Mẹ đã trực tiếp tham gia chiến đấu để bảo vệ căn cứ, di chuyển lực lượng để kháng chiến lâu dài với lòng quyết tâm, tin tưởng vào thắng lợi. Và đứa con của mẹ cũng lớn dần, cùng mẹ góp phần vào kháng chiến:
Từ trên lưng mẹ em tới trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn
Phải chăng mẹ đã dùng tấm lưng làm nôi nuôi dưỡng những dũng sĩ cho cuộc kháng chiến của dân tộc và gánh chịu tất cả nỗi vất vả, gian lao để giành chiến thắng. Ta hiểu vì sao mà tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là “Khúc hát ru của những em bé lớn trên lưng mẹ”. Qua ba đoạn thơ, lần lượt hiện lên những công việc và tấm lòng của người mẹ nơi chiến khu gian khổ. Người mẹ ấy bền bỉ, quyết tâm trong công việc lao động và kháng chiến thường ngày. Người mẹ ấy thắm thiết yêu con và nặng tình thương buôn làng, đất nước, khát khao độc lập, tự do. Vì thế, người mẹ ấy không chỉ riêng của Cu Tai mà còn là mẹ chiến sĩ, cao hơn là mẹ Tổ quốc. Tấm lòng và ước mong của người mẹ qua những lời ru trực tiếp của mẹ – “Tim hát thành lời” Người mẹ còn hiện lên rõ nét qua những lời ru của mẹ. Tình yêu con tha thiết, dịu dàng, âu yếm thể hiện ngay từ lời mở đầu mỗi khúc hát ru: “Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi”. Qua lời ru, ta thấy được sự nâng niu, âu yếm, vỗ về rất dịu dàng của người mẹ với con. Tình mẹ yêu con trải dài qua những lời ru nhắc đi nhắc lại như điệp khúc: “Mẹ thương A-kay, mẹ thương …”. Qua mỗi lời ru ở mỗi đoạn thơ, chiều dày tình cảm càng tăng lên, càng được nâng lên. Thương con, mẹ mong ước cho con bao điều. Nếu lời ru của tác giả hướng vào thực tại thì lời ru của mẹ lại hướng về tương lai, như là lời lí giải động lực tinh thần sâu xa giúp mẹ vượt qua gian lao, thử thách. Tình cảm và ước mong người mẹ giành cho con hòa với tình cảm và ước mong dành cho bộ đội, dân làng, đất nước. Giữa hoàn cảnh, công việc cụ thể của người mẹ ở từng đoạn thơ với tình cảm, ước mong của mẹ có sự liên hệ tự nhiên, chặt chẽ. Vì đang giã gạo nuôi bộ đội, mẹ ước: “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. Mai sau con lớn vung chày lún sân”. Vì đang tỉa bắp trên núi nên mẹ ước “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”. Vì đang đìu con đi để “giành trận cuối” nên mẹ ước “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ – Mai sau con lớn được làm tự do”, (lúc ấy, mơ được thấy Bác Hồ là mơ nước nhà thống nhất, Bắc Nam sum họp). Người mẹ mong cho con mau chóng lớn khôn để trở thành chàng trai cường tráng, mạnh mẽ trong lao động sản xuất (vung chày lún sân, phát mười Ka-lưi) và trở thành người lính chiến đấu vì nền độc lập, tự do thiêng liêng, để được làm người dân của một đát nước hòa bình. Ước mong của người mẹ gắn liền và hòa hợp tình yêu con với tình thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước. Ước mong ấy lớn dần lên, từ hạt gạo, hạt bắp đến tự do, từ cho con, cho đến quê hương, cho đất nước. Tình cảm và khát vọng của người mẹ ngày càng lớn rộng và hòa cùng công việc kháng chiến gian khổ, anh dũng của quê hương, đất nước. Điều thú vị là người mẹ gửi trọn niềm mong ước vào giấc mơ của đứa con: “Con mơ cho mẹ…”, mà không nói mẹ mơ điều này, điều kia. Mẹ mong con ngủ ngoan, có giấc ngủ sâu và những giấc mơ đẹp. Lặp lại cụm từ “Con mơ cho mẹ…”, lời ru càng thêm thiết tha, tin tưởng, tự hào.
Từ những hình ảnh, tấm lòng người mẹ Tà-Ôi, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, y chí chiến đấu cho độc lập tự do và khát vọng thống nhất nước nhà của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ đã khắc tạc nên bức tượng đài kì vĩ về người mẹ bình dị mà vĩ đại trong cuoovj kháng chiến oanh liệt của dân tộc. Khúc hát ru đã được phổ nhạc và góp một giai điệu đẹp vào bản trường ca bất tận về người mẹ Việt Nam.
V. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN CHỦ ĐỀ
Đề bài1 : Từ bài thơ “ Khúc hát ru những em be lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm, hãy nêu suy nghĩ của em về tình mẫu tử.
I. Mở bài:
- Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận.
II. Thân bài:
a. Giải thích:
+ Tình mẫu tử là tình ruột thịt nồng nàn giữa người mẹ và đứa con của mình.
+ Nó còn là sự hi sinh vo điều kiện của người mẹ giành cho con.
+ Là sự yêu thương tôn kính của đứa con với người mẹ của mình.
b. Vai trò của tình mẫu tử:
+ Giúp đời sống tinh thần của ta đầy đủ, phong phú và ý nghĩa.
+ Giúp ta tránh khỏi những cám dỗ trong cuộc sống.
+ Là điểm tựa tinh thần, tiếp thêm cho ta sức mạnh trước mỗi khó khăn.
+ Là niềm tin, là động lực và là mục đích cho sự nỗ lực và khát khao sống của cá nhân.
c. Để giữ gìn tình mẫu tử:
+ Biết tôn trọng và khắc ghi công ơn mẹ.
+ Biết sống sao cho xứng đáng với tình mẹ.
+ Cần biết đón nhận, cởi mở với mẹ của mình để tạo điều kiện cho sự thấu hiểu của hai người.
III. Kết bài
- Khẳng định vai trò tình mẫu tử.
Bài viết tham khảo:
Có những lúc mỏi mệt trên đường đời, có những phút yếu lòng tưởng chừng như ngã gục, có những khi lỡ lầm đường lạc lối thì không ai khác chính mẹ là người đã nâng đỡ, đã tiếp thêm sức mạnh cho tôi trên con đường lắm chông gai ấy. Tình mẫu tử quả là thiêng liêng và bất diệt, tôi càng thấm thía hơn câu thơ của Chế Lan Viên:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đười lòng mẹ vẫn theo con.”
Tình mẫu tử là tình cảm ruột thịt thiêng liêng cao qúy giữa người mẹ và đứa con. Đó là sự hi sinh vô điều kiện của người mẹ vì hạnh phúc và thành công của con cái mình, là sự tôn trọng, biết ơn và khắc cốt ghi tâm tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, vô tận. Chúng ta với sự hữu hạn của tâm hồn và lí trí không bao giờ có thể cân đong đo đếm được giá trị thiêng liêng và vai trò to lớn của người mẹ trong hành trình trưởng thành, trong hành trình sống làm người của mỗi người.
Tình mẫu tử là suối nguồn yêu thương vĩ đại nhất mà nhân loại được ban tặng. Tình mẫu tử giúp ta được sống đầy đủ và phong phú hơn với những nguồn tình cảm vốn xứng đáng được hưởng đặc quyền như nhau. Hãy thử nhìn những số phận bất hạnh ngoài kia, những người mồ côi không nơi nương tựa đang khao khát tình mẹ, khoa khát được một lần áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, được mẹ gối đầu, được sà vào vòng tay âu yếm của mẹ mà khó biết bao. Tình mẹ là điểm tựa vững chắc và mạnh mẽ giúp ta vượt qua những chông gai của cuộc đời. Mỗi khi cuộc sống khó khăn, mỗi khi thất bại tưởng chừng gục ngã, bên cạnh mẹ và những lời động viên của mẹ là liều thuốc thần tiên tiếp thêm cho ta sức mạnh để soi đường chỉ lối, giúp ta vượt lên phía trước. Tình mẹ bao la luôn dung chứa và khoan dung, độ lượng, nhân hậu vô điều kiện với những sai lầm và tội lỗi ta gặp phải trong hành trình trưởng thành làm người. Mẹ là ánh sáng trên cao soi đời con những lúc tăm tối, là ánh mặt trời bừng sáng để sưởi ấm và nạp đầy năng lượng cho những bước đi của con. Có những điều có thể mất đi, có thể thay thế nhưng tình mẫu tử thì không gì bù lấp được nếu mất đi.
Vậy nên, mới nói tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả như vậy. Lòng mẹ bao la là bến đỗ bình yên nhất trong cuộc đời mỗi người. Thế nên phật dạy: “đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”. Đó là sự hi sinh, sự cắt máu và nhỏ những giọt nước mắt chắt ra từ an ruột để nuôi ta không lớn. Ấy vậy mà vẫn có những người sẵn sàng vất bỏ đi tình mẹ thiêng liêng ấy, có khi chỉ vì những giá trị vật chất nhất thời, những danh lợi tầm thường và ti tiện. Rất phổ biến trong xã hội hiện nay là tình trạng con cái hỗ láo, đánh đạp và phụ bạc cha mẹ, bản thân sống trong giàu có, sung túc nhưng lại bỏ mặc mẹ già neo đơn, cô độc không nơi nương tựa. Hơn nữa là việc sau khi thành đạt rồi họ lại cảm thấy coi thường và xấu hổ chỉ vì mẹ mình không sang trọng và giàu có như người khác, ảnh hưởng đến thanh danh của họ nên cũng sẵn sàng gửi mẹ đến viện dưỡng lão hoặc phó mặc như một kẻ vô tình, máu lạnh. Buồn biết bao khi những giọt mồ hôi, máu và nước mắt của những dấu chân mẹ in mọi nẻo đường, những giọt mồ hôi thấm từng hạt gạo, bông lúa để tảo tần nuôi con ăn học, thành đạt mà nay lại bị đối xử như vậy.
Hãy sống như một con người chân chính đó là việc trân trọng tình mẹ thiêng liêng, tôn thờ vai trò và tấm òng thiêng liêng của mẹ. Chính tình mẫu tử là nguồn cội, gốc rễ sâu xa nhất cho sự trưởng thành và phát triển bền vững của tâm hồn ta.
VĂN BẢN: LÀNG
( Kim Lân)
ĐÔI NÉT VỀ NHÀ VĂN KIM LÂN
Kim Lân và từng trang sách đong đầy bóng dáng đồng bằng Bắc Bộ
Là một nhà văn trải qua nhiều biến cố lịch sử và cả hai giai đoạn lớn trong nền văn học nước nhà, Kim Lân là một trong số ít những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng sáng tác nào của ông cũng rất hay và sâu sắc.
Bằng giọng văn chân thực, giản dị, Kim Lân đưa cả làng quê và con người Việt Nam vào những câu chuyện của mình cùng một tâm hồn đầy tình cảm gắn bó với quê hương đất nước.
Vài nét về cuộc đời của nhà văn Kim Lân
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920 tại thôn Phù Lưu hay còn gọi là làng chợ Dầu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Tuổi thơ của Kim Lân trải qua khá nhiều gian truân, cha đẻ của ông từng có hai đời vợ, người vợ cả mất sớm, người cha đi thêm bước nữa nhưng vì người này không sinh được con nên cha ông lại lấy thêm người vợ ba.
Người vợ ba sinh được hai đứa con trong đó có Kim Lân, không chỉ mang mặc cảm con vợ lẽ nhà văn còn mang nỗi niềm con của người dân ngụ cư vì mẹ ông là dân Hải Phòng.
Họa sĩ Nguyễn Thị Hiền con gái đầu trong bảy người con của nhà văn Kim Lân sau này có kể lại:
“Sinh thời thầy tôi thường mang nhiều mặc cảm.”
Nhà văn Kim Lân cho biết, thời trẻ ông là con nhà nghèo ở trong một cái làng giàu, người lại gầy gò xấu xí nên dù mê nhiều cô gái nhưng ông không dám tỏ bày.
Say mê người đẹp nhưng vì mặc cảm ông thường lánh họ, càng mê càng lánh, càng ít dám trò chuyện, thậm chí không dám nhìn vào mắt họ.
Kim Lân hay đến chơi nhà người bạn thân là Nguyễn Văn Bảy, một người cũng có máu văn nghệ ở làng Chợ Dầu sau này trở thành người tham gia sáng lập xưởng phim truyện Việt Nam đầu tiên được phong Nghệ sĩ nhân dân.
Bấy giờ, ông Nguyễn Văn Bảy có người em gái ruột khá xinh xắn, Kim Lân thấy thích mà không dám nói nhưng nhờ có người bạn ở giữa mối cho, thế là hai người nên duyên vợ chồng dù ông theo đuổi bà phải tới gần bốn năm trời.
Vợ ông nhà cũng nghèo lắm, đồng cảnh ngộ nên hai người dễ đồng cảm với nhau rồi càng trở nên thắm thiết.
“Tôi đi kháng chiến, viết văn, còn chuyện gia đình thì phó thác cho bà. Bà làm đủ thứ nghề, từ buôn bán hàng rong với từng quả mận quả cau quả bí quả bầu tới may vá, mở hàng bán nước kiếm từng đồng từng cắc để nuôi chồng nuôi con.”
Kim Lân được đánh giá sống rất nghĩa khí với bạn bè, con gái nhà văn kể:
“Khoảng sau 1980, một lần thầy tôi từ Hà Nội vào TP.HCM gặp tôi mà không hề báo trước. Thầy nói: “Con cho thầy ít tiền và ra chợ mua cho thầy ít quần áo”. Sau đó thầy tất tả quay ra Hà Nội dù tôi cố nài nỉ thầy ở lại chơi. Cuối cùng thầy mới kể: “Thầy cần tiền và quần áo không phải cho thầy mà để giúp một người bạn đang gặp khó khăn.”
Nhà văn Kim Lân luôn nhắc tới với mọi người về thế hệ nhà văn tinh hoa đồng thời cũng là những người bạn tốt của ông như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân mà theo ông là những người từng viết hay nhất.
Từ những trang viết mộc mạc trước Cách mạng tới cây bút truyện ngắn xuất sắc
Mang trong lòng một nỗi niềm nặng nề với cuộc sống, Kim Lân tìm tới viết lách để tự giải thoát cho chính mình và từ đó ông bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp văn chương. Trong một lần trả lời báo chí về lý do dẫn đến nghề cầm bút, nhà văn chia sẻ:
“Tôi ở trong gia đình bị khinh rẻ, ngoài xã hội cũng coi thường vì tôi là con vợ ba, một người ngụ cư. Chính vì muốn đòi cho mình sự công bằng với bè bạn, với làng xóm tôi chọn cách viết. Đây là cách để chứng tỏ mình không thua gì anh em, không thua gì ai. Các anh con nhà giàu, làm việc này việc kia, được học hành đến nơi đến chốn, còn tôi thì tôi viết.”
Quê hương ông là một làng quê nổi tiếng bởi truyền thống văn hóa yêu nước, nhiệt thành với cách mạng và có nhiều người thành danh. Nhà nghèo nên thuở ấu thơ Kim Lân chỉ học đến lớp nhất rồi phải đi phụ việc cho các thợ đàn anh như đi sơn quốc, khắc bình phong để giúp gia đình kiếm sống.
Có tính hiếu kì và luôn tìm cách quan sát suy ngẫm về mọi thứ xung quanh nên ngay từ khi còn nhỏ, Kim Lân đã có vốn hiểu biết tương đối phong phú về quê hương mình.
Kim Lân bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm 1941 tới 1944, ông được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận đi cùng vẻ đẹp chân quê bình dị với những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc Bộ.
Từng trang viết của người con sinh ra từ đồng ruộng này đều thấm đượm mùi hương của lúa mới, ngai ngái mùi rơm rạ, cay xè khói bếp và nhẹ nhàng cánh cò chao nhịp.
Đặc biệt, cũng với chất liệu của đề tài làng quê Việt Nam nơi những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan tưởng chừng đã khai thác trọn vẹn nơi này song cũng trên mảnh đất xưa cũ ấy nhà văn Kim Lân cũng đã xây cho mình ngôi nhà rất riêng, rất vững giữa lòng người và thách thức với thời gian.
“Chỉ với ba truyện Vợ Nhặt, Làng, Con chó xấu xí Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt Nam.”
Tuy học vấn theo kiểu trường lớp của ông không nhiều nhưng tài năng văn học thiên phú của ông đã được khẳng định. Trên nửa thế kỷ đã trôi qua, truyện ngắn Kim Lân vẫn được giảng dạy trong nhà trường và chọn làm đề thi văn của nhiều trường Đại học trong cả nước.
Kim Lân là mẫu nhà văn nâng niu từng con chữ, ông viết kỹ lưỡng, viết từ gan ruột và không chấp nhận sự nhạt nhẽo cũng như sự giả tạo trong văn học.
Mặc dù cùng một đề tài chung với nhiều nhà văn khác, làng quê trong văn Kim Lân với các nhân vật dù nghèo hay chỉ là dân lao động thô sơ vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa.
Có lẽ ảnh hưởng từ nét hào hoa phong nhã với những thú chơi phong tục như chơi chọi gà, đánh vật hay chơi pháo của làng chợ Dầu, Phù Lưu mà hình ảnh làng quê và người nông dân trong văn học Kim Lân không u tối, bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Từ tư tưởng này, ông được dư luận chú ý khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê Kinh Bắc, các truyện Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.
Chính vì thế mà giá trị lớn nhất và cao nhất trong các tác phẩm của ông không phải giá trị hiện thực mà là giá trị nhân đạo.
Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng một chất thơ của hồn người, ánh sáng của nhân tâm toả ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động.
Tư tưởng này xuyên suốt trong các sáng tác của Kim Lân và có thể nhận thấy rõ nhất trong Vợ nhặt, một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam.
Chính nhà văn Kim Lân khi nói về tác phẩm này đã cho biết:
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.”
Sau này vẫn viết về nông thôn, Kim Lân đề cập đến sự đổi mới mặt tình cảm của người nông dân trong cách mạng và kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất nhưng hoạt động phục vụ cách mạng tuy thầm lặng, bình thường nhưng thật đáng quý trọng.
Về phương diện này, nhà thơ Trần Ninh Hồ viết:
“Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy.”
Nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám đến sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng của ông là một ngòi bút sâu lắng, tỉ mẩn cũng như luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con người, từng số phận riêng.
Tất cả những điều đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư, tình cảm con người Việt Nam của văn học hiện đại.
Hai truyện Làng và Vợ nhặt đã được Nhà xuất bản giáo dục tuyển chọn đưa vào bộ sách Nhà văn và tác phẩm dùng cho phần giảng văn của học sinh trong các trường phổ thông trong cả nước.
Đối với nhà văn Kim Lân cách mạng không chỉ mang lại sự thay đổi cuộc sống của bản thân và gia đình mà còn giúp đổi thay sự nghiệp cầm bút của ông.
Khi tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc Kim Lân được gặp và trao đổi nghề nghiệp với các nhà văn lớn như Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài.
Từ đó, cách viết của nhà văn Kim Lân bắt đầu đổi khác, như lời ông nói: Trình độ một anh nhà quê viết theo bản năng, cảm tính mới dần dần thấy được công việc thực sự của người viết văn chuyên nghiệp.
“Theo kinh nghiệm của tôi, những chuyện thật mà tôi ghi lại được thì đều nhạt nhẽo và khô cứng. Nhưng sự thật cũng có giá trị của sự thật, rất giá trị, rất cần thiết nữa. Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí đều dựa trên cái nền là sự thật. Còn những truyện khác, kể cả Làng, hầu hết là tôi bịa. Bịa cả nhân vật lẫn tình tiết. Bởi không có sự thật nào như thế cả. Nhưng cái bịa ấy là cái điều mà chính tác giả muốn nói. Và chính tác giả muốn nói nên mới sinh ra cái bịa. Gọi là bịa chứ kỳ thực chính là sáng tạo.”
Cái bịa hay sáng tạo trong tác phẩm văn học đôi khi lại trở nên thực, thậm chí rất thực hơn đời thường, đó cũng chính là một điểm mấu chốt thể hiện tài năng của nhà văn.
Hiện thực chỉ là chất liệu thô, qua lăng kính nhà văn thì hiện thực được thăng hoa như Kim Lân lý giải:
“Vì sao phải bịa? Người viết muốn nói một việc gì, một ý nghĩ gì thì chuyện đời thường hằng ngày tự thân đã có tiếng nói riêng của nó, còn tiếng nói của chính tâm linh người viết chỉ có bịa mới ra được. Nhưng như vậy không có nghĩa là nó tách rời hoàn cảnh xã hội, tách rời đời sống, mà hình như nó thực hơn. Chính vì vậy mà tôi cũng thường nói bịa lại thực hơn. Vì nó thực với chính mình trước tiên. Và kỳ lạ khi mình bịa ấy, mình viết say mê hơn nhiều. Không biết khi mình say sưa bịa ấy có phải là những giây phút thăng hoa nhất của người viết không?”
Vào năm 1958 nhà văn Kim Lân viết truyện ngắn Ông lão hàng xóm để nói về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, vốn là người trong cuộc và hiểu được những khuất tất, sai trái đằng sau vấn đề này nên ông đã quyết tâm thể hiện bằng văn học.
“Tôi viết về cái sự thật ấy nhưng khác mọi người. Người ta viết như hằn học, thù ghét cái sai lầm, còn tôi thì thể hiện sự đau lòng! Vì cái sai ấy là cái sai của Đảng mình. Tôi viết với tinh thần sửa sai chứ không hằn thù. Lúc tôi mới cho ra mắt Ông lão hàng xóm, dĩ nhiên có không ít cái nhìn giận ghét, coi mình như là một người không vững vàng, thậm chí như một kẻ bôi đen chế độ.”
Nhân dịp nói đến giới phê bình văn học, nhà văn Kim Lân còn nhìn nhận:
“Các nhà phê bình gần đây đỡ hơn các nhà phê bình thời bao cấp. Nhưng đỡ thôi, chứ thật tình mà nói, tôi thấy không phải chính các nhà phê bình, mà là các nhà văn thưởng thức được cái hay cái đẹp của văn chương một cách sâu sắc… Nhà phê bình ngày xưa quá thiên về quan điểm giai cấp, tư tưởng, lập trường phục vụ chính sách khô cứng. Nhà phê bình bây giờ hơn trước, là dám nói thẳng, nói theo lòng mình…”
Rồi ông ra vẻ trầm tư:
“Tôi nghĩ các nhà phê bình trước hết phải là người sành thưởng thức. Thưởng thức cái hay cái đẹp, cũng như không bằng lòng cái xấu cái dở. Nhà phê bình không hẳn chỉ là nhà lý luận. Nhà phê bình cũng phải có cái bản lĩnh thưởng thức rất riêng của mình thì bài phê bình viết ra mới có ý vị. Các nhà phê bình thời trước cứ đè người ta ra mà chửi, nâng người ta lên mà khen. Nghe ngóng ý kiến của người khác mà khen hay chê. Ví dụ truyện Con chó xấu xí của tôi nhé, chẳng qua tôi nói một cách thảm hại: tôi xấu xí xoàng xĩnh nhưng tôi trung thành, trung nghĩa. Chả thế mà có anh đã bảo: “Cái thằng này dại bỏ mẹ, tự ví mình là con chó xấu xí.”
Mặc dù số lượng các tác phẩm của Kim Lân không đồ sộ như bao tác giả khác nhưng dường như tất cả tâm huyết và tinh hoa ngôn từ của ông đều dồn hết vào đó. Chẳng vậy mà hai trong ba tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân đã được đưa vào giảng dạy và tất cả các truyện ngắn khác đều được độc giả đón nhận một cách say mê.
Sự nghiệp điện ảnh đầy vinh quang
Không chỉ là nhà văn sâu sắc và đa tài mà Kim Lân còn để lại trong lòng khán giả những vai diễn ấn tượng nơi làng điện ảnh, một văn nghệ sĩ được nhiều thế hệ nhớ tới.
Ông có vị trí và gây được nỗi nhớ khán giả nhiều đến mức các diễn viên chuyên nghiệp, có tiếng cũng khát khao. Cũng như viết văn, Kim Lân đóng phim rất ít nhưng vai nào cũng tạo được cảm hứng nghệ thuật tốt cho người xem.
Ngoại hình và gương mặt khắc khổ cùng diễn xuất chân thực của nhà văn Kim Lân đem đến nhiều xúc động cho khán giả trước số phận nghiệt ngã của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến.
Từ Lý Cựu trong Chị Dậu dựa theo tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố ông đã đóng rất đạt vai chức dịch trong làng, vai diễn của ông cùng nhà văn Nguyễn Tuân ở trường đoạn “việc làng ngày đất thuế” đã gây ấn tượng mạnh đối với người xem.
Nhân vật Pụ Pạng trong Vợ chồng A Phủ một nhân vật vừa hèn vừa ma quái và gây ấn tượng trong phim khiến các diễn viên chuyên nghiệp được đào tạo ở trường ra cũng nể phục rồi tới lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy đều thành vai diễn để đời.
Không ai hợp hơn và thay thế được Kim Lân, một nhân vật ốm yếu vẻ gầy gò khắc khổ, thương xót vật nuôi. Vai diễn ấy đã được Kim Lân thể hiện một cách trọn vẹn nhất là cảnh Lão Hạc dỗ con chó vàng để nó chịu bán đi, vỗ về nó ăn bữa cuối khiến triệu người rơi nước mắt.
Có lẽ sự sâu lắng, tỉ mẩn, luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con người và số phận của một Kim Lân trong văn học đã góp phần làm nên một vị thế riêng của một Kim Lân trong điện ảnh.
Những người yêu văn học vẫn thường xuyên nhớ tới ông không chỉ vì những di sản tinh thần của Kim Lân để lại mà có lẽ còn bởi chúng ta luôn có thể tìm thấy ẩn chứa trong tác phẩm, trong tư tưởng sống của ông những điều còn thiết thực, gần gũi và giá trị với chính chúng ta trong cuộc sống hôm nay.
I, KIẾN THỨC CƠ BẢN
II, Đọc- hiểu văn bản
III- LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC- HIỂU
BÀI TẬP 1.
GỢI Ý:
Câu 1:
- Nhân vật ông lão: Ông Hai, ông đang trong hoàn cảnh rất yêu làng nhưng phải xa làng, đi tản cư.
Câu 2.
- Phép điệp “ lại nghĩ”( 2 lần), “ lại muốn”( 2 lần), “nhớ làng”- “nhớ cái làng” diễn tả chân thực nỗi nhớ làng, khao khát trở về làng của ông Hai khi nghĩ về làng, cho thấy sự gắn bó và tình yêu làng của ông.
- Phép liệt kê: “ hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc”, “ đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá” làm rõ những kỉ niệm của ông Hai về những ngày tham gia kháng chiến ở làng. Mọi thứ như một thước phim quay chậm, hiện lên rõ nét trong tâm trí ông, cho thấy nỗi nhớ làng của ông thật đậm sâu, nồng nàn, tha thiết.
- Giải thích:
+ Bông phèng: Nói đùa một cách dễ dãi, không cần có ý nghĩa
+ Khướt: Mệt lắm, vất vả lắm, lâu lắm.
- So sánh hai từ “miên man và mê man”:
+ Giống nhau: Đều nói về một việc làm hoặc suy nghĩ nào đó kéo dài trong một thời gian lâu, hết sức tập trung.
+ Khác nhau: hai từ có sắc thái khác nhau: “mê man” là biểu hiện của sự say sưa, thích thú của người làm việc hoặc suy nghĩ, còn “ miên man” là một suy nghĩ hoặc việc làm kéo dài.
Câu 3.
- Đoạn trích có sử dụng hình thức ngôn ngữ độc thoại nột tâm: “Ồ, sao mà độ ấy vui thế. 9.{…}Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chua? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm.”
- Tác dụng: miêu tả chân thực, sinh động sự quan tâm thường trực tới chuyện làng của ông Hai, qua đó cho thấy tình yêu làng và tinh thần kháng chiến của ồng.
Câu 4.
- “ Ồ” là thành phần biệt lập cảm thán vì nó không nằm trong nghĩa sự việc của câu mà thể hiện cảm xúc của nhân vật.
- “ Chao ôi!” là câu cảm thán vì đứng độc lập, tách biệt với câu sau nó; kết thức bằng dấu chấm than và bộc lộ trực tiếp cảm xúc của nhân vật.
- Những từ đó là lời của người dẫn truyện thể hiện cảm xúc vui sướng của nhân vật ông Hai khi nghĩ về làng.
Câu 5. Câu văn: Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày.
Thuộc loại câu rút gọn thành phần chủ ngữ.
Câu 6.
- Ông lão cảm thấy náo nức hẳn lên vì: ông nghĩ về cái làng của ông, nghĩ về tinh thần kháng chiến của anh em, đồng chí ở làng ông…
- Ở phần sau của truyện, ông Hai không muốn về làng nữa vì: ông nghe tin làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây ; sau khi đấu tranh nội tâm ông đã đi đến quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”, ông đã đặt tình yêu nước, lòng chung thuỷ với kháng chiến, với cách mạng lên trên tình yêu làng…
=>Từ đó, ta thấy ông Hai là một người nông dân có tình cảm yêu làng, yêu nước tha thiết…
Câu 7.
- Hình thức: một đoạn văn, có sử có sử dụng câu ghép và câu có chứa thành phần phụ chú.
- Nội dung và giới hạn: Cảm nhận của em về tình cảm của nhân vật ông Hai trong đoạn văn trên
Cụ thể như sau:
**Viết câu mở đoạn: Nêu tác giả, tác phẩm, nội dung chính cần cảm nhận.
Ví dụ: Đoạn văn trên trích trong văn bản “ Làng” của nhà văn Kim Lân- nhà văn có sở trường về truyện ngắn- đã rất thành công trong việc thể hiện tâm trạng vui sướng của ông Hai khi nghĩ về làng chợ Dầu của mình.
**Viết các câu thân đoạn: Gồm các ý cơ bản sau:
- Ông/ luôn tự hào về làng của mình vì làng ông /là làng kháng chiến. Ông đang trong hoàn cảnh rất yêu làng nhưng phải xa làng, đi tản cư.
- Bằng những chi tiết nghệ thuật nhà văn Kim Lâm đã làm rõ tâm trạng của ông Hai. Phép điệp “ lại nghĩ”( 2 lần), “ lại muốn”( 2 lần), “nhớ làng”- “nhớ cái làng” diễn tả chân thực nỗi nhớ làng, khao khát trở về làng của ông Hai khi nghĩ về làng, cho thấy sự gắn bó và tình yêu làng của ông.
- Phép liệt kê: “ hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc”, “ đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá” làm rõ những kỉ niệm của ông Hai về những ngày tham gia kháng chiến ở làng.
- Mọi thứ như một thước phim quay chậm, hiện lên rõ nét trong tâm trí ông, cho thấy nỗi nhớ làng của ông thật đậm sâu, nồng nàn, tha thiết.
- Tác giả sử dụng thành phần biệt lập cảm thán “ồ”, câu cảm thán “ Chao ôi!” đồng thời những từ đó là lời của người dẫn truyện đã thể hiện rõ cảm xúc vui sướng của nhân vật ông Hai khi nghĩ về làng. Tác giả sử dụng câu rút gọn thành phần chủ ngữ: “Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày”, càng thể hiện rõ hơn tâm trạng nhớ làng của ông.
- Ông luôn nhớ ngày còn ở làng, ông cùng với anh em tham gia vào công việc kháng chiến làm cho ông lại náo nức vui sướng. Ông khao khát được trở lại những ngày đó. Đoạn trích có sử dụng hình thức ngôn ngữ độc thoại nột tâm: “Ồ, sao mà độ ấy vui thế. 9.{…}Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chua? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm.”, đã miêu tả chân thực, sinh động sự quan tâm thường trực tới chuyện làng của ông Hai, qua đó cho thấy tình yêu làng và tinh thần kháng chiến của ông Hai thật sâu sắc.
**Viết câu kết đoạn: Khẳng đinh lại vấn đề về nghệ thuật và nội dung của đoạn trích.
Ví dụ: Tóm lại, với việc sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ, sử dụng câu cảm, thành phần cảm thán,…đoạn văn đã diễn tả sâu sắc tình yêu làng của ông Hai trong hoàn cảnh phải xa làng đi tản cư.
Thành phần phụ chú: nhà văn có sở trường về truyện ngắn
Câu gép: - Ông/ luôn tự hào về làng của mình vì /là làng kháng chiến.
BÀI TẬP 2
Gợi ý:
Câu 1: Đoạn trích trên thuộc văn bản “ Làng” của tác giả Kim Lân
Câu 2:
* Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948.
* Ý nghĩa nhan đề:
- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng Chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là Làng Chợ Dầu”. Nếu lấy tên tác phẩm là “ Làng Chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một làng cụ thể, ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng Chợ Dầu ấy. Như vây, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát.
- Tac giả đã sử dụng một danh từ chung là “ Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân VN yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.
Câu 3: Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây
+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng tập tề theo giặc
+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai
Ý nghĩa của tình huống chuyện
+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai
+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống chuyện đã tạo nên một cái thắt núi cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm
Câu 4:Lời dẫn trực tiếp:
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây...” dấu hiệu để trong dấu ngoặc kép.
Câu 5. Đoạn văn trên chủ yếu sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Nó diễn tả xung đột nội tâm sâu sắc của nhân vật ông Hai khi bị bà chủ nhà đánh tiếng đuổi đi.
Câu 6.Tâm trạng của ông Hai được thể hiện qua câu "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù": Tình yêu làng của ông gắn với tình yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tâm trạng của ông trong câu văn trên có vẻ mâu thuẫn, khó hiểu nhưng thật ra nó biểu hiện sự thống nhất của một tình cảm yêu làng, yêu nước sâu sắc. Đây là bước chuyển biến trong nhận thức, tình cảm của ông Hai...
Câu 7. Câu chuyện được kể ở ngôi thứ mấy? Tác dụng của ngôi kể đó?
- Kể ngôi thứ 3, có tác dụng người kể có điều kiện bộc lộ những suy nghĩ, dánh giá về các sự việc và nhân vật trong truyện.
Câu 8. Tác giả đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật ông Hai, vì vậy ở nhiều chỗ, ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái giọng điệu. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong việc thể hiện diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai.
BÀI TẬP 3.
Gợi ý:
Câu 1:
Yếu tố độc thoại nội tâm: “Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế?”.
Tác dụng: + Miêu tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùa ông Hai khi sợ mụ chủ nhà bàn tán đến chuyện làng Dầu Việt gian.
+ Tâm trạng bất an, cuộc sống căng thẳng vì lo sợ …
Câu 2: Ông Hai trằn trọc không ngủ được vì:
*Chủ quan:
Ông luôn yêu làng, tự hào về làng Chợ Dầu.
Ông đang đau khổ, dằn vặt và suy nghĩ về tin đồn làng Dầu Việt gian.
Lo lắng không biết tương lai sẽ ra sao, sẽ ở đâu nếu bị đuổi khỏi nơi tản cư.
* Khách quan:
Khi được giác ngộ, tình yêu nước, yêu cách mạng của người dân rất mạnh mẽ,rộng lớn, họ luôn căm ghét những người phản bội cách mạng.
Đi đâu cũng chỉ thấy mọi người bàn tán về chuyện làng Dầu -> Ông Hai càng lo lắng, sợ hãi.
Mụ chủ nhà hay soi mói, mỉa mai
Câu 3:
Câu nghi vấn trong đoạn trích: Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế?
Tác dụng: Miêu tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùa ông Hai khi sợ mụ chủ nhà bàn tán đến chuyện làng Dầu Việt gian.
Cách sử dụng câu linh hoạt và khéo léo của tác giả.
Câu 4:
Từ tượng hình: trằn trọc
Từ tượng thanh: léo xéo, lào xào, thình thịch.
Tác dụng: Miêu tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùa ông Hai khi sợ mụ chủ nhà bàn tán đến chuyện làng Dầu Việt gian.
Cách sử dụng từ tinh tế và khéo léo của tác giả.
Câu 5: Tâm trạng lo lắng, buồn bã sau khi nghe tin làng mình theo giặc và ông phấp phỏng, âu lo nghe ngóng mụ chủ nhà, sợ bị đuổi đi.
Câu 6: Nếu lược bỏ các dấu ba chấm và câu hỏi trong đoạn văn trên thì cách miêu tả nhân vật vẫn không thay đổi: tâm trạng nhân vật vẫn được miêu tả qua cử chỉ, hành động và độc thoại nội tâm. Nhưng giá trị biểu cảm của đoạn văn sẽ ảnh hưởng: tâm trạng lo lắng buồn bã, sợ hãi và nghe ngóng của ông Hai không rõ nữa, tốc độ phát triển nhân vật cũng nhanh hơn.
Câu 7: Bốn câu thơ có dùng câu hỏi diễn tả tâm trạng nhân vật trong Truyện Kiều là: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu?
IV. LUYỆN TẬP ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Đề 1: Tại sao nhà văn Kim Lân lại đặt tên tác phẩm là “ Làng” mà không phải là “ Làng Dầu”?
- Truyện ngắn Làng được Kim Lân viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948. Nhan đề của tác phẩm được nhà văn chọn lọc và thể hiện dụng ý nghệ thuật.
- Làng Chợ Dầu là ngôi làng nơi ông Hai sinh sống, Nếu tác giả đặt tên tác phẩm là “ Làng Dầu”, nhan đề này sẽ thấy được tình yêu sâu nặng của ông Hai dành cho làng mình. Nhưng đây là một danh từ riêng nên tác phẩm có ý nghĩa khái quát không cao, mới chỉ dừng lại ở những con người cụ thể trên một làng quê cụ thể.
- Tác giả đã chọn một danh từ chung vốn chỉ một đơn vị hành chính ở nông thôn : “ Làng” đặt làm nhan đề cho tác phẩm. Nhan đề đó giúp cho người đọc không chỉ hiểu được tình yêu của ông Hai dành cho ngôi làng của mình mà còn thấy được ý nghĩa khái quát; tình cảm của ông Hai chính là tình yêu làng, yêu quê nước của người nông dân trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Và tình cảm đó ta có thể gặp ở bất cứ ngôi làng nào trên đất nước Việt Nam.
Câu 2: Nhan đề của truyện là "Làng" sao không phải là "Làng Dầu" chẳng hạn. Từ nhan đề của truyện, em hiểu gì về chủ đề của tác phẩm ?
Gợi ý trả lời
a. Nhan đề của truyện là "Làng" không phải là “Làng Dầu” vì nếu là “Làng Dầu” thì vấn đề mà tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng. Dụng ý của tác giả muốn nói tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong mọi người nông dân. Bởi thế "làng" là nhan đề hợp lý với dụng ý của tác giả. Qua đó ta hiểu chủ đề của truyện: ca ngợi tình yêu làng quê tha thiết của những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, nhan đề "làng" vừa nói lên được cái riêng là tình yêu làng của ông Hai, đồng thời qua cái riêng ấy, cũng nói lên được cái chung: tấm lòng của những người dân quê đất Việt.
Câu 3: Trong "Làng", Kim Lân có kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị giặc đốt, đốt nhẵn. Chi tiết này dường như vô lý. Ý kiến của em như thế nào? Ghi lại vắn tắt.
Gợi ý trả lời
Trong "Làng", chi tiết kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị đốt nhẵn… Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn. Hơn thế nó còn gắn với bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà không xót xa đau đớn ? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe" đó là biểu hiện của tâm trạng sung sướng, sung sướng đến tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ không bình thường? Không ! Đặt ông Hai trong hoàn cảnh của "Làng", làng Dầu đang bị hai tiếng việt gian theo tây thì ông Hai vui sướng sao được vì nhà bị tây đốt là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa lắm chứ. Nhưng dù thế nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song danh dự của làng đâu dễ lấy lại? Ông đã quên ??? sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê, đất nước, thế đấy, niềm vui, nỗi buồn của ông Hai luôn gắn liền với vận mệnh của Làng Dỗu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng, hoà quện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.
Đề 4: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân.
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác văn bản.
- Nêu vấn đề nghị luận.
Tham khảo:
- Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Ông am hiểu sâu sắc về đời sống nông dân, nông thôn Việt Nam.
- Truyện ngắn Làng viết vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm. Một người nông dân phải rời làng đi tản cư để lại những ấn tượng sâu sắc bởi tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến, trung kiên với cách mạng.
2. Thân bài: Cần đi phân tích nhân vật ông Hai qua các luận điểm sau:
Luận điểm 1: Ông Hai là một nông dân có tình yêu làng sâu sắc đặc biệt với cái làng Chợ Dầu nơi chôn rau cắt rốn của ông.
Làng Chợ Dầu là nơi tổ tiên ông Hai sinh cơ lập nghiệp, nơi chôn rau cắt rốn của ông. Biết bao tình cảm đã gắn bó với ông với dân làng, với cảnh vật, với mảnh đất quê hương.
- Trước Cách mạng, với tâm lí nông dân, mang tính địa phương, ông thường tự hào làng mình giàu đẹp to lớn, thường khoe cái “ sinh phần của viên Tổng đốc người làng”. Ông yêu tất cả những gì thuộc làng ông: “ những nhà ngói san sát, những đường làng lát đá xanh trời mưa gió bùn không dính đến gót chân”…
- Kháng chiến chống Pháp nổ ra, tình yêu làng của ông Hai có sự chuyển biến:
+ Ông thấy căm thù cái “ sinh phần” của viên Tổng đốc vì nó là tàn tích của phong kiến, vì phục địch xây nó mà ông và người làng phải khổ.
+ Tự hào về làng, ông tự hào về phong trào cách mạng. tinh thần kháng chiến sôi nổi của làng, những buổi tập quân sự, những buổi đảo đường, đắp ụ, xẻ giao thông hào … tự hào luôn cả “ cái phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi, cái chòi phát thành cao”.
Trong con mắt ông Hai, cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào. Cuộc đời, số phận ông Hai đã thật sự gắn bó với những buồn vui của làng.
Luận điểm 2: Tình cảm yêu làng của ông Hai hòa quyện, thống nhất với tình yêu đất nước, yêu kháng chiến, cách mạng.
* Khi ở khu tản cư:
- Ông Hai tản cư đến vùng tự do theo chính sách của Cụ Hồ: tản cư là yêu nước.
- Khi mới lên khu tản cư, chưa quen người, quen việc nên ông hay nhớ về cái làng của mình “ Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”.
- Khi được nói chuyện về làng. Ông vui náo nức là thường: “ Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông thường ra phòng thông tin để nắm tin tức kháng chiến: trẻ em cắm cở trên Tháp Rùa Hà Nội, anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã hi sinh, đội nữ dân quân du kích Trung Trắc bắt sống tên quan Hai Pháp…
Khi biết những tin đó. Ông vui như người trong cuộc lập được chiến công. Điều đó cho thấy ở khu tản cư nhưng ông luôn hướng lòng về kháng chiến, lấy niềm vui kháng chiến để vơi bớt nỗi nhớ làng. Tình yêu làng, yêu nước, gắn bó với kháng chiến đã hòa quyện.
* Khi nghe tin làng Dầu là làng Việt gian theo Tây:
- Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tể mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
- Khi nghe tin:
+ Ông bàng hoàng, sững sờ “ Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được”…
+ Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn chưa tin mà hỏi lại. Giọng lạc hẳn đi. Lời khẳng định của người đàn bà “ Việt gian từ thẳng chủ tịch mà đi cơ” làm ông không còn nói gì được nữa, vớ vớ đứng làng ra chỗ khác, rồi đi thẳng.
- Trên đường về : trong tâm lí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó trở thành nỗi ám ảnh day dứt. Ông hổ thẹn, nhục nhã, “ cúi gằm mặt xuống mà đi”.
- Về đến nhà: Ông “ nằm vật ra giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “ nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủy đấy ư?”.
- Tối đến khi bà Hai trở về : gia đình ông Hai bao trùm không khí căng thẳng.
Chỉ bằng một đoạn văn ngắn nhà văn đã diễn tả nhiều tâm trạng đau đớn, vò xé trong lòng ông Hai. Phải là một người có tình yêu làng sâu nặng, tha thiết ông Hai mới có những tâm trạng như vậy.
* Những ngày sau đó:
- Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài: “ một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt Gian, diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến tháng sự sợ hãi thường xuyên trong ông Haio cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
- Rồi tin này ai cũng biết: mụ chủ nhà đuổi khéo nhà ông đi, người làng Dầu ở đây cũng bị đuổi như đuổi hùi. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của làng “ Việt gian”, cũng không thể quay về làng, “ Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”, tức ;à “ bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ” Ông Hai đã bị đẩy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mỗi mâu thuẫn nội tâm diễn ra gay gắt giữa về làng hay ở lại.
- Ông dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
- Ông Hai nói chuyện với con trai để giãi bày nỗi lòng mình:
+ Ông Hai hỏi con: “ Thế nhà con ở đâu?”, “ Ùng hộ Cụ Hồ con nhỉ?”.
+ Đứa con trai út trả lời : “ Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
+ Ông tự nhủ: “ Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”, “ Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai…”
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ và lời tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng mình, ta thấy rõ ở ông Hai tình yêu sâu nặng với cái làng Chợ Dầu của ông và tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ. Tỉnh cảm ấy là sâu nặng, bền vững, thiêng liêng.
* Khi nghe tin cải chính:
- Ông chủ tịch làng Chợ Dầu lên cải chính tin: làng ông vẫn là làng kháng chiến, làng bị giặc tàn phá vì không theo Tây, bằng chứng là: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”.
- Ông Hai lật đật đi khoe với tất cả mọi người tin cái chính, lại vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông.
Niềm vui mừng kì lạ thể hiện một cách đau xót, cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Nhà bị giặc đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng chứng về lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến của ông. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những những người nông dân của nhân dân ta thời kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc, nên họ sẵn sàng hy sinh tất cả tính mạng và tài sản.
Luận điểm 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Xây dựng nhân vật ông Hai là nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng; miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến tâm lí phức tạp: bàng hoàng, đau đớn, căng thẳng, tuyệt vọng, sung sướng …; ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữ và thể hiện cá tính.
TÀI LIỆU ÔN TẬP NGỮ VĂN 9, LUYỆN THI VÀO 10
CHUYÊN ĐỀ 1:
VĂN BẢN: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
CHUYÊN ĐỀ 1:
VĂN BẢN: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
I) KIẾN THỨC CƠ BẢN
1, Tác giả | – Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. – Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. – Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời. |
2,Tác phẩm | a. “Truyền kì mạn lục”: – Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền. – Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” ( áng văn hay ngàn đời ). – Gồm 20 truyện, đề tài phong phú. – Nhân vật: + Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên bình , hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất. + Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh cao. b. Văn bản: – “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”. – So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn. 3. Bố cục: 3 phần: – Phần 1: Từ đầu đến…”lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”:Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương. – Phần 2: Tiếp đến …”nhưng việc trót đã qua rồi!” : Nỗi oan của Vũ Nương. – Phần 3: Còn lại : Vũ Nương được giải oan. 4. Tóm tắt văn bản: “Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ.Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng. 5. Ngôi kể: Truyện được kể theo ngôi thứ 3 -Tác dụng: + Tạo tính chân thực + Không gian truyện được mở rộng + Người kể dễ dàng đan xen những suy nghĩ, bình luận làm câu chuyện thêm sinh động. 6. Phương thức biểu đạt: Tự sự có sự kết hợp yếu tố miêu tả. |
II) Đọc – hiểu văn bản:
Dàn ý :
- Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI.
Với tập truyện ngắn “Truyền kì mạn lục” ông thực sự đã mang đến cho nền
- văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị
“Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập sáng tác này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.
Vẻ đẹp truyền thống và số phận oan nghiệt của người phụ nữ:
Vẻ đẹp truyền thống:Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.
Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:
Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn“giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!
Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!
Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
-> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.....cách biệt ba năm giữ gìn một tiết.....” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương.
Rồi những năm tháng sống ở chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con. Vừa gặp lại Phan lang, nghe Lang kể về tình cảnh gia đình nàng đã ứa nước mắt xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để nói lời đa tạ tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ nữ ấy, không bợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.
Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng, một người mẹ hiền đầy tình yêu thương con.
Trong ba năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".
Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha. => Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.
Số phận oan nghiệt:
Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ nữ, người vợ, người mẹ, người con, ở cương vị nào nàng cũng làm rất hoàn hảo. Nàng đúng là người phụ nữ lí tưởng của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.Ngày Trương Sinh trở vể cũng là lúc bi kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng, thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn thua gì”. Nàng đau khổ đến xé lòng “nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, “khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa…” Bi kịch dâng tràn đến đỉnh điểm, Vũ Nương phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của chính mình! Còn gì đớn đau, còn gì bi thương hơn thế???...
Thật ra, nỗi bất hạnh của Vũ Nương không phải bắt đầu ở tấn bi kịch này. Nỗi bất hạnh đến với Vũ Nương từ khi nàng chấp nhận cuộc hôn nhân với Trương Sinh. Từ đầu, ta đã nhận ra đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng. Vũ Nương vốn “ con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”, còn Trương Sinh muốn lấy được Vũ Nương chỉ cần “ nói với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ”. Sự cách bức ấy cộng thêm cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ nam quyền phong kiến đã khiến cho Trương Sinh tự cho mình cái quyền đánh đuổi vợ không cần có chứng cứ rõ ràng. Trong những ngày làm dâu nhà họ Trương, Vũ Nương cũng đâu hạnh phúc hơn gì! Nàng phải luôn chịu đựng sự xét nét “ phòng ngừa quá sức” của chồng.
Lấy chồng không được bao lâu thì niềm vui “nghi gia nghi thất” của Vũ Nương bị mất đi bởi chồng “có tên trong số lính đi vào loại đầu”. Nàng thiếu phụ tuổi xuân còn phơi phới đã phải gánh chịu nỗi buồn “chiếc bóng năm canh” của đời người chinh phụ.
Mặt biếng tô miệng càng biếng nói Sớm lại chiều dòi dõi nương song Nương song luống ngẩn ngơ lòng Vắng chàng điểm phấn tô hồng với ai
(Chinh phụ ngâm khúc)
Rồi gánh nặng gia đình chồng cộng thêm noi cô đơn vì phòng không gối chiếc đã bào mòn tuổi xuân của Vũ Nương. Ta có thể cảm nhận được nỗi vất vả của nàng qua những vần điệu ca dao cổ:
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”
Hình như số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa đều có chung nỗi bất hạnh như thế!
Ở phần sau của câu chuyện, ta thấy Vũ Nương được sống sung sướng dưới Thủy cung, được kề cận với Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải nhưng không vì thế mà ta thấy nàng hạnh phúc. Và làm sao có thể hưởng thụ hạnh phúc cho được khi quyền làm mẹ,làm vợ của nàng vĩnh viễn không còn? Bi kịch vẫn đeo bám theo Vũ Nương vào tận chốn Thủycung huyền bí. Người đọc càng cảm thấy xót xa hơn khi nghe câu nói của nàng ở cuối truyện: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”. Âm dương đã cách trở đôi đường. Hạnh phúc bị tan vỡ khó lòng hàn gắn lại được. Kết thúc câu chuyện bi đát này là một khoảng vắng mênh mông, mờ mịt… Đằng sau yếu tố hoang đường, câu chuyện về nàng Vũ Nương mang đậm tính hiện thực và thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
Giá trị hiện thực và nhân đạo:
Giá trị hiện thực:Về giá trị hiện thực,tác phẩm đã đề cập tới số phận bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vốn là người con gái xuất thân từ tầng lớp bình dân thuỳ mị, nết na ; tư dung tốt đẹp. Khi chồng đi lính. Vũ Nương một mình vừa chăm sóc, thuốc thang ma chay cho mẹ chồng vừa nuôi con, đảm đang, tận tình, chu đáo. Để rồi khi chàng Trương trở về, chỉ vì câu nói ngây thơ của bé Đản mà trương Sinh đã nghi ngờ lòng thuỷ chung của vợ. Từ chỗ nói bóng gió xa xô i, rồi mắng chửi, hắt hủi và cuối cùng là đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà, Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng quẫn và bế tắc, phải chọn cái chết để tự minh oan cho mình.
Ngoài ra, truyện còn phản ánh hiện thực về xã hội phong kiến Việt Nam với những biểu hiện bất công vô lí. Đó là một xã hội dung túng cho quan niệm trọng nam khinh nữ, để cho Trương Sinh – một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục nết na.
+ Xét trong quan hệ gia đình, thái độ và hành động của Trương Sinh chỉ là sự ghen tuông mù quáng, thiếu căn cứ (chỉ dựa vào câu nói vô tình của đứa con ba tuổi, bỏ ngoài tai mọi lời thanh minh của vợ và lời can ngăn của hàng xóm).
+ Nhưng xét trong quan hệ xã hội : hành động ghen tuông của Trương Sinh không phải là một trạng thái tâm lí bột phát trong cơn nóng giận bất thường mà là hệ quả của một loại tính cách – sản phẩm của xã hội đương thời.
Tuy nhiên, nếu Trương Sinh là thủ phạm trực tiếp gây nên cái chết của Vũ Nương thì nguyên nhân sâu xa là do chính xã hội phong kiến bất công – xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ cho giá trị nhân phẩm của mình, và lời buộc tội, gỡ tội cho người phụ nữ bất hạnh ấy lại phụ thuộc vào những câu nói ngây thơ của đứa trẻ ba tuổi (lời bé Đản). Đó là chưa kể tới một nguyên nhân khác nữa : do chiến tranh phong kiến – dù không được miêu tả trực tiếp, nhưng cuộc chiến tranh ấy đã tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tới số phận từng nhân vật trong tác phẩm (người mẹ sầu nhớ con mà chết; Vũ Nương và Trương Sinh phải sống cảnh chia lìa; bé Đản sinh ra đã thiếu thốn tình cảm của người cha và khi cha trở về thì mất mẹ ). Đây là một câu chuyện diễn ra đầu thế kỉ XV (cuộc chiến tranh xảy ra thời nhà Hồ) được truyền tụng trong dân gian, nhưng phải chăng qua đó, tác phẩm còn ngầm phê phán cuộc nội chiến đẫm máu trong xã hội đương thời (thế kỉ XVI).
Giá trị nhân đạo:
Nhận định khái quát về tư tưởng nhân đạo trong văn học:Văn học là một hoạt động sáng tạo của con người nhằm khám phá và khẳng định những giá trị của đời sống, nhằm vươn tới những điều tốt đẹp và hoàn thiện của con người và cuộc đời. Tư tưởng nhân đạo thường là một tư tưởng lớn thấm nhuần trong những nền văn học tiến bộ, trong những tác phẩm văn học ưu tú.
Nói tới tư tưởng nhân đạo là nói tới thái độ của nhà văn trong cách khám phá đời sống và con người . Nhà văn đã nhìn thấy những bất công, nghịch cảnh, nghịch lí đối với con người và thủ phạm của nó; nhà văn thể hiện sự quan tâm, niềm cảm thương sâu sắc đối với những con người phải chịu áp bức,khổ đau, thiệt thòi; thể hiện thái độ căm ghét, lên án, tố cáo những cái xấu, cái ác. Quan trọng hơn, nhà văn khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của con người, thể hiện niềm tin vào cái đẹp, vào công lí, hướng tới những giải pháp đem lại hạnh phúc cho con người…
Giá trị nhân đạo thường không tách rời giá trị hiện thực( phải khổ người ta mới thương; phải bất công, ngang trái người ta mới lên án, tố cáo) và luôn được làm sáng rõ, thuyết phục trong những tìm tòi, sáng tạo về nghệ thuật.
Giá trị nhân đạo trong “Chuyện người con gái Nam Xương”:
Trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.Thể hiện niềm tin vào điều tốt đẹp: Đề cao giá trị nhân nghĩa “ở hiền gặp lành” qua kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân.
Qua số phận nhiều thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến có nhiều bất công ( Bi kịch của Vũ Nương ):
+ Cất lên tiếng nói tố cáo xã hội đã chà đạp lên quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người.
+ Thể hiện niềm cảm thông, thương xót cho số phận oan trái.
Thành công về nghệ thuật:
Xây dựng được cốt truyện có phạm vi khái quát được hiện thực xã hội và đời sống ( chuyện Trương Sinh đi lính, cảnh ngộ neo đơn của người phụ trong thời loạn lạc, cuộc hôn nhân sắp đặt, thói gia trưởng của người đàn ông phong kiến…); tạo được tình huống đơn giản mà đặc sắc làm nổi bật được tính chất éo le, bi kịch trong cuộc đời người phụ nữ thời xưa; làm rõ được cái trớ trêu với hạnh phúc của con người.Miêu tả tính cách nhân vật một cách sắc sảo, già dặn. Nhân vật Vũ Nương hiện lên rõ nét cả về đức tính và thân phận. Việc nàng trỏ cái cái bóng nói là chồng để dỗ con, cái chết của nàng và việc nàng trở về trên sông… tuy không nhiều chi tiết nhưng đủ gây ấn tượng về một Vũ Nương chung thủy, tiết liệt nhưng vị tha… Nhân vật Trương Sinh cũng được khắc họa khá điển hình với tính ghen tuông và gia trưởng đến mức hồ đồ…
Việc vận dụng linh hoạt các loại hình ngôn ngữ: đối thoại, độc thoại cùng sự kết hợp nhuần nguyễn giữa yếu tố thực và kỳ ảo cũng góp phần làm nên thành công cho tác phẩm, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
III. LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1.
Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“ Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, tính tình đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải bất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con hào phú nhưng không có học, nên phải ghi trong sổ lính vào loại đầu”.
Câu 1: Cho biết tên văn bản, tác giả có chứa đoạn trích trên?
Câu 2: Đoạn trích trên được viết theo phương thức biểu đạt nào?
Câu 3: Nội dung tổng quát của đoạn trích trên là gì?
Câu 4: Giải thích cụm từ “tư dung tốt đẹp” và từ “dung hạnh” được sử dụng trong hai câu đầu đoạn trích.
Câu 5: Em hãy nêu ra phương thức liên kết trong đoạn văn trên?
Câu 6: Tìm thành phần biệt lập được sử dụng trong đoạn trích trên?
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Văn bản: Chuyện người con gái Nam Xương- Nguyễn DữCâu 2: Đoạn trích trên được viết theo phương thức tự sự.
Câu 3: Nội dung chính: giới thiệu về nhân vật Vũ Nương - người con gái đẹp người đẹp nết được Trương Sinh, con nhà hào phú, cưới về làm vợ.
Câu 4: Tư dung tốt đẹp: nhan sắc và dáng vẻ tốt đẹp.
- Dung hạnh: chỉ nhan sắc và đức hạnh.
Ý nói Vũ Nương là người con gái không chỉ đẹp về ngoại hình, dung nhan mà còn đức hạnh.
Câu 5: Phương thức liên kết trong đoạn văn trên: phép nối, phép lặp, phép thế.
- Phép nối: từ ngữ để nối “song”.
- Phép thế: từ “nàng”, “vợ” thế cho từ “Vũ Nương”.
- Phép lặp: từ “Trương Sinh”.
Câu 6: Thành phần biệt lập: thành phần phụ chú (người con gái quê ở Nam Xương), nhằm bổ sung thông tin về quê quán cho nhân vật được
Bài tập2 :Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa.
( Chuyện người con gái Nam Xương- Nguyễn Dữ)
Câu 1: Vũ Nương nói câu nói trên trong hoàn cảnh nào?
Câu 2: Cụm từ “thú vui nghi gia nghi thất” có nghĩa là gì?
Câu 3: Nêu hàm ý của câu “Nay đã bình rơi trâm gãy… Vọng Phu kia nữa.”
Câu 4: Chỉ ra phép tu từ được sử dụng trong đoạn văn trên, nêu tác dụng?
Câu 5: Viết đoạn văn quy nạp (khoảng 10 câu - 12 câu) có sử dụng phép lặp và một câu có thành phần biệt lập, cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong cả 2 đoạn trích trên.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Vũ Nương nói câu trên khi bị chồng nghi oan nàng hai lòng, không chung thủy.Câu 2: Thú vui nghi gia nghi thất: ý nói nên cửa nên nhà, thành vợ thành chồng, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình.
Câu 3: Vũ Nương đau khổ tới tột cùng vì hạnh phúc lứa đôi tan vỡ, ngay cả việc chờ đợi chồng, trông ngóng chồng như trước kia cũng không thể. Vũ Nương thất vọng khi bị Trương Sinh ruồng bỏ, tình vợ chồng gắn bó bấy lâu tan vỡ.
Câu 4: Trong câu nói của Vũ Nương có nhiều hình ảnh mang tính ẩn dụ:
+ Bình gãy trâm tan.
+ Sen rũ trong ao.
+ Liễu tàn trước gió.
+ Kêu xuân cái én lìa đàn.
+ Nước thẳm buồm xa.
- Chọn phân tích hình ảnh ẩn dụ “trâm gãy bình tan” hình ảnh của sự chia lìa, tan vỡ, mượn hình ảnh trâm gãy, bình tan để nói về hiện trạng tình vợ chồng của Vũ Nương nay đã tan vỡ.
Câu 5:
Vũ Nương, người con gái đức hạnh, luôn giữ gìn khuôn phép dù Trương Sinh có đa nghi và phòng ngừa quá sức thì gia đình vẫn chưa bao giờ xảy ra tranh chấp, bất hòa. Khi chiến tranh nổ ra, chồng nàng phải ra trận, Vũ Nương tiễn chồng ra trận vẫn ân cần dặn dò chồng những lời ân tình, mong ngày về chồng mang theo hai chữ bình an. Ở nhà, nàng một mực giữ tiết, chăm sóc chu toàn gia đình, những mong sớm có ngày đoàn tụ với chồng. Nào đâu, sóng gió ập tới, lời nói ngây thơ của đứa con bé bỏng đã khiến tính đa nghi của chồng nàng nổi dậy. Bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, nàng nói tới thân phận của mình và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng nhưng mối nghi ngờ ở Trương Sinh vẫn khôn nguôi. Không còn lại gì, lòng nàng dâng trào nỗi thất vọng tột cùng, nỗi đau đớn ê chề bởi hạnh phúc gia đình không có cách nào hàn gắn nổi. Nỗi oan khuất trời không thấu, khiến mọi sự chịu đựng, hy sinh trước đó đều vô nghĩa. Nàng giải thích trong sự bất lực và tuyệt vọng đắng cay trước sự đối xử nhẫn tâm của chồng.
Bài tập 3.Đọc kĩ phần văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“ Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt mà biến đi mất.”
( Theo sách Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2018)
Câu 1 ( 0,5 điểm) Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Do ai sáng tác?
Câu 2 ( 0,5 điểm) Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên và chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫn gián tiếp.
Câu 3 ( 0,5 điểm) Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người như thế nào?
Câu 4 ( 1,5 điểm) Có ý kiến cho rằng nếu nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc với chồng con thì kết truyện sẽ trọn vẹn hơn. Nêu suy nghĩ của em về vấn đề này (Nêu ngắn gọn không phân tích)
Gợi ý:
1. Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”.
Tác giả: Nguyễn Dữ.
2.
- Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa."
- Chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫn gián tiếp:
Chàng vội gọi, nàng vẫn dứng giữa dòng mà nói vọng vào rằng nàng cảm ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết không bỏ. Nàng đa tạ tình chàng nhưng nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa".
3. Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người
- Vũ Nương là người sống nặng nghĩa nặng tình, luôn biết ơn người đã có công giúp mình, sống có trước có sau(với Linh Phi)
- Nàng cũng là người bao dung nhận hậu (hiểu tấm lòng, ghi nhận sự ân hận của Trương Sinh)
=> Đó là một người phụ nữ tốt đẹp đáng được trân trọng, ngợi ca
4.
- Về ý kiến được nêu trong đề: Để Vũ Nương trở lại trần gian sông hạnh phúc bên chồng con là cách kết thúc quen thuộc trong truyện dân gian thể hiện mong ước ở hiền gặp lành, người tốt được đáp dền xứng đáng. ....
-> Cách kết thúc đó cũng có thể chấp nhận được. vì không trái với tinh thần truyện.
- Tuy nhiên, cách kết thúc câu chuyện của Nguyễn Dữ mang lại những ý nghĩa sâu xa hơn:
+ Kết thúc đó phần nào vẫn thể hiện được quan niệm của người xưa: người tốt đẹp như Vũ Nương đã được trở về trần gian để giải oan, khẳng định sự trong sạch, thủy chung.
+ Tính bi kịch của truyện : Khi xã hội phong kiến còn tồn tại bao bất công ngang trái, chiến tranh phi nghĩa vẫn còn Vũ Nương có trở lại thì hạnh phúc của nàng cũng khó bền lâu. Xã hội đó không cho những người như Vũ Nương cơ hội hạnh phúc.
+ Đồng thời thể hiện niềm thương cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa
( Chấp nhận cách diễn đạt linh hoạt của học sinh chỉ cần đảm bảo ý chính
Bài tập 4.Câu hỏi: Theo em, những lí do nào đã dẫn đến bi kịch oan khuất mà VũNương phải chịu?
=> Gợi ý:
– Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hết là lời nói ngây thơ của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hắt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ. (Trực tiếp)
– Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bản tính anh ta vốn vậy và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả một chế độ nắm quyền trọng nam khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phảingẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực làthượng đế có thể “nặn” ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. (Gián tiếp)
– Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên.(Gián tiếp)
– Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh – Mạc, Lê – Trịnh kéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tốcáo của tác phẩm
Bài tập 5. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:
a. Cách kể chuyện:
– Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.
– Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.
b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:
– Bé Đản ngây thơ
– Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.
– Vũ Nương yêu thương chồng con.
c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc của người phụ nữ vốn đã hết sức mong manh. Hãy viết đoạn văn nêu ý nghĩa của chi tiết “cái bóng”?
Tham khảo đoạn văn sau:
Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, chi tiết cái bóng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cách kể chuyện(1). “Cái bóng” có ý nghĩa thắt nút và mở nút câu chuyện (2). Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng tình cảm của người cha, nên hàng đêm Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha nó(3). “Cái bóng” đã nói lên tình yêu sâu nặng mà nàng dành chồng, bởi nàng coi mình là hình còn chồng là bóng, gắn bó không rời dù xa vời cách trở! (4). “Cái bóng” còn là tấm lòng của người mẹ, nhắc nhở con về người cha nó chưa từng gặp mặt(5). Ngờ đâu, lòng thủy chung và sự hi sinh âm thầm của nàng lại phải trả giá bằng cái chết bi thảm(6). Bé Đản mới ba tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp nên đã tin là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng nín thít và không bao giờ bế nó nên khi Trương Sinh hỏi đã trả lời: “Thế ông cũng là cha tôi ư?”(7). Lời nói của bé Đản về người cha khác (chính là cái bóng) đã làm nảy sinh sự nghi ngờ vợ không chung thủy, nảy sinh thái độ ghen tuông của Trương Sinh và chàng lấy đó làm bằng chứng để về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương đi, đẩy nàng đến cái chết đầy oan ức(8). Ngòi bút nhà văn xót xa đau đớn, thể hiện sâu sắc trái tim nhân đạo của ông(9). Chung với tấm lòng dân gian, Nguyễn Dữ đau cùng nàng Vũ Nương tội nghiệp, bất hạnh: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”….”(10). Bao nhiêu là đau đớn trong lời kêu than của Vũ Nương!(11).“Cái bóng” cũng là chi tiết mở nút câu chuyện(12). Chàng Trương sau này hiểu ra nỗi oan của vợ cũng chính là nhờ cái bóng của mình trên tường(13). Bao nhiêu nhiêu nghi ngờ, oan ức của Vũ Nương đều được hóa giải nhờ “cái bóng”(14). Chính cách thắt, mở nút câu chuyện bằng chi tiết “cái bóng” đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức; giá trị tố cáo xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc, càng thêm sâu sắc hơn(15).
Bài tập 6. Đọc kĩ phần văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳngthể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt mà biến đi mất.
(Theo sách Ngữ văn 9, tập 1, trang 48, NXB Giáo dục, 2014)
1. Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm nào? Do ai sáng tác?
2. Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên và chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫngián tiếp.
3. Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người như thế nào?
4. Có ý kiến cho rằng nếu nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc với chồng con thìkết truyện sẽ trọn vẹn hơn. Hãy trình bày suy nghĩ của em về vấn đề này bằng một đoạn văn tổng hợp - phân tích - tổng hợp khoảng 12-15 câu.Trong đoạn có một câu ghép và một câuchứa thành phần khởi ngữ (yêu cầu gạch chân, chú thích rõ).
GỢI Ý
1 | Đoạn trích trên nằm trong tác phẩm “ Người con gái Nam Xương”. Tác giả: Nguyễn Dữ. |
2 | - Chỉ ra một lời dẫn trực tiếp trong đoạn trích trên: 0.5 điểm + Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa. + Chuyển lời dẫn trực tiếp đó thành lời dẫn gián tiếp: Chàng vội gọi, nàng vẫn dứng giữa dòng mà nói vọng vào rằng nàng cảm ơn đức của Linh Phi đã thề sống chết không bỏ. Nàng đa tạ tình chàng nhưng nàng chẳng thể trở về nhân gian được nữa. (Chấp nhận cách diễn đạt linh hoạt của học sinh chỉ cần đảm bảo ý chính và chuyển cách ngôi, thay đổi hình thức câu cho phù hợp) |
3 | Qua câu nói của Vũ Nương với chồng, em nhận thấy nàng là con người như thế nào? - Vũ Nương là người sống nặng nghĩa nặng tình, luôn biết ơn người đã có công giúp mình, sống có trước có sau (với Linh Phi) - Nàng cũng là người bao dung nhận hậu (hiểu tấm lòng, ghi nhận sự ân hận của Trương Sinh) => Đó là một người phụ nữ tốt đẹp đáng được trân trọng, ngợi ca. |
4 | Có ý kiến cho rằng: ở phần kết thúc truyện nếu nhà văn để Vũ Nương trở về trần gian sống hạnh phúc với chồng con thì câu chuyện sẽ trọn vẹn hơn. Hãy trình bày suy nghĩ của em về vấn đề này bằng một đoạn văn tổng hợp – phân tích – tổng hợp khoảng 12-15 câu. Trong đoạn có một câu ghép và một câu chứa thành phần khởi ngữ ( yêu cầu gạch chân, chú thích rõ). - Về ý kiến được nêu trong đề: Để Vũ Nương trở lại trần gian sông hạnh phúc bên chồng con là cách kết thúc quen thuộc trong truyện dân gian thể hiện mong ước ở hiền gặp lành, người tốt được đáp dền xứng đáng. Điều này thể hiện tinh thần nhân đạo của dân tộc ta từ xa xưa. Cách kết thúc đó cũng có thể chấp nhận được. - Tuy nhiên, cách kết thúc câu chuyện của Nguyễn Dữ mang lại những ý nghĩa sâu xa hơn: + Kết thúc đó phần nào vẫn thể hiện được quan niệm của người xưa: người tốt đẹp như Vũ Nương không thể chết trong tủi hờn, oan trái, nàng có một cuộc sống thanh thản, không buồn lo oan khuất nơi động rùa. Nàng cũng đã được trở về trần gian để cởi bỏ mối oan tình, khẳng định sự trong sạch, thủy chung. + Tuy nhiên, nguyễn Dữ lựa chọn cách kết thúc khiến câu chuyện không hoàn toàn mất đi màu sắc bi kịch khi để Vũ Nương không thể trở lại cuộc sống trần gian. Ông muốn chúng ta hiểu rằng khi xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ còn tồn tại bao bất cong ngang trái, khi chiến tranh phi nghĩa vẫn còn thì Vũ Nương có trở lại hạnh phúc của nàng cũng khó bền lâu. Xã hội đó không cho những người như Vũ Nương cơ hội hạnh phúc. Kết thúc này cho thấy cái nhìn hiện thực sâu sắc của nhà văn. Trong đoạn có một câu ghép và một câu chứa thành phần khởi ngữ (yêu cầu gạch chân, chú thích rõ). |
Bài tập 7.
Câu 1: Cho đoạn trích và thực hiện yêu cầu:
“Chàng tuy giận là nàng thất tiết … nhưng việc chót đã qua rồi!”.
a) Thuộc văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”, tác giả Nguyễn Dữ.
b) Xác định các phép liên kết và phương tiện liên kết được sử dụng trong đoạn trích trên.
- Phép lặp: chàng, nàng.
- Phép thế: nó, bấy giờ.
c) Chi tiết nào trong đoạn trích là quan trọng nhất? Nêu ý nghĩa chi tiết đó?
- Chi tiết quan trọng nhất trong đoạn trích là chi tiết cái bóng.
- Ý ý nghĩa chi tiết đó:
+ Tạo nên cách thắt nút, mở nút hết sức bất ngờ, hấp dẫn.
+ Là biểu tượng của tình yêu thương, lòng chung thủy, là nguyên nhân trực tiếp của nỗi oan khuất, cái chết bi thảm của nhân vật Vũ Nương.
+ Làm nên sự hối hận của Trương Sinh và giải oan cho Vũ Nương.
+ Làm tăng giá trị tố cáo xã hội phong kiến nam quyền đầy bất công với người phụ nữ.
Câu 2: Dựa vào những từ ngữ gạch chân, em hãy cho biết lời nói của nhân vật Vũ Nương sau đây liên quan đến phương châm hội thoại nào?
“Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trờ về nhân gian được nữa.”
⟶ Lời nói của Vũ Nương liên quan đến phương châm lịch sự.
Câu 3: Cho đoạn văn sau: “Chàng bèn theo lời … biến đi mất”.
a) Xác định phương thức biểu đạt chính.
⟶ Phương thức tự sự.
b) Trong đoạn văn trên lời thoại của nhân vật được tác giả sử dụng cách dẫn nào?
⟶ Trực tiếp.
c) Tìm từ Hán Việt trong các từ sau: đa tạ, loang loáng, sống chết, nhân gian.
⟶ Từ Hán Việt: đa tạ, nhân gian.
Câu 4: Ý nghĩa của các yếu tố kì ảo trong “Chuyện người con gái Nam Xương”.
- Các yếu tố kì ảo:
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương – người cùng làng đã chết, được sứ giả của Linh Phi rẽ nước đưa về dương thế.
+ Hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với kiệu hoa, võng lọng … lúc ẩn, lúc hiện rồi bóng Vũ Nương mờ nhạt dần rồi biến mất.
- Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo:
+ Làm hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương – một con người dù đã ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, vẫn khao khát được phục hồi danh dự.
+ Tạo nên cách kết thúc phần nào có hậu cho tác phẩm, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời – người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được minh oan.
+ Tình tiết Vũ Nương trở lại dương thế: Hạnh phúc dương thế của những con người như Vũ Nương khao khát chỉ là ảo ảnh thoáng chốc, khó lòng tìm thấy được. Điều đó khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
V. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Bài tập 1 :Đề bài: Phân tích nhân vật của VN trong tác phẩm Chuyện người con gái của Nam Xương của Nguyễn Dữ
Phân tích đề:
- Thể loại: Nghị luận về một nhân vật văn học.
- Phạm vi kiến thức: Tác phẩm Chuyện người con gái của Nam Xương của Nguyễn Dữ
Dàn ý:
1, Mở bài
- ND là nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ XVI với tác phẩm Truyền kì mạn lục, trong đó Chuyện người con gái của Nam Xương là một trong những truyện tiêu biểu.
- Truyện viết về nàng Vũ Nương, một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại có số phận bất hạnh khổ đau.
2, Thân bài
* Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
- Ngay từ đầu truyện Vũ Nương đã được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người đẹp nết “ tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.
- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “ tam tòng, tứ đức”, “ công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ bề ngoài của nàng mà TS đã xin mẹ “ đem 100 lạng vàng cưới về:. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nagf.
-> Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hạo với nhứng nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến.
Song có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chunga ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:
Luận cứ 1: Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.
* - Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi” , “ phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng bất hòa.
-> Nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình, người phụ nữ đức hạnh. Qua đây ta thấy đã hé lộ mâu thuẫn tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo.
* Khi xa chồng:
- Vũ Nương là người vợ thủy chung yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “ mpooix khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “ thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.
- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên choingf như hình với bóng: Dỗ con, nagf chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha Đản.
- Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “ Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
-> Qua taam trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Du vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh.
* Khi bị chồng nghi oan:
- Nàng hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình:
+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “ Thiếp con kẻ khó được nâng tựa nhà giau”
+ Thiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “ Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.
+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan : “ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”
-> Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những lời nói thiết tha đó, nó còn cho ta thấy thái độ trân trọng chồng và gia đình nhà chồng của nàng.
- Khi không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng:
+ Hạnh phúc gia đình, “ thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khát khao và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.
+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió.”
+ Đến nỗi đau chờ chồng dến hóa đá của “ cổ nhân” nagf cũng không có được: “ đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
-> Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của người vợ trẻ giờ đã không còn có ý nghĩa.
- Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại.
+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.
-> Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh, phẩm gí còn cao hơn sự sống.
* Những năm tháng sống dưới thủy cung
- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát đươ cj đoàn tụ.
+ Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng.
+ Nghe Phan lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương.
- Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với TS lập đàn giải oan cho mình.
- Nàng là người trọng tình , trong nghĩa: Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.
-> Với vai trò là một người vợ, VN là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha.
Luận cứ 2: Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là người con dâu hiếu thảo.
- Vũ Nương đã thay TS làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “ Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn”.
- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo đối với cha mẹ đẻ mình.
- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “ Xanh kia quyết chẳng phụ nàng cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
=> “Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi” là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến xua. Song lời cảm tạ , động viên của bà mẹ đã cho ta thấy VN là một người con dâu hiếu thảo. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.
Luận cứ 3: Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết mực.
- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn.
- Không chỉ trong vai trò là một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn. Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.
- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về vật chất, mà còn lo cho con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.
=> VN không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. N àng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.
* Luận điểm 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật VN được đặt vào nhiều tình huống: lấy Trương Sinh trái tính trái nết; Ts đi lính để gánh nặng gia đình cho VN; Ts đi lính trở về nghi oan cho VN,… từ đó, thể hiện số phận bất hạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật.
- Chi tiết chọn lọc, ngôn ngữ đối thoại và tự bạch phù hợp, yếu tố hoang đường, kì ảo mang đặc trưng của thể loại truyền kì và thể hiện ước vọng của nhân dân về kết thức có hậu cho số phận nhân vật.
3, Kết bài:
- VN tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp và số phận bi thảm của người phụ n ữ VN dưới chế độ phong kiến.
- Nhân vật VN để lại trong lòng người đọc nỗi thương cảm và xúc động sâu sắc
Bài tập 2.Đề bài: Cho đoạn truyện:
“Bấy giờ nàng đương có mang … cha mẹ đẻ của mình”
Từ đoạn truyện trên, hãy phân tích làm nổi bật phẩm chất của nhân vật Vũ Nương.
Mở bài:
Đoạn truyện “Bấy giờ nàng đương có mang … cha mẹ đẻ của mình” trích trong văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã thể hiện nhiều phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương – người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến.
Thân bài:
- Đoạn truyện trên kể về Vũ Nương, sau khi chồng đi lính, ở nhà có mang, sinh con và chăm sóc mẹ già, lo toan mọi việc.
+ Khi chồng vắng nhà, nàng một mình bụng mang dạ chửa, rồi sinh con. Nỗi nhớ chồng càng tăng lên khi ngày ngày mòn mỏi cùng đứa con nhỏ ngóng trông người chồng trở về.
+ Khi mẹ chồng không qua khỏi, nàng đã lo ma chay tế lễ rất chu đáo. Từ đó cho thấy nàng không chỉ yêu thương chồng con mà còn là một người con dâu hiếu thảo.
+ Một mình nàng phải gánh vác trên vai công việc của người chồng, người mẹ, người vợ. Nhưng nàng vẫn hoàn thành trách nhiệm, làm tròn đạo lí của người vợ, người mẹ, người con.
+ Điều đó chứng tỏ nàng là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, biết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống để giữ gìn hạnh phúc gia đình và làm tròn đạo lí. Nàng xứng đáng là người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có đầy đủ phẩm chất công, dung, ngôn, hạnh.
- Người phụ nữ trong xã hội phong kiến chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ nhưng họ vẫn vươn lên để sống tốt đời đẹp đạo. Và ngày nay những phẩm chất ấy vẫn mãi là truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên người phụ nữ ngày nay được Đảng và Nhà nước mang lại quyền tự do, bình đẳng nên cuộc sống của họ ấm no và hạnh phúc hơn.
- Bằng ngòi bút sắc bén, chỉ một đoạn truyện ngắn, Nguyễn Dữ đã làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương – người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội xưa. Với những lời đối thoại, những chi tiết, hình ảnh và ngôn ngữ trong đoạn truyện đã làm cho đoạn truyện thêm hấp dẫn và thuyết phục người đọc.
Kết bài:
Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương trong đoạn truyện là những phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ xứng đáng để chúng ta ca ngợi, yêu thương. Từ phẩm chất của Vũ Nương chúng ta học tập được những đức tính cao đẹp, từ đó tạo nên một xã hội văn minh và đầy nhân văn.
Bài tập 3:Đề bài:
Phân tích một số chi tiết trong Chuyện người con gái Nam Xương
Gợi ý:
1, Hình ảnh chi tiết chiếc bóng trên vách là chi tiết đặc sắc của truyện
a) Chi tiết chiếc bóng của nàng Vũ Nương
- Hoàn cảnh xuất hiện: trong đêm tối, VN hay trỏ vào chiếc bóng của mình trên vách và bảo con đó là cha Đản.
- Về nội dung: chiếc bóng thể hiện tình yêu thương của VN đối với con và tình yêu đối với chồng ( vợ chồng như hình với bóng) và khát vọng sum họp gia đình.
- Về nghệ thuật: đây là chi tiết thắt nút truyện, chiếc bóng có ý nghĩa gieo oan. Nhưng nhà văn không để TS nhận ra từ đầu mà đến khi VN không còn nữa, chàng mới vỡ lẽ nỗi hàm oan của vợ. Bằng cách đó, truyện có ý nghĩa bộc lộ tận cùng sự độc đoán, chuyên quyền, vũ phu đã làm tê liệt lí trí, giết chết tình người và dẫn đến bi kịch của Trương Sinh cũng như của chế độ phụ quyền phong kiến bất công.
b) Chi tiết: Chiếc bóng của Ts
- Hoàn cảnh xuất hiện: khi Vũ Nương mất rồi, trong một đêm phòng không vắng vẻ, bé Đản đã trỏ vào chiếc bóng của chàng trên vách và bảo là cha Đản.
- Về nội dung: TS hiểu ra nỗi oan của VN. Chàng ân hận, day dứt.
- Về nghệ thuật: cách cởi nút truyện bất ngờ, gây sự hấp dẫn cho người đọc.
Chi tiết chiếc bóng là bài học cho những người đàn ông có tính ghen tuông, phải biết bình tĩnh, sáng suốt để giải quyết sự việc. Vì có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn nhưng giữ được hạnh phúc còn khó khăn hơn nữa. Chiếc bóng còn là thông điệp cho chúng ta: đã yêu thương nhau, phải tin tưởng nhau, đừng để cái bóng rình rập, giết chết tình yêu hạnh phúc trong gia đình.
2, Các chi tiết kì ảo cuối truyện:
a) Chi tiết kì ảo cuối truyện
– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
– Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với Vũ Nương; được trở về dương thế.
– Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.
b) Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện
- Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì
- Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.
- Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.
- Tạo nênmột kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:
+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của VN: Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được minh oan.
- Tuy nhiên yếu tố kì ảo chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi kịch của thiên truyện: Vn hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự huyền linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “ loang loáng mờ nhạt” trên sông mà dần biến đi mất. Tức là vẫn còn xa cách vẫn là sự chia ly âm dương đôi ngả. Hạnh phúc, sự đoàn tụ là những điều lớn lao cuối cùng của VN cũng không dành được, mà đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vn không trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất cho những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước trở về trần gian còn Vn thì không thể trở về là một minh chứng đanh thép.
Bài tập 4. Đề bài: Nhận xét về giá trị nhân đạo trong “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
1, Mở bài:
- Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ XVI với tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, trong đó tiêu biểu là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Dựa trên cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ đã lên tiếng tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa, những cổ tục nghiệt ngã, đồng thời thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến; trân trọng đề cao những vẻ đẹp của người phụ nữ…
- Điều đó đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của thiên truyện.
2, Thân bài:
a) Giải thích
- Giá trị nhân đạo trong tác phẩm văn học:
+ Hiểu một cách chung nhất, nhân đạo là lòng yêu thương con người.
+ Một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo là khi tác phẩm đó thể hiện thái độ bênh vực, cảm thông sâu sắc trước những nỗi đau khổ của con người, lên tiếng tố cáo tội ác của những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống chính đáng của con người.
- Giá trị nhân đạo là một trong những yếu tố quan trọng để làm nên thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương
b) Phân tích
Giá trị nhân đạo trong truyện là sự trân trọng đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những khát vọng chân chính:
- Nàng VN đẹp về hình thức: “ tư dung tốt đẹp”
- Nàng VN đẹp về phẩm chất, tâm hồn:
+ Nàng là người phụ nữ trong trắng, thủy chung
+ Nàng là người mẹ yêu con, người vợ đảm đang tháo vát.
+ Nàng là người con dâu hiếu nghĩa.
+ Nàng còn là người nặng tình, nặng nghĩa với gia đình quê hương
Đặt trong xã hội phong kiến, người phụ nữ bị rẻ rúng coi thường, Nguyễn Dữ đã trân trọng đề cao vẻ đẹp của VN ( cả khi nàng đã sang một thế giới khác). Đó chính là ý nghĩa nhân văn, là nét bút thần diệu để viết lên áng “thiên cổ kì bút”
- Giá trị nhân đạo trong truyện còn là niềm thương cảm sâu sắc trước những nỗi đau khổ của con người.
+ Trong suốt đoạn truyện VN sống ở trần gian, Nguyễn dữ luôn thể hiện một thái độ yêu thương, đồng cảm với nỗi vất vả mà người phụ nữ phải chịu đựng: phái gánh vác giang sơn nhà chồng, chăm sóc mẹ già, con dại khi chồng đi xa; chồng độc đoán chuyên quyền, vũ phu, hay ghen, đa nghi; nỗi oan khiên và cái chết bi thảm của nàng. Lời văn đọc lên cho thấy xotx xa, đau đớn của Nguyễn Dữ thấm vào trong từng câu chữ.
+ Khi nàng sống ở thủy cung, với chất truyền kì huyền diệu, Nguyễn Dữ đã nói lên ước mơ mà người phụ nữ luôn khao khát trong tương lai: một cuộc sống tốt đẹp hơn. Dẫu chỉ là khát vọng nhứng điều đó đã nói lên được tấm lòng, trái tim chan chứa tình yêu thương của nhà văn.
- Giá trị nhân đạo trong truyenj là sự tố cáo lên án những thế lực tàn bạo, tố cáo những cổ tục nghiệt ngã có trong xã hội phong kiến.
+ Chuyện hôn nhân không phải bằng tình yêu đôi lứa mà bằng trao đổi mau bán cho thấy thân phận người phụ nữ nhỏ nhoi, phụ thuộc..
+ quan niệm trọng nam khinh nữ khắc nghiệt, coi nam quyền là tuyệt đối, nên sự ghen tuông mù quáng của TS đã gián tiếp giết chết VN.
+ Khi VN bị nghi oan không thể bày tỏ, phải tự tử để khẳng định phẩm giá của mình, Nguyễn Dữ đã không để VN chết bột phát trong cơn phẫn uất như câu chuyện cổ tích Vợ chàng Trương mà chết rất tỉnh táo và lí trí, khiến sức tố cáo phê phán trong tác phẩm càng sâu sắc hơn. Xã hội phong kiến hà khắc không cho người phụ nữ một con đường sống, họ phải chọn cõi chết làm chốn dung thân.
- Tố cáo chiến tranh phi nghĩa góp phần gây ra sự đau khổ, tan vỡ của những mái ấm gia đình.
Những bất công ngang trái của xã hội phong kiến đã làm người phụ nữ không được sống hạnh phúc, quyến sống cũng không được đảm bảo, bất hạnh, khổ đau có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nguyễn Dữ đã mạnh mẽ lên tiếng bênh vực cho người phụ nữ và tố cáo lên án sự bất công trong xã hội. Đây cũng là một trong những nét bút thần diệu để Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ vẫn còn nguyên sự hấp dẫn người đọc ngày nay.
3, Kết luận:
- Giá trị nhân đạo trong truyện không chỉ bộc lộ thái độ viết truyện của nhà văn mà còn là vẻ đẹp của tác phẩm để tạo nên sự cuốn hút vfa hấp dẫn. Tac sphaamr đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, quyết tâm sống và đấu tranh vì quyền sống và hạnh phúc của con người.
- Giá trị nhân đạo là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự thành công cho Chuyện người con gái Nam Xương- một tác phẩm tiêu biểu trong “thiên cổ kì bút” Truyền kì mạn lục.
V. DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Bài tập 1. Từ tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” kết hợp với những hiểu biết xã hội, em hãy viết một đoạn văn (2/3 trang giấy thi) trình bày suy nghĩ của em về vai trò của niềm tin trong cuộc sống.
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Niềm tin là nguồn động lực to lớn, nguồn sức mạnh diệu kì, và nó thực sự đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người. Trước hết, chúng ta cần hiểu lòng tin hay niềm tin trong cuộc sống là gì? Đó chính là sự hi vọng, sự tin tưởng, hiểu rõ và đánh giá đúng năng lực, hiểu biết của bản thân hay sự tin tưởng vào những người xung quanh nữa. Lòng tin có rất nhiều biểu hiện đa dạng trong cuộc sống. Đó là khi, dù ta phải trải qua những khó khăn, gian khổ, những vấp ngã trong học tập hay trong công việc thì ta vẫn không hề bỏ cuộc, luôn tin rằng mình sẽ vượt qua và mình sẽ làm được. Hay niềm tin còn được thể hiện trong các mối quan hệ với những người xung quanh, ta tin tưởng vào những người tốt, mà không hề nghi ngờ, nghĩ xấu về họ. Vậy, tại sao chúng ta cần có lòng tin trong cuộc sống? Bởi vì, lòng tin chính là món quà ý nghĩa và quí giá nhất mà chúng ta đã nhận được từ Thượng Đế, lòng tin cho chúng ta đủ sự cam đảm, tiếp thêm cho chúng ta ý chí nghị lực để vượt qua những khó khăn, thủ thách, để đạt được những ước mơ, hoài bão. Trong năm vừa qua, chúng ta đã nhắc nhiều đến đội tuyển bóng đá U23 Việt Nam, với chiến thắng vươn ra tầm châu lục; mặc dù các anh phải thi đấu với những đội tuyển rất mạnh như Irag, Uzbekistan…nhưng với niềm tin mãnh liệt vào khả năng chiến thắng cùng với sự nỗ lực hết mình, các anh đã đem về chiến thắng vinh quang cho đất nước là giải Á quân châu lục. Không chỉ có vậy, khi chúng ta có lòng tin vào người khác, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông, thấu hiểu họ nhiều hơn, tạo nên một sợi dây gắn bó bền chặt trong các mối quan hệ, yêu thương nhiều hơn và cho đi cũng nhiều hơn nữa. Ngay sau vụ khủng bố kinh hoàng tại Paris ngày 13/11/2015, khoảng 200.000 cư dân Paris đã chia sẻ từ khóa “Cửa mở đấy” trên mạng xã hội, để giúp những ai chưa về được nhà có một chỗ lánh an toàn; các tài xế taxi cũng tắt máy tính tiền để đưa miễn phí những người mắc kẹt đến nơi trú tạm. Chúng ta thấy rằng, nếu thiếu đi lòng tin, con người cũng mất đi tình yêu thương trong cuộc sống, nếu thiếu đi lòng tin, những dân Paris sẽ không giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, và qua câu chuyện đó, chúng ta có thêm lòng tin rằng, cuộc sống vẫn còn nhiều người tốt, và việc tốt. Tuy nhiên, thực tế hiện nay vẫn còn một số người dễ dàng đánh mất niềm tin vào bản thân mình, gặp khó khăn thử thách đã vội vàng bỏ cuộc và gục ngã; cũng có những người đặt nhiều quá niềm tin vào bản thân nên dễ bị ảo tưởng; cũng có những người lợi dụng lòng tin của người khác để lừa lọc và giả dối. Đó đều là những biểu hiện xấu, mà mỗi chúng ta cần nên tránh xa. Bản thân em là một học sinh lớp 9, em nhận thây rằng trong cuộc sống chúng ta thực sự cần phải có lòng tin không chỉ với bản thân, mà còn đối với những người tốt xung quanh. Dù phải đối mặt với những khó khăn, thử thách, em vẫn luôn cố gắng hết mình để vượt qua và không bao giờ đánh mất niềm tin vào bản thân. Bởi em hiểu “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì sẽ còn đánh mất nhiều thứ quí giá khác nữa”!
*********************************************************
CHUYÊN ĐỀ 2.
Văn bản: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
I) KIẾN THỨC CƠ BẢN
1, Tác giả | – Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, Hà Nội. – Hai tác giả chính: + Ngô Thì Chí (1753-1788), em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống, tuyệt đối trung thành với nhà Lê, từng chạy theo Lê Chiêu Tống khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.Dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà Lê.Sau đó, được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong lập nghĩa binh chống lại Tây Sơn. Trên đường đi, ông bị bệnh mất tại Bắc Ninh.Nhiều tài liệu nói, ông viết 7 hồi đầu của tác phẩm. + Ngô Thì Du (1772-1840) anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí,học giỏi nhưng không đỗ đạt. Dưới triều Tây Sơn, ông sống ẩn ở Hà Nam.Thời nhà Nguyễn ông làm quan đến năm 1827 thì về nghỉ. Ông là tác giả của 7 hồi tiếp theo. – Ba hồi cuối có thể do 1 người khác viết đầu thời Nguyễn. |
2, Văn bản | – “Chí” là thể văn ghi chép sự vật, sự việc. – Trong văn học Việt Nam thời trung đại, “Hoàng lê nhất thống chí” là một tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được những thành công xuất sắc cả về nội dung cũng như nghệ thuật. – Với nội dung viết về những sự kiện lịch sử diễn ra trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX (cuối Lê đầu Nguyễn), tác phẩm chịu ảnh hưởng lối viết tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc cũng như quan niệm văn sử bất phân – nét đặc thù của văn học trung đại Việt Nam. – Nếu xét về tính chân thực lịch sử, tác phẩm có thể được xếp vào loại kí sự lịch sử. Nhưng xét về hình thức kết cấu, nghệ thuật khắc họa nhân vật, cách miêu tả, tự sự… thì tác phẩm lại mang đậm chất tiểu thuyết. Có lẽ vì thế mà “Hoàng Lê nhất thống chí” được xếp vào loại tiểu thuyết lịch sử. – Tác phẩm gồm có tất cả 17 hồi, trên đây trích phần lớn hồi thứ mười bốn, viết về sự kiện vua Quang Trung đại phá quân Thanh. |
- Thể loại: Viết theo thể chí- một lối văn ghi chép sự vật, sự việc, con người. - Nhan đề: chữ Hán: ghi chép về việc vua Lê thống nhất đất nước. | |
-Ngôi kể: Thứ 3 -Tác dụng: + Tạo tính chân thực + Không gian truyện được mở rộng + Người kể dễ dàng đan xen những suy nghĩ, bình luận làm câu chuyện thêm sinh động… | |
– Bố cục: 3 đoạn + Đoạn 1từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)): Được tin báo quân Thanh chiếm Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và thân chinh cầm quân dẹp giặc. + Đoạn 2( tiếp đến “rồi kéo vào thành”) : Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung. + Đoạn 3: Đoạn còn lại : Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Tóm tắt hồi thứ 14: – Nguyễn Huệ nghe tin quân Thanh đến Thăng Long giận lắm liền họp các tướng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Tướng sĩ xin Bắc Bình Vương lên ngôi để làm yên lòng người.Nguyễn Huệ cho đắp đàn trên núi tế cáo trời đất lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân hạ lệnh xuất quân. -Đến Nghệ An, Quang Trung cho tuyển thêm hơn 1 vạn lính mở cuộc duyệt binh. Đến Tam Điệp mở tiệc khao quân, chia quân sĩ làm 5 đạo. Đúng tối 30 tết lập tức lên đường. -Trên đường tiến quân ra Bắc, những toán quân Thanh do thám bị bắt sống. Ngày 03 tháng giêng năm Kỉ Dậu, đồn Hà Hồi bị hạ. Mờ sáng ngày 05 tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh đại bại. Thái thú Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt cuống cuồng chạy mất mật. Quân Thanh tranh nhau qua cầu tháo chạy rơi xuống nước nhiều không kể xiết. Vua tôi Lê Chiêu Thống dìu dắt nhau chạy trốn sang đất Bắc. | |
Nội dung: – Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Nghệ thuật: – Cách trần thuật đặc sắc. – Ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian. – Miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói của nhân vật chính,từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân ( một bên thì xộc xệch, trễ nải, nhát gan; một bên thì xông xáo dũng mãnh, nghiêm minh). – Hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ được khắc họa khá đậm nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt, có tài dụng binh như thần, là người có tổ chức và là linh hồn của những chiến công vĩ đại. – Một sự mâu thuẫn: Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê,nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. |
II. LUYỆ TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 1:Cho đoạn trích:
“ Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỉ Dậu (1789) vua Quang Trung tới làng Hạ Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy rồi loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ra để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm lại làm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả hai mươi bức. Đoạn kém hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành chữ “nhất”, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ sung bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam nổi loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình”.
Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản nào? Tác giả?
Câu 2: Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt nào?
Câu 3: Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Câu 4: Tại sao gọi Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết lịch sử.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Đoạn trích trên trích trong văn bản “Hoàng Lê nhất thống trí”- Ngô gia văn pháiCâu 2: Đoạn trích sử dụng phương thức biểu đạt là tự sự và miêu tả
Câu 3: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm:
Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Không chỉ dừng lại ở đó, cuốn tiểu thuyết này còn viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào những năm 30 cuối thể kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi.
Câu 4: Hoàng Lê nhất thống chí được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử vì:
- Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi đầu tiên có quy mô lớn của bộ sử thi. Tác phẩm mang giá trị về văn học và sử học.
- Tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến đầy biến động cuối thể kỉ XVIII:
+ Trong triều đình, vua chúa tham quan sống sa đọa. Vua tôi Lê Chiêu Thống bán nước, luồn cúi.
+ Đời sống cơ cực của người dân dưới thời Lê mạt: bất ổn, đói khổ.
+ Bên cạnh đó là hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn mà nổi bật là hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trí tuệ sáng suốt, có tài cầm quân, có công đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 2:
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau ra mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán tới nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng ta làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy dều là chuyện cũ rành rành của triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quân huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn…
Câu 1: Nêu phương thức biểu dạt chính trong đoạn trích trên.
Câu 2: Trong câu “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Nhắc em nhớ tới tác phẩm nào đã học trong chương trình Ngữ văn THCS. Vua Quang Trung muốn khẳng định điều gì qua câu nói trên.
Câu 3: Em hãy giải thích nghĩa của từ “lương tri, lương năng”
Câu 4: Trong đoạn “ Đời Hán có Trưng Nữ Vương… các vua truyền ngôi lâu dài” giống với những câu thơ nào của Nguyễn Trãi. Từ đó, em hãy chỉ ra nét tương đồng về tư tưởng, thái độ của Nguyễn Trãi và vua Quang Trung.
Câu 5: Từ đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn diễn dịch khoảng 10 câu có sử dụng thành phần phụ chú và phép nối nêu về suy nghĩ của em về vấn đề: Tuổi trẻ Việt Nam hiện nay cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước?
Câu 6: Qua đoạn trích em thấy vua Quang Trung hiện lên là người như thế nào?
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Phương thức biểu dạt chính trong đoạn trích trên: nghị luận.Câu 2: Trong câu “ Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” gợi nhắc tới hai câu thơ trong bài Sông núi nước Nam tương truyền của Lý Thường Kiệt.
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”
- Câu nói của vua Quang Trung có ý nghĩa khẳng định nền độc lập, tự cường của nước ta, đất nước có ranh giới lãnh thổ rõ ràng, có vua cai trị. Đồng thời đây cũng là câu nói nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trước mọi kẻ thù xâm lược.
Câu 3: Nghĩa của từ “lương tri” và “lương năng”.
Lương tri: Người có lương tâm, biết nhận thức đúng đắn, soi xét đúng sai.
Lương năng: người có tài năng, phẩm cách tốt.
Ý của vua Quang Trung: tất cả các tướng lĩnh, quân sĩ đều là những người biết phải trái, đúng sai, đều là những người có lương tâm, biết yêu nước thương dân.
Vua Quang Trung dùng cách nói này để khích lệ lòng tự tôn dân tộc của quân sĩ.
Câu 4: Trong bài Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi có viết.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Xong hào kiệt đời nào cũng có”
- Điểm tương đồng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi với Quang Trung:
+ Khẳng định sự tồn tại độc lập, bình đẳng của nước Nam với phương Bắc.
+ Nước ta đời nào cũng có anh hùng hào kiệt.
+ Tác giả nêu tấm gương sáng, ngợi ca anh hùng hào kiệt trong lịch sử và lên án hành động cướp nước, xâm lược của phương Bắc.
Câu 5:
- Tuổi trẻ Việt Nam khi thể hiện lòng yêu nước.
Tuổi trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo vận mệnh, tương lai non sông đất nước vì vậy tuổi trẻ cần hiểu được vị trí quan trọng của mình.
+ Vốn tri thức, đạo đức được rèn luyện từ nhà trường là nền tảng cơ bản để thực hành trong đời sống.
+ Tuổi trẻ phải nỗ lực không ngừng học hỏi, phát triển về khoa học, kĩ thuật để bắt kịp với sự phát triển của thế giới.
+ Tuổi trẻ cần nuôi dưỡng trong mình tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, niềm tự tôn dân tộc.
+ Cần ý thức việc trau dồi tri thức và đạo đức ngay khi còn trẻ.
Câu 6: Vua Quang Trung trong đoạn trích trên:
Trước hết, vua Quang Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán:
+ Nghe tin giặc tới Thăng Long ông vội vã đốc xuất đại binh ra Bắc.
+ Là người sáng suốt, nhạy bén:
Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, ông đã lên ngôi hoàng đế để chính danh ra dẹp giặc.
- Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch, ta.
+ Quang Trung khích lệ tướng lính bằng những những lời nói chân thành, những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập.
- Tầm nhìn chiến lược, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập của vua Quang Trung đã góp phần làm nên chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh.
ĐỀ ĐỌC- HIỂU SỐ 3:
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
“ Vua Quang Trung liền gấp rút sau đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy đều cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới mà đánh.
Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái Thú Điều Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bạ”i.
Câu 1: Các sự việc trong đoạn trích trên được kể theo trình tự như thế nào?
Câu 2: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”.
Câu 3: Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích trên.
Câu 4: Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 5: Nhận xét về bút pháp tái hiện sự thực lịch sử của các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí qua đoạn trích hồi thứ mười bốn.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Các sự việc trên được kể theo trình tự tuyến tính, trình tự thời gian (3/1 - 5/1 tết Kỉ Dậu).Câu 2: Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.”
Biện pháp nói quá trong chi tiết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối” nhằm nhấn mạnh tới sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 3: Cảm nghĩ về nhân vật vua Quang Trung.
- Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta kinh ngạc, chiến thắng thần tốc.
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc mà vua Quang Trung lên kế hoạch từ trước đã chiến thắng sớm hơn dự định 2 ngày.
- Hình ảnh vua Quang Trung oai phong lẫm liệt:
+ Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy khiến nghĩa quân Tây Sơn đánh thắng kẻ thù.
+ Hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với áo bào đỏ sạm đen khói súng.
- Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người có tổ chức và linh hồn của chiến công vĩ đại.
Câu 4: Thái độ của tác giả
- Ca ngợi trí tuệ, chiến lược của vua Quang Trung: tài dụng binh như thần, lẫm liệt trong trận chiến…
- Tỏ thái độ căm ghét, khinh thường trước sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 5: Khi các tác giả Ngô Thì, các tác giả chủ ý viết lại lịch sử, không phải sự sáng tạo văn học. Tâm lý này xuất phát từ việc người trung đại xem tiểu thuyết là thứ thấp kém, không có ý nghĩa với việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
- Nhưng Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn chương đích thực, chính điều này làm nên sự trường tồn của tác phẩm.
- Sự kết hợp giữa sáng tạo, gia công kết hợp giữa ngòi bút chân thực , nghiêm ngặt với bút pháp viết linh hoạt đã giúp người viết tái hiện một thời kì lịch sử dữ dội TK XVIII:
+ Sự kiện lịch sử được ghi chép cụ thể, chính xác với các mốc thời gian, địa điểm, không gian rõ ràng, tạo sự tin cậy cho người đọc.
+ Nhóm tác giả không chỉ dựa trên sự kiện đơn thuần mà còn chỉ ra bản chất của hiện thực, vẫn giữ nguyên lịch sử nhưng lại xây dựng hình tượng chân dung con người đại diện cho cả hai phía.
+ Lời văn miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng kể khách quan, đơn sắc của người viết sử với giọng kể đầy xúc cảm của người sáng tạo văn học.
Hệ thống đề văn, câu hỏi đoạn trích: Chị em Thúy Kiều
Bài này sẽ khái quát phần Tác giả, một số nội dung chính về Tác phẩm và hệ thống các câu hỏi về đoạn trích Chị em Thúy Kiều (trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) có trong đề thi vào lớp 10 môn Văn.III. Luyện tập
Bài tập 1: Vì sao các tác giả là những người thuộc triều đình phong kiến nhà Lê mà vẫn xây dựng hình tượng đẹp về vua Quang Trung?Gợi ý:
Các tác giả là những người cẫm bút có lương tri, có ý thức tôn trọng sự thật lịch sử. Sống giữa những biến động của thời đại, họ nhận thấy rõ sự thối nát, hèn kém của vua Lê chúa Trịnh, đồng thời cũng không thể phủ nhận được công lao cũng như tài năng của người anh hùng Quang Trung- Nguyễn Huệ.
Các tác giả là những người tiến bộ, họ đã vượt lên khỏi định kiến giai cấp, vượt ra khỏi chỗ đứng giai cấp để phản ánh về Quang Trung-Nguyễn Huệ
Các tác giả là những người yêu nước, họ tự hào về chiến thắng vĩ đại của dân tộc, không thể không nhắc tới Quang Trung, là linh hồn và tổng chỉ huy của cuộc chiến đấu.
Bài tập 2: Trong hồi thứ 14 có đoạn viết “ …Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván….máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”
a. Nhận xét nghệ thuật đặc sắc của đoạn trích trên?
b. Đoạn trích trên cho em hiểu gì về người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ?
Gợi ý:
a. Nghệ thuật đặc sắc : Trần thuật theo diễn biến sự việc; trần thuật xen lẫn miêu tả: tả việc làm -tả hình ảnh Quang Trung, tả quân sĩ Quang Trung, tả quân Thanh, tả không gian chung của trận đánh
b. Đoạn trích cho ta hiểu :
Nguyễn Huệ là người có tài thao lược, sáng tạo ra phương tiện độc đáo để chiến đấu
Là vị tướng có tài tổ chức trận đánh: bố trí quân lính, lúc thì sử dụng binh khí, lúc thì đánh giáp lá cà
Quang Trung không những là một vị tướng có tài mà còn là một người anh hùng trực tiếp xông pha chiến trận từ lúc bắt đầu trận đánh cho đến khi trận đánh kết thúc
Bài tập 3: Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả như thế nào? Cùng là miêu tả hai cuộc tháo chạy nhưng cách miêu tả khác nhau ra sao?
Gợi ý:
Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
Quân Thanh không chống nổi bỏ chạy toán loạn giày xéo lên….đại bại.
Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật………hướng bắc mà chạy
Quân sĩ các doanh trại nghe tin đều hoảng hồn,tan tác bỏ chạy……..tắc nghẽn không chảy được nữa
→ Miêu tả chính xác chân dung kẻ cướp nước. Cả đội quân trước đây hùng hổ, huênh hoang, ngạo mạn thì giờ đây xộc xệch, bấn loạn, dẫm đạp lên nhau mà chạy trốn. Quả là sự thảm bại nhục nhã
Số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống:
Vua Lê……ra ngoài, cả bọn chạy……….sang bờ bắc
Vua Lê và những người tùy tùng……….mệt lử.
Gặp một người thổ hào………..tạm nghỉ
Vua sai………mâm dưới
Người thổ hào vội vã………….xấu hổ
→ Đường đường là vua của một nước nhưng tự biến mình thành kẻ thù của cả dân tộc → cuối cùng đã phải trả giá
Đoạn văn miêu tả sự tháo chạy của quân tướng nhà Thanh, nhịp điệu nhanh, mạnh hối hả. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng hàm chứa trong đó vẻ hả hê sung sướng của những người thắng trận trước sự thảm bại của lũ cướp nước. Miêu tả vua tôi Lê Chiêu Thống thì nhịp kể chậm hơn với những âm hưởng ngậm ngùi chua xót. Sở dĩ có sự khác biệt đó bởi là một cựu thần nhà Lê, tác giả không khỏi ngậm ngùi chua xót trước ngày tàn của triều Lê.
Bài tập vận dụng:
Bài tập 1.Đọc đoạn văn:
“- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”
(Hoàng Lê nhất thống chí – Hồi thứ mười bốn – Ngô gia văn phái, Ngữ văn 9, Tập một, NXB GD. H. 2009. tr 66)
Có ý kiến nhận xét: Đọc lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ, ta nghe như âm vang của Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
Em hãy phân tích lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ và làm sáng tỏ nhận xét trên.
Gợi ý:
1. Giới thiệu khái quát về “Hoàng Lê nhất thống chí” và hồi thứ mười bốn của tác phẩm.
– “Hoàng Lê nhất thống chí” do một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Tác phẩm là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi viết ở những thời điểm khác nhau, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào khoảng ba mươi năm cuối của thế kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX.
– Hồi thứ mười bốn thể hiện niềm tự hào dân tộc của các tác giả qua việc tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
2. Khái quát vẻ đẹp của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ trong “Hoàng Lê nhất thống chí” (hồi thứ mười bốn).
Trong lịch sử các triều đại Việt Nam, Quang Trung là một vị vua văn võ toàn tài, có công lao lớn trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nhân vật lịch sử đi vào văn chương như một hình ảnh đẹp. “Hoàng Lê nhất thống chí” (hồi thứ mười bốn) đã làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng áo vải trong chiến công lừng lẫy đại phá quân Thanh: là một vị vua yêu nước thương dân; là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén; có tầm nhìn xa trông rộng; hành động mạnh mẽ quyết đoán, tài dụng binh như thần; ý chí quyết chiến quyết thắng…
3. Lời dụ tướng sĩ của vua Quang Trung thể hiện sự anh minh sáng suốt và mang âm hưởng hào hùng của các tác phẩm: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi).
a. Trước hết, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền của dân tộc.
“Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Đó cùng là lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” (Lý Thường Kiệt): “Nam quốc sơn hà Nam đế cư – Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở – Rành rành định phận ở sách trời); trong “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi): “Như nước Đại Việt ta từ trước – Vốn xưng nền văn hiến đã lâu – Núi sông bờ cõi đã chia – Phong tục Bắc Nam cũng khác – Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
b. Tiếp đến, ông nêu bật dã tâm của giặc để thổi bùng lên ngọn lửa căm thù giặc trong lòng tướng sĩ.
“Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, “Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa”. Hành động xâm lược của “giặc dữ” (nghịch lỗ) là hành động phi nhân nghĩa, trái đạo trời. Tội ác của giặc ngoại xâm được Trần Quốc Tuấn chỉ rõ “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ…thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho để khỏi tai vạ về sau” (Hịch tướng sĩ). Nguyễn Trãi cũng đã vạch trần: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ – Dối trời lừa dân đủ trăm ngàn kế…”, “Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội…” Đúng là tội ác “Trời không dung, đất không tha”.
c. Sau đó, ông nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
“Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”.
Lời phủ dụ tướng sĩ của người anh hùng áo vải Quang Trung trong cuộc đại phá quân Thanh đã nhắc đến Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn – một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với các tướng sĩ. Ý chí tinh thần chống giặc ngoại xâm trong bài hịch như còn mãi âm vang: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. (Hịch tướng sĩ)
Tấm gương Lê Thái Tổ không nỡ ngồi nhìn giặc Minh làm điều tàn bạo đã dấy nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn…Tổ kiến hổng phá toang đê vỡ”. Đó là những dẫn chứng xác thực về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: “Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau – Song hào kiệt đời nào cũng có”, “Việc xưa xem xét – Chứng cứ còn ghi” (Bình Ngô đại cáo).
d. Từ đó, ông bày tỏ lòng tin vào binh lính và kêu gọi họ dốc lòng, dốc sức vì sự nghiệp chung đánh đuổi kẻ thù để bảo vệ chủ quyền của dân tộc.
“Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”. Lời hiệu triệu toàn dân đứng lên đánh giặc giữ nước của vua Quang Trung cũng là lời khích lệ tinh thần chiến đấu của Trần Quốc Tuấn đối với các tướng dưới quyền: nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo tập luyện cung tên, học tập “Binh thư yếu lược”. Đó cũng là lời của Nguyễn Trãi: “Nhân dân bốn cõi một nhà … Hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.
e. Cuối cùng, ông khẳng định quyết tâm sắt đá đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh, đồng thời cũng tuyên bố kỷ luật nghiêm minh của quân đội để răn đe những kẻ bạc nhược có ý ăn ở hai lòng.
“Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”. Đó cũng là thái độ nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn chỉ ra con đường: sống – chết, vinh – nhục; đạo thần chủ – kẻ nghịch thù để tướng sĩ thấy rõ chỉ có thể chọn một hoặc địch – hoặc ta chứ không có chỗ đứng cho những kẻ bàng quan thờ ơ trước thời cuộc.
4. Khẳng định và nêu suy nghĩ bản thân.
– Lời phủ dụ tướng sĩ của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ tại cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An có thể xem như một bài hịch ngắn gọn, lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, giọng điệu hào hùng mà ý tứ thật phong phú sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật khởi của dân tộc.
– Trí tuệ, tấc lòng của một vị vua vì nghĩa lớn đã mạnh hơn thiên kiến giai cấp của các tác giả. Chính vì vậy mà các tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã xây dựng một tượng đài bất hủ về người anh hùng Nguyễn Huệ – một hình ảnh hiếm thấy trong lịch sử.
– Tinh thần yêu nước là sợi chỉ hồng xuyên suốt, là một trong những giá trị nổi bật nhất của văn học Việt Nam. Các tác phẩm: Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Hoàng Lê nhất thống chí mãi là những viên ngọc quý của văn chương dân tộc, lấp lánh nguồn cảm hứng yêu nước. Tự hào về chiến công của cha ông khi phá Tống, đuổi Nguyên, bình Ngô, đạp Thanh… ta cần giữ gìn phát huy truyền thống ấy hơn nữa để xứng đáng là con Lạc, cháu Hồng.
Bài tập 2.
"Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược đánh đã có sẵn. Chẳng qua mười ngày nữa có thể đáng đuổi quân Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo nói mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười lăm năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có gì sợ chúng?"
(Trích Hồi thứ mười bốn, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô gia văn phái)
1. Đoạn văn trên là lời của nhân vật nào? (0,5 điểm)
Lời nói đó đã thể hiện được những phẩm chất nào của nhân vật ấy? (1,5 điểm)
2. Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí" (0,5 điểm)
3. Kể tên một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của văn học Trung Đại mà tên thể loại được ghi ngay trong tác phẩm.
Gợi ý:
1, * Đoạn văn trên là lời của nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích Hồi thứ mười bốn, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí (0,5 điểm)
* Lời nói đó thể hiện sự tự tin, quyết đoán, trí tuệ sắc sảo và đặc biệt là tầm nhìn xa trông rộng của một vị hoàng đế tài giỏi, hết lòng vì cuộc sống của nhân dân, chủ quyền của đất nước. (1,5 điểm)
2, Ý nghĩa nhan đề :
Hoàng Lê nhất thống chí : ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê (Không yêu cầu học sinh giải nghĩa của từ) (0,5 điểm)
3, Kể tên tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán: (0,5 điểm)
- Truyền Kì mạn lục, Vũ trung tùy bút,...
(học sinh chỉ cần nêu tên một tác phẩm)
Bài tập 3.: Hoàng Lê nhất thống trí là tác phẩm văn xuôi chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt những thành công xuất sắc về mặt nghệ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết của Văn học Việt Nam thời trung đại.
Trình bày ngắn gọn hiểu biết của em về tác giả bằng đoạn văn ngắn (5 - 7 câu).
Câu 2: Giải thích ý nghĩa nhan đề tác phẩm.
Câu 3: Tóm tắt hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
Câu 4: Tại sao gọi Hoàng Lê nhất thống chí là tiểu thuyết lịch sử.
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi từ câu số 5 tới câu số 10:
Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau ra mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán tới nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng ta làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. Ở các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài. Từ nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia. Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy dều là chuyện cũ rành rành của triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quân huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn…
Câu 5: Nêu ngắn gọn nội dung chính trong lời dụ của vua Quang Trung trong đoạn trích trên.
Câu 6: Trong câu “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”. Nhắc em nhớ tới tác phẩm nào đã học trong chương trình Ngữ văn THCS. Vua Quang Trung muốn khẳng định điều gì qua câu nói trên.
Câu 7: Em hãy giải thích nghĩa của từ “lương tri, lương năng”
Câu 8: Trong đoạn “ Đời Hán có Trưng Nữ Vương… các vua truyền ngôi lâu dài” giống với những câu thơ nào của Nguyễn Trãi. Từ đó, em hãy chỉ ra nét tương đồng về tư tưởng, thái độ của Nguyễn Trãi và vua Quang Trung.
Câu 9: Từ đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn diễn dịch khoảng 10 câu có sử dụng thành phần phụ chú và phép nối nêu về suy nghĩ của em về vấn đề: Tuổi trẻ Việt Nam hiện nay cần làm gì để thể hiện lòng yêu nước?
Câu 10: Qua đoạn trích em thấy vua Quang Trung hiện lên là người như thế nào?
Bài tập 4.Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi: từ câu 11 tới câu 15
Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỉ Dậu (1789) vua Quang Trung tới làng Hạ Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy rồi loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ra để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm lại làm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả hai mươi bức. Đoạn kém hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành chữ “nhất”, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ sung bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam nổi loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền gấp rút sau đội quân khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy đều cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới mà đánh.
Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái Thú Điều Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
Câu 11: Các sự việc trong đoạn trích trên được kể theo trình tự như thế nào?
Câu 12: Nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
Câu 13: Nêu cảm nghĩ của em về nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích trên.
Câu 14: Em có nhận xét gì về thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 15: Nhận xét về bút pháp tái hiện sự thực lịch sử của các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí qua đoạn trích hồi thứ mười bốn.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Hoàng Lê Nhất thống chí là cuốn tiểu thuyết chương hồi do một nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê khi quân Tây Sơn diệt chúa Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê đến khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn thống nhất đất nước.
Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772 – 1840) làm quan triều nhà Nguyễn.
Bảy hồi đầu là phần chính biên do Ngô Thì Chí viết, mười hồi tiếp theo là phần tục biên trong đó có 7 hồi là do Ngô Thì Du viết, 3 hồi cuối là sự chắp vá, ghép nối những sự việc từ thời Tự Đức, tương truyền do Ngô Thì Thuyết viết.
Câu 2: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm:
Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng chữ Hán ghi chép về sự thống nhất vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh, trả lại Bắc Hà cho vua Lê. Không chỉ dừng lại ở đó, cuốn tiểu thuyết này còn viết tiếp, tái hiện một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào những năm 30 cuối thể kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tất cả 17 hồi.
Câu 3: Tóm tắt
Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn ở Thăng Long phải tạm rút lui về Tam Điệp và cho người vào Phú Xuân cấp báo với Nguyễn Huệ.
Nhận được tin ngày 24/11 Nguyễn Huệ liền tổ chức lại lực lượng chia quân thành hai đạo thủy - bộ. Ngày 25/15 làm lễ tế trời đất, lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, vừa tiến quân vừa mở cuộc tuyển binh. Ngày 30 tháng Chạp, quân Quang Trung ra tới Tam Điệp, hội quân với Sở và Lân. Quang Trung khẳng định, chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người thanh. Ông cho mở tiệc khao quân, ngầm hẹn mùng 7 sẽ có mặt ở Thăng Long mở tiệc lớn. Tiếp đó, nghĩa quân lên đường, tới rạng sáng mùng 3 Tết thì bí mật bao vây đồn Ngọc Hồi, dùng kế sách để quân Thanh đầu hàng nhanh, hạ đồn dễ dàng. Rạng sáng ngày 5 Tết, nghĩa quân tấn công đồn Ngọc Hồi, quân giặc dùng mưu hèn nhưng cuối cùng vẫn bị ta đánh bại. Cuối cùng, quân Thanh phải đầu hàng, thái thú Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Trưa mùng 5 Tết, Quang Trung dẫn quân toàn thắng vào Thăng Long. Trong khi đó, vua tôi Lê Chiêu Thống và tướng giặc Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, bỏ chạy, tàn quân tháo chạy giẫm lên nhau mà chết.
Câu 4: Hoàng Lê nhất thống chí được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử vì:
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi đầu tiên có quy mô lớn của bộ sử thi. Tác phẩm mang giá trị về văn học và sử học.
Tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến đầy biến động cuối thể kỉ XVIII, những nhân vật ở tầng lớp trên của xã hội phong kiến không còn giữ đúng vai trò, trách nhiệm với dân. Trong triều đình, vua chúa tham quan sống sa đọa. Vua Cảnh Hưng cam chịu sống bạc nhược, Trịnh Tông trở thành con rối của đám kiêu binh. Vua tôi Lê Chiêu Thống bán nước, luồn cúi. Cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hồi này phản ánh rõ nét đời sống cơ cực của người dân dưới thời Lê mạt: bất ổn, đói khổ. Bên cạnh đó là hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn mà nổi bật là hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trí tuệ sáng suốt, có tài cầm quân, có công đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi.
Câu 5: Lời hiệu dụ của vua Quang Trung:
- Vua Quang Trung nêu hoàn cảnh lâm nguy của đất nước “quân Thanh sang xâm lấn nước ta”.
- Khẳng định chủ quyền dân tộc, nền độc lập tự cường của quốc gia.
- Nhắc lại cho nghĩa quân, tướng sĩ nhớ tới lịch sử đau thương của quốc gia dân tộc khi bị giặc đô hộ, xâm chiếm.
- Nêu tấm gương những người anh hùng đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc, để khơi dậy niềm tự hào, ý chí chiến đấu chống kẻ thù.
- Nêu rõ dã tâm của bọn giặc Thanh muốn mưu đồ cướp nước ta, và khẳng định kết cục thảm hại mà chúng phải nhận lấy.
- Quyết tâm giữ bờ cõi, khẳng định tướng lĩnh, nghĩa quân là người có lương tri, lương năng.
Câu 6: Trong câu “ Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị” gợi nhắc tới hai câu thơ trong bài Sông núi nước Nam tương truyền của Lý Thường Kiệt.
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời”
- Câu nói của vua Quang Trung có ý nghĩa khẳng định nền độc lập, tự cường của nước ta, đất nước có ranh giới lãnh thổ rõ ràng, có vua cai trị. Đồng thời đây cũng là câu nói nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trước mọi kẻ thù xâm lược.
Câu 7: Nghĩa của từ “lương tri” và “lương năng”.
Lương tri: Người có lương tấm, biết nhận thức đúng đắn, soi xét đúng sai.
Lương năng: người có tài năng, phẩm cách tốt.
Ý của vua Quang Trung: tất cả các tướng lĩnh, quân sĩ đều là những người biết phải trái, đúng sai, đều là những người có lương tâm, biết yêu nước thương dân.
Vua Quang Trung dùng cách nói này để khích lệ lòng tự tôn dân tộc của quân sĩ.
Câu 8: Trong bài Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi có viết.
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.
Xong hào kiệt đời nào cũng có”
- Điểm tương đồng trong tư tưởng của Nguyễn Trãi với Quang Trung:
+ Khẳng định sự tồn tại độc lập, bình đẳng của nước Nam với phương Bắc.
+ Nước ta đời nào cũng có anh hùng hào kiệt.
+ Tác giả nêu tấm gương sáng, ngợi ca anh hùng hào kiệt trong lịch sử và lên án hành động cướp nước, xâm lược của phương Bắc.
Câu 9:
- Tuổi trẻ Việt Nam khi thể hiện lòng yêu nước.
Tuổi trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo vận mệnh, tương lai non sông đất nước vì vậy tuổi trẻ cần hiểu được vị trí quan trọng của mình.
+ Vốn tri thức, đạo đức được rèn luyện từ nhà trường là nền tảng cơ bản để thực hành trong đời sống.
+ Tuổi trẻ phải nỗ lực không ngừng học hỏi, phát triển về khoa học, kĩ thuật để bắt kịp với sự phát triển của thế giới.
+ Tuổi trẻ cần nuôi dưỡng trong mình tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, niềm tự tôn dân tộc.
+ Cần ý thức việc trau dồi tri thức và đạo đức ngay khi còn trẻ.
Câu 10: Vua Quang Trung trong đoạn trích trên:
Trước hết, vua Quang Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán:
+ Nghe tin giặc tới Thăng Long ông vội vã đốc xuất đại binh ra Bắc.
+ Là người sáng suốt, nhạy bén:
Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, ông đã lên ngôi hoàng đế để chính danh ra dẹp giặc.
- Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch, ta.
+ Quang Trung khích lệ tướng lính bằng những những lời nói chân thành, những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập.
- Tầm nhìn chiến lược, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập của vua Quang Trung đã góp phần làm nên chiến thắng thần tốc đại phá quân Thanh.
Câu 11: Các sự việc trên được kể theo trình tự tuyến tính, trình tự thời gian (3/1 - 5/1 tết Kỉ Dậu).
Câu 12: Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu: “Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.”
Biện pháp nói quá trong chi tiết “thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối” nhằm nhấn mạnh tới sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 13: Cảm nghĩ về nhân vật vua Quang Trung.
- Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người.
+ Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn làm chúng ta kinh ngạc, chiến thắng thần tốc.
+ Vừa hành quân vừa đánh giặc mà vua Quang Trung lên kế hoạch từ trước đã chiến thắng sớm hơn dự định 2 ngày.
- Hình ảnh vua Quang Trung oai phong lẫm liệt:
+ Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy khiến nghĩa quân Tây Sơn đánh thắng kẻ thù.
+ Hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với áo bào đỏ sạm đen khói súng.
- Hình ảnh người anh hùng được khắc họa đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người có tổ chức và linh hồn của chiến công vĩ đại.
Câu 14: Thái độ của tác giả
- Ca ngợi trí tuệ, chiến lược của vua Quang Trung: tài dụng binh như thần, lẫm liệt trong trận chiến…
- Tỏ thái độ căm ghét, khinh thường trước sự thất bại thảm hại của quân giặc.
Câu 15: Khi các tác giả Ngô Thì, các tác giả chủ ý viết lại lịch sử, không phải sự sáng tạo văn học. Tâm lý này xuất phát từ việc người trung đại xem tiểu thuyết là thứ thấp kém, không có ý nghĩa với việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
- Nhưng Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm văn chương đích thực, chính điều này làm nên sự trường tồn của tác phẩm.
- Sự kết hợp giữa sáng tạo, gia công kết hợp giữa ngòi bút chân thực , nghiêm ngặt với bút pháp viết linh hoạt đã giúp người viết tái hiện một thời kì lịch sử dữ dội TK XVIII:
+ Sự kiện lịch sử được ghi chép cụ thể, chính xác với các mốc thời gian, địa điểm, không gian rõ ràng, tạo sự tin cậy cho người đọc.
+ Nhóm tác giả không chỉ dựa trên sự kiện đơn thuần mà còn chỉ ra bản chất của hiện thực, vẫn giữ nguyên lịch sử nhưng lại xây dựng hình tượng chân dung con người đại diện cho cả hai phía.
+ Lời văn miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa giọng kể khách quan, đơn sắc của người viết sử với giọng kể đầy xúc cảm của người sáng tạo văn học.
*****************************************************
CHUYÊN ĐỀ 3.
CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH – Phạm Đình Hổ
I) KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả:
- Phạm Đình Hổ (1768-1839), quê ở tỉnh Hải Dương.
- Ông sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư.
- Ông để lại nhiều công trình biên soạn,khảo cứu có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực bằng chữ Hán.
2. Tác phẩm:
- Thể loại: Tùy bút trung đại là một thể văn thuộc loại hình kí, ghi chép những sự việc, con người, phong tục tập quán, những sự kiện cụ thể có thực, qua đó, tác giả bộc lộ những cảm xúc, suy tư và nhận xét, đánh giá của mình.
- “Vũ trung tùy bút”( Tùy bút viết trong những ngày mưa) được viết vào khoảng đầu đời Nguyễn ( đầu thế kỉ XIX).
- Gồm 88 mẩu chuyện nhỏ viết theo thể tùy bút.
- “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” ghi chép về cuộc sống nơi phủ chúa thời Thịnh Vương Trịnh Sâm.
( Mở rộng: Lúc mới lên ngôi, Trịnh Sâm là con người “cứng rắn, thông minh, quyết đoán,sáng suốt,trí tuệ hơn người” nhưng dần dần kiêu căng, đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, ăn chơi hưởng lạc. Chúa say mê Đặng Thị Huệ, phế con trưởng, lập con thứ gây nhiều biến động, các vương tử tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau,đất nước hỗn loạn, đời sống nhân dân cực khổ. Đó chính là hiện thực đen tối của lịch sử nước ta thời đó.)
* Bố cục (2 đoạn)
- Đoạn 1 (Từ đầu đến “triệu bất tường”): Cuộc sống sa hoa, hưởng lạc của chúa Trịnh Sâm
- Đoạn 2 (Đoạn còn lại) : Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền
* NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT
1. Nội dung:
- Đoạn trích đã phản ánh đời sống xa hoa của phủ chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh.
2. Nghệ thuật:
- Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động:
+ Các chi tiết, sự việc miêu tả về thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và quan lại được đưa ra cụ thể, sinh động, chân thực, khách quan, để tự sự việc lên tiếng nói, đem lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
+ Với thể loại tùy bút, các sự việc được ghi chép theo cảm hứng chủ quan, tản mạn, không gò bó theo hệ thống, kết cấu chặt chẽ, nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, đó là thái độ phê phán thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan lại hậu cần
II – Đọc - hiểu văn bản:
1. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận:
a. Thú chơi đèn đuốc, thú dạo chơi:
- Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở khắp nơi để thỏa thú chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp. Ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa vì việc xây dựng đình đài cứ liên miên, hao tiền tốn của.
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả rất tỉ mỉ:
+ Diễn ra thường xuyên “mỗi tháng ba bốn lần”.
+ Huy động rất đông kẻ hầu người hạ “Binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các nội thần, quan hộ giá, bọn nhạc công.
+ Còn bày đặt nhiều trò chơi giải trí lố lăng và tốn kém:
_ Giả trò mua bán: “các nội thần thì đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”, để “Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ”.
_ Bố trị dàn nhạc khắp nơi để tấu nhạc làm vui: “bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.
=> Kể, tả một cách chân thực, cụ thể, sinh động có tính liệt kê.
=> Tốn kém, lố lăng, xô bồ và thiếu văn hóa.
b. Thú chơi cây cảnh:
- Ngoài ra, chúa còn cho tìm thu, thực chất là cướp đoạt những của quý trong thiên hạ: “những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian” về tô điểm nơi phủ chúa.
- Chúa còn lấy cả một cây đa to, cành lá rườm rà, rễ dài đến vài trượng từ bên Bắc chở qua sông đem về, phải một cơ binh hàng trăm người mới khiêng nổi.
- Trong phủ bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non.
=> Các sự việc vẫn kể một cách chân thực, khách quan, không xen lời bình của tác giả, nhiều từ Hán Việt, có liệt kê và miêu tả tỉ mỉ vài sự kiện để khắc họa ấn tượng.
* Cảnh nơi phủ chúa được miêu tả là cảnh thực được bày vẽ, tô điểm như “bến bể đầu non”, xa hoa lộng lẫy. Nhưng âm thanh lại gợi những cảm giác ghê rợn, bí hiểm, ma quái trước một cái gì đang tan tác đau thương, chứ không phải trước cảnh đẹp yên bình,phồn thực. “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng,tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cảm xúc chủ quan của tác giả đến đây mới được bộc lộ, nhất là khi ông xem đó là “triệu bất tường”- tức là điểm gở, điểm chẳng lành. Nó như báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết chăm lo đến việc ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của dân lành. Và lịch sử cũng đã ứng nghiệm: sau khi Thịnh Vương mất thì nhà Trịnh cũng đi vào hồi kết, khép lại một trang sử thấm đẫm những bi kịch và cũng là để mở ra một trang sử khác với những bi kịch mới báo trước sự suy vong tất yếu của chế độ phong kiến Việt Nam.
2. Sự tham lam,nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ chúa:
- Bọn hoạn quan hậu cần trong phủ chúa rất được sủng ái, bởi chúng giúp chúa đắc lực trong việc bày các trò ăn chơi hưởng lạc.
- Ỷ thế hoành hành, tác oai, tác quái. Thủ đoạn của chúng là thủ đoạn vừa ăn cướp, vừa la làng:
+ Ra ngoài dọa dẫm.
+ Dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay,thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” (dâng chúa ).
+ Đêm đến lẻn ra thành, sai lính đem về, có khi phá nhà hủy tường để đưa cây hoặc non bộ đi.
+ Dọa nạt tống tiến bằng cách vu cho là giấu vật cung phụng.
=> Đây là thái độ nhũng nhiễu, ngang ngược của bọn hoạn cung giám “nhờ gió bẻ măng”,ỷ thế nhà chúa mà ngang nhiên hoành hành, tác oai tác quái, giở trò bịp bợm,dùng mọi thủ đoạn để dọa dẫm lấy tiền cướp của của nhân dân. Điều bất công vô lí ở đây là những tên hoạn quan đó vừa vơ vét ních đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc nhà chúa. Chúng đã khiến cho dân chúng quanh vùng phải rơi vào một cuộc sống bất ổn, cơ cực,khi thì phải bỏ của ra để kêu oan, khi thì phải tự mình đập bỏ núi non bộ, chặt cây cảnh để tránh tai vạ…
- Để tăng thêm sức mạnh tố cáo, tác giả kể thêm một sự việc của chính gia đình mình: bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý, có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai họa. Tác giả còn nêu những địa danh “phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương” -> càng làm tăng thêm tính chân thực và vì thế sức thuyết phục càng lớn. -> Tác giả kín đáo bày tỏ thái độ căm giận trước một vương triều thối nát.
Câu hỏi 3, sgk, trang 63: Theo em, thể văn “tùy bút” trong bài có gì khác so với thể “truyện” mà các em đã học ở bài trước?
=> Trả lời:
- Tùy bút: ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể có thực. Qua đó tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, đánh giá của mình. Sự ghi chép ở đây là theo cảm hứng chủ quan, không gò bó theo hệ thống kết cấu, lối ghi chép của tùy bút giàu chất trữ tình.
- Truyện: hiện thực của cuộc sống được phản ánh thông qua số phận con người cụ thể, có cốt truyện, có nhân vật. Cốt truyện được triển khai,nhân vật được khắc họa nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng,và cả những chi tiết tưởng tượng, hoang đường.
III . LUYỆN TẬP
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 - 1775) trong nước vô sự, Thịnh Vượng (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đền đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hồ vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần thì đều bịt kín khăn, mặc áo như đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.
Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt nào?
Câu 2: Nội dung của đoạn trích trên là gì?
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 3 tới câu 7:
Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài ra đến vài trượng, phải một cơ binh khiêng mới nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tùy chỗ điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường.
Câu 3: Trong đoạn trích trên câu nào sử dụng biện pháp liệt kê, nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.
Câu 4: Hình ảnh chúa trong đoạn trích trên được thể hiện như thế nào?
Câu 5: Nhận xét thái độ của tác giả trong đoạn trích trên.
Câu 6: Nhận xét cách ghi chép của tác giả.
Câu 7: Ấn tượng về cảnh đêm nơi vườn chúa được miêu tả thế nào?
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ câu 8 tới câu 12
Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậy trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân binh lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá hủy tường nhà để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ.
Câu 8: Đoạn trích trên sử dụng chủ yếu phương thức biểu đạt nào?
Câu 9: Bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng nhưng thủ đoạn nào?
Câu 10: Hình ảnh người dân trong đoạn trích như thế nào?
Câu 11: Qua đoạn trích em cảm nhận về tình trạng nước ta thời vua Lê - Trịnh thế nào?
Câu 12: Theo em thể văn tùy bút có gì khác so với những thể truyện các em đã học ở bài trước.
Câu 13: Qua Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, em có nhận xét gì về cách viết kí của Phạm Đình Hổ.
Hướng dẫn trả lời
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính: tự sự.
Câu 2: Nội dung: Thói ăn chơi xa đọa của vua chúa và nhũng nhiễu của bọn vua chúa, quan lại thời Trịnh được Phạm Đình Hổ miêu tả rất cụ thể, sinh động.
+ Chúa cho xây dựng đền đài, cung điện ở khắp nơi liên miên, thỏa ý thích chơi đèn đuốc, ngắm cảnh đẹp.
+ Chúa bày ra các cuộc dạo chơi tốn kém ở li cung: tháng ba lần, huy động binh lính dàn hầu bốn mặt hồ.
+ Nơi linh thiêng của phật giáo cũng trở thành nơi hòa nhạc của bọn vũ công.
Câu 3: Câu văn sử dụng biện pháp liệt kê: “Buổi ấy, biết bao nhiêu những loại trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.
Các từ ngữ liệt kê: trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh.
- Nhấn mạnh những thứ quý hiếm trong dân gian đều bị chúa ra sức vơ vét, chiếm làm của riêng. Chúa Trịnh là kẻ tham lam, tàn ác.
Câu 4: Hình ảnh chúa Trịnh trước ngòi bút miêu tả của tác giả Phạm Đình Hổ.
- Dùng quyền lực để cướp bóc những thứ của quý trong thiên hạ về tô điểm cho phủ chúa.
- Cảnh điển hình của cuộc cướp đoạt: bọn lính tráng khiêng một cây đa cổ thụ về phủ chúa.
- Tác giả miêu tả kĩ lưỡng, công phu, bằng ngôn từ chân thật, sống động.
Câu 5: Tác giả thể hiện thái độ căm ghét, phẫn nộ trước hành động tham lam của bọn quan lại, đặc biệt là hành động cướp bóc thức quý hiếm trong dân gian của chúa.
- Tác giả đau xót trước hiện trạng đất nước ngày càng suy yếu, còn vua chúa sa đọa, quan lại thì nhũng nhiễu, vơ vét đầy túi.
Câu 6: Cách ghi chép của tác giả trong đoạn trích: ngòi bút chân thực, việc ghi chép cụ thể, sinh động.
Câu 7: Cảnh tượng vườn đêm của chú được miêu tả bằng một câu liệt kê dài: “ Mỗi khi cảnh đêm thanh vắng… là triệu bất thường.”
- Cảnh được miêu tả là cảnh thực, gợi lại cảm giác ghê rợn trước cái tan tác, đau thương chứ không phải cảnh yên bình.
- “Triệu bất thường”, hình ảnh ẩn dụ cảnh bất thường của đêm thanh vắng như báo trước sự suy vong tất yếu của triều đại chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ.
Câu 8: Đoạn trích trên sử dụng phương thức tự sự là chủ yếu.
Câu 9: Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại ở phủ chúa.
- Thời chúa Trịnh Sâm, bọn quan lại lớn nhỏ trong phủ đều được sủng ái, chúng là tay chân đắc lực bày ra các trò ăn chơi, hưởng lạc cho chúa.
- Chúng ỷ thế vào chúa để ra ngoài ăn chơi, hưởng lạc, sách nhiễu dân chúng: “bọn hoạn quan cung giám thường nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”.
- Bọn quan lại ra sức cướp bóc, trấn lột khắp nơi, chúng “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Câu 10: Hình ảnh người dân khốn đốn, khổ cực, bị vu oan, bị đòi tiền trước những cuộc ăn cướp của bọn quan lại, tay sai.
+ Nhà giàu bị họ vu cho giấu của cung phụng, phải bỏ của ra kêu van chí chết.
Câu 11: Cảm nhận về tình trạng của đất nước thời vua Lê - chúa Trịnh.
- Thời đại phong kiến Lê Trịnh là thời đại thối nát, mục ruỗng, quan lại không chăm lo cho dân chúng mà ra sức cướp bóc, hà hiếp dân chúng.
- Vua chúa bày ra những trò lố lăng, kịch cỡm, tốn kém để ăn chơi, tiệc tùng.
- Nhân dân không chỉ chịu đói khổ mà còn chịu ấm ức bởi bị ấm ức vì bị bóc lột, ăn cướp.
→ Triều đại thối nát, mục riễng dự báo tiền đồ, triều ấy sụp đổ là điều không tránh khỏi.
Câu 12: Sự khác nhau giữa tùy bút với thể truyện mà em đã học từ trước.
Thể loại tùy bút | Thể loại truyện |
- Ghi chép về những con người, những sự việc cụ thể, qua đó tác giả bộc lộ suy nghĩ, nhân thức, đánh giá của mình với cuộc sống, con người. - Sự ghi chép tùy theo cảm hứng, có thể lãng mạn, không có kết cấu gì nhưng vẫn tuân theo tư tưởng cảm xúc chủ đạo. - Lối ghi chép tùy bút giàu chất trữ tình ở các loại ghi chép khác. | - Hiện thực cuộc sống được thông qua số phận những con người cụ thể, có cốt truyện, nhân vật. - Cốt truyện được triển khai, nhân vật được khắc họa nhờ hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng bao gồm chi tiết, xung đột, tâm lý nhân vật… |
+ Cách viết linh hoạt, lối ghi chép tự nhiên, mạch lạc, logic.
+ Lối viết chân xác, cụ thể với nhiều thông tin đáng tin cậy.
+ Sự kết hợp giữa cách tái hiện hiện thực khách quan, điềm đạm tưởng chừng như tác giả lạnh lùng của tác giả với những chi tiết được đưa vào tác phẩm một cách đầy đủ dụng ý.
+ Tùy bút của tác giả không bóng bẩy, hoa mĩ như thường thấy ở các cây bút hiện đại nhưng chất trữ tình của thiên bút kí vẫn toát lên qua những cảm xúc được gửi qua những trang viết.
ĐỀ : Viết đoạn văn từ 10 – 15 dòng nêu ý nghĩa của đoạn văn sau:
“Nhà ta ở phường Hà Khẩu … cũng vì cớ ấy”.
GỢI Ý:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm: đoạn văn được trích trong văn bản “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ.
- Tác giả kể lại một sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình. Bà mẹ của tác giả đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai họa.
- Ý nghĩa:
+ Cách dẫn dắt câu chuyện làm tăng sức thuyết phục cho những chi tiết chân thực mà tác giả đã ghi chép, cách viết phong phú và sinh động.
+ Qua đó cảm xúc của tác giả (thái độ bất bình, phê phán), cảm xúc được gửi gắm một cách kín đáo. Sự vật được kể mang tính khách quan.
+ Thủ đoạn của bọn hoạn quan khiến cho người dân phải tự hủy bỏ cây quý của nhà mình.
* Liên hệ: Trong xã hội phong kiến thời Chúa Trịnh cuộc sống của nhân dân khổ cực, oan uổng, luôn phải sống trong sợ hãi, vô lí, bất công. Một xã hội thối nát đáng để chúng ta lên án.
ĐỀ BÀI: Phân tích văn bản : “ Chuyện cũ trong phủ chúa trịnh”
Dàn ý phân tích :
I. Mở bài
- Giới thiệu những nét cơ bản nhất về tác giả Phạm Đình Hổ và tác phẩm Vũ trung tùy bút: Một tác giả mang cốt cách thanh cao của kẻ sĩ Bắc Hà lo cho dân, cho nước. Vũ trung tùy bút là tác phẩm đặc sắc tiêu biểu của ông với bút pháp nghệ thuật tinh tế
- Vài nét về đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”: phản ánh đời sống sa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê- Trịnh, đưa đến một góc nhìn chân thực về sự đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ
II. Thân bài
1. Thói ăn chơi hưởng lạc sa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm
- Sự xa hoa trong cuộc sống của chúa Trịnh Sâm đã được ghi chép lại chân thực, tỉ mỉ:
+ Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài chỉ để thỏa mong muốn “thích chơi đèn đuốc”
+ Việc xây dựng đền đài vì mục đích cá nhân này đã làm cho nhân dân hao tiền tốn của
+ Chúa thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi Tây Hồ ba bốn lần một tháng, mỗi cuộc dạo chơi lại huy động rất nhiều người hầu hạ cùng những trò giải trí lố lăng, tốn kém
+ Việc tìm thu vật “phụng thủ” chính là cướp đoạt những vật quý giá trong thiên hạ. Việc tập trung miêu tả việc đưa một cây đa cổ thụ về ừ bên kia sông, cần tới cơ binh hàng trăm người ⇒ sự kì công, cũng cho thấy sự sa hoa tốn kém
⇒ Thói ghi chép tỉ mỉ, chân thực, khách quan, không đưa thêm bất cứ một lời bình luận nào nhưng cũng đủ để cho thấy sự xa xỉ ăn chơi, không màng đến quốc gia đại sự của một người nắm binh quyền ⇒ Sự dự báo trước sụp đổ, suy vong là điều không tránh khỏi đối với một triều đại chỉ ăn chơi hưởng lạc
2. Sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền
- Sự sa hoa hưởng lạc của người đứng đầu đưa đến thói nhũng nhiễu của quan lại dưới trướng:
+ Bọn hoạn quan được sủng ái vì giúp vua trong những trò chơi sa hoa nên ỷ thế hoành hành, tác oai tác quái
+ Chúng tìm thu vật “phụng thủ” mà thực ra chính là vừa ăn cướp, vừa la làng ⇒ người dân bị cướp đến hai lần, hoặc phải tự hủy bỏ những sản vật quý giá của mình, mà chúng thì lại vừa vơ vét làm của riêng lại vừa được tiếng mẫn cán
+ Phạm Đình Hổ kể câu chuyện từ chính gia đình mình khi bà mẹ ông phải sai chặt đi một cây kê và hai cây lựu quý chỉ vì muốn tránh tai họa ⇒ Càng tăng sức thuyết phục cho sự chân thực của những ghi chép
⇒ Qua cách ghi chép, tác giả đã kín đáo bộc lộ thái độ bất bình, phê phán của tác giar
III. Kết bài
- Khái quát lại những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công nội dung của đoạn trích: Cách ghi chép hết sức tỉ mỉ, chân thực, ngòi bút Phạm Đình Hổ là một ngòi bút trầm tĩnh mà sâu sắc,...
- Tác phẩm không chỉ mang giá trị văn chương mà còn mang giá trị lịch sử đáng ghi nhận
- Mở rộng trình bày suy nghĩ bản thân về những nội dung phản ánh trong đoạn trích
***************************************************
CHUYÊN DỀV4. NGUYỄN DU VÀ "TRUYỆN KIỀU".
Tác giả:
Nguyễn Du (1765-1820), tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên.
Quê hương và gia đình:
Quê hương:Quê ông ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Đó là một vùng quê nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt nhưng cũng là địa linh, nơi sinh ra những bậc anh tài, hào kiệt.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở kinh thành Thăng Long nghìn năm văn hiến, lộng lẫy và hào hoa.
Gia đình:
Nguyễn Du xuất thân trong một gia đinh đại quí tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh và có truyền thống về văn học:+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng ở ngôi Tể tướng mười lăm năm.
+ Mẹ ông là Trần Thị Tần, vợ thứ, người Bắc Ninh, có tài hát xướng.
+ Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh.
-> Vì thế, mà lúc bấy giờ, trong dân gian người ta thường truyền tụng câu ca:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây Sông Rum hết nước họ này hết quan”.
( “Ngàn Hống”: núi rừng Hồng Lĩnh; “Sông Rum” : sông Lam, ở đây là chữ Nôm cổ. Ý cả câu: Khi nào mà núi rừng Hồng Lĩnh không còn cây, dòng sông Lam không còn nước thì lúc đó dòng họ này mới hết người làm quan)
Thời đại:
Nguyễn Du sống vào nửa cuối TK XVIII – nửa đầu TK XIX trong hoàn cảnh xã hội có nhiều biến động dữ dội:+ Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, chém giết lẫn nhau, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, xã hội loạn lạc, tăm tối. Nhà thơ Chế Lan Viên đã viết về thời đại Nguyễn Du sống:
Cha ông ta từng đấm nát tay trước cánh cửa cuộc đời Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khoá
Những pho tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.
+ Bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi,đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.
Thời đại ấy đã được Nguyễn Du viết trong “Truyện Kiều” bằng hai câu thơ mở đầu:
“Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Cuộc đời:
Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, bản thân lại có năng khiếu văn chương nhưthời đại Nguyễn Du do những biến động xã hội nên gia đình cũng như bản thân ông cũng có những thăng trầm, sa sút.Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, cuộc đời Nguyễn Du phải trải qua những năm tháng gian truân, trôi dạt, vất vả, long đong ( Trải qua “mười năm gió bụi” Nguyễn Du lang thang hết ở quê vợ, rồi quê mẹ, quê cha trong nghèo túng, hết sức khổ cực và tủi nhục).
Nguyễn Du có ra làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, ông giữ nhiều chức vụ khác nhau: Tham tri bộ Lễ, Cai bạ Quảng Bình, Chánh sứ bộ…Nhưng đó là những năm tháng làm quan bất đắc chí.
Ông mất tại Huế năm 1820, thọ năm mươi lăm tuổi.
Bản thân:
Là người có hiểu biết sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.Nhà thơ đã sống nhiều năm lưu lạc, tiếp xúc với nhiều con người, nhiều cảnh đời, nhiều số phận khác nhau, đã tạo cho ông một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với mọi kiếp người bị đày đọa.
Nguyễn Du là người có trái tim giàu lòng nhân ái, nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông hàm chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn thơ Việt Nam.
Sự nghiệp sáng tác:
Nguyễn Du là tác giả có nhiều thành tựu kiệt xuất về văn chương, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển.Về thơ chữ Hán, ông có ba tập thơ:
+ “Thanh Hiên thi tập” ( 78 bài) được viết trước khi ông ra làm quan cho nhà Nguyễn.
+ “Nam trung tạp ngâm”(40 bài) viết trong thời gian ông ở Huế, Quảng Bình.
+ “Bắc hành tạp lục” ( 131 bài) viết trong thời gian Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc.
Về chữ Nôm: có bài “Văn chiêu hồn” ( Văn tế thập loại chúng sinh) được viết theo thể thơ song thất lục bát dài 184 câu. Đặc biệt là “Truyện Kiều”, với tác phẩm này đã đưa Nguyễn Du lên đỉnh cao của nền thi ca dân tộc, xứng đáng được tôn vinh “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư”.
=> Tiểu kết: Năng khiếu văn chương, vốn sống phong phú kết tinh ở một trái tim yêu thương vĩ đại đối với con người trong một bối cảnh lịch sử cụ thể đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Thiên tài ấy được thể hiện trước hết ở tác phẩm “Truyện Kiều”.
Tác phẩm:
Nguồn gốc và sự sáng tạo:
Nguyễn Du viết “Truyện Kiều” vào đầu thế kỉ XIX( 1805 –1809). Truyện dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc). Lúc đầu, Nguyễn Du đặt tên là “Đoạn trường tân thanh” ( Khúc ca mới đứt ruột hay Tiếng kêu đứt ruột) say này, người ta quen gọi là “Truyện Kiều”.
Một biểu hiện nữa về sự sáng tạo của Nguyễn Du qua “Truyện Kiều” là:
+ “Kim Vân Kiều truyện” viết bằng chữ Hán, thể loại văn xuôi, có kết cấu thành từng chương (hồi). Toàn bộ tác phẩm gồm 20 chương.
+ Đến Nguyễn Du đã trở thành tác phẩm trữ tình,viết bằng chữ Nôm, theo thể lục bát có độ dài 3254 câu. Ông đã có những sáng tạo lớn về nhiều mặt nội dung cũng như nghệ thuật.
Tóm tắt tác phẩm: ( Đọc trong sgk )
Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước.Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.
Phần thứ ba: Đoàn tụ.
Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Về nội dung:Giá trị hiện thực:
Phơi bày hiện thực xã hội phong kiến bất công.
Phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Giá trị nhân đạo: Giá trị chính của “Truyện Kiều” là giá trị nhân đạo. Giá trị này được thể hiện ở hai phương diện sau:
“Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người:
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về một tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy trong xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn hết sức khắc nghiệt. Mối tình Kim – Kiều được xem như là bài ca tuyệt đẹp về tình yêu lứa đôi trong văn học dân tộc.
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng công lí tự do, dân chủ giữa một xã hội bất công, tù túng đầy ức chế, tàn bạo. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải – người anh hùng hảo hán, một mình dám chống lại cả cái xã hội bạo tàn ấy. Từ Hải là khát vọng của công lí, là biểu tượng cho tự do dân chủ.
+ Viết “Truyện Kiều”, Nguyễn Du còn ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người: vẻ đẹp tài sắc, trí tuệ thông minh,lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, ý thức vị tha, đức thủy chung. Thúy Kiều, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó!
“Truyện Kiều” còn là tiếng nói lên án các thế lực tàn bạo,chà đạp lên quyền sống con người. Thế lực tàn bạo đó, khi là bộ mặt bọn quan lại tham lam, đê tiện, bỉ ổi – đầu mối của mọi xấu xa trong xã hội ( Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà…), có khi lại là sự tàn phá, hủy diệt hung hiểm của đồng tiền trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, trong tay bọn người bất lương tàn bạo đã phát huy tất cả sức mạnh của nó, đổi trắng thay đen, biến con người thành thứ hàng hóa để mua bán.
Về nghệ thuật:
Tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại.Với “Truyện Kiều”,ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
Với “Truyện Kiều”,nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.
=> Từ tất cả những giá trị nội dung và nghệ thuật của “Truyện Kiều”, chúng ta có thể khẳng định:
“Truyện Kiều” chính là một kiệt tác trong văn học trung đại nói riêng và văn học dân tộc nói chung.* Nhận xét về “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường chủ nhân có nói:
“…Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời, thì tài nào có bút lực ấy…”
Ảnh hưởng của tác phẩm:
“Truyện Kiều” hàng trăm năm được lưu truyền rộng rãi và có sức chinh phục lớn đốivới mọi tầng lớp độc giả.
+“Truyện Kiều” không biết tự bao giờ đã đi vào đời sống của nhân dân, và đã trở thành lời ăn tiếng nói của những người dân bình dị nhất cho đến những người trí thức, am hiểu về văn chương bác học.
+ Trong ca dao, người ta thấy có rất nhiều câu có vận dụng những hình ảnh trong “Truyện Kiều”. Ví dụ:
“Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Liễu xa đào liễu ngả liễu nghiêng.
Anh xa em như bến xa thuyền.
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng, biết mấy niên cho tái hồi!”
+ “Truyện Kiều” đã trở thành sức sống của dân tộc, là thứ thưởng ngoạn cho tao nhân mặc khách của mọi thời. Có câu:
“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo, xem Nôm Thúy Kiều”.
“Truyện Kiều” còn được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Người ta đã dịch“Truyện Kiều” ra nhiều thứ tiếng và nhiều người nước ngoài đã nghiên cứu về “Truyện Kiều”.
Tổng kết:
Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.
“Truyện Kiều” là một kiệt tác văn học, được lưu truyền rộng rãi và chinh phục nhiều thế hệ người đọc từ xưa đến nay.
Rất nhiều những nhà văn, nhà thơ đã viết về “Truyện Kiều”:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!”
( Tố Hữu )
Đã mấy trăm năm trôi qua rồi, nhưng “Truyện Kiều” vẫn có sức sống mãnh liệt trong dân tộc Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã thay chúng ta trả lời cho Nguyễn Du câu hỏi mà người nhắn nhủ:
“Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
VĂN BẢN:: CHỊ EM THÚY KIỀU
CẢNH NGÀY XUÂN,
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
I.Kiến thức trọng tâm:
*. Tác phẩm
Ý nghĩa nhan đề:
Đoạn trường tân thanh: tiếng kêu mới đến xé lòng, đứt ruột bộc lộ chủ đề (tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ.
*Nội dung:
Phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và các thế lực đen tối chà đạp lên quyền sống, hạnh phúc của con người. Truyện phơi bày nỗi khổ của con người bị áp bức đặc biệt những người yếu thế, phụ nữ. Ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người: tài hoa, lòng hiếu thảo, bao dung, yêu thương…
*Nghệ thuật
Truyện Kiều đạt đến đỉnh cao của ngôn ngữ văn học giàu và đẹp đạt đến đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật.
- Ngôn ngữ tự sự có sự phát triển vượt bậc
+ Ngôn ngữ kể chuyện có 3 hình thức: trực tiếp, nửa trực tiếp. Nhân vật trong truyện xuất hiện với con người hành động và con người cảm nghĩ.
+ Nghệ thuật khắc họa nhân vật: khắc họa theo phương thức tự sự, miêu tả bằng một vài nét chấm phá.
+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đa dạng, bên cạnh thiên nhiên chân thực, đặc biệt những bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
* CÁC DẠNG ĐỀ THƯỜNG GẶP.
Cảm nhận vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
Cảm nhận bức tranh cảnh ngày xuân trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”.
Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
II.Phân tích:
Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Nguyễn Du là thiên tài văn học, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
“Truyện Kiều” của ông được coi là kiệt tác ngàn đời trong kho tàng văn chương dân tộc.
Vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Dưới cái nhìn trân trọng và mến thương, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả được vẻ đẹp đặc sắc của hai cô con gái nhà họ Vượng. Vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều cũng như vẻ đẹp của từng người đã được Nguyễn Du khắc họa một cách rõ nét bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.
Giới thiệu khái quát nhân vật:
Mở đầu đoạn thơ, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giới thiệu cổ điển, trang trọng rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng:Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Tiếp đến, tác giả giới thiệu một cách khái quát nét đẹp chung và riêng của hai chị em:
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ”.
-> Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người.
Vẻ đẹp của Thúy Vân:
Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân, tác giả viết:Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
+ Chỉ hai chữ “trang trọng” đã gợi tả ở Vân một vẻ đẹp cao sang, quí phái. Vẻ đẹp ấy được so sánh với cái đẹp chuẩn mực của thiên nhiên
như “trăng”,”hoa”,”mây”,”tuyết”,”ngọc”. Dưới ngòi bút cuả thi nhân, chân dung Thúy Vân hiện ra toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc đến nụ cười giọng nói.
Khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm, lông mày sắc nét như mày ngài, miệng
cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, ý tứ. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, ắt hẳn Vân sẽ có cuộc đời bình yên, không sóng gió.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều:
Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả đã khái quát:Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn.
Như vậy, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn. Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”,”mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
-Vẫn là những hình tượng nghệthuật ước lệ được nhà thơ sửdụng đểgợi tảnhan sắc nàng Kiều:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước, nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Song thi nhân không thiên về cụ thể như tả Thúy Vân mà ở đây, ông chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”– vẽ hồn của chân dung. “Làn thu thủy nét xuân sơn” – những hình ảnh ẩn dụ gợi đôi mắt trong sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cô Kiều hiện lên với vẻ đẹp khiến hoa phải ghen, liễu phải hơn, nước phải nghiêng, thành phảiđổ. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy,tả sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy. “Nghiêng nước nghiêng
thành” là cách nói sáng tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người.
Tạo hóa không chỉ ban cho nàng vẻ đẹp tuyệt vời mà còn phú cho nàng trí tuệ thông minh tuyệt đối:
Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậcngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương.
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Tài năng của Kiều đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, đủ cả cầm – kì – thi – họa. Chỉ riêng tài thơ của nàng cũng đã làm nhiều người khâm phục. Chẳng hạn, lúc đi tảo mộ “Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần”, hay khi buộc phải cầm bút đề thơ trước cửa quan liền được khen ngợi “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả “ làu bậc ngũ âm”. Nàng đã soạn riêng một khúc Bạc mệnh mà ai nghe cũng não lòng. Đây chính là biểu hiện của một con người có trái tim đa sầu,
đa cảm.
=> Tả sắc, tài của Thúy Kiều là Nguyễn Du muốn ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp: sắc – tài – tình đều đạt đến mức tuyệt vời.
=> Chân dung của Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Ngòi bútNguyễn Du đã nhuốm màu định mệnh. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghét, phải
ghen, các vẻ đẹp khác phải đố kị. Sắc đẹp và tài năng của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa thì:
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Đây cũng là điềm báo trước về cuộc đời đầy sóng gió, chông gai của nàng.
d.Nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Thúy Kiều.
Bốn câu cuối cùng, tác giả ca ngợi đức hạnh của hai chị em trong một gia đình danh giá, nền nếp. Kiều và Vân đều là “khách hồng quần” lại đã đến tuổi lấy chồng “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Câu thơ có phụ âm đầu lặp lại theo từng cặp tạo cảm giác như hối hả, giục giã của tuổi xuân nhưng cả hai chị em vẫn giữ được nền nếp gia đình:Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
=> Ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao giá trị, phẩm giá của con người nhưnhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh;qua đó, dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh. Sự ngưỡng mộ, ngợi ca người phụ nữ trong xã hội “trọng nam khinh nữ” chính là biểu hiện sâu sắc của cảm hứng nhân văn trong ngòi bút Nguyễn Du.
=> Đoạn thơ miêu tả chị em Thúy Kiều là một mẫu mực về văn miêu tả, có giới thiệu chung, có tả riêng từng người từ tài, sắc đến đức hạnh, bằng ngôn ngữ cô đúc, lời thơ giàu chất xúc cảm. Các phép tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa, đòn bẩy…được Nguyễn Du vận dụng một cách tài tình. Vì thế dù Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ hình ảnh ước lệ, tượng trưng nhưng bức chân dung của Thúy Kiều và Thúy Vân vẫn hiện lên một cách cụ thể, hấp dẫn, lôi cuốn người đọc.Nghệ thuật tả người qua hai bức chân dung chị em Thúy Kiều
Nói về Truyện Kiều, không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: “Khi Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Quả thật, mặc dù xuất phát từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng nếu Kim Vân Kiều không để lại dấu ấn gì trong văn học Trung quốc thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một tác phẩm lớn trong văn học thế giới.
Điều gì đã làm nên giá trị và sức sống của Truyện Kiều ? Có rất nhiều yếu tố tạo nên thiên tài Nguyễn Du. Nhưng nét bút đặc sắc của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả người thì không ai có thể phủ nhận được. Ông đã sáng tạo ra những chi tiết, ngôn ngữ, tâm lý nhân vật… tạo nên một thế giới nhân vật phong phú. Chân dung chị em Thuý Kiều là một điển hình.
Với ngòi bút thiên tài, đoạn trích Chị em Thuý Kiều đã ca ngợi vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, những trang tuyệt sắc giai nhân tiêu biểu trong dòng văn học trung đại. Đó là một vẻ đẹp toàn mĩ trong tính ước lệ của văn chương:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”
Câu thơ hiện lên hình ảnh hai cô gái vóc dáng mảnh dẻ, yểu điệu như cành mai, tâm hồn trắng trong như tuyết. Nhịp thơ 3/3 tách câu thơ thành hai tiểu đối tạo âm điệu nhịp nhàng, nhấn mạnh vẻ đẹp hài hoà cân đối của hai chị em. Một vẻ đẹp đã đến độ hoàn hảo. Mượn các yếu tố thiên nhiên để lột tả vẻ đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ “mỗi người một vẻ”. Quả thật, trong tác phẩm cũng như trong đời thực, không ai hoàn toàn giống ai, chính điều ấy đã tạo nên cái diện mạo và tính cách riêng của từng nhân vật.
Đây là vẻ đẹp của Thuý Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Hình ảnh ước lệ, nhưng người đọc có thể hình dung một Thúy Vân xinh đẹp, thuỳ mị, đoan trang với khuôn mặt phúc hậu, tươi thắm như trăng rằm, nụ cười rạng rỡ như hoa hàm tiếu, giọng nói dịu dàng, trong trẻo như tiếng ngọc. Nhà thơ ca ngợi mái tóc của Thúy Vân óng mượt đến mây cũng phải thua, làn da trắng ngần mà tuyết cũng phải nhường. Tạo hoá đã ban cho nàng một sắc đẹp mà biết bao phụ nữ hằng ao ước ! Một vẻ đẹp đầy chất ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại “mặt hoa da phấn”, “mắt phượng mày ngài”. Tạo hoá phải nhường bước, chịu thua trước sắc đẹp của nàng. Biện pháp nhân hoá “mây thua, tuyết nhường” kết hợp với từ ngữ gợi tả “đầy đặn, nở nang” vừa diễn tả vẻ đẹp của nàng vừa gợi lên sự tròn đầy viên mãn. Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng hài hòa, như nét đan thanh của một cô gái thùy mị, nết na chừng như dự báo một cuộc sống yên vui, tốt đẹp của nàng trong tương lai. Hạnh phúc dang rộng cánh tay chờ đợi những bước chân nhịp nhàng, khoa thai của nàng trong tương lai.
Nếu Thúy Vân là vẻ đẹp của bức tranh tố nữ, thì Thúy Kiếu là vẻ đẹp của người ngọc hiện diện giữa trần đời đầy sắc sảo, mặn mà. Hoàn tất bức chân dung Thúy Vân, nhà thơ mới từ tốn, hình như có chút hoang mang bối rối khi họa nên bức chân dung Thúy Kiều. Nếu chỉ với 4 câu thơ, chân dung Thúy Vân đã hoàn thiện thì khi tả Kiều, nhà thơ đã khẳng định:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.”
Có người nói, nhà thơ dùng Thúy Vân làm nền để tôn lên vẻ đẹp của Thúy Kiều trong nghệ thuật “tả khách hình chủ”. Lẽ nào trái tim nhân hậu của Nguyễn Du có thể làm tổn thương một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn như Thúy Vân ư ? Chẳng phải đức hạnh và vẻ đẹp của Thúy Vân đã được thừa nhận, ca ngợi đó sao ? Ngòi bút nhân văn như Nguyễn Du, chắc chắn ông rất trân trọng và yêu thương nhân vật của mình. Ông yêu thương, nâng niu tất cả những tài hoa trác tuyệt ấy. Có điều đối với Thuý Vân là sự yêu thương, nâng niu trân trọng, còn đối với Thuý Kiều là sự đồng cảm, yêu thương, ưu tư cho một số kiếp con người:
“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm,liễu hờn kém xanh.”
Từ “càng” vừa là sự chuyển tiếp vừa diễn tả một mức độ thái quá, một điều gì đáng lo ngại. Nỗi băn khoăn lo lắng ấy không kềm chế được nên câu trước thì khoan thai hào hứng“Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Câu thơ ngắt ra thành 2 dòng để nhấn mạnh, để điểm tô vẻ đẹp tuyệt vời ấy mà sao nghe như có gì uất nghẹn. Nguyễn Du đã sáng tạo trong miêu tả nhân vật. Chỉ một nét thần, nhà thơ không chỉ miêu tả ánh mắt, nét mày mà còn lột tả tâm hồn nhân vật. Thúy Kiều đẹp quá, ánh mắt nàng đẹp như mặt nước hồ thu mênh mông, vời vợi trong sắc xanh của mây trời, trong chút vàng của nắng, của chiếc lá thu phai. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Trong đáy mắt màu thu ươn ướt, man mác buồn ấy, lại chất chứa trái tim đa sầu đa cảm mà đằm thắm tình người, tình đời bao dung. Chính “làn thu thủy” ấy đã rung cảm “dầm dầm châu sa” trước nấm mồ hoang vô chủ của Đạm Tiên, rồi lại trước cơn gia biến đã quyết hy sinh mối tình đầu chớm nở với Kim Trọng mà “Liều đem tất cỏ quyết đền ba xuân”. Rồi phải trầm luân trong mười lăm năm gió bụi cuộc đời với niết bao đắng cay tủi nhục. Nét độc đáo của thiên tài Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của nét mày nàng đẹp như dáng núi mùa xuân xanh cong quyến rũ, tràn đầy sức sống. Mùa xuân với sắc xanh mượt mà mơn mỡn “Xuân du phương thảo địa” (cổ thi), “cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du), ẩn sau “nét xuân sơn” ấy là sức sống dâng trào của cô gái “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê” (Nguyễn Du). Chính trong vẻ yêu kiều ấy, Thúy Kiều đã rung động trong lần đầu gặp Kim Trọng “hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” để rồi sau lần đầu gặp gỡ ấy trái tim dào dạt yêu thương đã tự nhủ:
“Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không.”
Rồi chính nàng đã chủ động “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để tìm đến chàng Kim. Nàng đã chủ động vượt qua những lễ giáo phong kiến khắc nghiệt để tìm đến mối tình đầu trong sáng. Theo những bước chân mạnh mẽ ấy, trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thể hiện một quan niệm sống, một khái niệm tự do trong hôn nhân hiếm thấy trong văn học trung đại.
Ánh mắt nét mày ấy ẩn chứa một tâm hồn đa sầu đa cảm, đầy ắp yêu thương, tràn dâng sức sống. Nhưng ngay sau vẻ đẹp tuyệt trần ấy, dường như có điều gì oan ức “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Việc gì phải ghen, phải hờn ? Thói đời là vậy ! Cái sâu sắc nhân tình thế thái, cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ chỉ nhân tả vẻ đẹp của Kiều mà đã gợi ra được một phần cuộc đởi ô trọc, nhỏ nhen sẵn sàng vùi dập cuộc đời một trang tuyệt sắc giai nhân.
Nguyễn Du đã nhấn mạnh “Một hai nghiêng nước nghiêng thành”. Tác giả đã sử dụng điển tích, mượn ý thơ của Lý Diên Niên đời Hán Vũ Đế (Trung quốc):
“Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.”
(Quay lại một lần tướng giữ thành mất thành, quay lại lần nữa nhà vua mất nước). Câu thơ làm ta liên tưởng đến nụ cười của Bao Tự, cái liếc mắt của Điêu Thuyền, một chút nũng nịu của Dương Quí Phi, cái nhăn mặt của Tây Thi, hay nét u buồn của Chiêu Quân… - những người đẹp đã từng làm xiêu đổ bao thành trì và triều đại phong kiến Trung quốc. Tác giả ngầm so sánh Kiều như một trang quốc sắc thiên hương, một sắc đẹp có một không hai. Nhưng nàng đẹp đến nỗi thiên nhiên phải hờn ghen. Đoạn thơ đã phảng phất dự cảm về cuộc đời đầy sóng gió bất trắc của nàng Kiều.
Tạo hoá ban cho nàng không chỉ là sắc đẹp mà còn tài năng hơn người:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.”
Nàng có đủ phẩm chất, tài năng của một nghệ sĩ: Thơ ca, hội hoạ, âm nhạc nàng đều tỏ ra tài hoa rất mực. Nàng có một năng lực cảm nhận nghệ thuật tinh tế, cho thấy một tâm hồn mẫn cảm, phong phú. Nhưng có lẽ nổi bật nhất là ngón đàn:
“Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.”
Tiếng đàn ấy như phát ra từ chính con tim đa sầu đa cảm, và nó gắn với số phận đời nàng. Như một sự xui khiến của số phận, khúc nhạc nàng chọn cho riêng mình là khúc “bạc mệnh”:
“Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bậc mệnh lại càng não nhân.”
Âm điệu câu thơ như chùng xuống, như nghẹn đắng theo cung đàn. Một linh cảm về kiếp đoạn trường. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại để cô gái xuân xanh vừa chớm lại gieo cung bạc mệnh. Chừng như trong sâu thẳm tâm hồn, thiên tài Nguyễn Du đã cảm nhận, đã dự báo những nỗi bất hạnh sẽ phủ xuống đời nàng.
Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng chưa thoát khỏi thuyết “thiên mệnh”: “tài mệnh tương đố”, “tài tử đa cùng, hồng nhan đa truân”. Cuộc đời mỗi người đều do số phận an bài, mệnh trời là một thế lực vạn năng “Cho hay muôn sự tại trời”, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Kiều đẹp quá, tài năng quá nên không tránh khỏi “hồng nhan bạc phận”. Thế nhưng, nếu chỉ thế thì Truyện Kiều cũng không thể trở thành tuyệt tác. Chính tấm lòng nhân hậu, chính trái tim yêu thương, trân trọng con người, nhà thơ đã phản ánh “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” để phơi bày hiện thực xã hội tàn ác bất nhân, thế lực đồng tiền và quyền lực bọn quan lại đã vùi dập, chà đạp lên ước mơ về hạnh phúc của con người, đã đẩy một nhân cách cao đẹp, một trang tuyệt sắc giai nhân vào vũng bùn tăm tối của cuộc đời.
Khép lại đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tô thêm về cuộc sống và đức hạnh của hai chị em:
“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Những thành ngữ “trướng rủ màn che” diễn tả cuộc sống khuôn phép, êm ấm hạnh phúc của hai cô gái con nhà tử tế, được giáo dục hẳn hoi. Một lần nữa Nguyễn Du đã khẳng định nhân cách và phong thái của hai chị em.
Khổ thơ cuối đã khép lại và hoàn chỉnh hai bức chân dung tuyệt tác của Thuý Vân và Thuý Kiều. Qua đó, người ngắm tranh không chỉ thấy được chân dung nhân vật mà còn nhìn thấy bức tranh thói đời ghét thương, đố kị. Không chỉ thấy được ngoại hình nhân vật mà còn thấy được tâm hồn tính cách của nhân vật, và dự báo cả về tương lai, số phận của nhân vật. Nguyễn Du đã đẩy nghệ thuật tả người đạt đến đỉnh cao của văn học trung đại.
II. ÔN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU.
Câu 1: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết:
"Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười"
a, Câu thơ trên được trích từ đoạn trích nào của Truyện kiều, nêu vị trí của đoạn trích đó.
b, Em giải thích cụm từ “ mai cốt cách, tuyết tinh thần”? Tác giả sử dụng bút pháp nghệ thuật gì?
Câu 2: Cho câu thơ:
"Vân xem trang trọng khác vời"
a, Hãy chép tiếp 3 câu thơ tiếp theo.
b, Phân tích biện pháp nghệ thuật sử dụng trong câu thơ: "Hoa cười ngọc thốt đoan trang".
c, Viết đoạn văn theo phương thức quy nạp (10 câu) nêu cảm nhận về vẻ đẹp của Thúy Vân trong đoạn trích vừa chép thơ. Trong bài viết có sử dụng lời dẫn trực tiếp và phép nối.
Cho đoạn thơ sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Câu 3: Em hiểu thế nào về hình tượng “thu thủy”, “xuân sơn”. Cách nói “làn thu thủy, nét xuân sơn” là cách nói ẩn dụ hay hoán dụ? Vì sao?
Câu 4: Dụng ý của tác giả trong câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”? Theo em có nên thay thế từ “hờn” bằng từ “buồn” được không?
Câu 5: Sử dụng câu chủ đề sau để viết đoạn văn:
“Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà cả về tài lẫn sắc”.
Câu 6: Qua cung đàn của Thúy Kiều (ở câu thơ cuối đoạn trích) em hiểu thêm gì về nhân vật này?
Câu 7: Qua đoạn trích, tác giả Nguyễn Du bày tỏ tình cảm gì với nàng Kiều?
Câu 8: Chép chính xác một câu thơ trong bài thơ em đã học trong chương trình ngữ văn THCS nói về vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Câu 9: Viết đoạn văn quy nạp khoảng 10 câu để phân tích nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật của Nguyễn Du trong đoạn trích. Trong đoạn trích có sử dụng câu ghép và phép thế.
Câu 10: Hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều có những điểm nào giống và khác nhau?
Hướng dẫn trả lời
Câu 1:
Câu thơ trên được trích từ văn bản Chị em Thúy Kiều. Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của phần gặp gỡ và đính ước.
b, Cụm từ “mai cốt cách, tuyết tinh thần”:
- Mai cốt cách: cốt cách thanh tao, mảnh dẻ như cây mai.
- Tuyết tinh thần: tinh thần trong trắng, khôi nguyên như tuyết.
Câu thơ sử dụng biện pháp ước lệ tượng trưng để nói tới sự duyên dáng, thanh cao, trong trắng của chị em Thúy Kiều. Vẻ đẹp đạt mức hoàn hảo của hai chị em.
Câu 2:
a
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
b, Biện pháp ước lệ tượng trưng trong câu thơ “Hoa cười ngọc thốt đoan trang”. Vẻ đẹp của Vân được so sánh với những điều đẹp đẽ nhất của tự nhiên: hoa, ngọc.
Thúy Vân hiện lên với vẻ đẹp nền nã, hiền dịu, quý phái.
c, Gợi ý viết: Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân
- Câu thơ mở đầu đoạn khái quát vẻ đẹp của nhân vật, hai chữ “sang trọng” gợi vẻ cao sang, quý phái.
- Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, vẻ đẹp của Vân được so sánh với những thứ cao đẹp nhất trên đời trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc.
+ Thúy Vân được miêu tả toàn vẹn từ khuôn mặt tới làn da, mái tóc, nụ cười, giọng nói.
- Tác giả sử dụng những từ ngữ trau chuốt, chọn lọc: khuôn mặt phúc hậu, đầy đặn, tươi sáng như trăng tròn.
- Chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận. Vân đẹp hơn những vẻ đẹp trong tự nhiên. Vẻ đẹp của nàng khiến tự nhiên “thua”, “nhường” dự báo cuộc đời êm đềm, không sóng gió.
Câu 3:
- Thu thủy: làn nước mùa thu.
- Xuân sơn: nét núi mùa xuân.
Cả câu thơ sử dụng hình ảnh mang tính ước lệ và biện pháp ẩn dụ gợi lên đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân.
Câu 4:
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ đẹp của một trang tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”.
- Nguyễn Du không miêu tả nhân vật mà miêu tả sự ghen ghét, đố kị hay ngưỡng mộ, say mê vẻ đẹp đó.
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ đẹp có sức hút, chiều sâu đến lạ lùng.
- Không thể thay thế từ “hờn” bằng từ “buồn” bởi từ “buồn” không làm nổi bật được tính chất hờn ghen hiểm họa của tự nhiên trước vẻ đẹp của Thúy Kiều.
Câu 5:
- Tác giả rất tinh tế khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều: tác giả miêu tả chân dung Thúy Vân trước để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Với thủ pháp đòn bẩy, tác giả làm nổi bật vẻ của Kiều cả về nhan sắc lẫn tài năng.
+ Ngay trong câu thơ: “Kiều càng sắc sảo mặn mà” tác giả gợi lên sự sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn.
+ Với bút pháp ước lệ tượng trưng, bức họa về nàng Kiều với đôi mắt trong sáng, long lanh thể hiện tâm hồn trong trắng, trí tuệ sắc sảo của nàng.
+ Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa ghen, liễu hờn dự báo trước cuộc đời đầy sóng gió của Kiều.
+ Thúy Vân tác giả tập trung tả về nhan sắc, với Thúy Kiều, tác giả một phần tả sắc và hai phần để tả về cái tài của nàng.
Câu 6:
Cung đàn của nàng Kiều là “cung thương lầu bậc ngũ âm” - cung đàn bạc mệnh của Kiều là tiếng của trái tim đa cảm.
- Tâm hồn Kiều đa sầu đa cảm khiến Kiều không thể tránh khỏi số phận nghiệt ngã, éo le, gian khổ của bởi “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” và trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Câu 7:
- Tác giả ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều - một trang tuyệt thế giai nhân có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
- Tác giả cũng bày tỏ sự thương xót, lo lắng trước vận mệnh của Thúy Kiều.
- Một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo ấy là đoạn trích ca ngợi đề cao những giá trị, phẩm chất con người như nhan sắc, tài hoa, nhân phẩm, khát vọng, ý thức về nhân phẩm, thân phận.
Câu 8:
Câu thơ nói về vẻ đẹp của người phụ nữ xã hội phong kiến:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”
(Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)
Câu 9:
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thể hiện bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du, khắc họa nét riêng về nhan sắc, tài năng, tính cách, số phận nhân vật bằng bút pháp nghệ thuật cổ điển.
- Tác giả sử dụng bút pháp tượng trưng để gợi tả vẻ đẹp nhan sắc, tài năng, tâm hồn, qua mỗi bức chân dung đều gửi gắm những dự báo về cuộc đời và số phận.
- Qua hai bức chân dung về Thúy Vân và Thúy Kiều đều thể hiện thái độ trân trọng ngợi ca nhưng ông ưu ái dành nhiều câu thơ miêu tả bức chân dung của Thúy Kiều nổi bật cả về nhan sắc và tài năng.
- Cái tài của tác giả là từ việc miêu tả ngoại hình nhân vật làm hiện lên vẻ đẹp về tính cách và tâm hồn đằng sau những tín hiệu ngôn ngữ là dự báo về số phận con người.
+ Thúy Vân: vẻ đẹp khiến tự nhiên nhường nhịn nên nàng chắc chắn cuộc đời nàng êm đềm.
+ Thúy Kiều: vẻ đẹp khiến tự nhiên danh ghét, ghen tị, chắc chắn cuộc đời gặp nhiều sóng gió, gập ghềnh.
- Tác giả sử dụng những hình ảnh tươi đẹp nhất, ngôn từ hoa mĩ để xây dựng, miêu tả vẻ đẹp của con người đạt tới mức lý tưởng.
Đó cũng chính là cảm hứng nhân đạo cao cả xuất phát từ tấm lòng đồng cảm với mọi người.
Câu 10:
- Giống nhau: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Phong lưu rất mực hồng quần/ Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
- Khác nhau:
+ Thúy Vân: trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da…
+ Thúy Kiều: sắc sảo mặn mà/ So bề tài sắc lại là phần hơn - Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
- Quan niệm của tác giả Nguyễn Du về mối quan hệ giữa nhan sắc, tài năng và số phận.
+ Vẻ đẹp sắc sảo, lôi cuốn, tài năng hơn người → bị đố kị, ghen ghét, số phận long đong.
- Quan niệm này xuất phát từ cơ sở tâm lí - xã hội cụ thể.
III.LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Phân tích đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Khi khẳng định giá trị của “Truyện Kiều”, nhà thơ Chế Lan Viên đã từng ca ngợi: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, Đoạn Trường Tân Thanh với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du, những phong cảnh tuyệt vời trong thiên nhiên, cỏ cây, những bức tranh tâm trạng đã hiện ra tạo thành một thế giới thơ đầy quyến rũ. Bằng tấm lòng và sự nâng niu, trân trọng, mến yêu nhân vật chân thành, ông đã để lại cho đời những rung cảm nghệ thuật trước cái đẹp thật sâu sắc.Đến với đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, một lần nữa ta hiểu thêm về nghệ thuật miêu tả của Tố Như thần tình ra sao và trái tim Nguyễn chan chứa yêu thương biết nhường nào!
“Đầu lòng hai ả tố nga,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Song song với nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt dến trình độ điêu luyện và là một thành công đặc biệt ở Truyện Kiều. Tuy sử dụng bút pháp ước lệ mà vẫn giúp người đọc hình dung rõ bức chân dung tuyệt mĩ của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, để lại một ấn tượng khó phai trong lòng mỗi chúng ta.
Đoạn trích có kết cấu chặt chẽ như một truyện ngắn cổ điển. Mở đầu là bốn câu giới thiệu chung về hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.
“Đầu lòng hai ả tố nga
………
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Hai cô con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại đi vào trang thơ của Nguyễn Du đều xinh đẹp, tươi tắn cả hai, hệt như những nàng “tố nga”. Lời giới thiệu chng về hai chị em đã khắc họa vẻ thanh cao, trong trắng từ hình dáng bên ngoài cho đến tam hồn bên trong. Thứ bậc trong gia đình cũng đã được Nguyễn Du thể hiên qua lời giới thiệu khá giản dị: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”. Đặc biệt, ông chú trọng gây ấn tượng ở tinh thần, cốt cách của hai Kiều: cốt cách thanh tao, duyên dáng như mai và tâm hồn, phẩm hạnh trắng trong, thuần khiết như tuyết. Hình ảnh ẩn dụ nằm trong phép tiểu đối không chỉ đặc tả được cái thần của bức tranh thiếu nữ: cả hai đều trinh trắng, sáng trong mà còn khơi gợi xúc cảm thẩm mỹ cho người đọc về vẻ kiều diễm của hai chị em. Hai người họ với những vẻ đẹp không hoàn toàn như nhau mà là mỗi người đẹp theo một vẻ nhưng đều là những vẻ đẹp hoàn mỹ. Từ vóc dáng cho đến tâm hồn, Thúy Kiều và Thúy Vân đều đạt đến mức vẹn toàn thật là tuyệt đối như tác giả đã nhận định: “mười phân vẹn mười”. Điều ấy cho thấy ý thức lí tưởng hóa cao độ của nhà thơ bởi lẽ ở đời mấy ai được “mười phân vẹn mười”. Câu thơ không chỉ nhằm thống báo vẻ đẹp hoàn thiện của Thúy Vân, Thúy Kiều mà còn chất chứa niềm ngưỡng mộ trước cái đẹp rất riêng của mỗi người.
Những ước lệ của văn chương cổ đi vào câu chữ của Nguyễn Du với biết bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho cả hai, nét bút muốn đặc tả “mỗi người một vẻ”. Chính vì thế mà liền sau đó, thi sĩ tập trung khắc họa từng người. Đầu tiên, chân dung Thúy Vân hiện ra với bốn câu thơ.
“Vân xem trang trọng khác vời,
………
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Chỉ vẻn vẹn bốn dòng thơ, Nguyễn Du đã thể hiện thật tài hoa vẻ đẹp tươi tắn, trẻ trung của một cô gái đang độ trăng tròn. Ở Vân cũng khẳng định ngay từ câu thơ đầu cái điểm hơn người: vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang nhưng cũng là sự “trang trọng khác vời”. Để rồi, sau đó là sự cụ thể hóa ở khuôn mặt tròn đầy, ngời sáng như vầng trăng đêm rằm, đôi lông mày cân đối, sắc nét như con ngài. Hiện diện trên khuôn mặt tươi sáng ấy là nụ cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo như ngọc. Hay là phải chăng “ngọc thốt” ở đây là để chỉ những lời nói của nàng quý giá và đáng trân trọng như ngọc ngà? Một từ “thốt” thôi mà có thể giúp ta nhận ra vẻ dịu dàng , hiền thục hiếm thấy của Thúy Vân. Thật là tài tình! Không những thế, nàng còn sở hữu cả một mái tóc đen óng, nhẹ hơn mây và làn da mịn màng, trắng hơn cả tuyết. Quả là một vẻ đẹp hoàn hảo, cao sang, quý phái! Sắc đẹp của Thúy Vân sánh ngang với những nét kiều diễm, sáng trong của trăng hoa, ngọc vàng, mây tuyết,…, những báu vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò, chũng ta cũng dễ dàng cảm nhận được tất cả sự dịu dàng, đoan trang của một cô gái khuê các. Có lẽ, Nguyễn Du cũng đã rất có dụng ý khi sử dụng những tính từ chỉ độ tròn đầy, viên mãn để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân: “đầy đặn”, “nở nang”. Một vẻ đẹp căng tròn của tuổi trẻ! Về mặt này, con mắt nhìn của Nguyễn Du cũng thật “tinh đời”! Dựng lên hình ảnh của Thúy Vân với một vẻ đẹp phúc hậu, quý phái khiến thiên nhiên, tạo vật cũng phải “thua”, “nhường”, nhà thơ đã giúp ta nhận ra đấy là một vẻ đẹp có được sự hòa hợp, êm đềm với thế giới chung quanh. Thêm vào đó là giọng thơ nhẹ nhàng, êm dịu nên Thúy Vân là hiện thân của cuộc đời yên ả, ấm êm. Từ những thông điệp nghệ thuật trên, phải chăng đó là dự cảm về một cuộc sống bình lặng, suôn sẻ, hạnh phúc trong tương lai?
Nếu Nguyễn Du dành đôi nét tài hoa cho Thúy Vân thì với Thúy Kiều, tác giả dùng hết tâm lực để có những nét vẽ thần kì, công phu hơn.
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Câu chuyển tiếp cho ta thấy từ sắc đến tài, Kiều hơn hẳn Thúy Vân, đó không phải là cái đẹp hiền lành, phúc hậu mà trái lại vừa sắc sảo, lộng lẫy, vừa mặn mà, duyên dáng, yêu kiều. Thì ra, Thúy Vân đã sắc nước hương trời, Thúy Kiều còn rực rỡ hơn thế nữa. Bằng thủ pháp đòn bẩy, Nguyễn Du đã mượn vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để nêu bật vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, giúp người đọc hình dung rõ hơn về bức chân dung của nàng bằng cái nhìn của riêng mình. Thực tế, đến Thúy Kiều, ta thấy Nguyễn Du rất ít tả mà chỉ gợi. Ông lại thêm một lần nữa chứng tỏ cốt cách nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy. Bởi, nếu bây giờ nhà thơ cũng lặp lại trình tự tả y hệt như tả Thúy Vân thì hóa ra quá đỗi vụng về. Đặc biệt, sức gợi của vẻ đẹp Thúy Kiều toát lên từ đôi mắt: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Nguyễn Du dường như chỉ nói về đôi mắt của nàng. Đôi mắt trong, sáng ngời, gợi tình như sóng nước mùa thu và đôi mày cong cong mềm mại, thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cách miêu tả khiến khi đọc lên, ta như thấy có ánh sáng và làn sóng xao động bên trong. Chỉ vậy thôi mà bao ẩn ý. Đôi mắt nhìn đời, nhìn người sâu thẳm. Đôi mắt dạt dào, ẩn chứa bao tình cảm lai láng: biết yêu thương, căm hận, nhức nhối, sẻ chia,… Đôi mắt thể hiện một đời sống nội tâm phong phú. Đôi mắt “tinh đời” chứ không như đôi mắt đẹp mà vô hồn, vô cảm của Thúy Vân. Thì ra, cụ Nguyễn Du cố tình bỏ sót đôi mắt nàng Vân là vì lẽ đó. Một lần nữa, ta lại thấy nhà thơ sử dụng tối đa nghệ thuật ẩn dụ và tiểu đối trong thơ cổ điển cũng với ý nghĩa tượng trưng để tô đậm, tạo ấn tượng về nhan sắc của Kiều nhưng không gây rườm rà, phức tạp mà trái lại giá trị diễn đạt vẫn hay và tự nhiên. Nhan sắc nàng tuyệt mĩ đến nỗi: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Thêm một lần nữa thiên nhiên được sử dụng để nói về vẻ đẹp của người thiếu nữ. Thiên nhiên vốn là vẻ đẹp vĩnh cửu vậy mà cũng phải “ghen”, “hờn” trước một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”. Hoa không tươi thắm bằng dung nhan của nàng, liễu kém phần tươi non so với sức sống, tuổi trẻ mơn mởn của Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp nhân hóa để thổi linh hồn vào câu thơ làm ý thơ thêm phần sống động và trước mắt ta hiện ra một náng Kiều trẻ trung với tuổi xuân tràn đầy như hoa vừa đang độ nở, liễu đến kì xanh tươi. Mà cũng vì thế mà ta càng thấp thỏm hơn khi nghĩ tới tương lai của đời Kiều. Liệu với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy, Kiều sẽ phải sống thế nào trong bể đời vốn “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân”.
Bút pháp miêu tả của Nguyễn Du tài hoa ở chỗ ông không chỉ miêu tả ngoại hình để thể hiện tính cách, mà còn thông qua đó dự đoán số phận, cuộc đời nhân vật. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du dùng cặp từ “thua, nhường” để miêu tả Thúy Vân và cặp từ “ghen, hờn” để miêu tả Thúy Kiều. Ảnh hưởng, tác động của nét đẹp hai Kiều với tạo hóa lại đi theo hai hướng khác nhau. Tả Vân, câu thơ Kiều thanh thản bao nhiêu thì khi tả Kiều, câu chữ Tố Như lại trăn trở bấy nhiêu. Như vậy đó, chỉ mới mươi câu Kiều mà đã giúp ta thấu hiểu tấm lòng ưu ái sâu sắc, bao la của nhà thơ nhân đạo Nguyễn Du: ông yêu thương, nâng niu tất cả. Có điều, với Thúy Kiều là cả một sự yêu thương, nâng niu đầy băn khoăn, lo lắng so với Thúy Vân. Thật vậy, trong Truyện Kiều, có lúc Nguyễn Du đã để sư bà Tam Hợp đạo cô đoán định tương lai bất ổn của Kiều qua lời thơ:
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên chỗ, ngồi không vững vàng”
Chuyện thế thái, nhân tình cũng thật sâu sắc trong cách nhìn, cách cảm của Nguyễn Du. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn đề cao trí tuệ và tài năng của nàng, cho thấy rằng Kiều không phải chỉ có nhan sắc tuyệt trần mà còn là người con gái vốn có thiên tư thông minh bẩm sinh và rất mực tài hoa.
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
………
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Làm thơ, vẽ tranh, ca ngâm, âm nhac, mọi thứ Kiều đều tỏ ra thành thạo. Đặc biệt, nàng rất sành chơi Hồ cầm. Nguyễn Du một lần nữa lại rất công phu khi dành cho Kiều các chữ: “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi”, “làu bậc”, “ăn đứt” gợi lên sự hoàn mỹ của nàng. Tài năng của Thúy Kiều qua cách khắc họa của Nguyễn Du họa chăng chỉ có thể so sánh với tài thơ vè xuất sắc của cung nữ tròn tác phẩm “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều.
“Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương”
Quả là “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”! Lại thêm một lần nữa ta hiểu tại sao Nguyễn Du không miêu tả cái tài của Thúy vân. Tạo hóa đã dành cả cho Thúy Kiều, để rồi lại tỏ ra đố kị mà đan tâm chơi trò nhỏ nhen.
“Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
Câu chữ, lời thơ chất chứa sự ngợi ca, ngưỡng mộ mà nỗi băn khoăn, lo lắng cứ xốn xang trên mỗi từ ngữ của Tố Như. Có lúc ông đã phải thốt lên rằng:
“Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Nhưng làm sao khác được, “Thiên bạc mệnh” ai oán đã vận vào Kiều mất rồi. Trái tim yêu thương mênh mông của Nguyễn Du cũng chẳng thể nào bảo vệ được Kiều trước vòng xoáy nghiệt ngã của định mệnh.
Đoạn trích khép lại trong bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu, khuôn phép trong đức hạnh, mẫu mực của hai chị em Kiều.
“Phong lưu rất mực hồng quần,
………
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Vẻ đẹp chung của hai chị em được đúc kết lại trong cuộc sống nhung lụa, phú quý. Hai cô gái họ Vương đang ở vào giai đoạn đẹp nhất, thơ mộng nhất của đời người, đó là tuổi dậy thì vô tư, trong trắng. Đã đến tuổi cài trâm nhưng hai thiếu nữ không hề quan tâm đến những chuyện “ong bướm”, tâm hồn như băng tuyết, họ đang sống trong cảnh êm đềm của một gia đình gia phong, nề nếp. Một lần nữa, Nguyễn Du khẳng định lại nếp sống phong lưu, đài các của hai chị em Kiều. “Êm đềm”, “mặc ai” là phong thái cao giá của người đẹp chứ nào phải sự vô cảm trước những rạo rực của tuổi trẻ. Chữ dùng của Nguyễn Du tinh tế lắm chứ đâu phải buông lơi hờ hững, vô tình!
Chỉ với hai mươi bốn câu thơ lục bát, chúng ta cũng đủ thấy tài năng, sáng tạo bậc thầy của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của ông linh hoạt vô cùng, khi vẽ chi tiết, khi chỉ lướt qua; khi tả, khi gợi, kết hợp nhuần nhuyễn tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian; vừa làm nghệ thuật, vừa gởi gắm tâm tư, tình cảm. Để người đời yêu mến Tố Như và nhân vật của ông khi đến với Truyên Kiều, đều cảm nhận được một ẩn ý sâu sắc: ẩn sau bức chân dung mĩ nữ là tiếng lòng chan chứa yêu thương của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
*************************************
CẢNH NGÀY XUÂN
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Vị tri - Cảnh ngày xuân là đoạn thơ tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của hai chị Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều.
2. Nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt.
- Nghệ thuật: Sử dụng nhiều hình ảnh sáng tạo, ngôn ngữ miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình có sức gợi tâm trạng con người.
II. ÔN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1.Cho đoạn thơ sau:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Câu 1: Đoạn thơ trên sử dụng kết hợp những phương thức biểu đạt nào, em hãy nêu tác dụng của cách kết hợp đó.
Trả lời:
- Đoạn thơ trên sử dụng phương thức miêu tả và tự sự.
+ Miêu tả: không gian, màu sắc, ánh sáng tươi đẹp, đặc trưng của mùa xuân.
+ Tự sự: Kể về sự việc, sự vật trong những ngày tháng 3 - tiết Thanh Minh, thời gian trôi nhanh, sắp kết thúc mùa xuân.
Câu 2: Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi cho em điều gì? Chép chính xác câu thơ có sử dụng hình ảnh “thoi” ghi rõ tên bài thơ và tên tác giả.
Trả lời:
- Hình ảnh “con én đưa thoi” ý nói: thời gian trôi nhanh, chín mươi ngày mà nay đã qua sáu mươi ngày.
- Câu thơ có sử dụng hình ảnh thoi:
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận)
Câu 3: Qua câu thơ “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” gợi lên thời điểm nào của mùa xuân? Qua đó tác giả muốn thể hiện cảm xúc gì?
Trả lời:
Qua câu thơ: Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi, gợi lên thời gian Tiết Thanh minh trong mùa xuân.
Tác giả cảm thấy nuối tiếc, ngỡ ngàng trước sự chảy trôi nhanh chóng của thời gian.
Câu 4: Câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa sử dụng biện pháp tu từ nào? Chỉ ra tác dụng của biện pháp ấy tới việc thể hiện nội dung.
Trả lời:
Câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” sử dụng bút pháp gợi tả và biện pháp nhân hóa.
Trên nền trời xanh lam trong sáng của chiều xuân được điểm xuyết những đốm trắng của hoa lê.
+ Chữ “trắng”được đảo lên trước tạo sự mới mẻ tinh khôi, thanh khiết, kết tinh những tinh hoa của trời đất.
+ Chữ “điểm” nhấn mạnh, gợi hình ảnh bàn tay người họa sĩ tạo nên những điểm chấm phá cho bức tranh cảnh mùa xuân.
→ Câu thơ đắt giá, diễn tả vẻ đẹp tự nhiên bình dị, trong trẻo và giàu sức sống của mùa xuân.
Câu 5: Nếu thay thế từ “tận” bằng từ “rợn” thì ý nghĩa của câu thơ thay đổi không? Vì sao?
Trả lời:
Nếu thay từ “tận” bằng từ “rợn” thì ý nghĩa của câu thơ sẽ thay đổi hoàn toàn.
+ Từ tận mở ra không gian bao la ngút ngàn tới hút tầm mắt, tạo cảm giác mênh mông khoáng đạt.
+ Từ rợn sẽ khiến không gian bị thu hẹp có vẻ huyền bí, không tạo được vẻ khoáng đạt cho không gian.
Câu 6: Hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa".
Hãy so sánh với hai câu thơ của Nguyễn Du khi miêu tả về vẻ đẹp của mùa xuân.
Trả lời:
Hai câu thơ cổ của Trung Quốc sử dụng hình ảnh cỏ thơm (phương thảo) trong khi câu thơ của Nguyễn Du lại thiên về việc tả màu sắc, gợi hình ảnh.
Bức tranh mùa xuân mà tác giả tạo ra mang màu sắc độc đáo, dung hòa giữa sắc độ lạnh trong sáng của nền trời buổi chiều xuân, làm thành gam nền cho bức tranh.
Sự phối màu giữa nền và khung cảnh chính của bức tranh mang lại cảm nhân mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, mùa xuân trở nên có hồn và sống động hơn.
Bài tập 2.Cho đoạn thơ sau:
Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Câu 7: Câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây” gợi đến khoảng thời gian nào trong ngày? Việc đó có tác dụng gì?
Trả lời:
Câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây” gợi tả thời gian chênh chếch xế chiều, đó là thời gian trong văn học gợi nỗi buồn.
- Việc tả cảnh hoàng hôn khi cảnh vật đang đi vào hoạt động nghỉ ngơi, tĩnh lặng, dường như con người cũng đi vào trạng thái bâng khuâng, trống trải khó tả.
- Tâm trạng con người cũng biến chuyển theo sự biến chuyển của thời gian.
- Buổi chiều sẽ gợi lên trong lòng người tâm trạng buồn man mác.
Câu 8: Các từ láy được sử dụng trong bài là những từ láy nào? Nêu tác dụng của việc sử dụng các từ láy đó.
Trả lời:
Các từ láy được sử dụng trong bài: thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ để gợi tả sắc thái cảnh vật cũng như tâm trạng của con người.
Đặc biệt từ láy “nao nao” gợi nên nét buồn khó hiểu, không thể gọi tên.
+ “Thơ thẩn”: tâm trạng nuối tiếc khi tan hội trong sự bần thần, lắng buồn.
→ Cảm giác buồn, bâng khuâng xao xuyến một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn, thiếu nữ tha thiết với vẻ đẹp của tạo vật, niềm vui với cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.
Những từ láy này đã nhuồm màu tâm trạng lên cảnh vật, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, cảnh tình càng trở nên tương hợp hơn.
Câu 9: Giải thích nghĩa của từ Tiểu khê trong câu “Bước dần theo ngọn tiểu khê”.
Trả lời:
Từ tiểu khê trong câu “Bước dần theo ngọn tiểu khê” có nghĩa là ngọn nước nhỏ, dòng suối nhỏ.
Câu 10: Trong câu thơ: “Nao nao dòng nước uốn quanh”. Tác giả sử dụng biện pháp tu từ nào?
Trả lời:
Trong câu thơ “Nao nao dòng nước uốn quanh” tác giả sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình: tả cảnh gắn với tâm trạng con người, tình và cảnh tương hợp, cảnh thể hiện tâm trạng của con người, tâm trạng nhuốm màu lên cảnh vật.
Chị em Kiều khi trở về sau khi tan hội trong sự tiếc nuối, bần thần, bâng khuâng khó tả.
Cảm giác nao nao khó tả đã mở ra vẻ đẹp tâm hồn tha thiết với cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.
Câu 11: Theo em, bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du có gì đặc sắc?
Trả lời:
- Bút pháp tả cảnh của tác giả là bút pháp kết hợp giữa gợi và tả, tả cảnh ngụ tình gợi lên tâm trạng tiếc nuối, thơ thẩn, quyến luyến của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.
+ Tác giả sử dụng nhiều từ láy vừa gợi tả cảnh sắc vừa nêu bật được tình cảm, tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
- Trong đoạn trích có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc: cảnh ngày xuân, cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh thông qua bút pháp tả và gợi.
Câu 12: Cảm nhận bức tranh phong cảnh được miêu tả trong 6 câu thơ cuối bài Cảnh ngày xuân.
Trả lời:
- Hai câu thơ : Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thời gian chiều tà thường xuất hiện trong văn học gợi lên nỗi buồn, những điều ảm đạm, hiu hắt.
+ Thời gian chiều tà cũng nhuốm màu tâm trạng bần thần, thẫn thờ của chị em Kiều khi phải chia tay với hội.
+ Cảnh vật và con người cùng chìm trong tâm trạng bâng khuâng khó tả, tâm hồn của con người cũng chuyển điệu cùng tâm hồn, cảnh vật.
- Cảnh vật như lắng dần, mọi chuyển động đi vào nhẹ nhàng, mang dáng dấp nhỏ bé, phảng phất nỗi buồn.
- Tác giả sử dụng nhiều từ láy: nao nao, tà tà, thanh thanh không những biểu đạt được sắc thái của cỏ cây, cảnh vật lúc hoàng hôn mà còn góp phần thể hiện được tâm trạng của nhân vật.
- Hai câu thơ cuối, gợi lên nét buồn khó hiểu, mơ hồ, mông lung khi tác giả dùng từ láy “nao nao”.
+ Bút pháp tả cảnh ngụ tình càng nhấn mạnh thêm tâm trạng tiếc nuối, buồn bã khi tan hội.
⇒ Cảnh vật mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân đã nhuốm màu tâm trạng tiếc nuối, thẫn thờ của chị em Kiều khi tan hội.
III.LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Bài tập 1..Cảm nhận bức tranh cảnh ngày xuân trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”.
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh và tài sắc chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du trình bày bối cảnh Thúy Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đó là cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh,chị em Kiều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân cứ hiện dần ra theo trình tự cuộc “bộ hành chơi xuân” của chị em Thúy Kiều.
Mở đầu là cảnh đẹp của mùa xuân được gợi tả qua khung cảnh thiên nhiên:
Ngày xuân con én đưa thoiThiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
+ Hai câu đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én chao liệng trên bầu trời tràn ngập ánh xuân tươi tắn, trong sáng. Đồng thời, thông qua bút pháp nghệ thuật ẩn dụ tinh tế, nhà thơ cũng ngụ ý thời gian trôi nhanh quá như “con én đưa thoi”, chín mươi ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi” ( (tức là đã qua tháng giêng, tháng hai và đã bước sang tháng ba). Cách tính thời gian, sự cảm nhận về thời gian của thi nhân thật sâu sắc, tinh tế và thi vị. Hai chữ “thiều quang” không chỉ gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân mà còn gợi lên cái mênh mông bao la của đất trời mùa xuân. Cảnh ngày xuân hiện nên trong thơ Nguyễn Du vừa bình dị vừa sống động.
+ Có lẽ đây là thời điểm đẹp nhất:
Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm mộtvàibông hoa
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họanữa. Thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Điểm xuyết, chấm phá trên nền xanh bất tận ấy là sắc tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác khoe sắc, khoe hương. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa”, Nguyễn Du chỉ thêm một chữ “trắng” cho cành lê mà bức tranh mùa xuân đã khác. Không gian như khoáng đạt,trong trẻo và nhẹ nhàng hơn, cảnh đẹp mà có hồn, chứ không tĩnh tại, chết đứng. Bằng nghệ thuật đảo ngữ “trắng điểm”, thi nhân đã tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh, tô đậm sắc trắng của hoa lê nổi bật trên nền xanh non của cỏ. Màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống ; khoáng đạt, trong trẻo ; nhẹ nhàng, thanh khiết . Nguyễn Du quả là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ. Chỉ với hai câu thơ, bằng một vài nét chấm phá, mà thi nhân đã phác họa nên một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, diễm lệ và hấp dẫn lòng người. Ẩn sau những vần thơ là cả một tâm hồn nhạy cảm của tác giả trước vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên, là niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống đến tha thiết!
Trong tiết Thanh minh đầy chất thơ ấy xuất hiện khung cảnh lễ hội tưng bừng rộn rã:
Thanh minh trong tiết tháng ba Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh Gần xa nô nức yến anhChị em sắm sửa bộ hành chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Một bức tranh có lễ, có hội, có gần, có xa, có sự tham gia của rất nhiều người, nhất là nam thanh, nữ tú “nô nức yến anh”. Tác giả vừa sử dụng cách nói ẩn dụ, hoán dụ vừa sử dụng hàng loạt động từ, danh từ, tính từ ghép láy hai âm tiết: “gần xa”, “yến anh”, “chị em”, “giai nhân”, “nô nức”, “sắm sửa”, “dập dìu”, “ngổn ngang”… làm cho không khí lễ hội trở nên sống động, rộn ràng.
Bức tranh mùa xuân trong tiết Thanh minh đã gợi lên nét đẹp truyền thống của văn hóa lễ hội ngày xưa. Các trang tài tử giai nhân vui xuân mở hội nhưng không quên những người đã mất:
Ngổn ngang gò đống kéo lên Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Cuộc vui rồi cũng đến hồi kết thúc. Sáu câu thơ cuối là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở vê. Bức tranh tả cảnh ngụ tình mẫu mực, cổ điển trong “Truyện Kiều”, mỗi bức tranh thiên nhiên còn là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Đây là cảnh chiều xuân rất đẹp nhưng thoáng buồn. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt,khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang.Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, không khí nhộn nhịp , rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lặng dần.
Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”,”nao nao”… không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi
vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh
khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
=> Bằng kết cấu hợp lý, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, kết hợp giữa bút pháp tả với bút pháp gợi có tính chất điểm xuyết chấm phá…đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng. Qua đoạn trích một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật và việc sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du.
BT2: CẢNH NGÀY XUÂN
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:
Ngày xuân con én đưa thoi,
.........
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc biệt của "Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân. Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.
Mở đầu, Nguyễn Du đã phác họa một bức tranh mùa xuân thật ấn tượng. Không gian, thời gian hiện ra trong hai dòng thơ khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Giữa bầu trời cao rộng, từng đàn chim én rộn ràng bay lượn như chiếc thoi trên khung dệt vải. Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi bước đi của mùa xuân tương tự cách nói trong dân gian "Thời giờ thấm thoắt thoi đưa / Hết mưa lại nắng, hết ngày lại đêm". Xung quanh tràn ngập "ánh thiều quang" - ánh sáng tươi đẹp - đang rọi chiếu lên toàn cảnh vật. Ánh nắng mùa xuân có nét riêng, không nóng bức như mùa hè cũng không dịu buồn như mùa thu mà trái lại, tạo một cảm giác tươi vui, trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngay đầu năm. Thời gian đầu năm trôi qua thạt nhanh làm sao! Cho nên cả hai câu thơ vừa miêu tả cảnh thiên nhiên tươi sáng đồng thời thể hiện niềm tiêc nuối trước sự trôi nhanh của thời gian. Thoắt một cái đã cuối xuân rồi, cái đẹp của mùa mở đầu một năm sắp hết.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình. Nhà thơ Hàn Mặc Tử trong bài "Mùa xuân chín" cũng đã ít nhiều ảnh hưởng Nguyễn Du khi vẽ cảnh mùa xuân:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thiếu nữ hát trên đồi.
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa những hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó có những nhân vật của Nguyễn Du - chị em Thúy Kiều - đang thong thả chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau "lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", khách du xuân giẫm lên cỏ xanh - một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là" gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngừa xe như nước áo quần như nêm.
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cahs sử dụng ngôn từ. Sự xuất hiện của hàng loạt các từ ngữ hai âm tiết bao gồm danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu,... đã gợi lên bầu không khí rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu hết các câu thơ đều được ngắt nhịp đôi (2/2) cũng góp phần gợi tả không khí nhộn nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng đoàn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân", Nguyễn Du không chỉ nói lên một lờithoong báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, chờ đợi của chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những am thanh nữ tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui, tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người Phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:
ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo gần lại. Ta nhận ra một niềm cảm thông sâu sắc mà Nguyễn Du đã gởi vào những dòng thơ: có thể hôm nay, sau hơn hai trăm năm, suy nghĩ của chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh: "Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay" thế nhưng giá trị nhân đạo được gửi gắm vào những vần thơ của Nguyễn Du vẫn làm ta thực sự xúc động.
"Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn. Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:
Tà tà bóng ngả về tây,
............
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, diu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.
Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
nhà thơ, ngôn ngữ như chạm khắc, như thoát khỏi khuôn khổ trói buộc của công thức, ước lệ để làm sống lại bức tranh xuân và tâm trạng con người. Cả một khung cảnh xuân thơ mộng, tràn đầy ấy như hiện ra trước mắt. Ta bỗng nhớ đến những ngày ngây thơ, trong sáng của kiều rồi ngẫm lại chẵng đường trôi dạt mười lăm năm của người phụ nữ tài sắc ấy mà cảm thương cho số phận một con người. Bỗng nhớ tới lời thơ của Chế Lan Viên đến nao lòng:
Ta yêu những Hịch, những Bình Ngô gọi lòng ra hỏa tuyến,
Nhưng không quên ngọn lau trắng bên đường Kiều thồi lại tự xa xưa.
****************************************************
VĂN BẢN: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Vị trí đoạn tríc
- Đoạn trích nằm ở phần thứ hai: Gia biến và Lưu lạc. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều không chịu tiếp khách làng chơi, Tú Bà sợ mất vốn nên giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích để thực hiện âm mưu mới, đê tiện, tàn bạo hơn
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Miêu tả chân thực sự cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết và tấm lòng chung thủy, hiếu thảo vị tha của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích
- Nghệ thuật: Nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, bút pháp tả cảnh ngụ tình.
II. ÔN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
Bài tập 1:Cho đoạn thơ sau:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Câu 1: Em hãy nêu nội dung của đoạn thơ trên?
Trả lời:
Đoạn trích diễn tả nỗi nhớ thương cha mẹ và người yêu của Thúy Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Câu 2: Cụm từ “tấm son” có nghĩa gì?
Trả lời:
“Tấm son” là từ ngữ dùng để chỉ tấm lòng son sắt, thủy chung, khôn nguôi nhớ về Kim Trọng của Thúy Kiều.
Cũng có thể Kiều đang cảm thấy tủi hờn, nhục nhã khi tấm lòng son bị vùi dập, hoen ố, không biết gột rửa thế nào cho hết.
Câu 3: Nêu dụng ý nghệ thuật của tác giả khi sử dụng từ “tưởng” và “xót” trong đoạn thơ trên.
Trả lời:
- Từ “tưởng” gợi lên được nỗi lòng khắc khoải, nhớ mong về người cũ tình xưa của Thúy Kiều. Trong lòng nàng luôn thường trực nỗi nhớ người yêu đau đớn, dày vò tâm can.
- Từ “xót” tái hiện chân thực nỗi đau đớn đến đứt ruột của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Nàng không thể ở cạnh báo hiếu cho cha mẹ, nàng đau đớn tưởng tượng ở chốn quê nhà cha mẹ đang ngóng chờ tin tức của nàng.
Câu 4: Thành ngữ nào được sử dụng trong đoạn trích trên?
Trả lời:
Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” được sử dụng nhằm nhấn mạnh nỗi đau xót dày xé tâm can của Kiều khi lo lắng nghĩ về cha mẹ. Nàng băn khoăn không biết cha mẹ có được phụng dưỡng, chăm sóc chu đáo không.
Câu 5: Em hãy nhận xét về trình tự thương nhớ của Thúy Kiều trong đoạn trích trên. Theo em thứ tự đó có hợp lý không?
Trả lời:
Trình tự thương nhớ của Thúy Kiều: nhớ Kim Trọng trước, sau đó nhớ cha mẹ. Theo nhiều nhà hủ nho thì như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, thật ra lại là rất hợp lý.
+ Kiều bán mình chuộc cha mẹ và em là đã thể hiện sự hiếu đễ của bản thân với công lao cha mẹ, nên nàng phần nào đỡ day dứt.
+ Đối với Kim Trọng, Kiều nhận thấy mình như một kẻ phụ tình, không đền đáp được tình cảm và tấm lòng của người yêu.
Câu 6: “Người tựa cửa hôm mai” được nói tới trong đoạn thơ trên là ai? Những suy nghĩ của nàng Kiều về người đó được thể hiện như thế nào?
Trả lời:
“Người tựa cửa hôm mai” được nói tới trong đoạn thơ trên chính là cha mẹ Kiều.
- Kiều cảm thấy đau đớn, xót xa khi tưởng tượng ở quê nhà, cha mẹ và nàng vẫn tựa cửa ngóng đợi tin tức về nàng.
- Nàng xót thương, cảm thấy day dứt khi không thể “quạt nồng ấp lạnh” phụng dưỡng song thân.
Câu 7: Viết đoạn văn theo phương pháp diễn dịch nêu cảm nhận của em về tâm trạng của nhân vật Kiều trong đoạn thơ trên.
Trả lời:
Kiều một mình trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng thì nỗi cô đơn của Kiều càng lúc càng dâng cao, và tâm trạng thương nhớ người yêu và người thân khắc khoải, da diết.
- Tâm trạng nhớ thương Kim Trọng: Kiều luôn day dứt vì không thể đáp lại tình cảm và tấm lòng của Kim Trọng.
+ Nỗi nhớ về cảnh thề nguyền khiến Kiều thấy thương thân tủi phận, nàng thấy lại kỉ niệm thiêng liêng trong niềm nuối tiếc.
+ Thương xót, đau đớn nghĩ rằng Kim Trọng sẽ ngóng đợi khi không thấy Kiều.
+ Tấm lòng son sắt của nàng bị vùi dập, hoen ố không biết bao giờ gột rửa cho được.
→ Nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ da diết, đau đớn tới dày xé tâm can.
- Nỗi nhớ cha mẹ: thấy “xót” khi tưởng tượng cha mẹ vẫn ngóng đợi nàng.
+ Kiều tưởng tượng cha mẹ nơi quê nhà già yếu đi, không biết có ai chăm sóc chu đáo.
+ Mỗi khi nhớ về cha mẹ nàng luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dưỡng của cha mẹ.
→ Nỗi nhớ thương của Kiều nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Hoàn cảnh của nàng thật xót xa, đau đớn. Nàng đã quên đi nỗi khổ, thực trạng của bản thân để hướng về người thân. Trái tim của nàng giàu tình yêu thương và đức hi sinh.
⇒ Kiều là người chung thủy, người con hiếu thảo, một người giàu đức hi sinh, lòng vị tha cao cả, đáng trân trọng.
Bài tập 2:Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xăm
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Câu 8: Cảnh vật trong đoạn thơ được miêu tả theo những trình tự nào?
Trả lời:
Cảnh vật trong đoạn thơ được miêu tả theo trình tự từ xa tới gần.
Từ “cửa bể chiều hôm” tới “ghế ngồi”, bốn khung cảnh khác nhau:
+ Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển.
+ Những cánh hoa lụi tàn trôi man mác trên ngọn nước mới.
+ Nơi cỏ héo úa, rầu rầu.
+ Cảnh tưởng tượng sóng quanh ghế ngồi.
→ Diễn đạt nỗi buồn dâng lên đầy ắp, càng ngày như muốn nhấn chìm Kiều trước cuộc bể dâu.
Câu 9: Trong đoạn trích trên điệp từ “buồn trông” có ý nghĩa gì?
Trả lời:
Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu, khắc họa nỗi buồn trông ra bốn phía, ngóng đợi những thứ xa xôi, mơ hồ làm thay đổi hiện tại bế tắc.
- Buồn trông cái thảng thốt, lo âu, mỗi sợ hãi của người con gái non nớt khi lạc vào cuộc đời ngang trái.
- Cụm từ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với những sắc thái cao độ khác nhau.
- Điệp ngữ lại kết hợp với các từ láy chủ yếu là từ láy tượng hình, dồn dập, tạo nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày càng dâng kín bủa vây lấy Kiều.
- Điệp ngữ tạo nỗi buồn trầm hùng, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.
Câu 10: Em hãy nêu tác dụng của hai câu hỏi tu từ được sử dụng trong đoạn thơ trên.
Trả lời:
Câu hỏi tu từ: “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
- Hình ảnh cánh buồm nhỏ, đơn độc giữa mênh mông sóng nước, cũng giống như tâm trạng của Kiều trong không gian thanh vắng ở hiện tại nghĩ tới tương lai mịt mù của bản thân.
+ Nàng cảm thấy lênh đênh giữa dòng đời, không biết ngày nào mới được trở về với gia đình, đoàn tụ với người thân yêu.
Câu hỏi tu từ: “Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Những cánh hoa trôi vô định trên mặt nước càng khiến Kiều buồn hơn, nàng nhìn thấy trong đó số phận lênh đênh, chìm nổi, bấp bênh giữa dòng đời ngang trái.
Kiều lo sợ không biết số phận của mình sẽ trôi dạt, bị vùi lấp ra sao.
Câu 11: Ghi lại các từ láy có trong đoạn thơ trên và cho biết dụng ý nghệ thuật của chúng.
Trả lời:
Các từ láy được sử dụng trong bài: man mác, thấp thoáng, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm.
- “thấp thoáng”: gợi tả sự nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của ánh mặt trời sắp tắt.
- “man mác”: sự chia ly, chia cách biệt, khi Kiều càng ngày càng thấy bản thân lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi ba chìm sóng nước.
- “xanh xanh”, “ầm ầm”: chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đang đổ dồn tới đè nặng lấy tâm trạng và kiếp người nhỏ bé của Kiều.
Câu 12: Em hãy so sánh hai câu thơ của Nguyễn Du: Cỏ non xanh tận chân trời.
Hãy chỉ ra nội dung của câu thơ đó với câu: Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Trả lời:
- Câu thơ: Cỏ non xanh tận chân trời là câu thơ trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, diễn tả hình ảnh đẹp đẽ về sức sống của mùa xuân. Màu xanh của cỏ non ngút ngàn tới chân trời, mở ra không gian khoáng đạt, giàu sức sống.
- Câu thơ: Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
Nội cỏ “rầu rầu” là hình ảnh “sắc xanh héo úa” mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây tới mặt đất, không còn cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm.
Màu xanh của sự héo tàn gợi cho Kiều một nỗi nhàm chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô đơn, quạnh quẽ vô vọng vì sống cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày sống vô vị tẻ nhạt không biết kéo tới bao giờ.
Câu 13: Phân tích hình ảnh ẩn dụ:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Trả lời:
- Nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” là sự tưởng tượng của Kiều trước thực tại mù mịt, chênh vênh của Kiều.
- Âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập xuống cuộc đời nàng và còn tiếp tục đè lên kiếp người đè nặng lên trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công.
- Tất cả những đợt sóng đang gầm thét trực chờ nhấn chìm Kiều, nàng không chỉ buồn mà là sợ, kinh hãi trước khi rơi vào vực thẳm một cách bất lực.
Nỗi buồn đã lên tới đỉnh điểm khiến Kiều thực sự tuyệt vọng.
→ Cảnh vật được nhìn thông qua lăng kính tâm trạng của Kiều “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Câu 14: Cảm nhận về nàng Kiều trong đoạn văn trên (khoảng 7 - 10 câu).
Trả lời:
Chỉ với 8 câu thơ tả thực cảnh nhưng thực chất là tâm cảnh đã nói lên sự vô định, buồn bã, nỗi lo âu kinh hãi dồn tới đỉnh điểm trong cảm xúc của Kiều. Hình ảnh cánh buồm xa xa nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt khi thể hiện được nội tâm nhân vật Kiều. Cánh buồm nhỏ nhoi vô định cũng chính là hình ảnh Kiều vẫn lênh đênh giữa dòng đời không biết khi nào mới về đoàn tụ với gia đình. Tiếp nối là hình ảnh những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên mặt nước mới xa thì Kiều lại càng buồn hơn bởi nàng nhìn thấy thân phận vô định giữa dòng đời của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu như khắc họa sâu thêm nỗi buồn không lối thoát của Kiều. Nàng vô vọng vì những chuỗi ngày vô định xung quanh tẻ nhạt, không biết kéo tới bao giờ. Dường như nỗi buồn ngày càng tăng lên tới vô định, dồn dập. Nỗi buồn và sợ hãi dâng lên tột đỉnh, khiến Kiều rơi vào tuyệt vọng. Tất cả như muốn nhấn chìm, à dìm Kiều xuống tận đáy của sự đau khổ cùng cực.
Câu 15: Nhận xét tình cảm của tác giả đối với Thúy Kiều.
Trả lời:
Tác giả xót thương trước thân phận và hoàn cảnh của Kiều. Tác giả tái hiện chân thực nỗi đau, nỗi buồn và sự tuyệt vọng của Kiều trong những ngày tháng vô định, mù mịt, không có tương lai.
Tác giả thấu hiểu cặn kẽ nỗi cô đơn, buồn tủi mà Kiều đang phải đối mặt, vì thế mà ông có thể diễn tả thông qua hình ảnh của ngoại cảnh nhưng chạm tới được dụng ý nghệ thuật của mình.
Cảnh thiên nhiên trong bài cũng chính là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc chân thật của mình.
Câu 16: Phân tích biện pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích trên bằng đoạn văn tổng phân hợp có sử dụng phép thế và phép lặp (gạch chân phía dưới các phép liên kết đó).
Trả lời:
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong đoạn thơ cuối bài (8 câu cuối) chính là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển.
Để diễn tả tâm trạng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển để khắc họa tâm trạng của Kiều trong lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Mỗi biểu hiện của cảnh chính là ẩn dụ về tâm trạng con người, mỗi một cảnh khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau trong khi nỗi buồn ấy lại ẩn chứa tâm trạng.
Thông qua điệp từ “buồn trông” kết hợp cùng với hình ảnh đứng sau và hệ thống các từ láy tượng hình, gợi sự dồn dập, chỉ có một từ tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng lên, lớp lớp nỗi buồn vô vọng, vô tận.
III. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
BT1hân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
DÀN Y
Mộng Liên Đường đã từng nói: “Nguyễn Du có con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Và với con mắt tinh tế, nhạy cảm nhất, Nguyễn Du đã nhìn thấu tâm hồn Thúy Kiều để rồi thấu hiểu mọi tâm tư, nỗi lòng của nàng bằng cả trái tim yêu thương và trân trọng. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã rất thành công trong việc miêu tả tâm trạng nàng Kiều với những diễn biến tâm lí đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Thúy Kiều là một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng nàng phải nếm trải một cuộc đời đầy sóng gió, chìm nổi. Người con gái giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp ấy phải hi sinh mối tình đầu dang dở để làm tròn chữ hiếu. Khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh đầy cay đắng và tủi nhục, nàng đã định tự vẫn kết liễu cuộc đời mình nhưng Tú Bà độc ác đã giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích. Thúy Kiều đã phải một mình đối chọi với sự cô đơn, trống trải đến tuyệt vọng giữa không gian mênh mông, hoang vắng ở nơi đây:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng.
+ “Khóa xuân” nghĩa là khóa kín tuổi xuân, chôn vùi tuổi thanh xuân tươi đẹp ở nơi đây. Ở lầu Ngưng Bích lúc này Kiều chỉ có một mình, quạnh hiu và trơ trọi, chỉ biết làm bạn với ánh “trăng gần” và thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích mà thôi. Nhìn ra xung quanh là cả một không gian bao la xa vời. “Bốn bề” là “cát vàng”, là “bụi hồng”, không một nếp nhà, không một bóng người. Dường như cảnh vật bị bao trùm bởi một nỗi buồn nặng trĩu, u uất. Nỗi buồn đau trong Kiều đang thấm vào cảnh vật, hòa vào cảnh sắc thiên nhiên.
Cuộc sống của Kiều như bị tách khỏi thế giới bên ngoài, không một chỗ đứng, chơ vơ, lơ lửng trên một tòa lầu cao ngất. Kiều cố đưa ánh mắt nhìn ra xung quanh, mong ngóng tìm thấy bóng dáng của con người nhưng vô vọng. Trước mắt nàng chỉ là cồn cát hoang vu, bụi đường gió cuốn mịt mùng. Không gian dường như trải dài vô tận, rất hoang vắng, quạnh hiu, buồn thương như chính tâm trạng của Kiều vậy!
+ Tháng ngày đằng đẵng trôi qua, trang trải với dòng thời gian tuần hoàn khép kín: sớm làm bạn với mây trời, đêm đến làm bạn với ánh đèn khuya leo lét…cuộc đời dài cô độc, mòn mỏi, không sức sống, không một niềm tin hi vọng. Không một ai hiểu được tâm trạng của nàng, chia sẻ với nỗi buồn đau trong nàng, chỉ có một mình nà ng đối diện với chính bản thân mình. Nỗi buồn vì thế mà ngày càng giằng xé, không khi nào cạn vơi và dường như mở ra vô cùng với không gian, cảnh vật. Thúy Kiều bỗng thấy mình thật nhỏ bé, đáng thương, khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi ngoài kia? Khung cảnh nhuốm màu tâm trạng càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều. Bốn chữ “như chia tấm lòng” đặc tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau đớn. Ta như đồng cảm với Thúy Kiều, buồn chung nỗi buồn trong lòng nàng. Một đời tài sắc, hiếu nghĩa, thủy c hung bị giam hãm, còn gì đáng thương, đáng tiếc hơn thế?
- Không tìm được niềm an ủi nơi cảnh vật, nàng trở về với lòng mình: nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu dày vò tâm can không khi nào nguôi.
+ Nàng nhớ đến chàng Kim – người mà mới đây thôi nàng nặng lòng thềnguyền:Tưởng người dưới nguyệt chén đồng Tin sương luống những rày trông mai chờ
Thúy Kiều đang hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc bên người mình yêu thương. Chén rượu thề nguyền dưới ánh trăng giữa nàng với Kim Trọng vẫn còn đang hiện hữu mồn một trong tâm trí nàng. Tình yêu đẹp đẽ, trong sáng vừa nảy nở bỗng nhiên bị chia phôi. Nàng nhớ Kim Trọng, nhớ lại lời thề ước nhưng chính nàng đã phụ lời thề, phụ chàng Kim. Chữ “tưởng” ở đây có thể xem là một nhãn tự. Nguyễn Du không dùng chữ “nhớ” mà dùng chữ “tưởng”. Tưởng vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu. Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu mình cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng. Nhưng chàng đâu có hay biết, Thúy Kiều đã thuộc về người khác, tự bán thân vào nơi hang hùm, miệng rắn, đang một mình bơ vơ nơi góc bể chân trời ngày ngày ngóng trông:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
“Tấm son” ở đây là tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng đối với Kim Trọng. Nhưng giờ đây đâu còn nguyên vẹn như trước nữa!Tình yêu mà nàng danh cho chàng Kim sẽ mãi mãi không thay đổi, không bao giờ phôi pa, mờ nhạt, thế nhưng…tấm lòng son sắt trong trắng đã bị vùi dập, hoan ố, không biết bao giờ gột rửa cho sạch. Đó chính là điều khiến nàng đau đớn, xót xa nhất, trái tim nàng đã nát tan. Nàng thấy mình không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa, không xứng đáng với tình yêu bấy lâu chàng dành cho mình. Nỗi ân hận, đắng cay đang trào dâng trong nàng, dày vò, cắt rứt lương tâm người con gái…Các động từ “tưởng”,”trông”,”chờ”,”bơ vơ”,”gột rửa”,”phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại đặc sắc cực tả tâm trạng Thúy Kiều. Cái tình trong ngòi bút của Nguyễn Du đã chạm tới cái hồn sâu thẳm trong Kiều…
+ Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ nơi quê nhà:
Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Chữ “xót” diễn tả tấm lòng Kiều dành cho đấng sinh thành. Nàng xót xa vô hạn nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con, hay mong chờ con đến đỡ đần. Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người “quạt nồng ấp lạnh” chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay. Tác giả đã sử dụng các thành ngữ “rày trông mai chờ”, “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” và các điển tích, điển cố “sân Lai,gốc Tử” để nói lên tâm trạng nhớ thương, lo lắng và tấm lòng hiếu thảo của Kiều dành cho cha mẹ. Thúy Kiều vô cùng day dứt, ân hận vì đã phụ công dưỡng dục, sinh thành của cha mẹ. Những lúc cha mẹ cần chăm sóc, cần đỡ đần nhất thì mình lại không có ở bên để phụng dưỡng. Điều đó khiến nàng cắt rứt biết bao nhiêu.
+ Lưu lạc, bơ vơ, trăm cay nghìn đắng, nhưng Kiều vẫn nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ, cho người mình yêu. Tình cảm ấy thật thiết tha, nhân hậu, đáng quý, đáng trọng biết nhường nào! Tại sao Nguyễn Du lại để nàng Kiều nhớ đến người yêu trước chứ không phải là nhớ đến cha mẹ trước tiên? Bởi vì, Thúy Kiều cho rằng, việc nàng bán mình chuộc cha và em cũng là một phần đáp đền chữ hiếu cho cha mẹ. N hưng đối với chàng Kim, nàng chưa đáp đền được tình cảm cho nàng mà còn phụ lời ước nguyện, phụ tình yêu đầu đẹp đẽ. Như vậy, Thúy Kiều là một người con gái thấu tình đạt lí, hiểu tường tận
lí lẽ ở đời. Nàng vừa là người con hiếu thảo, vừa là người tình thủy chung. Nguyễn Du đã sử dụng những ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và nét riêng độc đáo trong miêu tả tâm trạng nhân vật tạo nên những vần thơ biểu cảm, thấm thía nghĩa tình mà tràn ngập niềm xót thương vô hạn.
Sau nỗi nhớ thương là nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang và lo sợ triền miên… Nỗi buồn đau như giằng xé tâm can, cứ xiết chặt lấy tâm hồn nàng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bức tranh phong cảnh nhuốm màu buồn tê tái. Nguyễn Du đã lấy khung cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật trữ tình. Cảnh vật đượm buồn một vẻ thê lương, chia lìa tan tác bởi nó được nhìn qua tâm trạng của Thúy Kiều. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm thía, nỗi buồn vời vợi mênh mông giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. “Buồn trông” là buồn mà nhìn xa, buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi cuộc sống hiện tại. Nhưng trông mà vô vọng:
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?
Thúy Kiều trông về “cửa bể chiều hôm”. Bầu trời đã dần tối, tối như chính cuộc đời nàng Kiều – tối tăm, u ám, không lối thoát. Trên cái nền trống vắng ấy xuất hiện một chiếc thuyền “thấp thoáng”, “xa xa” lạc lõng, cô đơn. Cánh buồm mờ mờ, ảo ảo, chợt ẩn, chợt hiện không rõ, mơ hồ như ảo ảnh ở phía cuối chân trời. Con thuyền ấy cũng cô đơn, cũng lưu lạc một mình, lạc lõng giữa đất trời mênh mông. Con thuyền ấy có khác chi cuộc đời Kiều đơn độc, vô định, lặng lẽ trôi giữa dòng đời trôi nổi…
Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trước mắt Kiều là dòng nước chảy trôi vô định. Nước chảy làm cánh hoa “trôi man mác”, bồng bềnh, lặng lẽ, buồn bã, không phương hướng… Cuộc đời Kiều nào có khác thế? Cuộc đời Kiều giờ đây cũng mỏng manh tan tác, vô định như cánh hoa kia, không
biết phiêu dạt đến phương trời xa xăm nào nữa…Lòng đã buồn, cảnh lại quá đỗi buồn thương…
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng… “nội cỏ rầu rầu” dàn trải típ tắp tới tận chân trời xa. Vẫn không có một bóng cây, chẳng một bóng nhà để phá bớt cái màu xanh đơn điệu ấy. Màu cỏ không phải là màu xanh tươi tốt mà “rầu rầu” buồn bã, héo hắt không chút sức sống. Ấy thế mà màu xanh ấy cứ trải rộng ra mãi, nối tiếp với vùng trời mênh mang mờ mịt. Màu xanh ấy nhợt nhạt,xa xôi làm gợi lên một nỗi niềm ngao ngán tẻ nhạt vô cùng. Và có lẽ, màu xanh ấy là màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau của Thúy Kiều. Tương lai của nàng cũng mờ mịt, ủ ê như chính sắc cỏ vậy…không sức sống, không niềm tin, vô vọng và đầy ngao ngán…
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi
Dường như đến đây, nỗi buồn đã dâng cao đến đỉnh điểm, đang trào dâng mạnh mẽ như vỡ ra trong lòng Kiều. Gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng gào thét “ầm ầm” như chực cuốn phăng đi tất cả mọi thứ hiện hữu, kể cả Kiều. Nàng cảm nhận thấy tiếng sóng đang bủa vây xung quanh, như bao bọc lấy nàng, xiết chặt, gào thét trong tâm hồn nàng. Thúy Kiều dường như không còn lối thoát. Từng lớp sóng như muốn nhấn chìm nàng xuống vực thẳm đáng sợ! Chi tiết này đã dự báo trước cuộc đời nàng sẽ vẫn còn nhiều sóng gió, hiểm họa phía trước. Kiều đã phải gánh chịu quá nhiều thương đau, mất mát vậy mà vẫn chưa đủ, dòng đời vẫn cuốn nàng đi, xô đẩy, vùi dập số phận mong manh nhỏ bé của nàng…
Một lần nữa, Nguyễn Du đã chạm ngòi bút đến đáy sâu tâm hồn Thúy Kiều. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả ngoại cảnh đều mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và bất hạnh của một người con gái tài sắc. Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt những từ láy “thấp thoáng”,”xa xa”, “man mác”,”rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm” tạo nên âm điệu trầm buồn ghê sợ. “Buồn trông” được lặp lại bốn lần ở đầu câu như cất lên tiếng kêu ai oán, đau thương não nề. Tám câu thơ khổ cuối như một bài ca buồn cất lên thổn thức khiến người đọc rưng rưng xúc động. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du vô cùng đặc sắc và tinh tế đã khắc họa lên bức tranh tâm trạng Thúy Kiều vừa có màu sắc, vừa có âm thanh. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du rất điêu luyện. Cảnh mang hồn người, cảnh và tình hòa hợp, sống động, giàu trị biểu cảm. Tám câu thơ cuối là linh hồn của cả đoạn thơ, để lại trong lòng người đọc những âm vang mạnh mẽ nhất!
=> Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện được tài năng miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du. Đoạn trích cũng thể hiện được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, nhà thơ đã bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với số phận bất hạnh của những con người tài hoa, bạc mệnh.
*********************************************VĂN BẢN: “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Vài nét về tác giả, tác phẩm:
Tác giả:Cuộc đời:
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi là Đồ C hiểu.Quê cha ở Thừa Thiên – Huế, ông được sinh tại quê mẹ ở Gia Định.
Cuộc đời Nguyễn Ðình Chiểu gặp nhiều khổ đau,bất hạnh:
+ Ngay từ nhỏ, Nguyễn Ðình Chiểu đã theo cha chạy giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng chốc trở thành một đứa trẻ thường dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém giết.
+ Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường Gia Định.Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹmất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang mẹ (1849).Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Ông bị người yêu bội ước, công danh dang dở.
Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu đã ngẩng cao đầu sống một cuộc sống có ích: mở trường dạy học, bốc thuốc chữ bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh:
+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ,được nhiều thế hệ học trò
kính yêu.
+ Là thầy thuốc, ông xem trọng y đức, lấy việc cứu người làm trọng.
+ Là nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu quan tâm đến việc dùng văn chương để hướng con người đến cái thiện, đến một lối sống cao đẹp, đúng đạo lí làm người. Khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, ông dùng thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu còn là tấm gương sáng ngời lòng yêu nước và tinh thần bất khuất chống ngoại xâm:
+ Ông là lá cờ đầu trong nền thơ ca yêu nước chống Pháp. (Lên lớp 11, các em sẽ được học hai tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu viết về nội dung yêu nước. Đó
là “Chạy giặc” và “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”).
+ Ngay từ những ngày đầu giặc Pháp xâm lược Nam Bộ (1858),Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm; kiên quyết giữ vững lập trường kháng chiến; cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn bạc việc chống giặc và sá ng tác thơ văn để khích lệ tinh thần chiến đầu của các nghĩa sĩ. Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu có tác động tích cực đối với cuộc chiến đấu của nhân ta đương thời. Bởi vậy, mà ông được mệnh danh
là “Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (ý thơ Tùng Thiện Vương).
+ Khi triều đình nhà Nguyễn bại nhược, bất lực đến mức phải dâng cả Nam Kì lục tỉnh cho giặc Pháp, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao khí tiết,giữ gìn lối sống trong sạch, cao cả, từ chối mọi cám dỗ của thực dân, không chịu hợp tác với kẻ thù.
Sự nghiệp văn chương:
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại nhiều áng văn chương có giá trị nhằm:+ Truyền bá đạo lí làm người như “Truyện Lục Vân Tiên”, “Dương Từ - Hà Mậu”…
+ Cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước như “Chạy giặc”,”Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”,”Thơ điếu Trương Định”…
*Trong một bài viết của mình, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có những lời so sánh, ví von diệu vợi để tưởng nhớ tới nhà thơ, người chiến sĩ yêu nước đầy tự hào của dân tộc ta ở thế kỷ 19 – N guyễn Đình Chiểu:
“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, thoạt nhìn thì chưa thấy sáng, song càng nhìn thì càng thấy sáng. Nguyễn Đình Chiểu – nhà thơ yêu nước vĩ đại của nhân dân Nam Bộ thế kỉ XIX là một trong những ngôi sao như thế!”.
* “Một con người tật nguyền như vậy, nếu chỉ sống bình thường, trong sạch cũng là quý, không ai nỡ đòi hỏi phải gánh vác việc đời. Ấy mà cụ đã sống và đã làm việc với ba cương vị trí thức, luôn luôn có mặt ở phía trước, luôn luôn gương mẫu, cống hiến không kể mình, và như vậy cho đến ngày từ giã cõi đời. Còn có tấm gương người mù nào đáng soi hơn cho người có đủ hai mắt”.
(Lê Trí Viễn)
Tác phẩm:
-“Truyện Lục Vân Tiên” là truyện thơ Nôm, được viết vào khoảngđầu những năm 50 của thế kỉ XIX. “Truyện Lục Vân Tiên” là sách gối đầu giường của người Nam Bộ, là tiếng lòng của người miền Nam.Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của truyện phương Đông, theo chương hồi, xoay quanh diễn biến cuộc đời của nhân vật chính.
Nội dung của truyện là truyền dạy đạo lí làm người, cụ thể là:
+ Ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình nghĩa vợ chồng, tình cha con, mẹ con, tình cảm bạn bè, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang, đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.
+ Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy.
+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời: thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của truyện:
Vân Tiên trên đường lên Kinh Đô dự thi, chàng gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành. Chàng đã bẻ cây bên đường làm gậy. Xông thẳng vào những kẻ trong tay có vũ khí. Chàng đã đánh tan chúng, cứu được Kiều Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
Phân tích hình ảnh Lục Vân Tiên trong đoạn trích.
Mở đầu truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Lời thơ giản dị nhưng là một quan niệm đạo đức xuyên suốt tác phẩm. Với Nguyễn Đình Chiểu, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương, mà trước hết, quan trọng hơn hết, viết văn là để giáo dục đạo đức, để khẳng định và tôn vinh đạo nghĩa, đạo lí ở đời. Truyện thơ “Lục Vân Tiên” là tác phẩm tiêu biểu cho quan niệm đó của Nguyễn Đình Chiểu. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã xây dựng thành công chân dung người anh hùng trượng nghĩa. Lục Vân Tiên chính là nhân vật tiêu biểu cho quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu.
Lục Vân Tiên là chàng trai dũng cảm, có lòng “nhân” sẵn sàng làm việc “nghĩa”. Lục Vân Tiên vốn con nhà thường dân, nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Trên đường lên kinh, bất ngờ gặp toán cướp đang trêu ghẹo con gái nhà lành, Lục Vân Tiên nhanh nhẹn “ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy” xông thẳng vào giữa bọn cướp. Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp “mặt đỏ phừng phừng”, dữ tợn như một con ác thú. Chúng “truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng”. Lực lượng thật là quá chênh lệch. Vậy mà, Vân Tiên không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Tác giả không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một câu so sánh và sử dụng linh hoạt thành ngữ “tả đột hữu xông”. Hình tượng Vân Tiên hiện lên giống như một dũng tướng, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Chương Dương, Trường Bản ngày xưa. Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dầu sao vẫn là nghĩa vụ của một bề tôi trung thành. Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, xuất phát từ lòng nhân. Giản dị, vô tư mà trong sáng cao đẹp biết bao! Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh, diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch:
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ giản dị, mộc mạc, song người đọc có thể cảm nhận được sức mạnh của người anh hùng. Đó là sức mạnh của một người anh hùng sẵn sàng xả thân vì việc nghĩa, sức mạnh xuất phát từ một người có lòng nhân. Chiến thắng của Lục Vân Tiên là sự khẳng định của chân lí: chính nghĩa thắng hung tàn.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Chàng đã ôn tồn thăm hỏi tận tình từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Khi Nguyệt Nga định xuống kiệu để tạ ơn Vân Tiên, chàng đã vội vàng can ngăn:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Lời nói của Lục Vân Tiên cho ta thấy chàng ý thức rất rõ về lễ giáo phong kiến, câu nói đã bộc lộ một quan niệm tư tưởng đạo đức xã hội thời phong kiến. Qua đó, ta thấy Lục Vân Tiên là một người hiểu biết, đúng mức, đáng trân trọng.
Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe tiểu thư Kiều Nguyệt Nga – nạn nhân
được chàng cứu giúp – kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn báo ân thì:
Vân Tiên nghe nói liền cười Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
Lục Vân Tiên đã “cười” khi nghe Nguyệt Nga nói sẽ đền ơn. Đây là hành động cho thấy vẻ đẹp trong phẩm chất, khí tiết của Lục Vân Tiên. Đây không phải là cái cười khinh bạc mà là cử chỉ chứng tỏ ý nghĩa cao cả của hành động cứu người: cứu người không phải để màng trả ơn, cứu người đơn giản chỉ là để giúp đỡ con người thoát khỏi vòng luân lạc.
Câu nói “Làm ơn há dễ trông người trả ơn” nôm na, giản dị nhưng đã cho ta thấy tấm lòng chất phác và nghĩa khí của Lục Vân Tiên. Chàng đã khẳng định việc mình làm là hoàn toàn “tự nguyện”. Chàng đã hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Gọi là ơn cũng được nhưng chàng làm ơn không phải để màng trả ơn. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc tới các bậc hiền nhân xưa:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Người xưa nói: “Kiến ngãi bất vi vô dũng dã”. Nghĩa là: Thấy việc nghĩa mà không làm, hèn nhát. Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. “Phi anh hùng” là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên. Đó chính là lẽ sống của chàng.Hình ảnh Lục Vân Tiên, lời chàng nói, nhân cách và hành động của chàng khiến ta liên tưởng đến Từ Hải trong “Truyện Kiều”:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.
Họ đều là những người anh hùng, là hiện thân cho khát vọng công bằng, công lí trong xã hội.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là đoạn trích hay không phải bởi vì nó có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tếmà vì những chi tiết, sựviệc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Trong đó, hình tượng Lục Vân Tiên đã được khắc họa thành công với phong cách sống phóng khoáng, với vẻ đẹp phẩm chất của người dân vùng Nam Bộ: anh hùng, chính trực, giàu lòng yêu thương con người. Đây cũng là hình tượng tiêu biểu cho quan niệm nhân sinh tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu: việc nhân nghĩa là hành đạo giúp đời.
**********************************************************
CHUYÊN ĐỀ 5. VĂN BẢN: ĐỒNG CHÍ( Chính Hữu)
Nhà thơ Chính Hữu tâm sự về bài thơ “Đồng chí”
MỘT VÀI KỈ NIỆM NHỎ VỀ BÀI THƠ "ĐỔNG CHÍ"
Vào cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc. Địch nhảy dù ở Việt Bắc và hành quân từ Bắc Kạn đến Thái Nguyên.Chúng tôi phục kích từng chăng đánh, truy kích binh đoàn Beaufré.Khi đó tôi là chính trị viên đại đội.Phải nói là chiến dịch vô cùng gian khố.Bản thân tôi cũng chỉ phong phanh trên người một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, ăn uống rất kham khổ vì đang trên đường hành quân truy kích địch. Tôi cũng phái có trách nhiệm chăm sóc anh em thương binh và chôn cất một số tử sĩ. Sau trận đó, tôi ốm, phải nằm lại
điều trị; đơn vị cử một đồng chí ở lại săn sóc tôi. Trong khiốm, nằm ở nhà sàn heo hút, tôi làm bài thơ Đồng chí.
Bài thơ Đồng chí được làm sau bài thơ Ngày về.Tôi thấy lúc này làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình.Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội.Suốt cả cuộc chiến đấu chỉ có một chỗ dựa dườngnhưlàduy nhấtđếtồntại, để chiếnđấulàtìnhđồngchí,tìnhđồngđội.Đồngchíở đây là tình đồng đội, không có đồng đội tôi không thể nào làm tròn được trách nhiệm, không có đồng đội tôi cũng đã chết lâu rồi.Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội, tặng người bạn nông dân của mình.Bài thơ viết có đối tượng.Tôi hiểu và quý mếnngườiđồngđộicủatôinêntiếngnóithơcagiảndịvàchânthật.TuynhiênĐồngchí không phải là bài thơ nôm na. Trước Cách mạng, tôi có làm một ít thơ.Trong thơ, tôi cố gắng để nói cái cần nói, không nói dài, nói thừa.Tôi mong có được sự hàm súc, cô đọng của lời thơ, và hình ảnh thơ phải mang tính tạo hình.Tôi là lính của Trung đoàn Thù đô.Tôi vào bộ đội ngày 19 - 12 -1946. Bước vào cuộc kháng chiến, tuổi trẻnhiều lúc bốc men say. Bài Ngày về phán ánh một mặt khía cạnh của tâm trạng tôi và bài Đồng chí cũng phản ánh một mặt của tình cảm tôi.Bài thơ được làm nhanh.Tôi làm để tặng bạn.Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không phải trong cảnh "nước mặn đồng chua” hoặc đất cằn cỗi sỏi đá.Cái tôi trong bài thơ có những chi tiết không phải là tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản thì là của tôi.Tất cả những hình ảnh gian khổ của đời lính thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật... bạn và tôi đều cùng trải qua.Trong những hoàn cảnh đó, chúng tôi là một, gắn bó trong tình đồng đội.Viết về bộ đội nhưng thơ tôi thiên vềkhaithácđờisốngnộitâm,tìnhcảm,ítcónhữngchuyệnđùngđoàng, chiếnđấu.
Tôi làm bài Đồng chí cũng là tình cảm chân tình tự nhiên không có sự gò ép, gắng gượng nào và nó cũng nằm trong tư duy thơ ca quen thuộc của tôi.Bài thơ có những hình ảnh cô đúc như đầu súng trăng treo. Tôi thấy có bạn phân tích hình ảnh đầu súng là tượng trưng cho người chiến sĩ đang bảo vệ quê hương và vầng trăng tượng trưng cho quê hương thanh bình. Tôi không nghĩ thế khi viết, còn hình tượng thơ có thể gợi cho người đọc nghĩ thế là tùy ở các bạn.Vấn đề đối vối tôi đơn giản hơn. Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng.Đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quyện với nhau tạo ra hình ảnh "đầu súng trăng treo". Lúc đầu tôi viết là "đầu súng mảnh trăng treo" sau đó bớt đi một chữ. "Đầu súng trăng treo", ngoài hình ảnh bốn chữ này còn có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật. Rừng mùa đông ở Việt Bắc rất lạnh, nhất là vào những đêm có sương muối.Sương muối làm buốt tê da như những mũi kimchâm và đến lúc nào đó bàn chân tê cứng đến mất cảm giác. Tất cả những gian khố của đời lính trong giai đoạn này thật khó kế hết nhưngchúng tôi vẫn vượt lên được nhờ ở sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội trong quần ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nghĩ đến tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động, bồi hồi.(Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội,1994)
I, Kiến thức cơ bản
1. Tác giả | - Chính Hữu ( 1926 – 2007), tên khai sinh là Trình Đình Đắc, quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. - Chính Hữu làm thơ từ năm 1947, thành công chủ yếu về đề tài người lính và chiến tranh, đặc biệt là những tình cảm cao đẹp của người lính, như tình đồng chí, đồng đội, tình quê hương, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương… Thơ Chính Hữu giản dị và chân thực, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. - Tác phẩm chính : Đầu súng trăng treo ( 1966), Thơ Chính Hữu ( 1977), Tuyền tập Chính Hữu 1988). - Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. |
2. Văn bản | a) Hoàn cảnh sáng tác - Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Như vậy, bài thơ là kết quả của những trải nghiệm thực và những cảm xúc sâu sa , mạnh mẽ của tác giả với đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc. - Bài thơ được in trong tập Đầu súng trăng treo ( 1966) |
b, Phương thức biểu đat: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm. (biểu cảm là chủ yếu). | |
c, Bố cục:ba phần + Phần 1: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội + Phần 2: 10 câu tiếp: Những biểu niện của tình đồng chí đồng đội + Phần 3: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội | |
d, Thể thơ: Tự do | |
e) Đặc sắc nghệ thuật - Cảm hứng thơ hướng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong cái bình dị, bình thường, không nhấn mạnh cái phi thường. - Bài thơ viết theo thể thơ tự do, không nhấn mạnh cái phi thường. - Bài thơ viết theo thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết chân thực, hình ảnh gợi cảm và cô đúc, giàu ý nghĩa biểu tượng. | |
g) Nội dung : Bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính Cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. | |
3, Ý nghĩa nhan đề văn bản | - Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng. - Đồng chí gợi cảm nghĩ về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một loại tình cảm mới, tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm tháng cách mạng kháng chiến - Đồng chí còn là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể cách mạng, của những người lính, ngời công nhân, người cán bộ từ sau cách mạng. -> Vì vậy, đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu sắc tình đồng đội. |
II.ĐỌC HIỂU
BÀI TẬP 1:
Cho câu thơ: “Quê hương anh nước mặn đồng chua” a) Chép tiếp 5 câu thơ tiếp theo. Cho biết đoạn thơ nằm trong bài thơ nào? Của ai? Hoàn cảnh sáng tác. b) Câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Tác dụng? c) Đoạn thơ gợi cho em nhớ tới bài thơ nào cũng viết về tình đồng chí, đồng đội của người lính trong chương trình Ngữ văn 9. Chép lại câu thơ thể hiện cử chỉ thân thiện và tình cảm của những người lính cách mạng. Cho biết tên tác giả, tác phẩm. d) Viết đoạn văn khoảng 12 dòng theo cách diễn dịch. Phân tích đoạn thơ trên để thấy được cơ sở bền chặt hình thành tình đồng chí (trong đó có sử dụng câu ghép). Chép lại và phân tích cấu tạo ngữ pháp của câu ghép. |
Gợi ý :
a, Tự trả lời b) Câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, hoán dụ. Cách nói hàm súc, giàu hình tượng, vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Nghệ thuật hoán dụ “súng”, “đầu”: “súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu. “Đầu” biểu tượng cho lí tưởng. Tả thực tư thế chiến đấu của người linh khi có giặc, tượng trưng chung hành động và lí tưởng của người lính. Tác dụng: Chính Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, hoán dụ trong câu thơ “Súng bên súng đầu sát bên đầu” cho ta thấy sự đoàn kết, gắn bó keo sơn của tình đồng đội, sự gắn kế trọn vẹn cả về lí trí, lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho Tổ quốc. c) Câu thơ thể hiện cử chỉ thân thiện và tình cảm của người lính cách mạng: “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” Thuộc tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” – Phạm Tiến Duật. d) Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn có độ dài khoảng 12 dòng theo lối diễn dịch, qui nạp, hay tổng phân hợp, có một câu ghép Yêu cầu về nội dung: Cần làm nổi bật nội dụng sau: - Sự gắn bó của những con người từ những vùng quê nghèo khổ khác nhau: xa lạ- tri kỉ - Họ cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu - Chú ý vào các từ ngữ hình ảnh giàu sức gợi: chung chăn, tri kỉ, súng bên súng, đầu sát bên đầu. * Đoạn văn tham khảo: Đoạn thơ trên trích trong văn bản “Đồng chí” – Chính Hữu sáng tác năm 1946 đã rất thành công trong việc thể hiện được cơ sở bền chặt hình thành tình đồng chí. Mở đầu là hai câu thơ:“Quê hương anh nước mặn đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Nghệ thuật đối xứng “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” giúp ta hình dung ra những người lính đều là con em của những người nông dân từ các miền quê nghèo khó, hội tụ về đây trong đội ngũ chiến đấu. “Anh với tôi đôi người xa lạ, Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Từ “đôi” chỉ hai người, hai đối tượng chẳng thể tách rời nhau, thể hiện sự đoàn kết, gắn bó keo sơn kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn. Từ phương trời tuy chẳng hẹn quen nhau nhưng họ là những người cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ, trong trái tim của họ nảy nở lên những ý chí quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí – tình cảm ấy không chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lí trí lẫn lí tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho Tổ quốc. “Súng bên súng đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chính Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp từ qua từ “súng”, “đầu”, “bên” và nghệ thuật hoán dụ “súng, đầu” đã thể hiện điều đó.Từ “chung” ở đây bao hàm nhiều nghĩa: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng, …“Tri kỉ” cho thấy họ là những đôi bạn thân thiết, luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời. Tóm lại, những người lính / tuy xuất thân từ những vùng quê nghèo khó nhưng CN VN họ / vẫn chung mục đích, chung một lí tưởng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. CN VN |
BÀI TẬP 2:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. Anh với tôi hai người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau, Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí ! (Theo Chính Hữu, Đồng chí, trong Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục, 2005, trang 128) Trong những câu thơ trên có một từ bị chép sai. Đó là từ nào ? Hãy chép lại chính xác câu thơ đó. Việc chép sai từ như vậy ảnh hưởng đến giá trị biểu cảm của câu thơ như thế nào ? Câu. thứ sáu trong đoạn thơ trên có từ tri kỉ. Một bài thơ đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 9 cũng có câu thơ dùng từ tri kỉ. Đó là câu thơ nào ? Thuộc bài thơ nào ? Về ý nghĩa và cách dùng từ tri kỉ trong hai câu thơ đó có điểm gì giống nhau, khác nhau ? 3. Xét về cấu tạo và mục đích nói, câu thơ "Đồng chí!" lần lượt thuộc các kiểu câu gì? câu thơ này có gì đặc biệt? Nêu ngắn gọn tác dụng của việc sử dụng kiểu câu đó trong văn cảnh? 4. Câu thứ bảy trong đoạn thơ trên là một câu đặc biệt. Hãy viết đoạn văn khoảng 10 câu phân tích nét đặc sắc của câu thơ đó. |
Gợi ý :
Trong đoạn thơ có từ bị chép sai là hai, phải chép lại là đôi : Anh với tôi đôi người xa lạ. Chép sai như vậy sẽ ảnh hưởng đến giá trị biểu cảm của câu thơ : Hai là từ chỉ số lượng còn đôi là danh từ chỉ đơn vị. Từ hai chỉ sư riêng biệt, từ đôi chỉ sự không tách rời. Như vậy, phải chăng trong xa lạ dã có cơ sở của sự thân quen ? Điều đó tạo nền móng cho chuyển biến tình cảm của họ. Câu thơ trong bài Ánh trăng của Nguyễn Du có từ tri kỉ : hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri kỉ Từ tri kỉ trong hai câu thơ cùng có nghĩa chỉ đôi bạn thân thiết, hiểu nhau. Nhưng trong mỗi trường hợp cụ thể, nét nghĩa có khác : ở câu thơ của Chính Hữu, tri kỉ chỉ tình bạn giữa người với người. Còn ở câu thơ của Nguyễn Duy, tri kỉ lại chỉ tình bạn giữa trăng với người. 3. Tác dụng: – Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu, là bản lề khép mở ý thơ… Về nội dung: Giúp thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà thơ: biểu hiện sự cô đặc, dồn thụ sức nặng tư tưởng, cảm xúc của tác giả…) 4. Viết đoạn văn : Về nội dung, cần chỉ ra được : Câu thơ chỉ có hai tiếng và dẩu chấm than, là nốt nhấn, là lời khẳng định. Gắn kết hai đoạn của bài thơ, tổng kết phần trên và mở ra hướng cảm xúc cho phần sau : cội nguồn của tình đồng chí và những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí. Về hình thức : không quy định cụ thể, nên có thể tự lựa chọn cấu trúc đoạn cho phù hợp. *Đoạn văn tham khảo: Bài thơ ” Đồng chí” của Chính Hữu ca ngợi tình cảm cao đẹp của những người lính anh bộ đội cụ Hồ trong đó tính hàm xúc của bài thơ được đặc biệt thể hiện ở dòng thơ thứ 7 trong bài thơ ” Đồng chí”, dòng thơ chỉ có một từ kết hợp với dấu chấm than, đứng riêng thành một dòng thơ và có ý nghĩa biểu cảm lớn, nhấn mạnh tình cảm mới mẻ thiêng liêng – tình đồng chí. Đây là tình cảm kết tinh từ mọi cảm xúc, là cao độ của tình bạn, tình người, có nghĩa được bắt nguồn từ những tình cảm mang tính truyền thống, đồng thời là sự gắn kết của bài thơ, nó là bản lề khẳng định khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí của sáu câu thơ trước, còn với những câu thơ phía sau là sự mở rộng, sự triển khai biểu hiện cụ thể của tình đồng chí, với ý nghĩa đặc biệt như vậy nên dòng thơ thứ 7 đã được lấy làm nhan đề cho bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. |
BÀI TẬP 3:
Cho đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi : (…) Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. (…) 1, Đoạn thơ trên trích từ tác phẩm nào? Của ai? Từ Đồng chí nghĩa là gì? Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí? 2, Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” 3, Nêu những khó khăn mà người lính phải trải qua. 4, Qua đoạn thơ trên, em có suy nghĩ gì về sức mạnh của tình đồng đội, đồng chí. 5, Dựa vào đoạn thơ trên, hãy viết một đoạn văn (khoảng 10 câu) theo cách lập luận tổng hợp – phân tích – tổng hợp trong đó có sử dụng phép thế và một phủ định để làm rõ sự đồng cảm, sẻ chia giữa những người đồng đội. (Gạch dưới câu phủ định và những từ ngữ dùng làm phép thế). |
Gợi ý:
1, -Trích từ tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu. - Đồng chí : người có cùng chí hướng, lí tưởng. Người cùng ở trong một đoàn thể chính trị hay một tổ chức cách mạng thường gọi nhau là “đồng chí”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, “đồng chí” trở thành từ xưng hô quen thuộc trong các cơ quan, đoàn thể, đơn vị bộ đội. Bài thơ được đặt tên “Đồng chí” nhằm nhấn mạnh sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng – những người có cùng chung cảnh ngộ, lí tưởng chiến đấu, gắn bó keo sơn trong chiến đấu gian khổ thời chống Pháp. Tình đồng chí vừa là tình chiến đấu, vừa là tình thân. Cả hai đều là máu thịt, hữu cơ, nó là sinh mạng con người cầm súng. Nó còn là lời nhắn gửi, lời kí thác của nhà thơ với người, với mình, nó là tiếng gọi sâu thẳm, thiêng liêng, nó là vật báu phải giữ gìn trân trọng. 2, Hoán dụ kết hợp nhân hóa cho ta thấy nỗi nhớ 2 chiều: quê hương, hậu phương nhớ người lính và người lính cũng 1 lòng gắn bó yêu mến quê hương 3, Những khó khăn, thiếu thốn của người lính: - Áo anh: rách vai - Quần tôi: vài mảnh vá - Chân: không giày => Bằng bút pháp tả thực + liệt kê, nhà thơ đã làm nổi bật lên những khó khăn, thiếu thốn về quân trang, quân dụng của những người lính. 4, Yêu cầu Hình thức: từ 5-7 dòng, đảm bảo đủ 3 phần chính của đoạn văn. Nộidung Đồng chí, đồng đội là cùng nhau chia sẻ khó khăn, thiếu thốn: -“Anh với tôi”-“từng cơn ớn lạnh, sốt run người...” -“miệng cười buốt giá”-“thương nhau tay nắm lấy bàn tay” => Sức mạnh của tình đồng đội, đồng chí giúp người lính hoàn thành nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn để hướng về tương lai tốt đẹp 5, Tình đồng chí cao đẹp đã mang lại sự đồng cảm, chia sẻ sâu sắc giữa những người đồng đội (1). Tuy xuất thân từ những làng quê cụ thể khác nhau nhưng những người chiến sĩ ấy đã có cùng một cảnh ngộ (2). Họ đã phải từ giã ruộng nương, làng mạc để bước chân vào quân ngũ (3). Họ để lại sau lưng những người thân với cuộc sống khó khăn, vất vả, với những tình cảm nhớ thương tha thiết (4). Bước chân vào cuộc chiến đấu trong giai đoạn đầu gian khổ, những người lính không có cả những trang phục bình thường, quen thuộc của một người bộ đội (5). Áo thì rách vai, quần thì có vài mảnh vá, chân thì không giày (6). Nhưng tinh thần của họ vẫn lạc quan : miệng cười buốt giá (7). Họ lại yêu thương, đoàn kết, gắn bó nhau trong hoàn cảnh thiếu thốn ấy : “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (8). Tình đồng chí như một ngọn lửa nồng đã sưởi ấm tâm hồn, cuộc sống của những người vệ quốc quân Việt Nam (9). Chính tình đồng chí cao đẹp đó đã mang lại sức mạnh và làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Pháp (10). (1) : Tổng hợp ® nêu nội dung chính của cả đoạn. Các câu từ câu (2) ® câu (9) : Phân tích ® nêu những biểu hiện của tình đồng chí: đồng cảm, sẻ chia. Câu (10) : Tổng hợp ® tổng kết và nâng cao, khẳng định giá trị của tình đồng chí. |
BT4:
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi phía dưới: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Câu 1: Trong câu thơ “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, vì sao Chính Hữu lại dùng từ “chờ” mà không dùng từ “đợi”? Câu 2: Hình ảnh “đầu súng trăng treo” cho thấy cảm xúc gì được thể hiện trong bài thơ? Qua đó em hiểu thêm gì về tâm hồn của những người lính trong kháng chiến chống Pháp? Câu 3: Viết đoạn văn cảm nhận về vẻ đẹp của ba câu thơ cuối trong bài có sử dụng câu cảm thán? |
Câu 1:
- Đối diện cảnh núi rừng lạnh lẽo và hoang vu và hoàn cảnh chiến đấu nguy hiểm, những người lính cùng sát cánh bên cạnh nhau.
+ Nhiệm vụ canh gác, đối mặt với hiểm nguy trong gang tấc cũng chính nơi đó sự sống cái chết cách nhau trong gang tấc.
+ Trong hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm tình đồng đội thực sự thiêng liêng, cao đẹp
- Tâm thế chủ động, sẵn sàng “chờ giặc tới” thật hào hùng:
+ Những người lính sát cánh bên nhau vững chãi làm mờ đi khó khăn, nguy hiểm trực chờ phía trước của cuộc kháng chiến gian khổ.
→ Ca ngợi tình đồng chí, sức mạnh đồng đội giúp người lính vượt lên khắc nghiệt về thời tiết và nỗi nguy hiểm trên trận tuyến.
Câu 2:
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh độc đáo, bất ngờ, cũng chính là điểm nhấn của toàn bài thơ.
+ Hình ảnh thực và lãng mạn.
+ Súng là hình ảnh đại diện cho chiến tranh, khói lửa.
+ Trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, thanh bình.
- Sự hòa hợp giữa trăng với súng tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và đồng đội , nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh vệ quốc.
→ Câu thơ như nhãn tự của toàn bài thơ, vừa mang tính hiện thực, vừa mang sắc thái lãng mạn, là một biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí.
Câu 3:
- Yêu cầu về hình thức: một đoạn văn theo lối viết nào cũng được, có câu cảm thán
- Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo nội dung sau:
+ Bức tranh đẹp về tình đồng chí
+ Biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ
** Đoạn văn tham khảo:
Ba câu thơ trên được trích trong văn bản “ Đồng chí” của tác giả Chính Hữu đã rất thành công trong việc miêu tả biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ, về tình đồng chí. Hai người lính luôn kề vai sát cánh bên nhau, sưởi ấm lòng nhau, xua đi cái rét ở chiến tranh Việt Bắc. dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu họ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ giặc tới. Trong đêm phục kích, vầng trăng trên đầu trở thành người làm chứng cho tình đồng chí trong các anh. Trong lúc chờ giặc tới, trong không khí căng thẳng của giờ phút xuất kích sắp đến họ vẫn tràn đầy một tâm hồn lãng mạn, họ đã nhận ra “ đầu súng trăng treo”. Câu thơ vừa có nghĩa tả thực, vừa giàu nghĩa tượng trưng: súng và trăng vốn là hai sự vật rất xa nhau nhưng trong con mắt người chiến sĩ chúng lại rất gần nhau. Súng và trăng là gần và xa, là thực và mộng, là chiến tranh và hòa bình là chiến sĩ và thi sĩ. Hình ảnh thơ khép laị đã trở thành một biểu tượng đẹp của người chiến sĩ cách mạng với sự đan cài: cuộc sống chiến đấu của họ dù khó khăn, gian khổ nhưng trong họ tràn đầy sự lãng mạn. Hình tượng đó trở thành nền thơ ca cách mạng Việt Nam- cảm hứng hiện thực- lãng mạn. Ôi, yêu biết mấy những người lính cụ Hồ!
TÌM HIÊU, PHÂN TÍCH VĂN BẢN. ĐỒNG CHÍ
Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Dàn ý đại cương | Dàn ý chi tiết |
1.Mở bài: | |
- Giới thiệu vài nét | -Chính Hữu là nhà thơ quân đội hoạt động trong hai cuộc kháng |
về nhà thơ Chính | chiến chống Pháp. Thơ ông hầu như chỉ viết về người lính và chiến |
Hữu | tranh. |
Giới thiệu về bài thơ “Đồng chí” Giới thiệu vấn đề nghị luận | -Bài thơ “Đ ồng chí” được ông viết năm 1948,in trong tập “Đầu súng trăng treo”. -Đến với bài thơ, người đọc cảm phục và yêu quí người lính cách mạng thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp |
2.Thân bài: a. Người lính giản dị, mộc mạc… - Họ là những người nông dân b. Họ cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu. c. Ý chí nghị lực phi thường, vượt lên gian khó. | -Đọc bài thơ, cảm nhận đầu tiên của chúng ta là hình ảnh người lính hiện lên rất chân thực như cuộc sống còn nhiều vất vả và lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê đất Việt: Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân quê. Tác giả tuy không chỉ đích danh, bản quán nơi cư ngụ từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ đến từ mọi miền Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt đến vùng đồi núi trung du khô cằn sỏi đá. Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi nhưng giống nhau ở cái nghèo, sự lam lũ, khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ xích lại gần nhau, để từ những người xa lạ, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành quen biết, thân thiết với nhau: Súng bên súng, đầu sát bên đầu Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là câu thơ giàu ý nghĩa. Điệp từ “bên” cùng nghệ thuật sóng đôi có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. Họ cùng chung nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc “súng bên sung”, cùng chung lí tưởng, suy nghĩ “đầu sát bên đầu”. Dù gian khổ đến đâu, dù nguy hiểm, sóng gió đến nhường nào, các anh vẫn trung thành với con đường của mình đã chọn. Đọc câu thơ, ta không nhận ra “anh” và “tôi” nữa mà họ đã trở thành “những anh”, “những tôi” nhòa đi sau những khẩu súng,những mái đầu. -> Thì ra cuộc kháng chiến chống Pháp đã trở thành cuộc “gặp gỡ” của bao người yêu nước. Mới đây thôi, họ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Giờ đây họ lại sát cánh bên nhau thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Chính lí tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng. -Ở nơi chiến trường đầy khói bom thuốc súng, người chiến sĩ phải chống chọi với cái rét: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Cái rét ở rừng già Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy: |
d. Tình đồng chí, đồng đội… e. Tình yêu quê hương, đất nước của người lính - Thái độ ra đi cứu nước dứt khoát, kiên quyết - Nỗi nhớ quê hương h. Càng gian khó, họ càng yêu thương nhau. Ý nghĩa của cái nắm bàn tay Tâm hồn lãng mạn, bay bổng. k. Vẻ đẹp hiện thực và lãng mạn. - Gian khó là nơi thử thách tình đồng chí Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Nhận xét đánh gi 3.Kết bài: | + Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng đèo Khế gió sang. + Đêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương. ( Tố Hữu – “Lên Tây Bắc”) -Nhưng câu thơ của Chính Hữu nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Cái hay của nhà thơ là đã biết đem “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi ấm mối tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng, bình dị, vừa có cái chung của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ý hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người cùng chung gian khó ấy trở thành đồng chí của nhau: Đồng chí! -Câu thơ chỉ có hai tiếng và kết thúc bằng dấu chấm than tạo một nốt nhấn, vang lên như một sự phát hiện, lời khẳng định. Đồng thời như một chiếc bản lề khép mở sự lí giải cội nguồn của tình đồng chí ở sáu câu thơ trước với những biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí trong những câu thơ tiếp theo của bài thơ. => Nếu coi bài thơ như một cơ thể sống thì hai tiếng “Đồng chí” như một trái tim hồng nuôi sống cả bài thơ. Nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc. => Tám mươi năm nô lệ nay mới được gọi nhau là đồng chí sung sướng và kiêu hãnh biết bao! Từ nay tình cảm gì cũng phải nâng lên thành tình đồng chí, phải đo bằng tình đồng chí. Tình cảm cao đẹp này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn nhất, dồi dào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này. => Chính Hữu đã có lời nhận xét: “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lí tưởng cách mạng. Đó là ý nghĩa thiêng liêng của tình đồng chí bấy giờ”. -Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện: Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính -Từ bao đời nay, ai cũng biết rằng ruộng nương và nhà cửa là những tài sản quý giá nhất đối với người nông dân vì họ phải tốn biết bao mồ hôi nước mắt mới có được. Cho nên họ vô cùng gắn bó sâu nặng, gìn giữ, trân trọng với những thứ của cải ấy.Vậy mà họ lại dễ dàng gạt bỏ lại sau lưng, lên đường theo tiếng gọi của quê hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người dân quê vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình họ, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng hi sinh cho dân tộc. Ai ngờ những người nông dân quê mùa, hiền lành như hạt lúa, củ khoai, cả đời chỉ biết cầm cày gieo lên mầm xanh, nhân lên sự sống cho quê hương đất nước lại dễ dàng từ bỏ xóm làng đến thế! Các anh đã biết đặt tình cảm chung lên tình cảm cá nhân, đặt tình yêu nước lên trên tình cảm gia đình. Hai tiếng “mặc kệ” không phải hiểu theo nghĩa phó mặc mà trong ngôn ngữ giản dị của người lính là “Cứ chờ đó, cách mạng thành công mọi chuyện sẽ làm lại sau”. Đó mới chính là ngôn ngữ, là ý tưởng mà họ muốn thể hiện trong hành động “dứt áo” ra đi của mình. -Vì thế quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ: Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. -Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa nhưng vẫn thật mới mẻ trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật hoán dụ “Giếng nước gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Song hai hình ảnh này còn được nhân hóa. Nói “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương. “Giếng nước gốc đá” cồn cào đến chừng nào! Đời sống tình cảm của họ với làng quê da diết vô cùng. Bao tình cảm sâu nặng như đều dồn tụ trong tiếng “nhớ” giản dị ấy! => Song, góc nhớ thương đó không làm cho các anh mềm lòng, mất đi ý chí cứu nước mà nó thôi thúc, động viên người lính nông dân bền gan vững chí, cầm chắc tay súng lập công. Bởi lẽ nước nhà sớm độc lập thì các anh mới sớm được trở về với quê hương, xóm làng… -Đọc bài thơ, chúng ta còn cảm phục người lính nông dân ở tinh thần vượt khó, vượt khổ: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày -Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, chướng khí âm u nên hầu như người lính nào cũng bị mắc căn bệnh sốt rét ác tính. Căn bệnh quái ác này làm cho họ tóc rụng da xanh, gầy còm yếu ớt, thậm chí tử vong nữa. Ai đã từng nói: “Đánh trận tử vọng ít, sót rét tử vong nhiều”. -Nhưng đó không phải là gian khổ duy nhất mà người lính phải trải qua. Họ còn phải chịu đựng cái lạnh giá, trong khi quân phục lại không đủ đầy: người lính thường xuyên phải mặc “áo rách”, “quần vá” và “chân không giày”. Vậy mà họ vẫn không một lời kêu ca, không một tiếng phàn nàn, một lời than thở… => Từ một dân tộc nô lệ với gậy tầm vong giáo mác, chúng ta vùng lên chọi lại xe tăng đại bác của kẻ thù. Trong cuộc chiến đấu một mất một còn này, anh bộ đội là người trực tiếp chịu đựng biết bao gian khổ. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, đọc lại những vần thơ của Chính Hữu mấy ai mà không cầm được nước mắt, mấy ai không thán phục sức chịu đựng phi thường của các anh. -Viết về hiện thực cuộc sống của người lính nông dân, Chính Hữu không phải định kể khổ để làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến cho nhịp thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “Thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự cảm thông, xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. + Đó là cái nắm tay thân mật, thắm thiết, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa tình cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần lời nói hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, hơi ấm từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai người, làm hai người nở một nụ cười, dù là “buốt giá”. + Đây là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “côi cút làm ăn” ( Nguyễn Đình Chiểu), quanh năm gắn bó với ruộng đồng, con trâu…N hưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng cao đẹp đã tiếp thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, đểhọ vững tay súng, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệTổ quốc. Ba câu kết khắc họa thật đẹp bức chân dung của người lính trong một đêm canh gác ở rừng: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. -Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt ( “rừng hoang”, “sương muối”) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng đẹp biết bao! Họ truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh và niềm tin để thực hiện nhiệm vụ giữ gìn Tổ quốc. Có thể nói chính hoàn cảnh khắc nghiệt của núi rừng hoang lạnh, hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính. -Hình ảnh người lính tỏa sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo: “Đầu súng trăng treo”. Trăng như treo trên đầu súng gợi ra vẻ đẹp hư ảo, gần mà xa, thực mà mộng, một không gian bát ngát bao la có cái gì cứ bông bênh khó tả. Họ đã vượt lên gian khổ, vượt lên thiếu thốn, hiểm nguy để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng, của thiên nhiên đất trời ban tặng. Ánh trăng lúc này như người bạn tri âm tri kỉ đối với người lính. Vầng trăng trên bầu trời như xuống thấp, soi sáng đôi bạn, muốn ngợi ca, soi rõ tình đồng đội thiêng liêng cao cả của họ. Chỉ một nét vẽ khéo léo, một sự tưởng tượng hết sức diệu kì, Chính Hữu đã xóa đi bao ám ảnh của rừng hoa sương muối, của cái chết, của trận đánh sắp bắt đầu, nâng hình ảnh người lính cao hơn, sáng hơn, và ngàn lần đẹp hơn. => Hóa ra cuộc đời người lính nông dân mộc mạc, chân chất kia, tâm hồn cũng rất lãng mạn bay bổng biết bao! Họ không chỉ biết siết cò súng mà còn biết làm thơ nữa! Tâm hồn chiến sĩ hòa quyện với tâm hồn thi si đã tạo nên nét đẹp độc đáo của người lính nông dân. -Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” là biểu tưởng cho sắt thép, lửa đạn chiến tranh, khiến cho nhân loại căm giận lên án. Còn “trăng” biểu tượng cho hòa bình, hạnh phúc – ước mơ ngàn đời con người muốn vươn tới. => Chính Hữu đã liên kết hai hình ảnh đối lập trong một câu thơ để diễn tả một ý tưởng sâu sắc: người chiến sĩ của chúng ta quyết tâm cầm chắc cây súng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. Để cho em thơ ngủ ngon, để cho nhân dân hạnh phúc, yên bình, để vầng trăng kia sáng mãi, các anh chỉ có cách duy nhất: cầm súng. Với cây súng các anh đã trở thành linh hồn của đất nước, của không gian và thời gian. Với cây súng các anh đã thêu dệt nên những bản tình ca không thể nào quên trong những năm tháng không thể nào quên của dân tộc. => “Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất viết về người chiến sĩ trong thời kì chống Pháp: gian khổ mà anh dũng, hiện thực mà thơmộng. Chủ đề của bài thơ được nâng cao và lắng sâu trong lòng người đọc cũng là nhờ hình ảnh thơ tuyệt đẹp này. Và Chính Hữu cũng đã lấy hình ảnh thơ này làm tựa đề cho tập thơ gồm hai mươi tư bài của mình. Thể thơ tự do, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, bút pháp hiện thực, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. -Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm tình cảm của người lính. Vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hòa quyện vào tình giai cấp. -Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát, trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. |
1, Những cơ sở của tình đồng chí( 7 câu thơ đầu) | a) Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trong trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội: “Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá” + Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ. + Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” và “tôi”. + Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm, nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước + HÌnh ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất.
|
b, Cở sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước. Trước ngày nhập ngũ, họ sống ở mọi phương trời xa lạ: “Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí, quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. + Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến cho câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.
| |
c, Cơ sở thứ ba: Cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn - Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” + “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm. + Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát lại gần bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ” + Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc. - Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chon từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên: + Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà sử dụng từ “đôi” vì “đôi” cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời + Từ “đôi người xa lạ” họ đã trở thành “đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình. - Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo bởi hai từ: “Đồng chí!”. + Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định nghĩa cho tình đồng chí + Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội + Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng cảu tình đồng chí + Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến, yêu thương. => Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau. | |
2, Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội (mười câu thơ tiếp) | a, Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau: “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” *Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:
+ Đồng thời, diễn ra sự thiếu vắng các anh – người trụ cột trong gia đình *Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân tộc.
+ Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sang hi sinh một cách thầm lặng của các anh vì đất nước * Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính
|
b, Biểu hiện thứ hai: Đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày” - Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết, là những cơn sốt rét rừng: + Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của từng cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính. + Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững trắc để họ vượt qua những gian khổ, khó khăn - Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ: + Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách chính xác những thiếu thốn của người lính: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính. + Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: Sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối -> Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến. - Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ - Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính. => Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương của người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn. | |
c, Biểu hiện thứ ba: Luôn sẵn sang chia sẻ, yêu thương, gắn bó. Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hìn ảnh thơ rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
| |
3, Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội | * Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt: “Đêm nay rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
+ Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa lúc cam go khốc liệt + Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng. => Hình ảnh này xứng đáng trở thanh biểu tượng của thơ ca kháng chiến: một nền thơ có sự kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn. |
IV.LUYỆN TẬP NÂNG CAO DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu
THAM KHẢO
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm xúc, giản dị. Bài thơ "Đồng chí" là một trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải ngiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá"
Hai câu đàu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian "nước mặn đồng chua", cách nói sáng tạo từ tục ngữ "đất cày lên sỏi đá", giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển "nước mặn đồng chua", một người ở miền trung du "đất cày lên sỏi đá". Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen "anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau :
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: "súng bên súng, đầu sát bên đầu" đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. "Súng bên súng" là chung nhiệm vụ, chung hành động; "đầu sát bên đầu" là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ "sát, bên, chung" gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh "đêm rét chung chăn" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành những người "đồng chí".
"Đồng chí!" Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng "đồng chí" đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái "mặc kệ" vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: "giếng nước gốc đa nhớ người ra lính". Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương - nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh - những người lính luôn hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng "anh - tôi", "áo anh - quần tôi" tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan "miệng cười buốt giá", bằng tình yêu thương gắn bó "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hình ảnh "miệng cười buốt giá" gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới trong đêm khuya:
"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo."
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: "rừng hoang sương muối"
"Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới". Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ "chờ" đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích của mình: "đầu súng trăng treo". Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng - trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, "Đồng chí" giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sấng thuần khiết nhất, đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.
Đề 1 : Phân tích bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu
1. Mở bài :
- Chính Hữu là nhà thơ quân đội, thành công chủ yếu về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu giản dị và chân thực, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
- Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948 sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc ( thu đông 1947). Bài thơ ca ngợi tình đồng chí, đồng đội thắm thiết, sâu nặng của những người lính Cách mạng. Đồng thời còn làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Thân bài
* Luận điểm 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí( 7 câu thơ đầu)
a, Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân
- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm mới mẻ.
+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người” anh” và “tôi”.
+ Mượn thành ngữ “ nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm , nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước
+ Hình ảnh “ đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất
-> “ Quê hương anh”- “ làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.
-> Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội với nhau.
b, Cơ sở thứ 2: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung: cùng chung nhịp đập traí tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đã thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.
- Hình ảnh thơ “ súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:
+ “ Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.
+ “ Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
- Điệp từ “ Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.
- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh”- “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi găp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.
-> Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.
c, Cơ sở thứ 3: Cùng trải qua những khó khăn , thiếu thốn.
- Bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
+“ Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.
+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành” tri kỉ”
+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “ chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.
- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “ đôi” ở câu thơ trên:
+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai” mà lựa chọn từ “đôi”. Vì đôi cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.\
+ Từ “ đôi người xa lạ” họ đã trở thành “ đôi tri kỉ”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.
- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt. Câu thơ “ Đồng chí!” được tách riêng ở một dòng thơ rất đặc biệt, chỉ gồm một từ, hai tiếng và dấu chấm than như một sự phát hiện, một lời khẳng định, nhấn mạnh tính đồng chí là một tình cảm mới mẻ nhưng hết sức thiêng liêng cao đẹp là sự kết tinh của tình bạn, tình người giữa những người lính nông dân trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Câu thơ “ Đồng chí” như một bản lề gắn kết tự nhiên, khéo léo giữa hai phần của bài thơ: khép lại phần giải thích cội nguồn cao quý thiêng liêng của tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp hơn của tình đồng chí.
=> Tóm lại, 7 câu thơ đầu, đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
* Luận điểm 2: Những biểu hiện của tình đồng chí( 10 câu thơ tiếp)
a, Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:
+ Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: neo nguời, thiếu sức lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.
+ Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn. Hình ảnh “ gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình các anh. Đồng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh- người trụ cột trong gia đình các anh
- Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân tộc.
+ “ Ruộng nương”, “ căn nhà” là những tài sản quí giá, gần gũi gắn bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc
+ Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc nhưng giaù sức gợi: Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ những gì quí giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn. Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một cách thầm lặng của các anh vì đất nước.
- Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính
+ Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà , nhớ quê và trên hết là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để trí ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhúng càng trở nên da diết.
+ Hình ảnh “ giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.
+ “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho “ giếng nước gốc đa” một tâm hồn.
=> Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã hiện lên tràn dầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc lập, tự do của TQ.
c, Biểu hiện thứ 2: Những người lính đã đồng cam cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ
Chính Hữu là người trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống pháp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết là những cơn sốt rét rừng:
+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.
+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những khoa khăn, gian khổ.
- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thốn, gian khổ:
+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác những thiếu thốn của người lính: “ áo rách vai, quần vài mảnh, chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.
+ Những khó khăn gian khổ như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối.
-> Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến.
- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau để diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.
-> Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.
c, Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó
Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ảnh thơ rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghiã:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Những cái bát tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần
- Những cái bắt tay là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.
- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm truyền cho nhau thêm sức mạnh.
- đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.
=> Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết gắn bó đã nâng bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.
* Luận điểm 3: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội
- Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm nay rừng hoang sương muối”
+ Thời gian: Một đêm phục kích giặc
+ Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phr đầy sương muối.
- Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện trong tâm thế:
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
+ Hình ảnh “ đứng cạnh bên nhau” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu của người lính.
- Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn: Đầu súng trăng treo.
+ Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: Trăng lơ lửng như treo đầu mũi súng.
+ Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “ treo” ở đây rất thơ mộng. nối liền mặt đất với bầu trời.
+ Hình ảnh “ đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa: Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình, hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ- vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ. Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa cam go khốc liệt. Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.
-> Hình ảnh “ đầu súng trăng treo” xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến: một nền thơ ca có sự kết hợp giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
* Đánh giá về nghệ thuật: Với thể thơ tự do, ngôn ngữ thơ mộc mạc giản dị, chi tiết, hình ảnh chân thực cô đọng, hàm súc nhưng giàu sức biểu cảm, bài thơ Đồng chí đã để lại những ấn tượng sâu sắc về tình đồng chí, đồng đội và chân dung anh bộ đội Cụ Hồ thời kì kháng chiến chống Pháp : chân thực, giản dị mà vô cùng cao đẹp.
3. Kết bài
Tóm lại, với bài thơ “Đồng chí” nhà thơ Chính Hữu đã thành công trong việc thể hiện tình đồng chí, đồng đội. Đồng chí là một trong những bài thơ hay viết về người lính. Cái hay, cái đẹp của bài thơ không chỉ còn trên trang giấy mà đã lan tỏa thấm vào lòng người đọc để mỗi chúng ta biết sống đẹp hơn, biết yêu quê hương, đất nước hơn, sống xứng đáng hơn với thế hệ cha anh đã không tiếc xương máu đổi lấy hòa bình, hạnh phúc hôm nay.
Đề 2: Kết thúc bài thơ đồng chí, Chính Hữu viết:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cảm nhận sâu sắc của em về vẻ đẹp của đoạn thơ trên.
* Gợi ý trả lời:
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả.
- Phong cách sáng tác.
- Giới thiệu văn bản.
- Giới thiệu nội dung chính của đoạn thơ ta đi cảm nhận.
2. Thân bài: Cần đi cảm nhận nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ.
- Câu thơ đầu gợi ra hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 đem đến ba thông tin về thời gian: “ đêm nay”, về không gian: “ Rừng hoang”, về thời tiết, “ Sương muối”. Tất cả đều nhấn vào cái hoang vu, cái lạnh thấu xương khi những người lính đứng gác, nơi rừng sâu giá lạnh trong khi trang phục các anh lại phong phanh: áo rách, quần vá, đầu trần, chân đất, khó có thể chống được cái lạnh thấu xương. “ Đêm nay” là một đêm phục kích cụ thể nhưng có ý nghĩa khái quát như bao đêm khác, việc phục kích trong hoàn cảnh khắc nghiệt với các anh đã thành thường lệ.
- Câu thơ thứ hai:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Có sự đối lập giữa hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt với vẻ đẹp của lí tưởng cách mạng và tình đồng chí keo sơn. Dù cho cái rét có thấm vào xương thịt, các anh vẫn bất chấp tất cả, vẫn “ Đứng cạnh bên nhau”, vẫn kề vai sát cánh, đoàn kết chung một chiến hào trong tư thế chủ động “ chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng các anh, xua đi cái hoang vu, giá lạnh của núi rừng. Việt Bắc. Trong cái bát ngát của núi rừng, hai người lính hiện lên sừng sững, hiên ngang, cao cả sánh ngang cùng núi rừng Việt Bắc.
- Bài thơ khép lại bằng hình ảnh đẹp “ Đầu súng trăng treo”. Hình ảnh thơ giàu ý nghĩa tả thự và biểu tượng.
+ Ý nghĩa tả thực: Hình ảnh thơ được nhận ra sau ngiều đêm đi phục kích của tác giả ; Đêm đã về khuya, nơi rừng hoang, sương muối xuống mỗi lúc một nhiều, bầu trời như sả xuống thấp dần, vầng trăng cũng như sà xuống thấp hơn. Hai người lính đang kề vai sát cánh trong tư thế chủ động xuất kích, nhìn ở một góc độ nào đó họ nhận ra trăng như đang treo lơ lửng trên đầu mũi súng.
+ Ý nghĩa biểu tượng: từ ý nghĩa tả thực, hình ảnh “ súng” và “ trăng” còn gợi ra trong lòng người đọc những liên tưởng sâu xa. Súng và trăng – hai hình ảnh vốn rất xa nhau nhưng trong cảm nhận của người chiến sĩ lại đan cài, gắn kết tự nhiên. Súng và trăng là biểu tượng của gần và xa, của chiến tranh và hòa bình, của hiện thực và lãng mạn, của cứng dắn và dịu hiền, là chất chiến sĩ và chất thi sĩ, chất thép và chất trữ tình … đã trở thành biểu tượng về người lính: cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng tâm hồn các anh luôn trong trẻo, tràn đầy cảm hứng lạc quan, lãng mạn. Hình ảnh thơ đã trở thành biểu tượng cho thơ ca cách mạng – nền thơ ca kết hợp hài hòa giữa cảm hứng hiện thực và lãng mạn.
3, Kết bài: Khẳng định lại nội dung và nghệ thuật của khổ thơ trên.
Tham khảo kết bài: Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ tự do, sử dụng hình ảnh biểu tượng khổ thơ đã khắc họa thành công biểu tượng về người lính cụ Hồ với những phẩm chất cao đẹp.
Đề 3: Có ý kiến cho rằng: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một tượng đài tráng lệ, cao cả, thiêng liêng về người chiến sĩ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ ý kiến.
Gợi ý dàn bài:
Mở bài | - Nêu khái quát chung về tác giả, văn bản + Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp- Mĩ. Sáng tác của ông chủ yếu tập trung vào hình ảnh người lính trong hai cuộc kháng chiến. Đặc biệt là tình cảm đồng chí, đồng đội, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương. + Bài thơ ra đời năm 1948. Là kết quả của những trải nghiệm thuwcvj, những cảm xúc sâu xa, những suy ngẫm của tác giả về tình đồng đội trong chiến dich VB - Nêu nhận định về bài thơ |
Thân bài | 1. Giải thích nhận định: Lời nhận định trên đã đánh giá chính xá sự thành công của bài thơ Đồng chí. Bức tượng đài tráng lệ là hình ảnh của những người lính được khắc họa rực rỡ, đẹp đẽ, cao cả và thiêng liêng |
2. Chứng minh nhận định: - Vẻ đẹp rực rỡ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ nói về cơ sở hình thành tình đồng chí: + Những người lính có xuất thân nghèo khổ. Họ đều là những người nông dân từ đồng bằng ven biển, từ miền núi có nhiều khó khăn, gian khổ. + Người lính có chung lí tưởng chiến đấu cao đẹp. Dù ở mọi phương trời khác nhau, nhưng họ nghe theo tiếng gọi của TQ mà lên đường chiến đấu. + Người lính có chung hoàn cảnh sống và chiến đấu: Súng bên súng, đầu sát bên đầu, đêm rét chung chăn. Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau, để từ xa lạ, đến quan nhau, thành tri kỉ và đòng chí. + Kết thúc khổ thơ là một nốt nhấn, một sự kết tinh cảm xúc: Đồng chí! - Vẻ đẹp rực rõ, cao cả, thiêng liêng của người chiến sĩ được thể hiện ở tình đồng chí gắn bó với nhau trong cuộc sống gian lao: + Họ cảm thông, chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ quê : nhớ ruộng nương, lo cảnh gian nhà không nghèo khổ. Từ “ mặc kệ” chỉ thái độ cương quyết, quyết tâm lên đường ra đi. Không cần phải nói ra, nhưng họ hiểu cảm xúc của nhau + Người lính cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn, những cơn sốt rét rừng nguy hiểm. Tác giả khắc họa hình ảnh người lính bằng bút pháp hiện thực, những hình ảnh thơ song hành, đối nhau: áo rách vai/ chân không giày…Dù khó khăn, gian khổ nhưng họ vẫn vượt lên, kiên cường chiến đấu bằng tình đồng chí, đồng đội sâu sắc: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đó là cái nắm tay để san sẻ khó khăn, động viên nhau bằng tình đồng chí gắn bó keo sơn. - Vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng của tình đồng chí được thể hiện thật lãng mạn khi họ sát cánh bên nhau canh gác: + Những người lính canh gác trong không gian, thời gian khắc nghiệt: đêm, rừng hoang, sương muối. + Họ sát cánh bên nhau vì cùng chung chiến hào, chung nhiemj vụ chiến đấu, chủ động trong tư thế: chờ giặc. + Hình ảnh người lính cao đẹp, thiêng liêng được kết tinh trong hình ảnh thơ rất đẹp: đầu súng trăng treo. Đó là bức tượng đài người lính, hình ảnh đẹp nhất, cao quý nhất của tình đồng chí. Hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa hiện thực, vừa là tinh thần thép của những người lính, vừa là tâm hồn thi sĩ lãng mạn. | |
Kết bài | - Khẳng định ý nghĩa lời nhận định. + Cái hay của bài thơ ở chỗ: Viết về người lính mà không có tiếng súng, sự chết chóc, đau thương. Dù vậy, hình ảnh của người lính vẫn cao cả, hào hùng. + Nhà thơ đã khai thác thành công chất thơ từ những cái bình dị của đời thường. |
C) DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾ CHỦ ĐỀ
ĐỀ 1: * Hãy viết 1 đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vài trò của tình bạn trong cuộc sống của mỗi con người
1. Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), Đoạn văn cần có câu mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn
2.Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :
* Câu mở đoạn: Tình bạn là mối quan hệ không thể thiếu trong đời sống của tất cả chúng ta.
* Các câu thân đoạn:
- Giải thích:
+ Tình bạn là tình cảm gắn bó thân thiết giưa những người có nét chung về sở thích, tính tình, ước mơ, lí tưởng...
+ Tình bạn đẹp là tình bạn gắn bó, yêu thương, chia sẻ, đồng cảm trách nhiệm và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Tình bạn đẹp được hình thành trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, chân thành, tin tưởng lẫn nhau.
- Bàn luận: Tình bạn đẹp có vai trò, ý nghãi quan trọng trong cuộc sống của mỗi người.
+ Là nguồn động viên tinh thần, giúp ta vượt qua những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống.
+ Giúp con người có thể chia sẻ với nhau cho niềm vui nhân lên và nỗi buồn được vợi đi, được xoa dịu.
+ Cho ta học hỏi thêm những điều hay lẽ phải để hoàn thiện bản thân. chúng ta đã thấy tình bạn tri âm tri kỉ như Lưu Bình – Dương Lễ, hay Nguyễn Khuyến – Dương Khuê, Các Mác và Ăng -ghen,…
- Mở rộng vấn đề:
+ Để nuôi dưỡng và giữ gìn tình bạn đẹp, phải sống chân thành, tôn trọng, tin tưởng, bảo vệ lẫn nhau và có lòng vị tha. Tuy nhiên, bảo vệ không có nghĩa là bao che cái xấu màphải thẳng thắn chỉ ra lỗi lầm của nhau để giúp nhau cùng tiến bộ.
+ Phê phán việc rủ rê, lôi kéo, kích động bạn bè làm việc xấu bởi đó là biểu hiện của tình bạn xấu.
- Bài học:
+ Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta cùng xây dựng những tình bạn đẹp để động viên, giúp đỡ, chia sẻ với nhau trong học tậ và cuócống.
+ Cần chọn bạn mà chơi, tránh những mối quan hệ xấu có hại cho mình hoặc làm hại bạn.
+ Liên hệ bản thân
* Câu kết đoạn: Vì vậy, tất cả chúng ta cần đối xử với những người bạn của mình bằng tất cả sự chân thành và không ngừng giúp đỡ nhau vươn lên trong cuộc sống.
ĐỀ 2: Em hãy nêu suy nghĩ về hình ảnh người lính trong kháng chiến và trong thời bình?
Gợi ý:
-Hình tượng người lính trong kháng chiến:
- Họ là những người yêu nước, có lí tưởng sống, chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước (lấy DC, phân tích)
- Họ dũng cảm, coi thường hiểm nguy, pha chút ngang tàng đầy chất lính
- Họ cũng là những người giàu tình cảm, có tình đồng đội sâu sắc, chính tình đồng đội tiếp thêm sức mạnh cho họ
- Họ cũng là những người có tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, lạc quan phơi phới
b-Hình tượng người lính trong thời bình:
-Đó là những chiến sĩ bảo vệ biên giới, hải đảo, những chiến sĩ ngày đêm luyện tập trong quân ngũ-> họ đang tiếp tục bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Ở họ vẫn sáng ngời những phẩm chất : yêu nước, dũng cảm, có tình đồng đội sâu sắc, trẻ trung, lãng mạn.
ĐỀ 3: SUY NGHĨ VỀ LÒNG YÊU NƯỚC
I. Mở bài: giới thiệu lòng yêu nước
Đất nước Việt Nam là một dân tộc chịu nhau đau thương và khó khăn do chịu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng ta đã trải qua 1000 năm đô hộ giặc Tàu, 100 năm đô hộ giắc tây và 20 năm đô hộ nôi chiến. Một thời kì mà chúng trải qua bao nhiêu đau thương và mất mát. Và trải qua từng thời kì giặc ngoại xâm thì chúng ta mới biết bao nhiêu anh hùng bao nhiêu người Việt Nam có lòng yêu nước, đứng dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu về lòng yêu nước.
II. Thân bài:
1. Khái niệm lòng yêu nước:
- Tình yêu nước là tình yêu quê hương, yêu nơi chon nhau cắt rốn
- Yêu nước là một tình cảm cao quý và thiêng liêng sẵn sang đem tài năng và trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Lòng yêu nước là hành động góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển.
2. Biểu hiện về lòng yêu nước:
a. Thời chiến tranh:
- Sẵn sàng ra chiến trường cầm súng chiến đấu vì dân tộc vì dất nước
- Không ngại khó khan, gian khổ để xây dựng đất nước
- Yêu nước là nguyện hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc
- Những tấm gương về lòng yêu nước: Võ Thị Sáu; Nguyễn Văn Trỗi; Kim Đồng; Nguyễn Đình Giót;….
b. Thời bình:
- Cống hiến trí tuệ và tài năng để xây dựng đất nước ngày càng phát triển
- Luôn giữ vững quyết tâm đưa đất nước sánh vai với các cường quốc
- Lòng yêu nước còn được thể hiện ở lòng tự hào dân tộc: biểu hiện cụ thể qua các áng thơ văn ngợi ca tinh thần ngoan cường của dân tộc; lưu giữ các kỉ vật của các anh hung; mang lại các huy chương vàng cho đất nước qua các cuộc thi trí tuệ và sức khỏe;….
3. Vai trò của lòng yêu nước:
- Là nguồn cảm hứng cho các nhà thơ nhà văn đưa ra các áng văn bất hủ
- Làm cho con người yêu thương gia đình, cuộc sống; khi yêu nước sẽ yêu mọi thứ dù nhỏ nhặt nhất.
*Phê phán những biểu hiện tiêu cực, sống vô ơn,phản bội tổ quốc,cần phải bị loại bỏ.
4. Trách nhiệm của thế hệ trẻ trong thời kì hiện nay:
- Không ngừng học tập và nỗ lực phấn đấu
- Nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật
- Tố cáo các hành vi không thể hiện lòng yêu nước
- Dung cảm đối mặt với cái xấu
- Bảo vệ môi trường hay việc nhỏ nhất cũng là thể hiện lòng yêu nước
- Biết ơn các chiến sĩ, anh hung liệt sĩ;…..
III. Kết bài:
- Khẳng định lòng yêu nước của bản thân
- Kêu gọi mọi người thể hiện lòng yêu nước
- Phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật
Đề bài: Viết đoạn văn từ khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1. Về hình thức, đề bài yêu cầu viết đoạn văn 200 chữ, đoạn văn nghi luận xã hội, học sinh cần trình bày trong 1 đoạn văn ( không được ngắt xuống dòng ), dung lượng an toàn khoảng 2/3 tờ giấy thi ( khoảng trên dưới 20 dòng viết tay), Đoạn văn cần có câu mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
2.Về nội dung : Dù dài hay ngắn thì đoạn văn cũng phải đầy đủ các ý chính. Cụ thể :
* Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận
Tham khảo câu mở đoạn: Thế hệ trẻ đối với đất nước trong giai đoạn hiện nay là vô cùng quan trong.
* Thân đoạn: Cần có các ý sau:
- Nhận thức được vai trò , trách nhiệm của thế hệ trẻ: thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, đất nước mạnh hay yếu đều tùy thuộc vào lớp trẻ. Bởi vậy, những người trẻ hôm nay cần nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, gánh vác những trách nhiệm mà cha ông giao cho.
- Đặc điểm , tình hình đất nước trong giai đoạn hiện nay:
+ Chúng ta vẫn giữ được những thành quả cách mạng của ông cha, đanng trên đà phát triển, hướng tới là một nước công nghiệp giàu mạnh, đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc.
+ Chúng ta đang trong thời kì hội nhập với thế giới, có nhiều cơ hội giao lưu học hỏi, phát triển song cũng có không ít thách thức.
+ Chủ quyền của dân tộc vẫn thường đe dọa, nhất là trên biển Đông.
- Trách nhiệm của thế hệ trẻ hiện nay:
+ Khắc sâu công ơn của các thế hệ đi trước, bảo vệ giữ gìn nền hòa bình, độc lập toàn vẹn lãnh thổ.
+ Biến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trở thành sự thực.
+ Đưa nước ta sánh ngang tầm các nước phát triển trên thế giới, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Những việc nên và không nên của lớp trẻ hiện nay.
+ Nên ra sức học tập, trau dồi kiến thức, kĩ năng (nhất là học ngoại ngữ), rèn luyện thể chất để có sức khỏe, trí tuệ, phục vụ cho công cuộc bảo vệ, xây dựng, phát triển kinh tế đất nước.
+ Nên sống chủ động, tự lập, phát huy thế mạnh của người Việt: cần cù, chăm chỉ, đoàn kết, nhân ái, ham học hỏi,..tránh xa lười biếng, ỷ lại, sự ích kỉ, đố kị; nên mạnh dạn sáng tạo, tránh sự dập khuôn, máy móc; yêu lao động, tránh lãng phí thời gian vào những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội hay những thứ vô bổ như rượu, bia, thuốc lá, cờ bạc…
+ Nên đề cao cảnh giác và sự tỉnh táo trước những âm mưu chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; sẵn sàng chiến đấu khi tổ quốc cần.
* Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề
Tham khảo câu kết đoạn: Tóm lại, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong giai đoạn hiện nay.
CHUYÊN ĐỀ 6.
VĂN BẢN: BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
( Phạm Tiến Duật)
I- KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả | - Phạm Tiến Duật ( 1941 – 2007), quê ở Phú Thọ. Ông là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, từng sống và làm việc ở binh đoàn vận tải Trường Sơn. Sau 1975, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. - Đặc điểm sáng tác : Phạm Tiến Duật thường viết về người lính và thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn những năm chống Mĩ gian khổ, hào hùng. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện cái tôi trữ tình trẻ trung, ngang tàng, tinh nghịch, hóm hỉnh mà rất sâu sắc. - Tác phẩm chính : Vầng trăng quầng lửa ( 1970), Thơ một trặng đường ( 1971). Ở hai đầu núi (1981), Nhóm lửa (1996)… Năm 1970. Ông đạt giải Nhất trong cuộc thi Thơ của báo Văn nghệ; năm 2001 được tặng giải thưởng Nhà Nước về văn học nghệ thuật;; 2012, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh vể văn học nghệ thuật |
2, Văn bản | a) Hoàn cảnh sáng tác, vị trí - Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn gay go, khốc liệt nhất. Bài thơ được in trong tập Vầng trăng quầng lửa ( 1970) . - Bài thơ về tiểu đội xe không kính ở trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970 cho bài thơ có sự lôi cuốn hấp dẫn riêng. |
b, Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp tự sự và miêu tả. | |
c, Hai hình ảnh nổi bật trong bài thơ: Hình ảnh những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe. | |
Bố cục: 4 phần Phần 1: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính (khổ 1,2) Phần 2: Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính (khổ 3,4) Phần 3: Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,6) Phần 4: Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng của người lính (khổ 7) | |
d) Nghệ thuật - Giọng điệu, ngôn ngữ rất gần với lời nói có câu như văn xuôi khiến bài thơ có nhịp thơ, giọng thơ sôi nổi, tinh nghịch, ngang tàng mà vẫn dầy sức sống. - Bài thơ giàu chất liệu hiện thực, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị, giàu sức gợi. - Chất trữ tình và hình ảnh thơ lãng lạn đan xen chất tự sự làm cho bài thơ có sự lôi cuốn hấp dẫn riêng. e) Nội dung Từ việc khắc họa hình ảnh thơ độc đáo: những chiếc xe không kính trong bài thơ đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm; bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu mãnh liệt giải phóng Miền Nam. | |
3, Ý nghĩa nhan đề văn bản | “Tiểu đội xe không kính” chính là một hình ảnh khái quát, tượng trưng cho hiện thực gian khổ, khốc liệt của chiến tranh còn từ “bài thơ” là 1 hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho chất thơ, chất thơ của tâm hồn người lính vút lên giữa hiện thực gian khổ này. Việc thêm vào nhan đề từ “ bài thơ” là dụng ý của nhà thơ PTD, qua đó làm nổi bật chủ đề cuả tác phẩm. Chủ đề tác phẩm không dừng lại ở việc khai thác hiện thực gian khổ của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước mà chủ yếu nghiêng về việc khai thác chất thơ. Chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn người lính vút lên giữa hiện thực gian khổ đó. Như vậy, nhan đề bài thơ: ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người lính, tạo nên chất thơ giữa hiện thực gian khổ. |
1, Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính (khổ 1,2) |
+ Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi đậm đặc và lối nói khẩu ngữ khiến cho câu thơ mở đầu trở thành một lời giải thích, thanh minh, phân bua của người lính lái xe về những chiếc xe không kính. + Đồng thời, gợi tâm trạng vừa xót xa, tiếc nuối với chiếc xe của mình. + Các từ phủ định: “không có … không phải … không có” đi liền với các điêp ngữ “bom giật, bom rung” không chỉ mang ý nghĩa khẳng định mà còn khiến cho âm điệu câu thơ trở nên hùng tráng, làm cho sự xuất hiện của những chiếc xe trở nên ngang tàng.
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” + Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính. + “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run sợ. + Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn thoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính + Thủ pháp liệt kê: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” đã cho thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của những người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua . - Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như xa như ùa vào buồng lái” + Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và những cánh sao đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái. + Điệp từ, điệp ngữ “nhìn thấy … nhìn thấy … thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường + Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe. + Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”: Gợi liên tưởn đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim Đồng thời, cho thấy tinh thần khẩn trương cảu các anh đối với sự nghiệp giải phóng Miền Nam + Đặc biệt, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái => Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh |
2, Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính (khổ 3,4) | Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù: “Không có kính ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần giửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
|
3, Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5,6) | Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom, bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo: “Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
+ Là những lời đông viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau + Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua. Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đính đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
|
4, Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng của người lính (khổ 7) | Hình ảnh chiến sĩ lái xe Trường Sơn là một hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khổ thơ cuối bài kết tinh vẻ đpẹ của hình tượng nững chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe: “Không có kính, rồi không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim” - Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động: + Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính” , “không có đèn”,”không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ. Những thứ quan trọng cần có lại không có, nhưng cái không cần có lại có thừa + Phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường qua kết cấu đối lập: bom đạn đã làm cho một chiếc xe bình thường và tưởng như không hoạt động được. Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường + Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước => Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc. |
III- ĐỀ BÀI LUYỆN TẬP PHẦN ĐỌC HIỂU
BT1: Cho hai khổ thơ sau:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Câu 1: Hãy cho biết những câu thơ trên trích trong bài thơ nào, do ai sáng tác. Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Trả lời:
Những câu thơ trên trích trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Bài thơ được sáng tác năm 1969 trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt trên tuyến đường chiến lược.
- Bài thơ đạt giải nhất cuộc thi báo Văn nghệ 1969 và được đưa vào tập “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.
Câu 2: Có ý kiến cho rằng bài thơ hấp dẫn ngày từ nhan đề độc đáo. Em có đồng ý với ý kiến trên không? Tại sao?
Trả lời:
Bài thơ độc đáo ngay từ nhan đề tác phẩm.
Nhan đề tưởng dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc bởi vẻ độc đáo, lạ lẫm của nó.
Bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính.
- Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy lăng kính nhìn hiện thực khốc liệt của chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ, hiên ngang, bất khuất, dũng cảm vượt qua thiếu thốn, gian khổ nguy hiểm của thời chiến.
Câu 3: Nội dung của ba khổ thơ đầu bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" là gì?
Trả lời:
Ba khổ thơ đầu gợi lên hình ảnh những chiếc xe không kính, và hình ảnh người lính lái xe trên trong tư thế hiên ngang, lạc quan, coi thường nguy hiểm tiến về phía trước.
- Hình ảnh tàu xe thường được mĩ lệ hóa đưa vào sáng tác nhưng những hình ảnh này càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu. Bom đạn chiến tranh làm chúng trần trụi hơn, biến dạng hơn. Những hình ảnh có hồn thơ hay nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được vào thành hình tượng độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
Câu 4: Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức diễn dịch để làm rõ tư thế, cảm giác của người lính lái xe trên chiếc xe không kính?
Trả lời:
Trong bom đạn chiến tranh hình ảnh những chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu không làm khuất phục được ý chí chiến đấu lại khiến người lính lái xe bộc lộ được những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh tế lớn lao của họ đặc biệt là lòng dũng cảm, vượt qua mọi khó khăn. Họ chính là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả, tác giả đã khắc họa những ấn tượng sinh động khi đang ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã bị bom đạn làm mất kính. Những câu thơ tả thực tới từng điểm diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh ra đường:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Những hình ảnh thực như gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, lại cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Dù trải qua hiện thực chiến tranh khốc liệt những người lính vẫn hướng về phía trước, xem thường mọi hiểm nguy với tinh thần thể hiện cái hiên ngang, trẻ trung của tuổi trẻ.
Câu 5: Tại sao có thể nói hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật.
Trả lời:
Hình ảnh những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật bởi xưa nay hình ảnh tàu xe đi vào thơ ca đều được lãng mạn hóa, mỹ lệ hóa nhưng Phạm Tiến Duật lại không ngần ngại đưa vào thơ của mình hình ảnh trần trụi, thực tế “những chiếc xe không kính”.
Hình ảnh những chiếc xe không kính là nhân chứng hùng hồn, chân thực cho hiện thực chiến tranh khốc liệt lúc bấy giờ.
Với tâm hồn lãng mạn, nhạy cảm cùng với nét tinh nghịch, ngang tàng hình tượng những chiếc xe không kính xuất hiện trong thơ như để thử thách con người, cũng như để khẳng định chất thép, tinh thần dũng cảm, lạc quan coi thường hiểm nguy của những người lính lái xe Trường Sơn.
BT2:Cho câu thơ:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi”
Câu 1: Chép tiếp 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thiện hai khổ thơ tiếp theo.
Trả lời:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Câu 2: Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật và bài thơ Đồng chí – Chính Hữu có điểm gì giống và khác nhau gì khi viết về người lính?
Trả lời:
- Giống nhau:
Bài thơ về tiểu đội xe không kính và bài Đồng chí cùng viết về những người lính kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn hiểm nguy. Họ cùng phải trải qua những hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất, những điều kiện vô vùng khó khăn, nguy hiểm.
+ Những người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những người lính trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ có những điểm chung: lòng yêu nước, tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm, gian khổ.
- Khác nhau:
+ Bài thơ Đồng chí nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất. Vẻ đẹp nhất ở những người lính đó là tinh thần đồng đội, đồng chí sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ sự chia sẻ, thấu hiểu và tinh thần yêu nước, luôn sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nhấn mạnh tới tinh thần quả cảm, hiên ngang của những người lính lái xe trẻ trung, vui tươi trước thách thức vô vàn nguy hiểm phía trước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, bất chấp hiểm nguy, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sục sôi, quyết liệt. Đó là thế hệ anh hùng, bất khuất, mạnh mẽ.
Câu 3: Em hiểu thế nào về hình ảnh trong hai câu thơ:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Trả lời:
Bếp Hoàng Cầm ra đời trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là bếp dã chiến, có công dụng làm tan loãng khói bếp tỏa ra, khi nấu ăn tránh máy bay phát hiện.
Hình ảnh bếp Hoàng Cầm trong thơ Phạm Tiến Duật gợi lên tình cảm thắm thiết như ruột thịt của những người lính.
Tác giả đưa ra cách định nghĩa thật thú vị về gia đình, vừa hài hước, tếu táo lại tình cảm sâu lắng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau hơn trong những cái chung: chung bát, chung đũa, chung nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách thức nguy hiểm.
Câu 4: Cảm nhận của em khi đọc hai câu thơ:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Trả lời:
Những hình ảnh sinh hoạt, nghỉ ngơi ngắn ngủi nhưng tâm hồn người chiến sĩ không vì thế mà nhụt chí, ngược lại, họ còn rất mạnh mẽ và kiên định, không gì lung lay nổi.
Hai câu thơ gợi nên sự chông chênh trên con đường gập ghềnh mà những người lính phải vượt qua. Nhưng ý chí chiến đấu, khí phách, nghị lực kiên cường, định kiến vượt lên tất cả.
Nhịp thơ đều đều 2/2/3 gợi lên sự bền bỉ trên từng cung đường của những người lính. Hình ảnh trời xanh thêm yên bình cũng tô đậm thêm niềm tin về ngày chiến thắng, về công bằng của những người chiến sĩ chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc.
Câu 5: Em viết đoạn văn 12 câu theo phương thức diễn dịch trình bày cảm nhận của em về tình đồng đội của những người lính lái xe trong những khổ thơ vừa chép.
Trả lời:
- Tâm hồn tươi trẻ, sôi nổi của tình đồng đội, đồng chí trong bài thơ:
+ Những người chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui vẻ, hài hước, tinh nghịch. Họ hồn nhiên tếu táo cũng thật cảm động trong không khí đoàn kết, trong đồng chí, đồng đội.
+ Sự khốc liệt của chiến tranh tạo nên những tiểu đội xe không kính. Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp bạn bè giữa dọc đường đi tới”.
+ Chỉ một cái bắt tay cũng ấm long, đủ động viên nhau, cảm thông với nhau. Cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ động viên, cảm thông với nhau.
+ Tình cảm giữa những người lính ấm áp, thắm thiết như anh em trong gia đình “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” – Một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật hài hước, sâu lắng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung bình dị, thân thuộc.
+ Cảnh những phút nghỉ ngơi sinh hoạt thật ngắn ngủi nhưng ý nghĩa, giản dị, tâm hồn người lính vẫn tươi vui, lạc quan.
+ Tình đồng đội đã gắn kết họ, tiếp cho họ sức mạnh để cùng nhau “lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
+ Hình ảnh “trời xanh thêm” cũng là hình ảnh diễn tả được tinh thần lạc quan, yêu đời, đầy hi vọng của người lính lái xe Trường Sơn.
Câu 6: Dựa vào khổ thơ cuối của bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, cho biết từ “trái tim” dùng theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển. Nêu ý nghĩa của hình ảnh ấy trong việc thể hiện vẻ đẹp người lính lái xe?
Trả lời:
- Từ “trái tim” được dùng theo nghĩa chuyển.
- Trái tim thay thế cho tất cả những thiếu thốn trên xe “không kính, không đèn, không mui”, hợp nhất với tinh thần, ý chí của người lính lái xe không gì có thể ngăn cản, tàn phá được.
- Xe được chạy bằng chính trái tim, xương máu của chiến sĩ, trái tim ấy là niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những chiếc xe do ý chí, niềm tin sắt đá cầm lái.
Hình ảnh trái tim được hiểu theo nghĩa ẩn dụ và hoán dụ: trái tim tượng trưng cho tâm hồn và phẩm chất của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ cao đẹp thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh, chất ngang tàng, lòng dũng cảm cùng tinh thần lạc quan vào ngày thống nhất.
- Trái tim trở thành nhãn tự toàn bài thơ, hội tụ tất cả vẻ đẹp của tinh thần, ý chí của người lính lái xe cũng như để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.
Câu 7: Viết đoạn văn khoảng 12 câu theo phương thức quy nạp nêu cảm nhận về khổ thơ cuối bài "Bài thơ về tiểu đội xe không kính".
Trả lời:
Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh thể hiện ý chí kiên cường vì Tổ quốc, đó là sức mạnh sâu sắc, phi thường của người lính để vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá.
+ Biện pháp liệt kê, điệp ngữ được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ác liệt của chiến tranh ngày càng tăng, và sự thiếu thốn, mất mát ngày càng lớn.
- Điều kì diệu và đặc biệt là không gì có thể cản trở, tàn phá được chuyển động của chiếc xe vì “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước”.
- Mọi thứ trên xe không còn nguyên vẹn nhưng vẫn nguyên vẹn trái tim, ý chí của người lính. Đó chính là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên trên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tinh thần yêu nước.
- Đối lập với những cái “không có” ở trên là một cái “có”, sức mạnh từ trái tim có thể chiến thắng bom đạn kẻ thù. Những chiếc xe chạy bằng sức mạnh của trái tim.
- Trái tim là hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, kết tinh cho vẻ đẹp về tâm hồn và phẩm chất của người lính lái xe. Trái tim nồng cháy một lẽ sống cao đẹp: vì miền Nam, vì sự thống nhất đất nước.
Hình ảnh những người lính chiến đấu với lý tưởng độc lập tự do gắn với chủ nghĩa xã hội, họ ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình. Hình ảnh của họ đã thể hiện thế hệ anh hùng, mạnh mẽ, hiên ngang.
BT3:
Cho câu thơ “Không có kính rồi xe không có đèn” a, Chép tiếp các câu thơ trên để hoàn thành đoạn thơ gồm 4 dòng. c, Đoạn thơ vừa chép trong bài thơ nào? Của ai? Hoàn cảnh sáng tác? Nội dung chính của khổ thơ? c, Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng được dùng với ý nghĩa như thế nào d, Viết đoạn văn diễn dịch từ 8 đến 10 câu phân tích hình ảnh người lính lái xe trong đoạn thơ. Trong đoạn có sử dụng câu ghép (Phân tích cấu tạo ngữ pháp) |
b) Đoạn thơ vừa chép trong bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả PTD sáng tác năm 1969- trong cuộc kháng chiến chống Mĩ .
Nội dung: thể hiện tình yêu tổ quốc thiết tha của người lính lái xe.
c) Từ “trái tim” trong câu thơ cuối cùng được dùng với nghĩa chuyển( hoán dụ), chỉ người lính lái xe , chỉ sự nhiệt tình cứu nước, lòng yêu nước ý chí quyết tâm giải phóng miền nam tổ quốc.
d) Yêu cầu về hình thức: Viết đoạn văn theo lối diễn dịch, khoảng 8-10 câu, có sử dụng câu ghép
Yêu cầu về nội dung: Đảm bảo các nội dụng sau:
- Đoạn trích trên được trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã thể hiện tình yêu tổ quốc của người lính lái xe.
-Cuộc chiến đấu ngày càng gian khổ ác liệt ( qua hình ảnh những chiếc xe méo mó, biến dạng)
-Bất chấp khó khăn, gian khổ hi sinh những chiếc xe vẫn nối nhau thẳng đường ra tiền tuyến.
-Những người lính lái xe quả cảm vẫn vững tay lái vì họ có một trái tim tràn đầy nhiệt tình, c/m, tình yêu tổ quốc nồng nàn, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam sắt đá
*Đoạn văn tham khảo:
Đoạn trích trên được trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, sáng tác năm 1969 đã thể hiện rõ hình ảnh những chiếc xe không kính và tình yêu tổ quốc của người lính lái xe(1). Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động(2).Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính” , “không có đèn”,”không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ đồng thời phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường(3) . Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước(4). “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà(5). Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”(6). Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích(7). Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường(8). Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước(9) Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù, trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.(10)
BT 4:
Có nhà thơ đã viết một câu thơ nghe thật lạ: “Võng mắc chông chênh đường xe chạy” Câu 1: Câu thơ trên trích trong bài thơ nào? Của ai? Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ? Câu 2: Chép chính xác khổ thơ có dòng thơ trên Câu 3: Từ “chông chênh” trong câu thơ gợi cho em hiểu điều gì về hoàn cảnh sống và chiến đấu của nhân vật trữ tình? Câu 4: Hãy kể tên các pbtt được sử dụng trong hai câu thơ cuối? Tác dụng? Câu 5: Cảm nhận của em về đoạn thơ theo lối diễn dịch từ 6 đến 8 câu (Sử dụng lời dẫn trực tiếp và câu cảm thán)-gạch chân và chỉ ra |
Câu 3: Từ láy “chông chênh” diễn tả trạng thái đu đưa không vững trắc, gợi ra con đường gập ghềnh khó đi, thể hiện những gian khổ, khó khăn, nguy hiểm của những người lính trên con đường ra mặt trận
Câu 4: Các bptt được sử dụng trong hai câu cuối là
Điệp ngữ “lại đi”
Ẩn dụ “chông chênh” và “trời xanh thêm”
Tác dụng: Diễn tả không khí chồng chất, song với nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận tinh thần lạc quan, chứa chan niềm hi vọng
Câu 5:
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn diễn dịch khoảng 6-8 câu theo lối diễn dịch, có sử dụng lời dẫn trực tiếp và câu cảm thán.
Yêu cầu về nội dung:
Câu mở đoạn: Đoạn trích trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã nói lên tình cảm, sự khó khăn vất vả và niềm hi vọng của những người lính lái xe Trường Sơn.
Các câu khai triển:
- Trong phút giây sinh hoạt ngắn ngủi: Họ cùng nhau nấu cơm khi đến bữa, lúc này họ là những người thân ruột thịt trong gia đình với tình cảm ấm cúng, hạnh phúc.
- Tình cảm đồng chí đã hòa thành tình cảm gia đình để họ sống chết có nhau
- Họ tiếp tục cuộc hành trình chiến đấu với bao khó khăn, nguy hiểm chồng chất nhưng với lòng quyết tâm quả cảm, sẵn sàng hi sinh, họ lại tiếp tục lên đường: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” vì đó cũng là công việc thường nhật của họ vẫn tiếp tục trên đường đầy mưa bom bão đạn, những đoàn xe vẫn nối nhau trở những người lính, lương thực, thực phẩm ra tiền tuyến.
Biện pháp điệp ngữ “lại đi” và ẩn dụ “chông chênh” và “trời xanh thêm”
đã diễn tả không khí chồng chất, song với nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận tinh thần lạc quan, chứa chan niềm hi vọng
- Trên những chặng đường ấy, họ vẫn tin ngày mai sẽ chiến thắng.
- Tình đồng chí, đồng đội của họ thật cao cả biết bao!
Câu kết đoạn: Khẳng định lại nghệ thuật và nội dung của đoạn thơ.
Tóm lại, với việc sử dụng nghệ thuật điệp ngữ, ẩn dụ, từ láy tác giả đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn .
III. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NÂNG CAO
Đề 1 : Hình tượng con đường trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Là một nhà thơ, chiến sĩ tiêu biểu cho các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước – con chim lửa của rừng già, cây săng lẻ trên cánh rừng Trường Sơn huyền thoại, Phạm Tiến Duật đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng người yêu thơ.
1. Những bài thơ được viết ngay trong khói lửa đạn bom của ông đã làm sống lại hình ảnh của tuổi trẻ, đặc biệt là lớp trẻ trên tuyến đường Trường Sơn như nhà thơ Tố Hữu đã có lần ca ngợi:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Lớp trẻ ấy chính là những anh lính lái xe, cô thanh niên xung phong băng mình trong lửa đạn. Những nhân vật ấy là hình tượng trung tâm trong nhiều thi phẩm như Khoảng trời hố bom của Lâm Thị Mỹ Dạ, Lá đỏ của Nguyễn Đình Thi... Có một tác phẩm như thế được bao thế hệ học sinh yêu mến là Bài thơ về tiểu đội xe không kính trong chương trình Ngữ văn 9.
Điều làm nên vẻ đẹp và nét độc đáo ở Bài thơ về tiểu đội xe không kính, trước tiên tác giả đã dụng công xây dựng nhiều hình tượng đẹp xuyên suốt bài thơ: Những chiếc xe không kính – hình ảnh trần trụi đậm chất hiện thực.
Bàn về thơ Phạm Tiến Duật, nhà phê bình Vũ Quần Phương từng nói: “Cái đặc sắc trong thơ Phạm Tiến Duật chính là lấy cuộc sống để nói tình cảm, cái tình cảm sâu sắc của thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”.
2. Nhưng bên cạnh đó còn có một hình tượng nghệ thuật khác mà nhiều bạn đọc còn ít quan tâm, đó là hình tượng con đường. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ tôi muốn lý giải thêm về điều này mong góp thêm một cách hiểu để làm đậm thêm nét đẹp vốn có của bài thơ.
Có thể nói rằng, hình tượng con đường trước hết là một không gian nghệ thuật độc đáo trong bài thơ. Chính vì thế, con đường dường như có mặt xuyên suốt từ đầu đến cuối, có khi hình ảnh ấy diễn ra, hiện lên một cách trực tiếp nhưng cũng có khi xuất hiện gián tiếp.
Đó là một con đường cụ thể, con đường Trường Sơn huyền thoại, con đường mang tên Bác, con đường mịt mù khói lửa, con đường từng ngày từng giờ đang phải hứng chịu bom rơi đạn nổ mà quân thù đánh phá ác liệt. Trên con đường ấy con người cũng đang phải đối mặt với cái chết, phải chịu tất cả những hiểm nguy, tàn lụi của chiến tranh. Chính hình ảnh những chiếc xe không kính đã nói lên điều đó:
Xe không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi...
…Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Đó còn là một con đường khúc khuỷu, gập ghềnh, đầy đèo dốc trên dải đất miền Trung, trên dãy núi Trường Sơn bên mưa bên nắng. Có đôi lúc người đọc dường như được hoá thân vào những người lính lái xe để cảm nhận thật rõ những con đường như thế với nhịp phanh gấp của chiếc xe qua nhịp thơ: Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Thế nhưng qua cảm nhận của người lính lái xe, đó còn là một con đường đậm chất thơ, là một tiểu vũ trụ chứa cả đất trời, cả nắng gió và cả những cánh chim.
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Trên con đường ấy thiên nhiên đã trở thành người bạn đồng hành cùng người lính trong dặm dài ra trận. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của một anh lính lái xe. Vượt lên tất cả khó khăn những chiếc xe vẫn ngạo nghễ lên đường.
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi...
...Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu
thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, thanh thản. Đó là khúc nhạc sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Câu thơ rộn rã, sôi động như sự hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
3. Con đường ấy còn là một hình ảnh trừu tượng hoá bởi đó chính là con đường cách mạng, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, con đường tiến về phía trước, hướng về tương lai tràn đầy lạc quan, tin tưởng: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Con đường ấy đã được biết bao thế hệ người Việt Nam tiếp bước, lớp này ngã xuống lớp khác lại lên đường Mà lòng phơi phới dậy tương lai hay Đường ra trận mùa này đẹp lắm mà nhà thơ Tố Hữu hay chính Phạm Tiến Duật đã từng khẳng định.
Con đường ấy còn là tình yêu cháy bỏng trong trái tim người lính khi nhà thơ để nhân vật trữ tình “nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Điều đó xuất phát từ một thực tế là khi xe chạy nhanh con đường như chạy ngược lại làm cho người lính có một liên tưởng thật độc đáo. Đó là con đường chạy thẳng vào tim – ngay cả khi xe bị tàn phá, hư hại, biến dạng đến trơ trụi, méo mó thì nó vẫn vượt lên phía trước hướng ra tiền tuyến với tình cảm thiêng liêng.
Con đường chạy thẳng vào tim còn là con đường được nhìn thẳng từ trái tim mình để xác định một lẽ sống cao đẹp, hoặc là vì Tổ quốc mà chết, mà thành anh hùng bởi vì cuộc đời mãi mãi đẹp ở tuổi 20 và đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù như cách nói của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hay như câu nói bất hủ của Hoàng Văn Thụ “Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản. Tinh thần trong suốt như pha lê, rắn chắc như kim cương và chói lọi muôn nghìn hào quang của lòng tin tưởng” mà bác sĩ – liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã đặt làm lời tựa như trong cuốn nhật ký của mình.
Chính tình yêu của người lính, trái tim của người lính đã cầm lái, hướng người đọc đến một chân lý của thời đại “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Đó là sức mạnh quyết định của chiến thắng không phải vì vũ khí, không phải vì công cụ mà ở con người.
Trái tim chính là hình ảnh hoán dụ biểu tượng cho những con người với tâm hồn nồng nàn yêu thương, với ý chí kiên cường, dũng cảm, lạc quan luôn tin tưởng ở tương lai. Tất cả đã hoà quyện vào nhau để tạo nên vẻ đẹp chân dung người lính lái xe. Con đường ấy vẫn theo suốt họ cùng với những chiếc xe không kính để rồi trở thành những con người đẹp nhất của lịch sử Việt Nam một thời và mãi về sau.
BT2 :Phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
1. Mở bài :
- Phạm Tiến Duật ( 1941 – 2007) là nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ Phạm Tiến Duật có giọng tự nhiên tinh nghịch, tươi trẻ, đã góp phần làm sống mãi hình ảnh thế hệ thanh niên thời chống Mĩ, không khí của thời kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt mà phơi phới tin tưởng.
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang gay go, khốc liệt. Từ việc khắc họa hình ảnh những chiếc xe không kính, bài thơ đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu lãnh liệt giải phóng Miền Nam.
2. Thân bài:
Luận điểm 1: Hình ảnh chiếc xe không kính:
- Những người lái xe giải thích, giới thiệu một cách tự nhiên, chân thực về người bạn đường thủy chung, gắn bó của họ.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Tác giả lí giải những chiếc xe “ không có kính” “ bởi” . “ bom giật, bom rung”, bởi sự tàn phá, hủy diệt của chiến tranh. Hai câu thơ rất gần với câu văn xuôi, lại có giọng điệu thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe không kính.
- Chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe không có kính sao bao chặng đường lăn lộn khó nhọc đã bị bom Mĩ tàn phá, hủy diệt trở nên méo mó, biến dạng:
Không có kính, rồi xe không còn đèn
Không có mui xe, thùng xe không có xước
Điệp ngữ “ không có” kết hợp với biện pháp liệt kê đã nhấn mạnh chiếc xe không chỉ không có kính mà còn không có đèn, không có mui xe, thùng xe găm đầy những vết đạn xước … Hàng loạt các từ phù định “ không” đã diễn tả một cách độc đáo, chân thực đến trần trụi những chiếc xe trên đường ra trận. Mặc dù bị biến dạng, thiếu nhiều điều kiện để bảo vệ người lái nhưng những chiếc xe vẫn băng ra chiến trường. Đó là mình chứng cho sự tàn phá khốc liệt của bom đạn chiến tranh đồng thời là cách khám phá ra chất thơ độc đáo trong hình ảnh những chiếc xe không kính, chất thơ từ hiện thực chiến trường - chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam, để tôn vinh những chiến sĩ lái xe anh hùng.
Luận điểm 2: Hình ảnh những người lính lái xe
Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phấm chất cao đẹp, sức mạnh thinh thần lớn lao của họ.
a, Tư thế ung dung, hiện ngang sẵn sàng ra trận:
- Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, tác giả đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính lái xe TS với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung” đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.
+ Điệp từ “nhìn” được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính
+ Thủ pháp liệt kê “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” đã cho ta thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của người lính laí xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.
+ Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
- Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.
+ Điệp ngữ “ nhìn thấy…nhìn thấy…thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường
+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đổi cảm giác “ vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.
+ Hình ảnh “ con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim. . Đồng thời cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng MN
+ Đặc biệt hình ảnh so sánh “ như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.
=> Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.
b, Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ hiểm nguy của người lính( khổ 3+ 4)
Những gian khổ nguy hiểm đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe TS. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
- Hình ảnh “gió”, “bụi”, “ mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.
- Cấu trúc lặp: “ không có…, ừ thì…” đi liền với kết cấu phủ định “ chưa có…” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe TS
- Hình ảnh so sánh: “ Bụi phun tóc trắng như người già” và “ Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính TS.
- Hình ảnh “ phì phèo châm điếu thuốc” và lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy, thử thách
- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh…làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giwuax gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.
-> Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên VN trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
c, Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của những người lính lái xe( khổ 5+ 6)
Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, họ lại gặp nhau để họp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
- Hình ảnh “ Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.
- Hình ảnh “ Bắt tay nhau qua của kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:
+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tâm hồn của những người lính.
+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau
+ Là sự sẻ chia vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.
- Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh, dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
- Các định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.
- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút hạng phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp họh coa cảm giác gần gũi thân thương như ruột thịt.
- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng- đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi
- Nghệ thuật ẩn dụ: “ trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ . Màu xanh đó là màu của của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần
- Điệp từ “lại đi lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nổi.
d, Lí tưởng cách mạng của những người lính lái xe.
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phái trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim
- - “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.
- Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”
+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường
+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước
=> Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kè thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại cảm xúc sâu sắc trong lòng người đọc.
** Thành công về nghệ thuật: Với lời thơ mộc mạc gần với ngôn ngữ đời thường, giọng điệu ngang tàn, trẻ trung; cách khai thác chất liệu của chiến tranh … nhà thơ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo nên một bài thơ với những hình tượng độc đáo.
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề
- Từ hình ảnh những chiếc xe không kính, bài thơ đã khắc họa bức tượng đài nghệ thuật về người lái xe Trường Sơn. Đó là những con người sôi nổi trẻ trung, có tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, lạc quan phơi phới. Họ đã vượt lên sự ác liệt của chiến tranh để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với khí thế tuổi xuân phơi phới “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
BT3:
Viết đoạn văn nêu cảm nhận của em về 2 câu thơ: Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm Gợi ý: - Câu chủ đề: Hoàn cảnh kháng chiến khó khăn và niềm lạc quan tin tưởng của những người lính lái xe. - Từ láy “chông chênh”: đu đưa không vững chắc ® gợi ra hình ảnh con đường gập gềnh khó đi ® Thể hiện sự gian khổ, khó khăn nguy hiểm trên con đường ra trận của những người lính lái xe. - Điệp ngữ “lại đi” ® nhịp sống thường nhật của tiểu đội xe không kính, đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận. - Trên đầu họ, trong tâm hồn họ “trời xanh thêm” chứa chan hy vọng, lạc quan dạt dào. Không một sức mạnh nào của giặc Mỹ có thể ngăn cản ® khẳng định ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, khẳng định tình yêu nước nồng nhiệt ở tuổi trẻ. |
BT 4
Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài: Ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. - Bài thơ khép lại bằng bốn câu thể hiện “ý chí … Tổ quốc” - Trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu đã không có kính, nay càng trở nên hư hại hơn, vật chất ngày cảng thiếu thốn. "Không có kính … xước" - Điệp ngữ “không có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, còn cho ta thấy mức độ ác liệt của chiến trường. - Nhưng không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kì diệu của những chiếc xe không kính ấy. - Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng cái xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà còn có một động cơ tinh thần “Vì miền Nam phía trước”. - Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim - sức mạnh của người lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù. - Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn “không kính, không đèn, không nản” hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống để tiếp tục tiến lên phía trước hướng về miền Nam thân yêu. - Trái tim yêu thương, trái tim cam trường của người chiến sĩ lái xe trở thành nhãn tư bài thờ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc. - Trái tim người lính toả sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ mai sau khiến ta không quên một thế hệ thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc. |
BT 5: Phân tích và so sánh hình ảnh người lính trong hai bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
1. Mở bài: Cần nêu được:
- Giới thiệu tác giả.
- Giới thiệu hai bài thơ.
- Giới thiệu được vấn đề nghị luận.
Tham khảo mở bài:
- Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ trường kì, anh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp Việt Nam tập trung những phẩm chất cao quý nhất của cơn người thời đại.
- Hai bài thơ Đồng chí ( Chính Hữu ) và bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật) giúp ta hiểu sâu sắc hơn về chân dung con người Việt Nam đẹp nhất ấy, những con người đã không tiếc máu xương chiến đấu để giữ gìn nền độc lập dân tộc.
2. Thân bài
a) Cảm nhận người lính trong từng bài thơ
Người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu: vẻ đẹp chân dung anh bộ đội Cụ Hồ buổi đầu kháng chiến chống Pháp.
- Đó là những anh bộ đội xuất thân từ nông dân giàu lòng yêu nước. Họ sẵn sàng bỏ lại những gì quý giá, thân thiết của cuộc sống nơi làng quê để ra đi vì nghĩa lớn “ Ruộng nương anh …lung lay”.
- Trong gian khổ, thiếu thốn buổi đầu cách mạng ( áo rách, quần vá, chân không giầy những cơn sốt run người …) họ vẫn sáng ngời tinh thần lạc quan, dũng cảm, vượt khó.
- Đẹp nhất ở họ là tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, thấm thiết:
+ Tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về ảnh ngộ xuất thân nghèo khó:.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
+ Tình đồng chí được nảy sinh bởi họ cùng chung mục đích, chung lí tưởng từ đôi người xa lạ, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ đã nhanh chóng tập hợp trung đội quân Cách mạng và quen nhau, rồi cùng chung nhiệm vụ, chung chiến hào.
+ Tình đồng chí nảy nở và càng bền chặt khi họ cùng chia sẻ ngọt bùi, đồng cam cộng khổ: “ đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Trong gian khổ thiếu thốn buổi đầu cách mạng, họ tìm đến bên nhau, chia nhau từng hơi ấm yêu thương từ tấm chăn mỏng, thấu hiểu, đồng cảm, kết thành đôi tri kỉ rồi trở thành Đồng chí.
+ Là đồng chí, họ luôn đoàn kết, sát cánh bên nhau nơi chiến hào đánh giặc:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ kết là bức họa tuyệt đẹp về hình ảnh hai người lính canh gác bên nhau trong cái hoang vu bát ngát của núi rừng Việt Bắc. Mặc cho cái lạnh thấm vào da thịt, họ vẫn kề vai, sát cánh bên nhau chung một chiến hào.
Tình đồng đội là sức mạnh tinh thần kì diệu nhất để các anh vững vàng tay súng bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.
* Hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vô cùng ác lieejtm người lính đã ngời lên phẩm chất cao đẹp.
- Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, coi thường hiểm nguy.
- Tình đồng chí đồng đội cao đẹp, gắn bó keo sơn.
- Tình yêu Tổ quốc thiết tha và ý chí chiến đấu vì Miền Nam ruột thịt.
b) Điểm giống và khác nhau về hình ảnh người lính trong hai bài thơ
* Điểm giống nhau:
- Người lính trong hai câu thơ đều có những phẩm chất cao quý của anh bộ đội Cụ Hồ
+ Lòng yêu nước thiết tha, sự dũng cảm, can trường
+ Tinh thần lạc quan, lãng mạn, yêu đời
+ Tình đồng chí đồng đội thiêng liêng cao đẹp.
- Bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn, tìm ra chất thơ ngay trong những chi tiết đời thường đã tạo ra chân dung người lính chân thực nhưng cũng rất lãng mạn.
* Điểm khác nhau:
- Hoàn cảnh của hai cuộc kháng chiến khác nhau. Cuộc kháng chiến chống Pháp buổi đầu, người kính gặp muôn vàn gian khổ, thiếu thốn. Cuộc kháng chiến chống Mĩ. Họ phải chịu sự khốc liệt của bom đạn chiến tranh, sự tàn bạo dã man của kẻ thù.
- Tiếp nối vẻ đẹp của người lính thời chống Pháp, người lính thời chống Mĩ đã nâng tình cảm đồng chí lên thành tình cảm gia đình ruột thịt để họ có thêm sức mạnh quyết tâm tiêu diệt kẻ thù.
- Ngôn ngữ thơ trong bài Đồng chí giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày của những người lính nông dân, cảm xúc dồn nén, hình ảnh cô đọng ,hàm súc. Còn Bài thơ về tiểu đội xe không kính , người lính trong thời chống Mĩ lại hiện lên sinh động qua ngòi bút trẻ trung, ngôn ngữ hóm hỉnh, ngang tàn, đậm chất khẩu ngữ …
3. Kết bài :
- Khẳng định : lòng yêu nước và sự quyết tâm chống giặc ngoại xâm là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam xưa nay. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, vẻ đẹp đó được tỏa sáng và phát huy trong hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
- Liên hệ bài học: Thế hệ cháu con tiếp nối cha ông, giữ gìn dất nước tươi đẹp và sống có trách nhiệm xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.
IV DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LÊN QUAN ĐỀ TÀI.
Đề 1: Viết đoạn văn khoảng hơn 200 chữ theo lối tổng- phân- hợp trình bày cảm nhận, suy nghĩ về lí tưởng sống của người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
1.Yêu cầu:
Về hình thức:
+ Độ dài khoảng 200 chữ tương đương với khoảng trên 20 dòng
+ Trình bày theo lối tổng- phân- hợp
Về nội dung:
+ Luận điểm 1: Hoàn cảnh sống và chiến đấu hết sức gian khổ, hiểm nguy: bom đạn giặc Mĩ, thời tiết khắc nghiệt( gió, mưa, nắng..)
+ Luận điểm 2: Vẻ đẹp tâm hồn cao quí đáng khâm phục:
. Tư thế ung dung, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp mọi gian khổ
. Tình đồng chí, đồng đội thắm thiết như tình anh em ruột thịt
. Ý chí chiến đấu vì MN ruột thịt.
2. Hướng dẫn viết:
- Cặp câu chủ đề:
+ Câu mở đoạn: Đọc bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của PTD, ta vô cùng cảm phục lí tưởng sống cao đẹp của những người chiến sĩ lái xe.
+ Câu kết: Lí tưởng sống cao đẹp của những người lính lái xe cũng là lí tưởng của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ
- Các câu phát triển đoạn( Các câu khai triển):
+ PTD đặt hình ảnh những người lính trong bài thơ của mình vào một không gian đặc biệt- không gian của chiến tranh.
+ Những người lính làm việc ở binh đoàn vận tải trường Sơn- nơi tập trung nhiều nhất trận mưa bom, bão đạn mà giặc Mĩ trút xuống hòng cắt đứt sự tri viện vào MN.
+ Những chiếc xẻ vận tải lăn lộn trên con đường TS ấybị bom đạn giặc Mĩ tàn phá làm mất kính.
+ Bước lên buồng lái, không có kính mà những chiến sĩ lái xe vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi; Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Với họ việc xe “không có kính”, không ảnh hưởng gì đến tư thế, đến tầm nhìn, họ vẫn hiên ngang đoàng hoàng đối mặt thẳng thắn với những gian khổ, hi sinh. Ngồi trong buồng lái, xe vẫn tiến nhanh về phía trước để họ luôn nhận thấy “ Con đường chạy thẳng vào tim”, các anh vẫn giao hòa trực tiếp với thiên nhiên. Cả thiên nhiên đã đồng hành cùng các anh trên mỗi con đường ra trận, để các anh nhận ra: “ Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Ngồi trong buồng lái không có kính, bên cạnh những trận mưa bom bão đạn, những người lính còn phải đối mặt trực tiếp với những gian khổ, khắc nghiệt của thời tiết TS là “Gió vào xoa mắt đắng”, là “ bụi phun tóc trắng như người già” và còn là “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”.
+Những thử thách ấy cứ chồng chất lên để thử thách tinh thần của các anh. Song, dù thời tiết có khắc nghiệt đến đâu, bụi đường có thể nhuộm trắng mái đầu tuổi trẻ, mưa có thể khiến áo quần các anh ướt sũng nhưng các anh không cần quan tâm “ chưa cần rửa, chưa cần thay”.
+ Nhiệt tình cách mạng của các anh là trên hết. Nó được cụ thể hóa bằng độ dài cung đường “ lái trăm cây số nữa”|. Biểu hiện cao đẹp nhất trong lí tưởng sống của các anh còn là lòng yêu TQ, ý chí chiến đấu vì MN thân yêu.
+Cuộc chiến tranh ngày càng khốc liệt, những chiếc xe sau bao nhiêu lặn lội đã bị bom đạn giặc Mĩ tàn phá, hủy diệt đến mức trơ trụi: không kính, không đèn, thùng xe xước. Điệp ngữ “không có” ba lần lặp lại như nhân lên khó khăn thử thách với các anh ba lần. Những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích như thế nhưng các anh không chùn bước, bất chấp tất cả, tiến về phương Nam.
+Các anh lính đã giải thích lí do xe chạy hết sức đơn giản: Vì MN phía trước”. Hơn ai hết, những chiến sĩ hiểu rằng MN đang cần có họ. Điều kiện cần và đủ để chiếc xe ấy chạy: chỉ cần trong xe có một trái tim. Trái tim ấy chứa đựng tình yêu TQ, lòng căm thù giặc sục sôi, khát khao MN giải phóng, chính trái tim các anh đã thắp lên ngọn lửa để xe thẳng tiến về MN. Con đường TS không một ngày, một giờ đứt mạch.
*********************************************************
CHUYÊN ĐỀ 7. Văn bản: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
(Huy cận)
Cảm hứng chủ đạo:
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ ( từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ( từ lúc ra khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.
Chủ đề tư tưởng:
Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển HạLong,
bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:
Tập làm chủ, tập làm người xây dựng Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!
…
Yêu biết mấy, những con người đi tới Hai cánh tay như hai cánh bay lên Ngực dám đón những phong ba dữ dội Chân đạp bùn không sợ các loài sên!
( “Mùa thu mới” – Tố Hữu ).
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả | - Huy Cận ( 1919 – 2005) tên thật là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh. Trước cách mạng, ông là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Ông tham gia phong trào cách mạng trước năm 1945 và trở thành một nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ ca hiện đại Việt Nam. - Đặc điểm sáng tác: + Cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ là nét nổi bật của hồn thơ Huy Cận + Thơ ông đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mộc mạc, chân tình vừa lắng đọng, hàm súc, cổ điển. + Hình ảnh trong thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà, thâm trầm, khơi gợi như len nhẹ , ngấm sâu và tâm hồn và trí tuệ người đọc. - Tác phẩm chính : Lửa thiêng ( 1940), Thời mỗi ngày lại sáng ( 1958), Đất nở hoa ( 1960), Mẹ và em ( 1987), Chiến trường gần với chiến trường xa (1973), Ngôi nhà giữa nắng ( 1978), Hạt lại gieo ( 1984), Chim làm ra gió ( 1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỉ ( 1997)… - Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện hàn lâm Thơ Thế giới, Năm 2005, được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng |
2. Văn bản | a) Hoàn cảnh sáng tác - Năm 1958, Huy Cận có chuyến công tác đi thực tế dài ngày về cùng mỏ Quảng Ninh ( đây là thời kì cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, Miền Bắc đang trong công cuộc dựng xây chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương cho tiền tuyến Miền Nam). - Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới, mở một chặng đường mới trong thơ Huy Cận. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được ông Sáng tác trong chuyến đi này và đưa vào tập Trời mỗi ngày lại sáng ( 1958). |
Thể thơ: 8 chữ | |
Bố cục: Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. - Hai khổ đầu : cảnh lên đường và tâm trạng náo nức của con người - Bố khổ tiếp : Cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh biển trời ban đêm. - Khổ cuối: cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên: | |
Nghệ thuật, nội dung: Đặc sắc nghệ thuật - Bài thơ là sự thống nhất hài hòa giữa hai nguồn cảm hứng: cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ với cảm hứng về người dân lao động đã tạo ra những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài. - Hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn được xây dựng bằng bút pháp khoáng đạt, khoa trương, sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và độc đáo. - Cách gieo vần linh hoạt, nhịp điệu kết hợp cổ điển và phá cách tạo âm điệu sôi nổi, phơi phới khiến bài thư như một khúc tráng ca khỏe khoắn, sau sưa. Nội dung: Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, hào hùng ngợi ca vẻ đẹp tráng lệ, kì vĩ thân thuộc của thiên nhiên và vẻ đẹp của người lao động mới trong công cuộc dựn xây chủ nghĩa xã hội. Từ đó, nhà thơ bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng trước đất nước, con người và cuộc sống mới. |
II, Đọc – hiểu văn bản:
1, Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (hai khổ thơ đầu) | a, Khung cảnh trời biển Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên phông nền của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ cảu bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn + Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá - Sử dụng hình ảnh nhân hóa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”: + Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi + Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn của con người. -> Qua hai câu thơ đầu có thể thấy, Huy Cận yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc đời như thế nào. |
b, Cảnh đoàn thuyền ra khơi: Trên phông nề thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, con người dần dần xuất hiện: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi” - Phụ từ “lại” tạo được điểm nhấn ngữ điệu và sức nặng của câu thơ: + Gợi thế chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi vẫn lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc + Đồng thời, miêu tả một hành động đối lập: Đối lập giữa hoạt động của vũ trụ và hoạt động của con người - Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi”: + Cụ thể hóa niềm vui phơi phới, sự hào hứng, hăm hở của người lao động + Gợi cho chúng ta liên tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền vượt trùng ra khơi + Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi gắm vào trong lời hát -> Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì và dường như có một sức mạnh vật chất đã cùng với gió làm thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi Trong tâm trạng phấn chấn, náo nức ra khơi, những người dân chai đã cất cao tiếng hát: “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng Cá thu biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”
+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm + Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng =>Tác giả đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng cảu người dân chài | |
2, Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển | a, Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được miêu tả cụ thể và rất sinh động: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển lặng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
+ Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương. Rõ ràng, con thuyền cũng như con người đang làm chủ không gian này. + Hệ thống động từ được rải đều trong mỗi câu thơ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời => Khổ thơ gợi lên một bức tranh lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Bức tranh ấy như thâu tóm được cả không gian vũ trụ vào trong một hình ảnh thơ, đồng thời nâng con người và con thuyền lên tầm vóc vũ trụ |
b, Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự giàu có, phong phú và nâng tấm lòng hào phóng, bao dung của biển cả: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, đã tạo nên một cảnh tượng thật lộng lẫy và kì vĩ - Hình ảnh nhân hóa “cái đuôi em vẫy trăng vàng chóe”: + Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu rọi + Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt biển khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng - Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”: + Tả nhịp điệu của những cánh sóng + Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống - Trước sự giàu có và phong phú của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao tiếng hát: “Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” + Hình ảnh so sánh biển “như lòng mẹ”: . Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con người tự bao đời . Thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài với biển cả quê hương =>Ẩn sau khổ thơ, ta thấy lòng biết ơn của con người trước ân tình của quê hương đất nước | |
c, Khung cảnh lao động hang say trên biển Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng, hăng say: “Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” - Hệ thống từ ngữ tượng hình: “kéo xoăn tay”, “lưới xếp”, “buồm lên” đã đặc tả để làm hiện lên một cách cụ thể, sinh động công việc kéo lưới của những ngư dân - Hình ảnh ẩn dụ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” : + Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động + Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu - Hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp những khoang thuyền: + Cho thấy sự giàu có của iển cả quê hương và niềm vui phơi phới của người lao động + Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt trời như lóe cá rạng đông. Điều đó cho thấy bút pháp sử dụng màu sắc đại tài của Huy Cận => Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên. Đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường | |
3, Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về | Đoàn thuyền đánh cá trở về trong câu hát: “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời dội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” - Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng là một âm hưởng, cùng là một lối miêu tả. Những nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy: câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát trở về là “Câu hát căng buồm với gió khơi” + Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi thuận lợi và bình yên + Khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ được trở về trên con thuyền đầy ắp cá + Với nghệ thuật đầu cuối trong câu hát, ta còn thấy được điệp khúc của khúc ca lao động - Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” + Đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ + Nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ + Gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “mặt trời dội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến biển: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” - Hình ảnh hoán dụ “mắt cá huy hoàng” + Miêu tả muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông trở nên rực rỡ, huy hoàng + Đây không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là ánh sáng của thành quả lao động lấp lánh ánh vui => Khổ thơ mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của con người khi làm chủ đất trời |
III. LUYỆN TẬP ĐỀ ĐỌC HIỂU
BÀI TẬP 1: : Cho câu thơ sau: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”
a. Chép chính xác ba câu thơ tiếp theo. Dựa vào trình tự ra khơi của đoàn thuyền thì khổ thơ vừa chép mang nội dung gì?
b. Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong câu thơ: Thuyền ta lái gió với buồm trăng. Các biện pháp đó đã góp phần khắc hoạ những vẻ đẹp nào của người ngư dân? (Hình ảnh buồm trăng trong khổ thơ trên là phép tu từ ẩn dụ hay hoán dụ?).
c. Trong một bài thơ khác đã học ở chương trình lớp 9 cũng có 1 hình ảnh lãng mạn được xây dựng trên cơ sở quan sát như hình ảnh buồm trăng. Hãy chép lại câu thơ đó và ghi rõ tên tác giả, tác phẩm. Hình ảnh buồm trăng gợi cho em tới câu thơ nào trong chương trình Ngữ văn 8? Hãy chép lại câu thơ đó và ghi tên tác giả, tác phẩm
d. Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu cảm nhận vẻ đẹp của khổ thơ vừa chép. Trong đoạn văn sử dụng 1 thành phần khởi ngữ và một phép lặp.
Gợi ý:
a. “Thuyền ta lái gió với buồm trăng
- Lướt giữa mây cao với biển bằng
- Ra đậu dặm xa dò bụng biển
- Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
- Theo trình tự ra khơi thì đoàn thuyền đang ở trên biển
- - Biện pháp: nhân hóa
- - Nghệ thuật: phóng đại
- - Biện pháp đối: hai không gian cao- thấp
- - Hình ảnh ẩn dụ lãng mạn "buồm trăng"
- => Tư thế làm chủ, tầm vóc sánh ngang vũ trụ của người ngư dân
- c. * Câu thơ được xây dựng trên cơ sở như hình ảnh "buồm trăng"
- "Đầu súng trăng treo" - (Đồng chí- Chính Hữu)
- * Hình ảnh "buồm trăng" gợi em nhớ tới câu thơ trong Ngữ văn 8
- "Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng"
- (Quê hương- Tế Hanh)
- d. Bài làm
- Trong bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá "của tác giả Huy Cận có một khổ thơ đã khắc họa thành công hình ảnh đoàn thuyền hùng tráng, thơ mộng và vẻ đẹp của người lao động trên biển:
- Thuyền ta lái gió với buồm trăng
- Lướt giữa mây cao với biển bằng
- Ra đậu dặm xa dò bụng biển
- Dàn đan thế trận lưới vây giăng
- Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn lao, kỳ vĩ thông qua bút pháp lãng mạn và biện pháp nghệ thuật phóng đại, nhân hóa. Hình ảnh con thuyền được đặt trong mối quan hệ hài hòa với những hiện tượng tự nhiên "gió", "trăng", "trời", "biển". Đoàn thuyền lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm như đang bay, đang lướt với tất cả sức mạnh chinh phục biển cả, chinh phục tự nhiên. Con thuyền đã trở thành trung tâm của vũ trụ, nâng lên sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình một vẻ đẹp vừa hùng tráng, vừa thơ mộng. Trong hai câu thơ sau, tác giả đã sử dụng nhịp thơ hối há gợi khí thế phấn khởi của người lao động qua các động từ "lướt", "đậu", "dò", "dàn đan", "vây", "giăng". Đó là những động tác dứt khoát, đầy chủ động của những người dân làng chài. Đối với công việc, họ làm với tất cả lòng dũng cảm, niềm say mê, trí tuệ nghề nghiệp và tâm hồn phơi phới. Họ lái thuyền mà như lái cả trăng, sao, mây, gió; họ ra tận dặm xa, dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng. Giữa thiên nhiên, vũ trụ bát ngát, con người không hề nhỏ bé mà lại hiện lên ngang tầm trời đất. Công việc của họ dù có nặng nhọc nhưng cũng vì thế mà tràn ngập niềm vui.
- * Chú thích:
- - Phép lặp : con thuyền
- - Khởi ngữ : đối với công việc
Cho câu thơ “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa” 1. Chép tiếp những câu thơ còn lại để hoàn thiện khổ thơ? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ? Nêu nội dung chính của khổ thơ em vừa chép? 2. Nêu bố cục của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá? Với việc tạo ra bố cục như vậy, nhà thơ Huy Cận muốn gửi gắm điều gì? 3. Kể tên một văn bản khác cũng được sáng tác trong một chuyến đi thực tế, cho biết tên tác giả? 4. Chỉ ra và phân tích các biện pháp tu từ trong 2 câu thơ đầu của đoạn. 5. Biển nước ta ở phía Đông, ta chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển, tai sao Huy Cận lại viết “Mặt trời xuống biển”. Cách viết đó tưởng như vô lí nhưng lại có lí ở chỗ nào? 6. Cảm nhận về đoạn thơ trên bằng đoạn văn tổng – phân – hợp (khoảng 8 – 10 câu) sử dụng 1 câu chứa thành phần phụ chú, gạch chân. |
Gợi ý:
1. Hs chép chính xác - HCST: 4/10/1958 – thời kì đầu miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhà thơ đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. - Nội dung: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người đi biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ. 2. Bố cục bài thơ: theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn huyền đánh cá- theo trình tự thời gian: + Đoàn thuyền đánh cá ra khơi - khi hoàng hôn buông xuống. + Đoàn thuyền đánh cá trên biển- khi có trăng đẹp. + Đoàn thuyền đánh cá trở về- khi bình minh một ngày mới bắt đầu. -> Hành trình của đoàn thuyền gắn với sự chuyển biến của thời gian: đoàn thuyền ra đi vũ trụ kết thúc một ngày; đoàn thuyền trở về khi vũ trụ bắt đầu một ngày mới. => Việc tạo ra bố cục như vậy, nhà thơ Huy Cận muốn ngợi ca hình ảnh con người lao động trong tư thế làm chủ thiên nhiên, vũ trụ. Con người hoạt động nhịp nhàng với vũ trụ. Qua đó, Huy Cận bộc lộ niềm tự hào, niềm tin tưởng vào cuộc sống nở hoa bắt đầu từ lao động. 3. Một văn bản khác cũng được sáng tác trong một chuyến đi thực tế: Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long 4. Hai câu thơ sử dụng biện pháp tu từ: + So sánh: Hình ảnh “Mặt trời” với hình ảnh “hòn lửa”, giữa hai hình ảnh có sự tương đồng về màu sắc và hình khối. Cách so sánh làm nổi bật vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ của cảnh biển lúc hoàng hôn. +Ẩn dụ “sóng đã cài then đêm sập cửa” tạo liên tưởng thật đẹp, vũ trụ là mái nhà, màn đêm là cánh cửa, những đợt sóng dài chuyển động là những chiếc then. + Nhân hóa: Sử dụng câu từ chỉ hành động của con người :”xuống, cài, sập” để chỉ hành động của thiên nhiên,làm cho cảnh thiên nhiên thật sinh động. 5, Biển nước ta ở phía Đông, ta chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển nhưng Huy Cận lại viết “Mặt trời xuống biển”. Cách viết đó tưởng như vô lí nhưng lại có lí ở chỗ, điểm nhìn của đang ở trên thuyền, ngoài khơi xa hoặc trên một hòn đảo xa đất liền: Ông nhìn về phía Tây sẽ thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Hình ảnh đó là thực nhưng cũng có thể là hình ảnh trong cảm quan nghệ thuật của nhà thơ. 6 , *Về hình thức: Đoan văn viết theo lối tổng- phân- hợp, khoảng 8-10 câu, có sử dụng một câu chứa thành phần phụ chú( gạch chân) * Về nội dung: Gồm ý cơ bản sau: Mở đoạn: Đoạn thơ trên được trích trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, đã rất thành công trong việc thể hiện cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người đi biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ. Thân đoạn: - Vũ trụ như 1 ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hòa chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. - Hình ảnh ẩn dụ kết hợp với nhân hóa trong câu thơ “Sóng đã......cửa” tạo cho câu thơ một sức hấp dẫn riêng. - Hình ảnh “Mặt trời” với hình ảnh “hòn lửa”, giữa hai hình ảnh có sự tương đồng về màu sắc và hình khối. Cách so sánh làm nổi bật vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ của cảnh biển lúc hoàng hôn. Mặt trời – một hòn lửa khổng lồ, đang từ từ lặn xuống biển. - Thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu một ngày lao động mới. Hình ảnh “câu hát căng buồm” – Cánh buồm căng gió ra khơi là ẩn dụ cho tiếng hát ở con người có sức mạnh làm căng cánh buồn. Câu hát là niềm vui, là niềm say xưa hứng khởi của những người lao động yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi,làm giàu cho Tổ Quốc. Kết đoạn: Bằng việc sử dụng các biện, pháp nghệ thuật đặc sắc: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, Huy Cận đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp của cảnh biển về đêm và không khí rạo rực của người lao động, từ đoạn thơ cho em thêm yêu thiên nhiên, yêu biển, đặc biệt là tình yêu lao động. Thành phần phụ chú: Mặt trời – một hòn lửa khổng lồ, đang từ từ lặn xuống biển |
BÀI TẬP 3:
1. Trong bài “Cành phong lan bể” có câu: “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về” Bài “Đoàn thuyền đánh cá” cũng có câu thơ giàu hình ảnh tương tự. Hãy chép chính xác khổ thơ có câu thơ đó. 2, Con “cá song” và “ngọn đuốc” là hai sự vật khác nhau trong thực tế nhưng nhà thơ Huy Cận lại có sự liên tưởng hợp lí. Tại sao? Câu thơ của ông giúp người đọc hiểu thêm gì về thiên nhiên và tài quan sát của ông? 3, Dưới đây là câu chủ đề cho một đoạn văn trình bày cảm nhận về khổ thơ yêu cầu chép ở câu một: “Chỉ với bốn câu thơ, Huy Cận đã cho ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương” Em hãy viết tiếp khoảng 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn trên theo phương pháp lập luận diễn dịch (có câu ghép và có thành phần tình thái) 4. Trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” , hình ảnh thơ nào được lặp lại nhiều lần nhằm làm nổi bật tư tưởng của bài thơ. Việc lặp lại đó nhằm nói lên tư tưởng gì?. Bằng một đoạn văn hãy chỉ ra ý nghĩa? |
1. Hs tự chép 2, -Sự liên tưởng của nhà thơ dựa trên cơ chế ẩn dụ. Bằng sự quan sát tinh tế, nhà thơ đã nhận ra nét tương đồng giữa hình ảnh con cá song và ngọn đuốc. . Đó là cùng có ánh sáng hồng lấp lánh trong màn đêm đen. Cá song đêm xuống thường nổi lên mặt biển hàng đàn cho đến lúc rạng đông, cá song thường có màu sắc rất sặc sỡ. Trên nền da sẫm có nhiều đốm vằn đỏ hồng như những ngọn đuốc đỏ rực sáng lên trong trăng sao -Câu thơ giúp người đọc hiểu biết thêm về vẻ đẹp ở các loài cá, vẻ đẹp của thiên nhiên biển khơi, đó là vẻ đẹp lạ kì. Trí tưởng tượng của nhà thơ quả là kì diệu, bút pháp lãng mạn của nhà thơ quả là bay bổng. Điều đó đã chấp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên. 3, Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn diễn dịch, có độ dài khoảng 8-10 câu, có sử dụng thành phần tình thái và một câu ghép. Yêu cầu về nội dung: Câu chủ đề: Chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã cho ta thấy một bức tranh kì thú về sự đẹp đẽ của biển cả quê hương . Các câu khai triển: -Tôn lên vẻ đẹp rực rỡ, kì diệu của biển cả là sắc màu của những đuôi cá, vẩy cá, mắt cá với những màu sắc rực rỡ. -Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới ánh trăng lấp lánh quả là hình ảnh ẩn dụ, độc đáo -“Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe “ là hình ảnh đẹp nhất. Ánh trăng in xuống mặt nước, những con cá quẫy đuôi nư quẫy ánh trăng tan ra, vàng chóe.( Câu ghép) - Vẻ đẹp ở biển khơi càng tráng lệ, càng huyền ảo hơn bởi hình ảnh nhân hóa: “Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long”. “Đêm” được miêu tả như một sinh vật đại dương đang thở. Phải chăng tiếng thở của đêm là tiếng rì rào của sóng. Đây là một hình ảnh đảo ngược, một sáng tạo nghệ thuật của Huy Cận, khiến cảnh thiên nhiên thêm sinh động. 4. Gồm những ý cơ bản sau: - Khi đoàn thuyền ra khơi, “ câu hát” được cất lên, gió thổi căng cánh buồm đưa thuyền rẽ sóng.Tiếng hát lúc này là niềm vui, niềm lạc quan là tâm trạng phán trấn, họ hát thực hiện những ước mơ hồn hậu, mộc mạc, biển lặng, sóng êm, đàn cá đan dệt vào lưới của họ để chuyến ra khơi thắng lợi. - Khi đánh cá trên biển, trong đêm khuya, vũ trụ nghỉ ngơi, họ lại cất cao tiếng hát “ ta hát bài ca gọi cá vào”. Thể hiện khí thế lao động hào hứng, hăng say, là tình yêu lao động của những người dân chài. Với tiếng hát gọi cá vào lưới, hào cùng với nhịp trăng gõ vào mạn thuyền, thể hiện hài hòa, hoạt động nhịp nhàng của con người với thiên nhiên vũ trụ, công việc lao động vất vả trở thành công việc nhẹ nhàng, phơi phới giàu chất thơ. - Câu hát khi thuyền trở về bến, là khúc ca khải hoàn, là niềm vui chiến thắng, là sự thắng lợi mĩ mãn của chuyến ra khơi. ** Đoạn văn tham khảo: Bài thơ “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận được coi là một khúc tráng ca làm nổi bật hình ảnh người lao động mới với niềm tin vào cuộc sống mới. Nhà thơ Huy Cận đã dùng hình ảnh “câu hát” lặp đi lặp lại nhiều lần theo hành trình chuyến ra khơi nhưng mỗi lần lại có nội dung tư tưởng và ý nghĩa khác. Khi đoàn thuyền ra khơi, “ câu hát” được cất lên, gió thổi căng cánh buồm đưa thuyền rẽ sóng.Tiếng hát lúc này là niềm vui, niềm lạc quan là tâm trạng phán trấn, họ hát thực hiện những ước mơ hồn hậu, mộc mạc, biển lặng, sóng êm, đàn cá đan dệt vào lưới của họ để chuyến ra khơi thắng lợi. Khi đánh cá trên biển, trong đêm khuya, vũ trụ nghỉ ngơi, họ lại cất cao tiếng hát “ ta hát bài ca gọi cá vào”. Thể hiện khí thế lao động hào hứng, hăng say, là tình yêu lao động của những người dân chài. Với tiếng hát gọi cá vào lưới, hào cùng với nhịp trăng gõ vào mạn thuyền, thể hiện hài hòa, hoạt động nhịp nhàng của con người với thiên nhiên vũ trụ, công việc lao động vất vả trở thành công việc nhẹ nhàng, phơi phới giàu chất thơ. Khi lao động họ còn cất cao tiếng hát, tri ân biển: “ Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”. Sau một đêm thức trắng, lao động mệt mỏi giữa biển khơi mênh mông, thuyền nào cũng đầy ắp cá, câu hát lại một lần nữa cất lên cùng gió khơi, đưa thuyền trở về bến, là khúc ca khải hoàn, là niềm vui chiến thắng, là sự thắng lợi mĩ mãn của chuyến ra khơi. Như thế tiếng hát của người lao động lặp đi lặp lại một lần nữa khẳng định bài thơ là khúc ca lao động, là tiếng hát trong hồn thơ Huy Cận khi – trời mỗi ngày lại sáng. |
IV. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC NÂNG CAO.
Đề 1 : Trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận chọn tả thời điểm lao động vào ban đêm là có ý nghĩa gì?
Gợi ý trả lời :
Trong bài thơ Quê hương, Tế Hanh chọn chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá là một ngày “ Trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng” còn Huy Cận lại viết về chuyến ra khơi của đoàn thuyền theo hành trình : Hoàng hôn – đêm trăng – bình minh: Việc chọn tả thời điểm lao động như thế nhằm:
- Gợi cho người đọc hình dung về cuộc sống lao động khẩn trương, nhộn nhịp ngày đêm không lúc nào ngừng trong những năm miền Bắc dựng xây chủ nghĩa xã hội.
- Dễ dàng tạo dựng được những hình ảnh đẹp về biển trời rộng lớn vì cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ luôn dạt dào trong thơ ông.
- Ngợi ca sự hòa hợp sóng đôi giữa con người và vũ trụ bao la để tôn vinh những người lao động trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước.
Đề 2 : Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.
1. Mở bài:Cần nêu được:
- Giới thiệu tác giả
- Phong cách sáng tác
- Giới thiệu văn bản.
- Nêu vấn đề nghị luận.
Tham khảo mở bài:
Có lẽ, con người đẹp nhất là khi làm việc, say mê lao động, thực sự hòa mình vào thiên nhiênđất trời, hòa mình vào vũtrụbao la… Huy Cậnđã gửi gắm hồn mình qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” với một tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm! Bài thơ vừa là một bức tranh đẹp đẽ, vừa là khúc ca hào hùng về những người đánh cá trên biển cả bao la – những con người thực sự làm chủ biển trời, làm chủ cuộc đời mới!
2. Thân bài
Luận điểm 1: Đoàn thuyền đánh cá ra khơi và tâm trạng náo nức của người đi biển ( hai khổ đầu)
* Cảnh biển vào đêm : vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người qua những liên tưởng độc đáo.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa
- Chi tiết “ Mặt trời xuống biển” có thể gây ra sự thắc mắc của người đọc, vì bài thơ tả cảnh đoàn thuyền đánh cá ở vùng biển miền Bắc, mà ở biển nước ta, trừ vùng tây nam thường chỉ thấy cảng mặt trời mọc trên biển chứ không thể thấy cảnh mặt trời lặn xuống biển. Ở đây, hình ảnh mặt trời xuống biển là được nhìn từ trên con thuyền đang ra biển hoặc từ một hòn đảo vào lúc hoàng hôn, nhìn về phía tây qua một khoảng biển thì vẫn có thể thấy như mặt trời xuống biển.
- Phép so sánh: “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa”. gợi cảnh tượng tráng lệ khi hoàng hôn rực lên lần cuối phía chân trời. Giữa bốn bề là nước, nhìn về phía tây có cảm giác mặt trời như một hòn than cháy hồng đang lặn xuống biển.
- Nhân hóa : “ sóng đã cài then, đêm sập cửa”, Huy Cận đã có một liên tưởng thật bất ngờ: vũ trụ bao la trở thành ngôi nhà lớn, màn đêm bao phủ là tấm cửa khổng lồ, những lượn sóng lăn qua lăn lại trên đại dương là những then cửa.
* Đoàn thuyển ra khơi và tâm trạng náo nức của con người:
- Hoàng hôn buông xuống, vũ trụ nghỉ ngơi, người lao động lại bắt đầu một chuyến ra khơi. Họ chủ động mở cửa vũ trụ, đi trong biển đêm như đi trong ngôi nhà thân thuộc của mình. Phó từ “ lại” khẳng định công việc đánh cá đêm đã trở thành nhịp sống thân quen.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
- Khí thế phấn chấn, hào hứng, ngập tràn niềm vui, niềm lạc quan của người lao động: “ Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Ba hình ảnh: câu hát, cánh buồm, gió khơi bỗng hòa vào nhau trong một câu thơ thể hiện trí tưởng tượng phong phú, lãng mạn. Người đánh cá năng buồm và cất lên câu hát, nhà thơ có cảm giác như chính câu hát ấy đã làm căng cánh buồm. Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cụ thể cùng với gió biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi.
- Câu hát của người lao động còn mang theo một niềm mong môi tha thiết, vừa hiện thực vừa lãng mạn:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày diệt biển muôn luồng sáng.
Đến diệt lưới ta, đoàn cá ơi!
+ Ngắt nhịp linh hoạt : ba câu thơ dưới ngắt theo nhịp 4/3 cổ điển, câu mở đầu khổ thơ ngắt nhịp phá cách 2/5 tạo âm hưởng vừa trang trọng vừa khỏe khoắn.
+ Hình ảnh so sánh đẹp, độc đáo: từ dáng cá hình thoi, nhà thơ chợt liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là “ đoàn thoi” đang vun vút qua lại. Liên tưởng này lại kéo theo một liên tưởng khác, “ đoàn thoi” cá diệt nên tấm lưới của người dân chài. Tiếng hát thể hiện mong ước hồn hậu của ngư dân: mong ước biển lặng, sóng êm ngợi ca vẻ đẹp và sự giàu có của biển cả và cả mong ước chuyển đi chiến thắng trở về.
Luận điểm 2: Đoàn thuyền đánh cá trên biển và khí thế của người lao động ( bốn khổ giữa).
- Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la, qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn lao, kì vĩ, hòa nhập với kích thước của vũ trụ:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
+Hình ảnh “ thuyền” được đặt trong mối quan hệ hài hòa với thiên nhiên, là trung tâm được vũ trụ, thiên nhienr quây quần trợ giúp: gió là bánh lái, gió lái thuyền đi: trăng là buồm, buồm đầy trăng sáng, thế hiện trí tưởng tượng bay bổng, lãng mạn
+ Động từ “lưới” diễn tả vận tốc rất lớn, sự điêu luyện của tay lái. Đoàn thuyền trinh phục đại dương. Đoàn thuyền chủ động “ Ra đậu dặm xa dò bụng biển”, lập thế trận “ lưới vây giăng”. Người lao động chủ động nắm bắt thiên nhiên bằng trí tuệ, lòng dũng cảm và cả sự quyết tâm làm giàu cho đất nước.
- Công việc lao động của người đánh cá vốn nặng nhọc đã được nhà thơ diễn tả thật hào hứng, khỏe khoắn và lãng mạn.
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
…
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chìm cá nặng.
+ Khí thế lao động mỗi lúc một hăng say, hào hứng. Người lao động cất cao tiếng hát mê say lao động, ngợi ca biển cả với bao ân tình sâu nặng, thiết tha.
+ Thiên nhiên thơ mộng không chỉ là nơi diễn ra công việc lao động mà còn giúp sức lao động cùng con người: sao lùa nước Hạ Long, trăng gõ vào mạn thuyền… cùng người lao đông đuổi cá vào lưới. Hoạt động của con người nhịp nhàng cùng thiên nhiên vũ trụ.
+ Công việc lao động ngày càng khẩn trương. Người lao động biện lên đẹp nhất, khỏe khoắn nhất là giây phút kéo lưới, Thành quả lao động của họ mĩ mãn “ chùm cá nặng” mà mẹ biển đáp đền. Từng khoang thuyền đầy ắp cá “ vẩy bạc đuôi vàng” lấp lánh chào đón ánh bình minh.
- Cảnh biển đẹp lộng lẫy với hình ảnh đàn cá. Có khi đàn cá được miêu tả trong ánh trăng sao:
Cá thu biển Đông như đàn thoi
Đêm ngày diệt biển muôn luồng sáng
…
Cả song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Có khi hiện lên trong ánh bình minh
Vẩy bạc đuôi vàng lóe dạng đông
…
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Hình ảnh đàn cá trên biển có vẻ đẹp của tranh sơn mài lung linh, huyền ảo là biểu tượng cho vẻ đẹp kì thú, tráng kệ về biển cả quê hương. Ở đây, trí tưởng tượng đã nối dài, chắp cánh cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có trong tự nhiên; khiến công việc lao động nặng nhọc trở nên thi vị, đầy niềm vui khi bội thu những mẻ cá lớn.
Luận điểm 3: Đoàn thuyền đánh cá trở về ( khổ cuối).
- Đoàn thuyền đánh cá trở về trong khung cảnh bình minh một ngày mới rự rỡ huy hoàng.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
Đoàn thuyền chạy qua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biểu nhỏ màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
+ Khổ thơ cuối hô ứng với khổ thơ đầu. Đối xứng với cảnh : “ Mặt trời xuống biển như hòn lửa” là cảnh “ Mặt trời đội biển nhô màu mới”, biểu hiện nhịp tuần hoàn của vũ trụ.
+ Lặp lại dòng thơ “ Câu hát căng buồm cùng gió khơi” chủ đổi chữ “ với” thành chữ “ cùng”. Tiếng hát của người dân chài xuất hiện trong toàn bài thơ: từ lúc ra khơi, trong khi đánh cá cho đến lúc trở về. Chữ “ hát” xuất hiện bốn lần trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui, khỏe khoắn của một khúc ca lao động đầy hào hứng, say mê.
Sau một đêm thức trắng giữa biển khơi, đoàn thuyền trở về trong khúc ca khải hoàn thắng lợi vẫn có thiên nhiên bầu bạn bên mình. Người lao động vẫn trong tư thế sáng ngang cùng vũ trụ, làm chủ thiên nhiên vũ trụ trong cách nói khoa trương giàu màu sắc lãng mạn: “ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Hành trình về bến của đoàn thuyền hòa nhập với khí thế đi lên của mặt trời vũ trụ hứa hẹn cuộc sống tươi đẹp đang bắt đầu nở hoa từ trong loa động.
3. Kết bài
- Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ đẹp tráng lệ về biển trời vũ trụ bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú và độc đáo; âm hưởng khỏe khoắn, sôi nổi, hào hùng, lạc quan; cảm hứng hiện thực và lãng mạn hòa hợp đan cài.
- Theo hành trình chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, bài thơ là một khúc tráng ca về lao động, ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ và về thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Từ đó, nhà thơ bộc lộ niềm vui, niềm tự hào, tin tưởng trước đất nước, con người và cuộc sống mới.
- Đề 2: (BÀI LÀM THAM KHAO TT)
- BÀI 1
Đề bài: Cảm nhận về bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận *
Bài làm:
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới .Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”được ông sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sự là một khúc tráng ca, ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới .
Bài thơ là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng: cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui, sự hào hứng trong thời kì miền Bắc bước vào xây dựng cuộc sống mới và cảm hứng vũ trụ vốn là nét nổi bật trong hồn thơ Huy Cận. Sự gặp gỡ, giao hoà của hai nguồn cảm hứng đó đã tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài của bài thơ.
Đoàn thuyền ra khơi được miêu tả trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:
Mặt trời xuống biển như ngọn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Nghệ thuật so sánh và nhân hoá được sử dụng thật độc đáo. Mặt trời được ví như hòn lửa đang lặn dần vào lòng biển. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn, màn đêm xuống mau khép lại ánh sáng như đóng sập cánh cửa khổng lồ mà những lượn sóng là chiếc then cài. Ngày đã khép lại, vũ trụ như đang bước vào trạng thái thư giãn sau một ngày lao động thì chính lúc ấy một ngày lao động mới của người dân đánh cá lại bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Khi vị chủ nhân thứ nhất của thiên nhiên là mặt trời đi ngủ thì vị chủ nhân thứ hai – những người dân chài của cuộc sống mới lại mở cửa đêm để ra biển đánh cá. Công việc của những người dân chài diễn ra như một nhịp sống đều đặn trở thành quen thuộc, nền nếp. Nếu như sức sống của thiên nhiên như ngưng lại thì sự có mặt của đoàn thuyền như nối tiếp nhịp sống đó. Dù đã cài then, sập cửa nhưng biển không chìm trong lạnh lẽo hoang vu mà trái lại biển đang là chứng nhân cho sự làm việc hăng say, không nghỉ của những người lao động:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu thơ xuất hiện ba sự vật khác biệt là câu hát, căng buồm và gió khơi nhưng lại được gắn kết, hoà quyện với nhau. Tiếng hát khoẻ khoắn của cả tập thể hoà với tiếng gió thổi căng buồm đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Câu hát là niềm tin, sự phấn chấn của người lao động. Sự kết hợp của nhịp điệu gấp gáp khẩn trương ở hai câu đầu với cái thanh thoát, đĩnh đạc của nhịp thơ hai câu sau đã vẽ nên bức tranh hào hùng về cảnh đoàn thuyền ra khơi. Khổ thơ còn là sự kết hợp của những liên tưởng táo bạo với những phép tu từ so sánh, nhân hoá đặc sắc đã giúp tác giả thể hiện khúc ca ra khơi hào hùng của người dân chài.
Không chỉ hát khi ra khơi mà những con người lao động luôn cất tiếng hát hoà cùng với công việc của mình. Tiếng hát là mong ước, là niềm tin thu hoạch:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.
Từ con cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong cảm xúc vũ trụ của Huy Cận biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Trong lời hát của người ngư dân, biển thật giàu có:
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nguyên liệu biển dồi dào, chỉ cần một tiếng gọi để thu cá vào lưới. Khổ thơ mang âm hưởng của dòng cảm hứng vũ trụ với sự lãng mạn của tâm hồn đã làm nên những khúc ca hoành tráng của người lao động.
Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên là sức mạnh của cánh buồm, sức mạnh của con người làm chủ biển cả:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển như hẹp lại để con người ra đậu dặm xa, dàn đan thế trận và dò bụng biển để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao dộng như một chiến sĩ.
Hát khi ra khơi, hát cho cuộc hành trình và những người lao động còn hát để ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé.
Các loài cá được kể tên: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đã nói lên sự phong phú, giàu có của biển. Không chỉ, giàu mà biển còn rất đẹp:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Dưới ánh trăng, cá song quẫy mặt nước. Thân cá có khoang màu hồng lấp lánh như ánh sáng chuyển động dưới làn nước biển. Đoạn thơ mang nhiều màu sắc, ánh sáng: ánh sáng đen hồng, lấp lánh của cá song, ánh sáng vàng choé của trăng vỡ trên mặt nước. Những gam sắc ánh sáng hoà cùng bóng tối của màn đêm tạo ra bức tranh sơn mài lóng lánh sắc màu, biển lại như thấy hơi thở:
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Hình ảnh nhân hoá thật độc đáo. Đêm vẫn thư giãn và thuỷ triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em. Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến.
Tiếng hát theo những người dân chài trong suốt cả cuộc hành trình và giờ đây tiếng hát cất lên là để gọi cá vào lưới:
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Người dân gọi cá bằng tiếng hát và trăng tạo ra nhịp gõ. Động tác lao động bình thường: gõ nhịp vào mạn thuyền để dồn cá, qua lăng kính cảm xúc bỗng trở nên đẹp đẽ lạ thường. Trăng lên cao dần từng lúc, trăng tan vào nước biển, vỏ vào mạn thuyền làm nhịp hay con thuyền đang lướt dập dềnh, bồng bềnh giữa biển khơi như chạm vỡ ánh trăng tạo thành nhịp. Công việc đánh bắt cá tư nặng nhọc bỗng trở nên thi vị, lãng mạn. Từ sự giàu đẹp của biển là những suy ngẫm về lòng biển bao dung:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Nhà thơ Huy Cận đã thật tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào. Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà lại trĩu nặng yêu thương.
Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động hăng say là tiếng hát niềm vui thu hoạch:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Đây là chi tiết cụ thể duy nhất về hình ảnh con người hiện ra trong sớm mai trên biển. Hình ảnh những người dân chài như có hình, có khối đó là hình ảnh khoẻ mạnh, đẹp đẽ của con người trong sự làm chủ. Kéo xoăn tay – kéo mạnh, kéo bằng tất cả sức lực, khiến cho các cơ bắp nổi lên cuồn cuộn. Hình ảnh thơ như tạc bức tượng đồng về người ngư dân:
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng – những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng loé rạng đông tạo nên ngày mới, làm cuộc sống đổi thay. Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm đó.
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và ngập tràn ánh sáng:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Câu hát cùng gió khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đây không chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ – những người dân chài đang chạy đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến. Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Cảnh biển một ngày mới được mở rộng đến muôn dặm và ngập tràn ánh sáng. Hình ảnh nhân hoá mặt trời đội biển đi lên mở ra một ngày mới tốt đẹp hơn. Ánh sáng của mặt trời không chỉ mang đến màu của cảnh vật mà còn mang màu mới cho cuộc sống mà những người lao động đang từng ngày, từng giờ cống hiến. Sức tưởng tượng của bút pháp lãng mạn khiến bờ bãi thuyền về trong dòng thơ cuối rực rỡ huy hoàng trong ánh sáng:
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Mắt của ngàn vạn con cá phơi trên bờ biển như cùng hướng về một phía phản chiếu tia sáng bình minh rực sáng muôn dặm dài xa như bờ biển đất nước. Đây là hình ảnh đẹp lung linh, kì ảo, thể hiện thành quả tốt đẹp của người ngư dân sau một đêm lao động vất vả.
Ngợi ca vẻ đẹp hùng tráng và thơ mộng của biển khơi, ngợi ca cuộc sống tưng bừng niềm vui xây dựng, bài thơ thực sự là tiếng hát cất lên từ hồn thơ Huy Cận để dâng tặng cuộc đời. Mang trong mình cả phong vị cổ điển nhưng lại rất hiện đại ở những liên tưởng bất ngờ, cả cảm hứng vũ trụ hoà cùng luồng cảm hứng lãng mạn, bài thơ mở ra một viễn cảnh thật huy hoàng và tràn đầy niềm tin vào một tương lai nhất định nở hoa.
- ************************************
Đề 3. Hình ảnh trăng xuất hiện trong ba bài thơ : Đồng chí của Chính Hữu, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Ánh trăng của Nguyễn Duy. Em hãy phân tích và so sánh hình ảnh trăng trong ba bài thơ đó để làm rõ những nét thống nhất và những nét đặc sắc riêng trong mỗi tác phẩm.
1. Mở bài
- Thơ ca dân tộc viết về trăng.
- Ba bài thơ: Đồng chí của Chính Hữu, Đoàn Thuyền đánh cá của Huy Cận, Ánh trăng của Nguyễn Duy đều nhắc đến vầng trăng thiên nhiên nhưng mỗi nhà thơ lại khai thác vẻ đẹp vầng trăng theo cảm quan riêng để làm nổi bật tư tưởng, chủ đề mỗi tác phẩm.
2. Thân bài
a) Cảm nhận về hình ảnh trăng trong từng bài thơ.
* Hình ảnh trăng trong bài Đồng chí của Chính Hữu.
- Trăng là vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống, của thiên nhiên lãng mạn, là biểu tượng cho cuộc sống hòa bình, là hình ảnh đất nước quê hương.
- Trăng soi sáng cho những người lính trong những đêm phục kích nơi núi rừng hoang vu lạnh giá. Trăng là nhân chứng soi sáng cho tình đồng chí gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu gian khổ. Trăng là đích hướng về của những người lính, họ phục kích trong những đêm nay là để hướng tới vầng trăng hòa bình, để bầu trời mãi có ánh trăng soi:
- Trăng còn là vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ: lạc quan và lãng mạn .bên cạnh những phút giây phục kích, sẵn sàng chờ giặc tới căng thẳng, hồi hộp nhưng tâm hồn các anh lúc nào cũng trong trẻo, tròn đầy.
+ Trăng trong Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận:
- Trăng là hình ảnh của thiên nhiên. Trăng lên khi đoàn thuyền đánh cá ra khơi trăng như cánh buồm chuyên chở và nâng bổng niềm vui hào hứng của những người lao động “ Thuyền ta lái gió với buồm trăng”.
- Trăng là nét vẽ tài tình tinh tế dệt nên biển đêm tráng lệ, rực rỡ sắc màu lóng lánh như bức tranh sơn mài:
Cá nhụ, cá chim cùng cá đẻ,
Cá song lấp lánh đuối đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
- Trăng là bầu bạn giúp đỡ con người, cùng lao động với người để hoạt động của con người nhịp nhàng cùng thiên nhiên, vũ trụ.
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
* Trăng trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:
-Vầng trăng trong hoài niệm:
+ Thời thơ ấu: Trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên Vĩnh hằng, là bầu bạn của tuổi thơ trăng ngập tràn trên cánh đồng, dòng sông, bãi bể … người đi đâu, làm gì cũng có vầng trăng làm bạn. Trăng đã nuôi lớn tâm hồn tuổi ấu thơ của người lính.
+ Khi trưởng thành: Người lính chiến đấu ở rừng sâu, “ vầng trăng thành tri kỉ”. Trăng là ánh sáng trong những đêm tối chiến tranh. Trăng làm bạn với người chân thành, vô tư, tình cảm giữa người với vầng trăng là tri kỉ, là tình nghĩa.
- Vầng trăng hiện tại:
+ Đó là vầng trăng hiện thực: cuộc sống thay đổi, trăng vẫn như xưa, vẫn ngày ngày qua ngõ, vẫn dõi theo người nhưng người đã ngoảnh mặt làm ngỡ, coi trăng như người dưng xa lạ.
+ Là ánh trăng cảm hóa : khiến lòng người xúc động trào dâng: “ có cái gì rừng rưng” ánh trăng đánh thức quá khứ tươi đẹp đã ngủ yên trong lòng người “ từ hồi về thành phố”. Sự bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc của vầng trăng đã có sức cảm hóa lớn khiến người “ giật mình” nhìn lại mình, nhận ra lối sống bạc bẽo, vô tình của mình để sống tốt hơn, tình nghĩa hơn. Ánh trăng là ánh sáng của lương tri, ánh sáng của đạo làm người.
b) Điểm giống nhau và khác nhau
* Điểm giống nhau:
- Đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, thanh bình.
- Đề là người bạn tri kỉ với con người trong lao động, trong chiến đấu và trong sinh hoạt hằng ngày.
- Đều mang ý nghĩa tả thực và biểu tượng, thể hiện cách cảm nhận của tác giả về con người, cuộc sống và đất nước.
* Điểm khác nhau:
- Trăng trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ hiện lên chốc lát nhưng vầng trăng trong ánh trăng lại gắn bó với một đời người trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
- Nếu như vầng trăng trong Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá chỉ soi vào phần tươi đẹp cuộc sống con người, vào chính diện của cuộc đờim thì Ánh trăng lại soi rọi vào góc khuất tâm hồn của con người để thức tỉnh lương tri, giúp người ta biết sống ân nghĩa,thủy chung.
- Bút pháp miêu tả :
+ Trăng trong Đoàn thuyền đánh cá được thể hiện chủ yếu bằng cảm hứng lãng mạn gắn liền với cảm hứng vũ trụ thường thấy trong thơ Huy Cận kết hợp bút pháp phóng đại góp phần tạo ra bức tranh kì vĩ tráng lệ, ca ngợi sự giàu đẹp của quê hương, đất nước.
+ Trăng trong Đồng chí của Chính Hữu có sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn góp phần thể hiện nét đẹp tâm hồn của người lính.
+ Trăng trong Ánh trăng của Nguyễn Duy thể hiện bằng ngòi bút hướng nội với những suy tư của con người đương đại về cách sống, cách ứng xử của con người. Từ ánh trăng mà gợi ra nhiều chiêm nghiệm mamg tính triết lý.
3. Kết bài
Với sự sáng tạo tài tinh của ba nhà thơ, hình ảnh trăng trong ba tác phẩm thật sự là hình ảnh đẹp, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào, sâu lắng.
V. DẠNG ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ
ĐỀ BÀI: Viết đọan văn ngắn Suy nghĩ về tình yêu lao động
1.Mở đoạn: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận, ý nghĩa của lao động và yêu thích lao động.
2. Thân đoạn:
a. Giải thích khái niệm:
- Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người.
- Yêu thích lao động là luôn mong muốn được làm việc hết mình để góp phần tạo ra các sản phẩm phục vụ con người: “lao động là đôi cánh của ước mơ, là cội nguồn của niềm vui và sáng tạo” (Mác-xim Groki).
b. Biểu hiện:
- Người yêu lao động trong văn học, thơ ca và cuộc sống thực tế (lấy dẫn chứng).
- Biểu hiện của những kẻ lười lao động là vừa thấy khó khăn mệt mỏi đã vội bỏ cuộc.
c.Ý nghĩa
- Lao động là biến mơ ước của con người thành hiện thực: Chỉ có lao động mới giúp con người thực hiện được mơ ước, đem lại niềm vui, thúc đẩy con người sáng tạo.
- Điều tốt đẹp trong cuộc sống không tự dưng mà có, không ai đem cho mà bản thân mỗi con người phải tự làm ra, tự lao động để có.
- Lao động là cơ sở để con người tồn tại, phát triển, đi từ tiến bộ này đến tiến bộ khác.
- Lao động tạo ra giá trị vật chất và tinh thần phục vụ cho đời sống con người.
- Lao động đem lại niềm vui, khơi dậy những sáng tạo, thúc đẩy cuộc sống, xã hội phát triển
- Lao động giúp con người làm chủ bản thân, thực hiện trách nhiệm, bổn phận với gia đình, đóng góp xây dựng xã hội.
- Lao động giúp con người thực sự sống tự do.
d.Phê phán lối sống lười biếng, dựa dẫm, ăn sẵn
3. Kết đoạn: khẳng định tầm quan trọng của tình yêu lao động, liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức
+ Mỗi người không ngừng phấn đấu, rèn luyện để trở thành người lao động chân chính, có ích, người lao động giỏi trong tương lai.
+ Cần có quan điểm lao động mới, có thái độ lao động tự giác, có kĩ thuật, có kỉ luật và đạt năng suất cao.
+ Chống lại thái độ lười biếng lao động, ỷ lại, không sáng tạo,…
Đề : Ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Bài làm:
Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ của đất nước ta, qua nghìn năm nó luôn gắn bó với đời sống của cư dân nước Việt cả về vật chất lẫn tinh thần nên ta phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo. Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của nhân dân. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học được công bố thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục. Biển nước ta có nguồn tài nguyên tiềm tàng và nhiều loại khoáng sản như than, sắt, cát thuỷ tinh,… Đây còn là nguồn cung cấp hải sản lớn cho ngư dân của nước ta suốt bao nhiều đời, là nơi nương tựa và không gian sinh tồn của dân tộc. “Chủ quyền” là có quyền lực độc lập đối với một khu địa lí nên “bảo vệ chủ quyền biển đảo” là quyền lãnh thổ hợp pháp của đất nước ta ở biển. Vùng biển và ven biển của nước ta nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch có giá trị như những cánh cửa mở ra để chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Biển Đông còn là vị trí đặc biệt quan trọng về quân sự, biên giới phía Đông nơi có đường tiếp cận, bàn đạp tấn công của các thế lực xâm lược. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của biển. Những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm phạm đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam, làm cho tình hình biển Đông ngày càng thêm phức tạp. Cho nên, để bảo vệ chủ quyền biển đảo thì các thanh niên trước hết phải xác định giữ biển đảo bằng tri thức về chủ quyền dân tộc. Muốn vậy, học sinh cần cố gắng trong học tập, tiếp thu tri thức, nắm vững kiến thức lịch sử nói chung và kiến thức về biển đảo nói riêng. Ta phải nhận thức rõ về ý nghĩa thiêng liêng và giá trị to lớn mà cha ông ta đã đổ máu để xây dựng để từ đó tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh việc tiếp thu kiến thức, học sinh cũng cần rèn luyện kĩ nâng và những phẩm chất tốt đẹp với định hướng của lòng yêu nước để phấn đấu trở thành một người sống có ích xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
***************************************************************
CHUYÊN ĐỀ 8:VĂN BẢN: BẾP LỬA
(Bằng Việt)
CẤU TRÚC BÀI THƠ BẾP LỬA
Bếp lửa có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất của đời thơ Bằng Việt, một trong những bài thơ “đi cùng năm tháng” với nhiều thế hệ người Việt, nhất là những ai trải qua quãng đời thơ ấu ở với bà của tác giả. Điều gì làm nên một Bếp lửa đánh thức trong tâm hồn bạn đọc những kí ức tuổi thơ bên cạnh người thân ruột thịt như thế? Là cảm xúc chân thành của tác giả, là hình tượng bếp lửa, là hình ảnh người bà cứ trở đi trở lại trong bài? Tất cả đều đúng, và theo ý kiến chủ quan của tôi, cái hay, cái độc đáo của Bếp lửa còn được làm nên từ cấu trúc bài thơ: Cấu trúc kể chuyện.
Cấu trúc kể chuyện (hay truyện kể) là dạng cấu trúc khá quen thuộc trong thơ ca. Một bài thơ theo cấu trúc này có cốt truyện rành mạch, rõ ràng được thể hiện bằng những câu thơ. Cấu trúc này thường được dùng nhiều với thể lục bát mà Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Đồ Chiểu là những minh chứng điển hình. Bếp lửa dù viết bằng thể thơ tự do nhưng cũng tuân theo cấu trúc kể trên. Tuy nhiên Bếp lửa có những nét độc đáo riêng so với các tác phẩm cùng chung kết cấu.
Thứ nhất, Bếp lửa là bài thơ có dung lượng ngắn. Đây là điều khá lạ so với một bài thơ có cấu trúc dạng này. Truyện Kiều gồm 3254 câu, Lục Vân Tiên có tổng cộng 2082 câu, một tác phẩm thuộc thơ ca hiện đại như Núi Đôi của Vũ Cao cũng có tới 64 câu…còn Bếp lửa chỉ gồn có 41 câu thơ. Chính dung lượng ngắn này đã quy định những đặc trưng của tác phẩm. Bộ môn Lí luận văn học đã chỉ rõ một tác phẩm có cốt truyện thông thường sẽ bao gồm tình tiết, chi tiết và biến cố. Nhiều tình tiết hợp lại thành chi tiết, nhiều chi tiết hợp lại thành biến cố. Những tác phẩm như Truyện Kiều hay Lục Vân Tiên do có dung lượng lớn nên bao gồm đầy đủ các thành phần trên. Bếp lửa với vẻn vẹn 41 câu nên buôc phải theo hướng tinh gọn, nghĩa là bỏ qua tình tiết, chi tiết mà chỉ gồm những biến cố chính trong cuộc đời tác giả. Bài thơ được bắt bằng hình ảnh Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, rồi từ đó điểm qua các sự kiện quan trọng ghi dấu ấn không thể nào quên của Bằng Việt. Đó là khi gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn: đói mòn đói mỏi / Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy, đó là tám năm trời đằng đẵng cháu cùng bà nhóm lửa, là câu chuyện về Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, là những hạnh phúc trong nghèo khổ và yêu thương khi được ở bên bà… Cứ thế mạch thơ kéo dài đến việc nhà thơ đang hiện thực hóa “giấc mơ có thật” của mình: Sinh sống và học tập ở Nga
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
Có thể nói bằng việc tập trung khắc họa những biến cố “đắt giá”, thấm thía nhất, gạt bỏ những “chi tiết bình thường” trong độ tuổi “Chăn trâu đốt lửa ngoài đồng”, Bằng Việt đã lay động đến con tim của hàng triệu bạn đọc.
Thứ hai, trong cấu trúc kể chuyện ở tác phẩm thơ, đa phần thời gian sẽ tuân thủ theo trật tự tuyến tính. Thời gian trong Bếp lửa của Bằng Việt về cơ bản cũng như thế. Bắt đầu từ khi tác giả còn là chú bé chập chững “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, trải qua những năm tháng đằng đẵng để đến lúc trưởng thành có thể “đi xa”. Tuy nhiên, thời gian trong Bếp lửa thú vị ở chỗ đó là sự tuyến tính trong cái nhìn là hồi cố. Hồi cố là từ điểm nhìn hiện tại hướng về quá khứ, chiêm nghiệm quá khứ. Bằng Việt sáng tác Bếp lửa vào năm 1963, khi nhà thơ đang theo học ở xứ sở bạch dương, nhớ về những năm tháng “rạ rơm thì ít, gió đông thì nhiều” của mình. Mạch thơ từ khổ đầu đến khổ thứ bảy tuẫn theo nguyên tắc sự việc xảy ra trước miêu tả trước, sự việc xảy ra sau miêu tả sau. Chỉ đến khổ cuối cùng khi tác giả mới “tiết lộ” cụ thể thời điểm sáng tác thì kết cấu thời gian hồi cố mới hoàn toàn lộ diện. Từ điểm nhìn hiện tại, nhà thơ buông cảm xúc trôi theo dòng quá khứ. Nhưng đó là một quá khứ có “trình tự, lớp lang” chứ không không phải một quá khứ hỗn độn “nhớ gì kể nấy”.
Điều này giúp bạn đọc dễ nắm bắt được mạch cảm xúc, mạch câu chuyện và cũng… dễ thuộc hơn.
Thứ ba, ở cấu trúc truyện kể thông thường mỗi lần thời gian xê dịch sẽ kéo theo sự dịch chuyển không gian và ngược lại. Dù cũng thay đổi vài lần (cánh đồng xa, Huế, nước Nga) song về cơ bản không gian chủ đạo trong Bếp lửa vẫn giữ nguyên – căn bếp với ánh lửa bập bùng “ấp iu nồng đượm”. Sự phi đối xứng giữa hai yếu tố quan trọng này chỉ nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của không gian bếp lửa, nơi nuôi dưỡng tuổi ấu thơ của tác giả. Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại đóng vai trò “người kết nối” các yếu tố trong thi phẩm lại với nhau. Không gian bếp lửa đã trở thành một “ nhân vật” đúng nghĩa trong tác phẩm.
Dù có dung lượng ngắn, nhưng Bằng Việt đã lựa chọn (một cách vô thức) cấu trúc truyện kể cho đứa con tinh thần của mình. Cùng với sự thăng hoa của cảm xúc, lựa chọn này đã đem đến cho tác giả thành tựu lớn nhưng không bất ngờ trong sự nghiệp.
BẾP LỬA – VẺ ĐẸP LẶNG THẦM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM
Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Hình ảnh có tính song đôi này được hiện lên thật sống động, rõ ràng, như thể nét khắc nét chạm vậy. Khi viết bài thơ này, tác giả đang là sinh viên theo học ở nước ngoài. Không gian xa cách. Bên này nỗi nhớ thương là người bà và bên kia là cháu. Nỗi nhớ gọi về kỉ niệm. Trong vô vàn những kỉ niệm không đầu không cuối hiện về, có lẽ kỉ niệm ám ảnh nhất là hình dáng người bà và bếp lửa bà nhóm lên mỗi sớm mỗi chiều. Và cứ thế, như một thôi thúc tự nhiên, kỉ niệm và nỗi nhớ ấy bật lên thành các chữ: “Một bếp lửa…Một bếp lửa…Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Mở đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện ngay lập tức và được điệp lặp lại. Và thế từ đây, hình ảnh bếp lửa với sức ấm và ánh sáng của nó quán xuyến, lan tỏa toàn bài. Tựa như bếp lửa, nỗi nhớ của cháu đối với bà cũng ấm nóng da diết, thấm thía trong từng câu chữ.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả mọi ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thời quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất mực cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh kí ức hiện về. Bà, bếp lửa, tuôi thơ của cháu trong những năm nạn đói và trong những năm giặc giã. Bà, bếp lửa trong kí ức của chính bà. Và cuối cùng là bà, bếp lửa của thì hiện tại, của hôm nay. Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chập chờn mang màu cổ tích…
Khổ thơ thứ hai nhắc đến nạn đói năm bốn nhăm, trước ngày cả nước giành chính quyền, người chết đói thê thảm khắp nơi. Cái mùi khói, khói hun trong khổ thơ có sức gợi rất nhiều, nhắc người đọc nhớ đến cảnh hun khói xua đuổi mùi tử khí được miêu tả trong thiên truyện Vợ nhặt nổi tiếng của Kim Lân. Ông viết: “Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”. Nhà thơ Bằng Việt chỉ với chi tiết rất tiêu biểu này đã gợi ra được một quá khứ tang thương, đầy những thảm cảnh gắn liền với những thân phận trong đó có người bà, người bố. Tình cảm của nhà thơ mang bao nỗi ngậm ngùi, xót xa.
Cũng có thể hình dung hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng nhà thơ tựa như những thước phim đang chạy, làm hiện lên những khung cảnh quá khứ đầy cảm động. Đây là hình ảnh người bà: “Tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng xa…bà hay kể truyện những ngày ở Huế”. Đến đây, hình ảnh người bà và bếp lửa gắn liền với tiếng kêu khắc khoải của loài chim tu hú. Tiếng kêu của loài chim này trong truyền thống văn học của ta thường gợi nhắc đến những nhớ nhung, xa cách, trông ngóng mòn mỏi… Đó là những âm thanh mang một sắc điệu buồn. có thể bên bếp lửa, bà bỗng nhớ về những vui buồn thời con gái. Hình ảnh tiếng chim tu hú còn được nhắc lại ở cuối khổ tiếp theo. Phải nói rằng, sự có mặt của tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỉ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình, và nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm, vời vợi. Câu thơ “Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” như treo lên một nỗi khắc khoải khôn nguôi.
Khổ thơ tiếp theo với hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm giặc giã. Bố mẹ ở chiến khu. Lời người bà dặn cháu thật nôm na, nhưng chân thực và cảm động; “Bố ở chiến khu bố con việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ”. Gian khổ, thiếu thốn, nhớ nhung đều phải giấu đi cho người ở xa được yên lòng. Tấm lòng của người bà thương con thương cháu, ân cần, chu đáo xiết bao.
Nếu từ đây hắt trở lên là hình ảnh bếp lửa, thì những câu thơ cuối của khổ thơ này, đã chuyển đổi cách gọi thành ngọn lửa. Và như vậy, từ bếp lửa trong sự tả thực, cụ thể, đến đây đã trở thành ngọn lửa trong ý nghĩa tượng trung, khái quát. Bếp lửa với những ấm áp, tâm tình bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống con người. Nhà thơ đã khái quát vẻ đẹp ngọn lửa là một vẻ đẹp “kì lạ và thiêng liêng”. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng,trường tồn. Kết thúc bài thơ, hình ảnh người bà và ngọn lửa được kết lại trong một câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Đó là một nỗi nhớ đau đáu, da diết, thường trực. Trong mọi trường hợp, người đàn bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với những gì thường nhật, thân thiết nhất. Họ giữ cho nhịp sống của tổ ấm được duy trì. Họ là nơi cuối cùng để cho người ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi ấy, ẩn dấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ như những lán áng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm can người đọc.
Nếu ai đã đọc Đaghexxtan của tôi của nhà văn Raxun Gamdatốp, hẳn còn nhớ trong một thiên tuyệt bút với nhan đề Cha và mẹ, lửa và nước có nói về người mẹ dân tộc Avar trong cuộc đời chỉ có ba việc diễn ra đều đặn, nhưng bao giờ cũng khoan thai, chậm rãi, cẩn trọng, tựa hồ như những gì cần thiết và quý giá nhất, đó là: đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Toàn bộ ý nghĩa cuộc sống của người đàn bà này chỉ ở trong ba việc thường nhật mà trọng đại đó. Ba công việc ấy vừa cổ sơ, nguyên thủy vừa bền bỉ vĩnh hằng. Người đàn bà ấy đã sinh thành, nhen nhóm và duy trì sự sống. Thế thì người bà trong Bếp lửa đã nuôi con nuôi cháu, đã đi qua đói khát và giặc giã, đã cho con đi kháng chiến vì nước vì dân, đã âm thầm trụ lại nhà giữ mảnh đất truyền đời tổ tiên để lại, đã âm thầm chờ đợi và hi vọng… đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người đó sao? Bà là người phụ nữ Việt Nam, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi!...
BẾP LỬA CỦA TÌNH ĐỜI
Nhớ về tuổi thơ của mình, nhà thơ xứ Đaghextan, Raxun Gamzatôp đã nhớ đến người mẹ thân yêu với những việc làm trở đi trở lại trong mỗi ngày vào sáng sớm, hay ban trưa và buổi tuối, suốt cả bốn mùa xuân – hạ - thu - đông. Đó là : đi lấy nước, đưa nôi và nhóm lửa. Nhóm lửa, đi lấy nước, đưa nôi. Đưa nôi, nhóm lửa và đi lấy nước. Bà đã làm những việc ấy như nhen nhóm, gìn giữ và nâng niu những gì quý giá nhất của đời mình.
Do hoàn cảnh riêng, những năm tháng tuổi thơ, Bằng Việt cũng chỉ sống với bà. Trong nỗi nhớ của nhà thơ, bà bao giờ cũng hiện lên cùng bếp lửa. Bởi mỗi ngày của tuổi thơ lận đận đều bắt đầu từ ngọn lửa bà nhen. Bên bếp lửa ấy, bà đã bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Sự sống của cháu đã được nhen lên và ấp iu cùng ngọn lửa ấy. Thì ra thế, ở đất nước nào ngọn lửa cũng là cội nguồn của sự sống, bếp lửa nào cũng nhọc nhằn, tần tảo, bếp lửa nào cũng nồng đượm, ấp iu.
Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa!
Đó là lời thốt lên từ niềm trân trọng, biết ơn, cũng là lời thốt lên khi chợt nhận ra trong một vật đơn sơ thế lại ẩn náu bao điều kì diệu đến thế.
Bếp lửa là lời tâm tình của đứa cháu hiếu thảo đang ở nơi xa gửi về người bà thân yêu ở quê nhà. Lời tâm tình được dệt bằng biết bao kỉ niệm tuổi thơ, mỗi kỉ niệm được bao bọc trong một nỗi nhớ thương vừa dâng trào vừa sâu lắng. Cả bài thơ là một dòng tâm trạng, một dòng hồi ức. Mặc dù tác giả đã có ý sắp xếp theo trật tự thời gian nhưng toàn bài vẫn cứ là một dòng chảy tự nhiên xáo động. Những thương nhớ cứ xô đẩy trật tự sắp đặt, cảm xúc cứ giành lấy quyền dẫn dắt ý tứ. Cho nên các khổ thơ, đoạn thơ dài ngắn không đều. Giọng điệu bài thơ là sự hoà điệu giữa hai sắc điệu : kể lể (tự sự) nắm vai trò tổ chức chung đối với toàn bài, và cảm thương (trữ tình) thấm đượm vào mỗi kỉ niệm, mỗi đoạn thơ. Nhưng đọc toàn bài, thấy sắc thái cảm thương, nhớ nhung da diết cứ muốn trào dâng, lấn át tất cả. Mạch tự sự kể lể mờ đi, lẩn mình vào mạch cảm xúc.
Trước hết hãy nói đến mạch chuyện, mạch kể. Kể bao giờ cũng nhằm tái hiện lại sự việc. Các sự việc được kể tiếp nối thành một chuỗi, tạo thành mạch chuyện nào đó trong bài thơ. Bằng Việt kể không nhiều, nhưng khá rành rọt. Nhớ từng thời điểm, rành rõ từng quãng thời gian, từng cảnh ngộ gia đình trong những biến động chung của cuộc đời, của đất nước: Lên bốn tuổi, Tám năm ròng, Năm giặc đốt làng, Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ, rồi thì Giờ cháu đã đi xa…. Lần theo những mốc thời gian ấy, các sự kiện được kể dù tản mạn nhưng cứ chắp nối và tạo thành một một cái cốt chung cho cuộc chuyện trò với bà trong tâm tưởng. Nhưng những sự việc sống trong nỗi nhớ bao giờ cũng được bao bọc bởi tâm tình. Huống chi đây lại là những sự việc thuộc về quãng ngọn nguồn của đời người. Vì thế mỗi một kỉ niệm thức dậy là biết bao tâm tình sống dậy. Cứ thế, theo với mạch sự việc, mạch tâm tình cũng hiển hiện và dâng trào. Thiếu một tâm tình sâu nặng, thì các sự việc thời thơ ấu gian khổ có được tái hiện kĩ đến mấy, cũng khó mà thành thơ.
Ngần ấy sự việc suốt mấy chục năm đó chỉ xoay quanh hình ảnh bếp lửa của bà. Lửa là ánh sáng, lửa là hơi ấm. Bếp lửa lặng thầm nuôi dưỡng mọi gia đình, nuôi dưỡng cả sự sống này. Nép mình trong góc nhà, xó bếp, còn gì mộc mạc khiêm nhường hơn bếp lửa? Nhưng cũng có gì cao quý thiêng liêng hơn? Suốt ngày, suốt tháng, suốt năm, bếp lửa cứ lụi cụi, hi sinh, tần tảo. Cho nên, nhớ về bếp lửa là nhớ về bà. Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ ba câu. Thì đó chính là sự gắn bó tự nhiên kì lạ giữa hai hình ảnh thân thương:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết máy nắng mưa.
Ngọn lửa chờn vờn sương sớm là ngọn lửa thực trong lòng bếp bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa ấp iu nồng đượm đã là ngọn lửa của lòng bà chăm sóc, cưu mang. Theo trình tự thơ, ngọn lửa cứ chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tỏ dần, tỏ dần: bên bếp lửa là dáng hình bà qua nắng mưa, qua năm tháng.
Kể từ đó, hình ảnh bếp lửa cứ cháy trong những kỉ niệm của tình bà cháu. Qua những năm tháng đói khổ. Qua những năm tháng chiến tranh. Cháu bắt đầu biết nhớ mùi khói là khi lên bốn. Thì đó cũng là năm đói kém (1945). “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cố bươn bả đưa gia đình qua khỏi thì đói kém, nhưng vẫn cứ chìm đi. Trong kí ức chỉ còn lưu lại những gì khốn khổ thương tâm: đói mòn, đói mỏi, khô rạc ngựa gầy, khói hun nhèm mắt cháu… Bởi thế mùi khói từ những năm đầu đời qua mấy chục năm ròng, vẫn cứ còn nguyên trong kí ức, chẳng thể tiêu tan:"Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!" Mùi khói của quá khứ làm cay sống mũi hiện tại? Hay là nhớ thương từ hiện tại đã làm sống dậy ngọn khói từng hun nhèm mắt cháu của mấy chục năm xưa? Trong khoảnh khắc ấy, hồi ức hoài niệm của con người đã xoá đi cái khoảng cách thời gian mấy chục năm trời.
Trong những năm tháng ấy, bên cạnh bà cháu, bên cạnh bếp lửa còn có một nhân vật nữa, giờ đây nhớ lại cháu cũng chẳng hề quên: ấy là chim tu hú – “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Tiếng chim gợi lên cái không gian mênh mông mà buồn vắng. Tiếng tu hú nhắc cảnh mùa màng sao trớ trêu trong những ngày đói kém. Tiếng chim tu hú lạc lõng chơ vơ côi cút như khát khao được che chở, ấp iu. Đứa cháu được sống trong sự săn sóc ấm áp của tình bà đã chạnh lòng thương con tu hú bé bỏng, thiệt thòi:
"Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?"
Thương con chim tu hú bất hạnh bao nhiêu là biết ơn những ngày hạnh phúc được bà đùm bọc, chi chút bấy nhiêu. Nếu chim tu hú đáng thương là cảnh ngộ tương phản với đứa cháu được yêu thương, thì bếp lửa ân cần, ấm cúng, nhẫn nại của bà lại tương phản với ngọn lửa thiêu huỷ dã man của bọn giặc.
Một ngọn lửa thù địch với sự sống:
"Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi"
Một ngọn lửa nhen lên sự sống:
"Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng".
Bà đã chịu đựng tất cả nhọc nhằn, mất mát, hi sinh. Bà đã góp gom, ấp ủ, chắt chiu, nhen nhóm. Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man của bọn giặc, kì lạ thay, lại đang hồi sinh trong ngọn lửa của lòng bà !
Cứ thế cuộc đời cháu được chở che ân cần qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được gìn giữ, nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia ! Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ biết ơn, vừa suy tư. Đến đây nhà thơ mới đúc kết về sự kì lạ và linh thiêng bếp lửa của bà :
"Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa !"
Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến ngọn khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Cháu đã đi ra với đất rộng trời cao, đến với những chân trời hạnh phúc. Nhưng trong lòng cháu vẫn chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, chỉ nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên bếp lửa, bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ ngọn lửa ấy:
"Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
Lời nhắc ấy là lời nhắc của ngọn lửa mà cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà ! Thế là ngọn lửa của bà giờ đây đã cháy trong lòng cháu ! Một bếp lửa mới của cuộc đời đã được nhen lên ! Cứ thế, ngọn lửa của sự sống truyền đời, bất diệt !
Vậy là, nhìn vào hình tượng thơ, có thể thấy một cấu trúc tinh vi và sống động. Cặp hình tượng căn bản là Cháu – Bà, trong đó Bà là trung tâm. Nhưng để làm nổi bật ấn tượng sâu nặng về bà, thi sĩ còn khai triển một tương quan đa dạng với nhiều hình tượng khác. Trầm tư trước mỗi tương quan ấy, lòng thi sĩ lại sống dậy một niềm thương cảm. Thế giới trữ tình của thi phẩm lại được làm giàu lên. Cứ thế, tiếng nói tâm tình càng lúc càng được mở rộng thêm, sâu nặng hơn, lan xa mãi.
Bếp lửa là bài thơ cảm động! Tình cảm dào dạt trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp. Ấy là giọng nồng đượm của lửa. Ấy là nhịp bập bùng của lửa! Giọng kể lể và bộc bạch cứ tràn ra, cứ dâng lên, mỗi lúc một nồng nàn, ấm nóng. Đâu phải ngẫu nhiên bài thơ bắt đầu bằng một đoạn ba câu, rồi càng những đoạn sau, số câu trong từng đoạn cứ nhiều lên mãi. Khi số lượng không nhiều, thì giọng thơ lại như cuồn cuộn lên. Lối trùng điệp được sử dụng hết sức biến hoá. Những kiểu câu lặp lại, những vế câu láy lại, những lời nhấn nhá thật nhiều. Tất cả phối hợp với nhau góp phần tạo nên sự dạt dào xáo động của tâm tình, tất cả góp mình tạo nên cái nhịp chờn vờn, bập bùng dai dẳng của ngọn lửa. Này là “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm, Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”, “ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”, “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm, Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi, Nhóm nồi xôi gạo mới thổi chung vui. Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”. Này là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa… Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa". Này là: “Bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Có ngọn khói trăm tàu. Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”. Vì lối viết như vậy mà người đọc bị cuốn vào một âm điệu thật đặc biệt. Đọc Bếp lửa chẳng những thấy được một dòng tâm tư sâu nặng dạt dào của một đứa cháu nghĩa tình hiếu thảo mà còn như thấy rõ ngọn lửa cứ chờn vờn, bập bùng suốt cả âm điệu nồng hậu của bài thơ. Đọc bài thơ này, nhìn lại bếp lửa thân quen trong góc bếp nhà mình, hẳn cái nhìn của chúng ta cũng chẳng thể còn như trước.
*************************************************
I, Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả: | - Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng – sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. - Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. - Hiện nay ông là chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội. - Phong cách sáng tác : Thơ Bằng Việt mang giọng điệu thủ thỉ, tâm tình ; ngôn ngữ điềm đạm ; cấu tứ mạch lạc và hệ thống thi ảnh đặc sắc. |
2. Văn bản | a) Hoàn cảnh sáng tác: - Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài. - Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. |
b) Mạch cảm xúc và bố cục: * Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà. Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với sự chăm sóc, lo toan, vât vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỷ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm. * Bố cục: 4 phần. - Khổ đầu: hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà. - 4 khổ tiếp: những kỷ niệm ấu thơ, hình ảnh bà và bếp lửa. - Khổ 6: những suy nghĩ của tác giả về bà và hình ảnh cuộc đời bà. - Khổ cuối: nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa. | |
c) Giá trị nội dung và nghệ thuật: * Nội dung: qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước. * Nghệ thuật: bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu. | |
d) Ý nghĩa nhan đề : « Bếp lửa » là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng : - Trước hết, đây là một bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình của người Việt. Đồng thời, nó là hình ảnh gắn với kỉ niệm ấu thơ về một người bà cụ thể, có thật của tác giả. - Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa : + Bếp lửa gợi lên sự tần tảo, chăm sóc, yêu thương cảu người bà dành cho người cháu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh để trưởng thành và khôn lớn. + Bếp lửa gợi lên bao vất vả, cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin và hi vọng cho cháu vào một tương lai phía trước. + Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn… đã nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. |
II, Đọc- hiểu văn bản
1, Hình ảnh bếp lửa – nơi bắt đầu nỗi nhớ( Khổ thơ đầu) | Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa. Để rồi, từ hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỉ niệm về bà thức dậy và được tái hiện: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” - Trước hết, đó là hính ảnh bếp lửa tả thực, nhỏ bé, gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình tự bao giờ. - Hình ảnh ẩn dụ “ấp iu nồng đượm” : + Gợi đến bàn tay cần mẫn, khéo léo, chính xác của người nhóm lửa. + Gợi tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. -Từ “bếp lửa” được điệp lại hai lần: + Gợi bóng dáng của người bà, người mẹ tần tảo, thức khuya dậy sớm chăm sóc cho chồng, cho con. + Diễn tả dòng cảm xúc dâng tràn ùa về kí ức - Từ láy “chờn vờn”: + Miêu tả bếp lửa với ngọn lửa bốc cao, bập bùng, tỏa sáng, ẩn hiện giữa màn sương sớm + Bếp lửa ấy mờ tỏa, chờn vờn trong kí ức về những năm tháng tuổi thơ được sống bên bà của nhà thơ Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy dòng cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong người cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” - Bộc lộ sự thấu hiểu đến tận cùng của sự vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà - Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, diễn tả cảm xúc đến rất tự nhiên và lan tỏa tâm hồn người cháu => Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm xúc để những dòng hồi tưởng, kí ức đó ùa về khiến người cháu không khỏi xúc động |
2, Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa | a, Những kỉ niệm hồi lên 4 tuổi Đó là kỉ niệm tuổi thơ với những năm tháng gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn: “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” - Thành ngữ “đói mòn đói mỏi”: + Miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: Năm 1945, do chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói + Câu thơ trĩu xuống, khiến lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy. - Hình ảnh “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” phần nào diễn tả hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của người cha phải bươn chải kiếm sống đủ nghề. - Hình ảnh “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” là những hình ảnh đậm chất hiện thực, đặc tả được sự xơ xác, tiều tụy của những con người trong cuộc mưu sinh. Trong những năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa: “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay” - Khói bếp của bà chẳng làm no lòng cháu nhưng đã lưu giữ một kỉ niệm sống mãi không nguôi: mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. - Tác giả nhắc đi nhắc lại từ: “mùi khói”, “khói hun” gợi một sự ám ảnh về một thời gian khó đã đi qua. - Cảm giác cay cay vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động của người cháu như hòa quyện, quá khứ và hiện tại như đồng hiện trên từng dòng thơ. =>Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả. Để rồi khi đã đi xa, ông không khỏi xúc động mỗi khi nghĩ về bà và những kỉ niệm bên bà. |
b, Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi: * Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà: “Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” - Gợi khoảng thời gian tám năm ròng cháu được sự yêu thương, che chở, bao bọc của bà - Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương. - Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà *Đó là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình ảnh tâm tình với chim tu hú: “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa Tu hú kêu bà còn nhớ không bà? Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!” - Tiếng chim tu hú – âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chin vàng đồng, vải chín đỏ cành. - Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì tha thiết lắm, khiến lòng người trỗi dạy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương: + Về tám năm kháng chiến chống Pháp “mẹ cùng cha công tác bận không về” bà vừa là cha, vừa là mẹ. + Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa, được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà: “Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học” Các động từ: “bảo, dạy, chăm” đã diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu nhỏ. Các từ “bà” – “cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau như gợi tả tình bà cháu quấn quýt, yêu thương. -> Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. * Tình yêu sự kính trọng bà của người cháu được thể hiện thật chân thành, sâu sắc qua câu thơ: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” - Hình ảnh con chim tu hú xuất hiện ở cuối khổ thơ với câu hỏi tu từ là một sự sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà: “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” + Gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút ngao ngán được ấp ủ, che chở. + Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả lại biết ơn những ngày được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu. -> Trong khi hồi tưởng về quá khứ, người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng | |
c, Những kỉ niệm thời bom đạn chiến tranh Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc, người bà càng sáng lên nhiều phẩm chất đẹp: “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh” - Hình ảnh “cháy tàn cháy rụi” gợi sự tàn phá, hủy diệt khủng khiếp của chiến tranh. - Trước hiện thực khó khăn, ác liệt ấy, bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường không kêu ca, phàn nàn. Điều đó được thể hiện qua lời dặn dò của bà đối với cháu: “Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: Bố ở chiến khu, bố còn việc bố Mày viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên!” + Bà đã gồng mình, lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác + Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là điểm tựa vững chắc cho tiền tuyến. -> Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh. | |
3, Những suy ngẫm về bà và bếp lửa | Từ những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà, nhận được sự yêu thương, đùm bọc của bà bên bếp lửa quê hương, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà và bếp lửa. a) Những suy ngẫm về bà và bếp lưả Trong bài thơ, trên dưới mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Và đến đây, tác giả đã dành một khổ thơ để nói lên những suy ngẫm về bếp lửa: “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngon lửa chứa niềm tin dai dẳng...” - Hình ảnh bếp lửa ở dòng thơ đầu là hình ảnh tả thực về sự vật hữu hình, cụ thể, gần gũi và gắn liền với những gian khổ của đời bà. - Từ hình ảnh “bếp lửa” hữu hình, tác giả đã liên tưởng đến “ngọn lửa” vô hình “lòng bà luôn ủ sẵn” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát: + Bếp lửa bà nhóm lên không chỉ bằng những nguyên liệu bên ngoài mà còn bằng chính ngọn lửa trong lòng bà – ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. + Ngọn lửa bền bỉ và bất diệt ngày ngày bà nhóm cũng chính là nhóm niềm vui, niềm tin, niềm yêu thương để nâng đỡ cháu trên suốt những chặng đường dài. + Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. -> Chính vì cảm nhận, thấu hiểu được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc kia một sự kì diệu và thiêng liêng, nhà thơ đã thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” - Các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của những người phụ nữ Việt Nam. - Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào. =>Thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương của bà hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kì. |
b, Những suy ngẫm về bà và cuộc đời bà. Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm” - Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” đi liền với từ láy tượng hình “lận đận” và hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả một cách sâu sắc và trọn vẹn về cuộc đời đầy những lận đận, gian nan, vất vả của bà . - Thời gian có thể trôi, mọi sự có thể biến đổi, song chỉ duy nhất một sự bất biến: Suốt cả một cuộc đời lận đận, vất vả, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình yêu thương cho cháu -> Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà sâu nặng thiết tha Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc, mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” đối với cháu: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” - Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần, đan kết với những chi tiết tả thực mang đến nhiều ý nghĩa và liên tưởng khác nhau: + “Nhóm bếp lửa”, “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh tả thực công việc của bà + “Nhóm niềm yêu thương”, “nhóm dậy cả những tâm tình” là hình ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý nhất của con người. Bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh niềm yêu thương, sự chia sẻ. Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định về bà : Bà là người phụ nữ tần táo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo cho mọi người. | |
4, Nỗi nhớ bà và bếp lửa | Nỗi nhớ bà và bếp lửa gợi lên một thực tại, người cháu năm xưa đã lớn khôn, trưởng thành, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen với những chân trời rộng lớn: “Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” - Dòng thơ đầu được ngắt thành hai câu để gợi sự chảy trôi của thời gian (từ 4 tuổi, 8 tuổi đến trưởng thành); gợi sự biến đổi của không gian (từ căn bếp của bà đến những khoảng chân trời rộng lớn) -Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. -Điệp từ “có” kết hợp với thủ pháp liệt kê: + Cho thấy người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đã tìm được bao niềm vui mới. + Khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, tấm lòng đùm bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài. =>Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người Việt: “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ, để rồi như chắp cánh để mỗi người bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời. |
Bài tập 1
Cho đoạn thơ sau: Rồ Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng 1. Những câu thơ trên trích trong bài thơ nào? Của tác giả nào? Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ? Nêu mạch cảm xúc của bài thơ? 2. 2. Hình ảnh ngọn lửa trong câu thơ trên được một bạn học sinh hiểu là: Một hiện tượng tạo nên ánh sáng và hơi ấm do sự đốt cháy nhiên liệu, cách hiểu ấy có đúng không? Vì sao? 3. Chỉ ra từ láy trong dòng thơ đầu. Từ láy ấy giúp em hình dung gì về hình ảnh bếp lửa mà tác giả nhắc tới? Em hãy phân tích cái hay của những từ láy tượng hình trong ba câu thơ ấy? 4. Tình cảm gia đình hòa quyện trong tình yêu quê hương đất nước là một đề tài quen thuộc được thể hiện trong bài thơ. Hãy kể tên 2 bài thơ VN hiện đại trong chương trình Ngữ Văn 9 cũng viết về đề tài ấy và ghi rõ tên tác giả. 5. Viết đoạn văn quy nạp khoảng 13 đến 15 câu cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” sử dụng câu cảm thán? |
1. Bài thơ “Bếp lửa” của tác giả Bằng Việt. Bài thơ được sáng tác 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên ngành luật tại Liên Xô và mới bắt dầu đến với thơ. Mạch cảm xúc: Đi từ liên tưởng đến hiện tại, từ những kỉ niệm đến suy ngẫm
2.
- Cách hiểu của bạn học sinh không đúng.
- Vì đây là ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa được thắp lên từ lòng yêu thương, từ niềm tin sự sống
3.
- “Chờn vờn” : Ánh sáng ngọn lửa bếp bập bùng, lúc to lúc nhỏ gợi ta nhớ đến hình ảnh bếp lửa bình dị quen thuộc của làng quê Việt Nam trước kia.
- Ba câu thơ đầu nổi bật lên với những từ tượng hình như “ chờn vờn, ấp iu”. Từ “ chờn vờn” gợi hình ảnh một bếp lửa vừa cụ thể, hữu hình, vừa vô hình khó nắm bắt. Không phải là “ bập bùng” hay” chập chờn”. Nếu là “ bập bùng” thì thực quá, lửa mạnh quá, ngọn lửa lúc cao, lúc thấp. Nếu “ chập chờn” thì ảo quá, ngọn lửa lúc to, lúc nhỏ khó nắm bắt. Chỉ với tư “chờn vờn” là từ láy tượng hình vừa gợi được cái dáng lửa thanh mảnh uốn lượn quyện làn sương sớm vừa gợi được sắc lửa hồng. Ngọn lửa nửa thực, nửa hư. Đó chính là ngọn lửa của hồi ức. Từ “ ấp iu” gợi sự chăm chút, nâng niu, giữ gìn bếp lửa của người bà với một bàn tay khéo léo, kiên nhẫn. Tóm lại, đó là một bếp lửa trong hoài niệm vừa gợi hình vừa biểu cảm. Một bếp lửa rực lên trong tình thương mến của bà và cháu.
4. Hai bài thơ Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 9 viết về tình cảm gia đình hoà quyện với tình yêu quê hương đất nước là:
- Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm
- Nói với con của Y Phương.
5.Câu chủ đề: Người bà trong bài thơ “Bếp lửa” của BV luôn dành cho cháu những tình cảm lớn lao, sâu sắc.
Các câu khai triển:
- Bà là người che chở, bao bọc, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu trong những năm tháng tuổi thơ “Bà dạy cháu làm ... khô nhọc” Bà vừa là thầy giáo, vừa là người cha, người mẹ để chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục cháu nên người
- Hình ảnh người bà tần tảo, chắt chiu, nhen nhóm lên ngọn lửa mỗi sớm mai. Nhen nhóm ý chí, niềm tin cho cháu: “Rồi sớm ... chứa niềm tin dai dẳng”
- Bà là người đầy nghị lực, vượt qua những biến cố lớn lao trong cuộc đời, trở thành chỗ dựa vững chắc cho cháu. Mặc dù giặc đốt nhà, cái đói đeo bám quanh năm nhưng bà vẫn dặn cháu: “Mày có viết ... bình yên”
- Xảy ra nhiều biến cố nhưng bà vẫn đầy nghị lực, là tấm gương cho sự chịu thương, chịu khó, bà là hậu phương vững chắc để ba mẹ đứa cháu yên tâm chiến đấu. Điều đó thể hiện bà còn là người có tình yêu nước sâu sắc.
- Câu kết:
- Chao ôi, bà là người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương, với tấm lòng nhân hậu, giàu đức hi sinh, với một nghị lực sống phi thường!
- Bài tập 2
Cho câu thơ “năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” 1. Chép lại chính xác các câu tiếp theo để hoàn chỉnh khổ thơ? 2. Lời dặn dò của người bà đối với đứa cháu trogn đoạn thơ vi phạm phương châm hội thoại nào? Vì sao người bà phải vi phạm phương châm hội thoại đó 3. Viết những câu thơ được sử dụng theo lối trực tiếp? Lời dẫn trực tiếp là gì? 4. Nd chính của đoạn thơ? 5. Đoạn thơ có nói tới sự tàn phá của chiến tranh. Em hãy viết 1 đoạn văn diễn dịch từ theo đề tài vừa nêu. Sử dụng khởi ngữ? |
b, Lời dạy của bà vi phạm phương châm về chất
Vì: +) Người bà không muốn cho ba mẹ đứa cháu biết về hoàn cảnh thực tế của hai bà cháu ở nhà để họ yên tâm công tác đánh giặc.
+) Qua lời bà dặn không chỉ cho thấy sự đảm đang, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ mà còn thấy tình yêu nông nàn của người bà.
c, Là những câu thơ có dấu ngoặc kép và dấu gạch đầu dòng.
d, Nội dung chính: Đoạn thơ nói về sự tàn phá của chiến tranh qua đó làm nổi bật tinh thần đoàn kết của xóm làng và sự vượt qua khó khăn, gian khổ, cam chịu đồng thời thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của người bà.
*Câu chủ đề: Chiến tranh đã để lại cho con người tổn hại về vật chất và tinh thần.
* Các câu khai triển:
+) Thực trạng:
- -Chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng con người, chia rẽ và làm tan nát bao nhiêu gia đình. Mẹ xa con, vợ xa chồng, sự đau đớn đến tột cùng khi mỗi người phải mất đi mỗi người phải mất đi những người thân yêu chỉ vì chiến tranh. Nỗi đau đớn tinh thần là vô cùng lớn
- -Nó đã tàn phá rất nhiều nhà cửa, cầu cống.
- -Và nó còn đẩy lùi sự phát triển của loài người, làm ảnh hưởng giống nòi cho biết bao thế hệ sau: Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm chiến tranh nhưng tiêu biểu và mới đây nhất là cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ. Đặc biệt đế quốc Mĩ đã dải hàng ngàn, hàng vạn tấn bom cướp đi hàng triệu sinh mạng, dã man và tàn ác hơn chúng còn dải chất độc màu da cam không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người lúc đó mà còn làm ảnh hưởng đến nòi giống không biết bao nhiêu thế hệ về sau.
- -Mỗi chúng ta luôn phê phán, lên án ngăn chặn chiến tranh, tuyên truyền rộng rãi cho mọi người biết hậu quả gây chiến tranh
- -Bằng những hành động thiết thực như viết bài, vẽ tranh, biểu tình ... để lên án những kẻ gây chiến tranh
- -Hãy yêu hòa bình vì hòa bình sẽ mang lại nhiều lợi ích cho con người và sự phát triển của xã hội. Hòa bình sẽ mang lại cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
- Là học sinh, còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện đạo đức trở thành những công dân có ích, xây dựng đất nước hòa bình, nông dân ấm no, hạnh phúc.
- * Câu kết: Tóm lại, chiến tranh đã để lại những hậu quả khôn lường cho cuộc sống mỗi con người.
IV. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Đề 1 Đề bài: Cảm nhận về hình ảnh người bà trong bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt
Mở bài:
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Thơ ông trong trẻo, giàu trải nghiệm, khai thác kỉ niệm và ước mơ thuở hoa niên nên gần gũi, dễ đem lại cảm xúc cho người đọc, nhất là các bạn đọc trẻ tuổi. “Bếp lửa” là bài thơ in đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Ra đời năm 1963, khi ấy tác giả học tập ở nước ngoài, thi phẩm là dòng kỉ niệm xúc động về người bà và tình bà cháu, thể hiện lòng kính yêu trân trọng, biết ơn của người cháu đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Hình ảnh người bà trong bài thơ đã để lại bao ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc.Thân bài:
Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):Hình ảnh người bà trong kí ức tuổi thơ mỗi người là hình ảnh gẫn gũi, thiêng liêng, là bao yêu thương, chở che và đùm bọc. Với Bằng Việt, bao điều xúc động về người bà tần tảo, hi sinh cứ vẹn nguyên trong kí ức và tỏa sáng trong tâm hồn tuổi thơ, trong tấm lòng yêu kính của người cháu đối với bà, nhất là khi xa bà, nhớ về bà.
Phân tích:
Trước hết, hình ảnh người bà được gợi ra từ hình ảnh bếp lửa với những hồi tưởng ấmáp:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc đi nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc da diết ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Bếp lửa được nhóm lên vào buổi sáng sớm, rung rinh, mờ tỏ. Hình ảnh ấy gợi cái ấm áp giữa “chờn vờn sương sớm”, gợi cái thân thương với biết bao“ấp iu nồng đượm”. Từláy “chờn vờn” giúp ta hình dung được ngọn lửa bập bùng,
lay động, khi tỏ khi mờ; hai chữ “ấp iu” không chỉ diễn tả thật chính xác công việc nhóm bếp cụ thể mà còn gợi liên tưởng tới đôi bàn tay kiên trì, khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn
hậu của người nhóm lửa. Từ hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên, dòng hồi tưởng về bà chợt ùa về: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Khổ thơ đầu kết thúc trong cảm xúc của người cháu. Cảm xúc ấy bật ra bằng một chữ“thương”,nó lan toả trong câu thơ và thấm sâu vào lòng người đọc. Cả bài thơ có hai chữ“thương”, Bằng Việt đã dành trọn để “thương bà” (Cháu thương bà biết mấy nắng mưa, Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc).“Biết mấy nắng mưa”, chỉ 4 chữ đã gợi ra hình ảnh của bà với bao lo toan,vất vả, lặng lẽ, âm thầm. Người cháu hiếu thảo cũng đôi lần nhắc lại: “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa” - nỗi vất vả nhọc nhằn của bà trở thành nỗi ám ảnh day dứt khôn nguôi trong lòng cháu suốt đời. Hình ảnh người bà hiện lên trong tâm trí tác giả rất nhẹ nhàng, sâu lắng, mỗi lúc một rõ ràng và trở thành hình ảnh trung tâm trong các khổ thơ tiếp theo.
Hình ảnh người bà hiện lên trong kí ức tuổi thơ cháu với biết bao gian khổ, thiếu thốn. nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Đó là bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương một thời của ta, đói đến nỗi phải ăn đất sét ( trong văn của Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao…Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm
rạ”. Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện. Quá khứ và hiện tại cùng động hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu. Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng...Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy...Trong lòng cháu...!
Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Tu hú kêu bà con nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bép lửa nghĩ thương bà khó nhọc, Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Tám năm sống cùng bà là tám năm cháu nhận được sự yêu thương, dạy bảo, dưỡng nuôi tâm hồn– “bà bảo cháu nghe, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Cảm cái công ơn ấy,người cháu càng thương bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khóc nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, của tình bà còn gợi nhớ kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về.Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong. Phải chăng, đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà? Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” diễn tả nỗi lòng da diết của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà. Có thể nói, ngời sáng từ những dòng thơ là hình người bà tần tảo, trọn vẹn yêu thương. Bà vừa là cha, vừa là mẹ của đứa cháu trong những năm tháng gian khổ, bần hàn. Đặc biệt, hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm đau thương, vất vả. Mặc kệ “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, mặc cho chiến tranh tàn phá, khổ đau chất chồng, bà vẫn vững lòng trước tai họa, thử thách:
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
Có thể nói, những câu thơ chẳng có gì là hình, là nhạc, kĩ xảo cũng không, chỉ như lời nói thường thôi mà như có một thứ gió lay động tâm hồn ta mãi. Hình ảnh bà lặng lẽ, âm thầm gánh vác mọi loan toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Bà thật giàu lòng yêu thương! Đó cũng là vẻ đẹp của những người phụ nữ Việt Nam anh hùng.
Chúng ta nhớ tới hình ảnh người bà trong bài thơ“Đò Lèn”của Nguyễn Duy:Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”.Trước cái liệt của chiến tranh đạn lửa,khi mà dường như các đấng tối cao, linh thiêng cũng khó mà trụ vững thì người bà vẫn dũng cảm, kiên cường đi bán trứng để nuôi cháu. Phải chăng, tấm lòng thơm thảo, yêu thương cháu chính là sức mạnh giúp bà chống chọi lại những khó khăn,gian khổ?
Bếp lửa gợi người cháu nghĩ đến bà ngày ngày âm thầm làm công việc nhóm bếp. “Bếp lửa” được bà nhen lên thành “ngọn lửa” mang nhiều ý nghĩa tượng trưng.Đó là ngọn lửa được nhóm lên từ trong lòng bà – ngọn lửa của sức sống, tình yêu thương, niềm tin vào tương lai cháu, tương lai của quê hương, dân tộc và cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Kỉ niệm tuổi thơ lắng xuống, mạch thơ chuyển từ cảm xúc nhớ thương của người cháu với bà sang những suy nghĩ sâu sắc về bà, về gia đình và những ân nghĩa sâu nặng:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa”diễn tả cảm nhận của nhà thơ về sự tần tảo, đức hi sinh, tâm lòng yêu thương,sẻ chia của bà. Suốt cuộc đời bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luô n giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Điệp từ “nhóm” với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động nhóm lửa, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp mỗi sớm mai là nhóm lên tình yêu thương, niềm vui sưởi ấm,sự san sẻ tình làng nghĩa xóm, những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà hiểu thêm cả dân tộc mình, nhân dân mình. Bằng những từ ngữ
có giá trị biểu cảm “ôi”,”kì lạ”,”thiêng liêng”, cấu trúc thơ đặc biệt,” bếp lửa” được tách riêng thành một vế câu chốt lại ý khái quát của cả đoạn, hình ảnh người bà luôn gắn với hình ảnh “bếp lửa”,”ngọn lửa”. Bếp lửa là tình bà ấm nóng, là tay bà chăm chút, gắn với những khó khăn, gian khổ của đời bà. Bếp lửa vốn gần gũi với mỗi gia đình bỗng trở nên kì lạ bởi ngọn lửa được bà nhóm lên không chỉ từ nhiên liệu củi rơm, mà còn được nhen lên từ chính tấm lòng nhân hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với cháu con.Ngọn lửa ấy có sức sống mãnh liệt, cháy sáng trong mọi hoàn cảnh. Chính vì vậy, nhà thơ đã cảm nhận được hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng.
Ý kiến đánh giá, bình luận:
“Bếp lửa” là một bài thơ hay và độc đáo. Với nghệ thuật miêu tả kết hợp tự sự, biểu cảm; giọng thơ hồi tưởng và đầy chất suy ngẫm; bài thơ ngợi ca tình bà cháu, ngợi ca hình ảnh người bà tần tảo,giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Đó cũng là người bà trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, là bao người mẹ, người chị dịu dàng, đằm thắm đã tô đậm trang sửvàng chói lọi của truyền thống người phụnữ Việt Nam anh hùng. Người cháu trong bài thơ“Bếp lửa” phải có sự trải nghiệm sâu sắc thì mới có những vẫn thơ xúc động về người bà như vậy! Phơi bày những hạt ngọc ẩn kín trong tâm hồn người cháu có nghĩa ấy đã thể hiện lòng biết ơn bà sâu sắc. Tình cảm yêu quí, kính trọng bà là cội nguồn của tình cảm gia đình, tình yêu quê hương, đất nước.Kết bài:
Hình ảnh người bà trong cái nhìn đầy trân trọng, kính yêu của nhà thơ qua bài “Bếp lửa” là lời nhắc mỗi chúng ta luôn biết ơn, kính trọng bà, bởi:Bà như quả đã chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng.
Tấm lòng của bà, tình yêu thương bà dành cho mỗi người là tình cảm cao đẹp.
Đề 2hân tích bài thơ Bếp lửa của tác giả Bằng Việt.
1, Mở bài:Cần nêu được:
- Giới thiệu tác giả
- Phong cách sáng tác
- Giới thiệu văn bản.
- - Nêu vấn đề nghị luận.
- Tham khảo mở bài:
- - Bằng Việt (1941) là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- - Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, thường khai thác những kỉ niệm trong sáng thuở thiếu thời và khơi gợi ước mơ của tuổi trẻ
- - Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, in trong tập Hương Cây – Bếp lửa (1968), là tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
- - Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng biết ơn của người cháu dành cho bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
a, Bếp lửa khơi nguồn cảm xúc nhơ thương
- -Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa ở làng quê Việt Nam. Dòng hoài niệm của người cháu xa quê được khơi lên từ hình ảnh “Một bếp lửa chờn vờn”, “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”.
- -Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với nhịp điệu sâu lắng, với một hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình.
- -Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp và giữa cái lạnh của “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”.
- -Từ “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm bếp.
- -Khi bếp lửa hiện diện, rất tự nhiên đã đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà:
- Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
- -Cháu nhớ về thời thơ ấu khi lên bốn, dấu ấn bếp lửa nhà nghèo gắn với nạn đói mòn đói mỏi năm 1945 đã hằn in vào tâm trí.
- -Trong cái đói mòn đói mỏi, bếp lửa nhà nghèo cứ ám ảnh khiến mỗi lần nghĩ lại, cháu lại cay xè nơi sống mũi vì hoàn cảnh cơ cực, vì sự nghèo khổ của bà.
- -“Lên bốn tuổi” cháu đã sớm phải lo toan, sớm “đã quen mùi khói”, sau đó suốt “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”.
- - Cho nên nhớ về tuổi thơ, nhân vật trữ tình “Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu – Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Cảm giác ấy thật chân thực và xúc động
- -Cháu nhớ về cuộc sống của hai bà chúa khi quê hương, đất nước khi có chiến tranh:
+ Bên bếp lửa, cháu nhớ: “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, khiến cho: “Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”. Cuộc sống của hai bà cháu trước cảnh càn quét của giặc Pháp cũng chất chồng những vất vả, khó khăn. Từ trong cảnh hoang tàn đổ nát của làng xóm quê hương, bà một mình chịu đựng, một mình hi sinh để các con yên tâm lo việc kháng chiến. Bà lại gượng dậy, chắt chiu, gom góp, hồi sinh sự sống:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ...
- -Bếp lửa đánh thức thêm một kỉ niệm của tuổi thơ: Tiếng chim tu hú. Tiếng chim quen thuộc của đồng quê bỗng trở thành một phần thân thương không thể thiếu của kỉ niệm. Cháu thiết tha nhớ tiếng “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”.
- -Trong lời kể của bà, có cả “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dấy lên một mong mỏi da diết:
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Âm điệu tha thiết của câu thơ gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu
=> Mỗi kỉ niệm, cháu đều được bà chở che, nâng niu, ôm ấp, vỗ về. Bằng Việt vừa gợi những kỉ niệm tuổi thơ, vừa trực tiếp bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình về những kỉ niệm đó về bà kính yêu. Mỗi kỉ niệm mở ra không chỉ gắn với tuổi thơ Bằng Việt, không chỉ gắn với cuộc đời bà mà còn gắn liền với những dấu ấn của quê hương, đất nước ngày hôm qua.
c, Suy ngẫm về bà và bếp lửa quê hương
Cháu suy ngẫm về cuộc đời, về ân nghĩa sâu nặng của bà, về bếp lửa khi cháu khôn lớn trưởng thành
-Cháu thấu hiểu cuộc đời bà là cuộc đời lận đận gian nan chưa từng một ngày an nhàn, sung sướng. Cuộc đời bà là hiện thân cuộc đời dân tộc. Cháu thấu hiểu vì vất vả khó khăn nên đức hi sinh, sự tảo tần, “thói quen dậy sớm” của bà đã trở thành nếp sống không thể đổi thay trong suốt mấy chục năm qua
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”
-Cháu hiểu: “Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm” là để nhóm lên bếp lửa hồng, nhóm lên tình yêu thương trong lòng cháu. Giữa bà và bếp lửa như có nét tương đồng. Bà là người ấp iu giữ lửa, Nhóm lửa để ngọn lửa của tình yêu thương trong mỗi gia đình cháy sáng, nối kết quá khứ, hiện tại, tương lai:
+ Bếp lửa bà nhóm lúc nào cũng lung linh cháy sáng trong lòng cháu. Điệp từ “nhóm” bốn lần lặp lại đầu mỗi câu thơ đã bồi đắp, tỏa sáng dần dần nét kì lạ của bếp lửa và soi sáng chân dung, tình nghĩa của bà
+ Bà nhóm “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” để cháu có “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới”. Cao hơn nữa, bếp lửa bà nhóm lên để sẻ chia niềm vui với làng xóm, cộng đồng. Bà nhóm bếp đâu chỉ bằng nguyên liệu rơm, củi, ... mà bằng “ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn” để truyền cho cháu tình yêu thương, đoàn kết:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngon lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ...
- Từ bếp lửa, bài thơ đã gợi đến hình ảnh ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bếp lửa của bà đâu chỉ có ngọn lửa cụ thể được nhen bằng rơm, bằng củi! Ở đó còn có ngọn lửa thiêng liêng trong lòng bà, ngọn lửa của lòng yêu thương, của niềm tin, của cuộc sống thầm lặng mà mãnh liệt. Hình ảnh bếp lửa mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: tình thương – sự sống – niềm tin bất diệt
- Kì diệu hơn, bà còn “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” để vun đắp ước mơ cho cháu. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa:
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
-Trưởng thành, sống xa bà, cháu hiểu bếp lửa là hiện thân của tình bà, của tình yêu thương bà dành cho cháu, là kỉ vật thiêng liêng của tình bà cháu, là hồn quê Việt Nam. Nó là hành trang, là chỗ dựa tinh thần nâng bước chân cháu suốt hành trình dài rộng của cuộc đời cháu để có được sự trưởng thành như ngày hôm nay. Khi cảm xúc trào dâng, khi lòng biết ơn bà sâu sắc, cháu thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu của cháu với bà:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng mở. Nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu”, “ngọn lửa trăm nhà”, cháu vẫn luôn nhớ về bếp lửa nồng đượm của quê hương vì nơi đó có bà. Nỗi nhớ bà nồng nàn chất đầy trong câu nghi vấn: “Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa?” Câu hỏi là lời khẳng định, lời hứa đinh ninh, chẳng bao giờ cháu quên quá khứ, chẳng bao giờ cháu quên bà và bếp lửa tuổi thơ
-> Một người con xa quê hương, đất nước, nhớ về bà, nhớ về bếp lửa là nhớ về tổ ấm gia đình, nhớ quê hương, đất nước, là tri ân sâu sắc với cội nguồn. Bài thơ đã khéo léo mở rộng từ tình bà cháu thành tình quê hương đất nước, từ kỉ niệm gần gũi, thiêng liêng thành lẽ sống đời thường.
3, Kết bài:
- -Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận; sáng tạo hình ảnh sóng đôi: bà và bếp lửa, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu
- -Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về bà và tình bà cháu; đồng thười thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, tình cảm là biểu hiện cụ thể và đẹp đẽ của tình cảm gắn bó với gia đình, với quê hương, với đất nước.
Bài tập1: Từ bài thơ “ Bếp lửa” và bằng những hiểu biết của em, suy nghĩ về tình yêu quê hương, đất nước của thế hệ trẻ trong thời đại hiện nay?
Bài viết tham khảo :
Nhà thơ Tố Hữu nói: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt.” Quả đúng như vậy, quê hương đất nước chính là nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi gắn bó với ta biết bao nhiêu kỉ niệm. Từ xưa đến nay, tình yêu nước cũng như mạch nguồn chính, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong văn học . Và đến ngày nay, tình yêu quê hương đất nước vẫn luôn là thứ tình cảm thiêng liêng cần được trân trọng và phát triển hơn nữa.
Tình yêu quê hương đất nước là một khái niệm rất rộng, là sự nỗ lực, cố gắng không ngừng và dựng xây và phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Tình yêu quê hương đất nước trước hết xuất phát từ tình yêu gia đình, làng xóm, yêu những gì giản dị nhất trên quê hương đất nước như cây đa, bến nước, cánh đồng, dòng sông,… Chính xuất phát từ những điều giản dị, bình dị ấy, lòng yêu nước của ta càng được bồi đắp hơn. Tình yêu quê hương từ thuở xa xưa, trong những câu ca dao như tấm gương phản chiếu tâm hồn con người và inh thần dân tộc. Lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, cả thế giới biết đến Việt Nam như một biểu tượng của tinh thần đấu tranh bảo vệ, hòa bình, độc lập. Chúng ta vẫn luôn tự hào về nước Việt Nam, từ thời phong kiến, các triều đại Việt Nam đã đánh đuổi được giặc Trung Hoa, quân dân hời Trần đã ba lần đánh đuổi được quân Mông Nguyên ra khỏi bờ cõi- đạo quân hùng mạnh nhất lúc bấy giờ. Trong “ Đại cáo bình Ngô” cũng đã khẳng định:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Quân thù hung ác nhưng ý chí quyết tâm của dân tộc ta ngày càng phải được nâng cao.
Tình yêu nước, yêu quê hương là cội nguồn, là nơi ta sinh ra và lớn lên, gắn bó biết bao nhiêu kỉ niệm gốc rễ bền chặt cho sự phát triển bền vững của ta.Tình yêu nước phải xuất phát từ trong sâu thẳm mỗi con người, gắn bó lâu dài, bền chặt chứ không phải một lúc rồi thôi hay chỉ xuất hiện khi có những ham muốn của bản thân mà không khắc ghi cội nguồn, đạo lí truyền thống dân tộc thì sớm muộn sự phát triển của ta cũng sẽ như cây cao bị trơ rễ, bật gốc dù chỉ là một cơn gió nhẹ. Tình yêu nước góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trở nên phong phú. Nó còn gắn bó với tình yêu tiếng nói dân tộc. Tiếng nói là linh hồn của một quốc gia, một dân tộc. Nó mang bản sắc không thể trộn lẫn dân tộc này với dân tộc khác. Khi ta cất tiếng nói là trái tim đang đập nhịp cộng hưởng với cuộc đời bao la rộng lớn. Với một dân tộc lúc nguy nan, giữ vững tình yêu đối với tiếng nói dân tộc cũng là một biểu hiện cụ thể, sâu sắc của tình yêu nước. Tình yêu quê hương đất nước còn là tình yêu đối với những cảnh sắc tươi đẹp, trù phú trên quê hương như cánh đồng, dòng sông, con đường, cây đa, bến nước,… Nó là tình cảm xuất phát tự nhiên nảy nở trong tâm hồn nên những ai đã có thì hãy biết trân trọng và chưa có thì hãy biết nuôi dưỡng.
Thực tế ngày nay, có nhiều người không hiểu được tình yêu quê hương đất nước, chà đạp nên những giá trị văn hóa dân tộc từ hàng ngàn đời nay.Có những người sống mà không biết nguồn cội, quê hương, luôn chạy heo những xu hướng vật chất tầm hương, sống ích kỉ, không quan tâm tới những người xung quanh, những người đấy sớm muộn cũng sẽ trở nên bị cô đơn lạc long giữa cuộc sống xô bồ, tấp nập này. Thế giới thay đổi từng ngày, muốn không lạc hậu ta phải theo kịp thời gian học lấy những bài học từ quá khứ để đối mặt với thực tại, hướng tới tương lai với nỗ lực hết mình. Hãy mang khát vọng lớn, tình yêu dân dộc cao cả để một Việt Nam lớn mạnh.
Trong cuộc sống hiện đại đang ngày càng phát triển, con người đang có xu hướng hội nhập toàn cầu thế giới, là những người trẻ tuổi hãy trau dồi kiến thức, rèn luyện bản thân để đáp ứng nhu cầu thế giới. Đó cũng là biểu hiện cao cả của tình yêu quê hương đất nước.
Bài viết tham khảo :
Trong sâu thẳm trái tim mỗi người, chắc hẳn đều có một nơi dành cho quê hương đất nước như một nhà thơ đã từng thốt lên:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông"
Thật khó để định nghĩa một cách rõ ràng về tình yêu quê hương đất nước. Nó chính là tình yêu, sự trân trọng, nâng niu, yêu mến và sẵn sàng hi sinh cho quê hương- nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người, cho tổ quốc- lãnh thổ thiêng liêng mang hai tiếng Việt Nam. Đây là một tình cảm nhân văn, cao đẹp, luôn thường trực ở mỗi người dù già hay trẻ, dù gái hay trai.
Đã bao giờ bạn tự hỏi, cuộc sống hòa bình và đáng sống này ai đem lại cho bạn? Đó là những giọt mồ hôi của ông cha từ buổi khai phá, là biết bao nhiêu giọt máu của nhiều thế hệ đổ xuống để bảo vệ lãnh thổ bờ cõi. Nên ta yêu hơn cả từng con người, từng mảnh đất, từng nhành cây ngọn cỏ trên khắp đất nước. Bởi đâu đâu cũng in dấu “một dáng hình một ao ước cha ông”. Nơi ta đã gắn bó từ ngày ấu thơ đến khi trưởng thành và mãi mãi về sau, nơi yêu thương và hạnh phúc luôn đong đầy thì tại sao ta lại không yêu, không quý, không trân trọng và nâng niu cho được?
Tình yêu quê hương đất nước không phải thứ tình cảm to lớn hay xa xôi gì. Nó bắt nguồn từ tình yêu những điều nhỏ bé, bình dị nhất. Tình yêu nhà, yêu mỗi con sông quê hương, yêu những con người chân chất thật thà, yêu gia đình trở nên tình yêu đất nước. Khi bờ cõi đất nước đứng trước sự lâm nguy, những thế hệ thanh niên nhiệt tình đã sẵn sàng lên đường bảo vệ tổ quốc, những cô thanh niên xung phong sẵn sàng vào mặt trận. Đó là hình ảnh của chú bé Lượm, mẹ Tơm, mẹ Suốt, bà Bầm bà Ủ.... Trong thời bình thì tình yêu quê hương đất nước lại ở sự phấn đấu nỗ lực để cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Tình yêu ấy không còn là những định nghĩa trừu tượng mà còn thể hiện bằng những hành động thiết thực. Đó là nỗi nhớ quê da diết mỗi khi xa nhà, luôn móng ngóng về quê hương và chờ đợi đến ngày được trở về. Khi đất nước phát triển, họ cùng góp một chút sức lực nhỏ để đầu tư cho sự phát triển của đất nước. Lòng yêu nước yêu quê hương của họ thật đáng quý biết bao.
Tình yêu quê hương gắn liền với tình yêu tổ quốc. Đó là thứ tình cảm vừa giản dị, chân thành song lại thiêng liêng cao đẹp biết bao. Mỗi giai cấp, mỗi thế hệ, mỗi con người lại có những biểu hiện khác nhau để yêu nơi ta đã cất tiếng khóc chào đời, nới rộng mở cánh tay đón chào ta. Các nhà thơ yêu quê bằng những vần thơ ngọt ngào, tha thiết ngợi ca cảnh sắc quê hương đất nước. Anh kĩ sư yêu đất nước bằng những đêm thức trắng vẽ nên những bản công trình, đưa đất nước dần hội nhập cùng thế giới. Các bạn học sinh yêu quê hương mình bằng cách nỗ lực, chăm chỉ không ngừng học tập để đưa đất nước "sánh vai với các cường quốc trên thế giới".
Bên cạnh những hành động đẹp, những tấm gương sáng như vậy thì vẫn còn không ít người ngày càng xa lánh và rời bỏ quê hương. Thậm chí họ còn tìm cách chống phá nhà nước, đưa ra các luận điệu sai trái về chính quyền ta. Đôi khi, họ sống quá thực dụng và vụ lợi. Sẵn sàng lừa dối những người xung quanh mình, tàn phá thiên nhiên và hủy hoại môi trường. Nhiều kẻ bất nhân còn chà đạp lên quyền sống, bán rẻ lương tâm để hãm hại người khác một cách dã man. Những hành động như vậy đáng bị lên án và trừng trị.
Trong bối cảnh hiện đại, yêu quê hương đất nước còn gắn với việc bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa cổ truyền. Yêu tiếng mẹ đẻ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt và lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Hãy là người yêu nước bằng một trái tim nóng và cái đầu lạnh.
Bài tập 2.
Từ ý nghĩa của bài thơ “Bếp lửa” cùng với những kiến thức xã hội em có, hãy trình bày suy nghĩ của em về vai trò của tình cảm gia đình đối với mỗi con người. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ.
Gợi ý:
* Mở đoạn: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Gia đình luôn có vai trò quan trong trong cuộc đời mỗi con người.
* Thân đoạn:
- Giải thích: Gia đình là khái niệm chỉ những người cùng chung sống dưới một mái nhà, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống, thường gồm có ông bà, cha mẹ, con cái và cháu chắt.
- Bàn luận: Vì sao gia đình có vai trò quan trọng đối với mỗi con người?
+ Gia đình là nơi ta sinh ra trong sự đón chờ của ông bà, cha mẹ, ang chị; nơi ta lớn lên mỗi ngày trong tình yêu thương, sự quan tâm, che chở.
+ Gia đình với nếp nghĩ, nếp sống riêng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tính cách, suy nghĩ, ứng xử và sự phát triển của mỗi người. Không có sự chăm lo, giáo dục của gia đình là một điều kiện thiệt thòi lớn về tinh thần, cũng có thể dẫn tới sự thiếu hụt, lệch lạc trong phát triển nhân cách con người.
+ Gia đình là nơi chan chứa tình yêu thương, cho ta sức mạnh tinh thần quí giá để đứng vững giữa cuộc đời; cũng là nơi sẵn sàng đón lấy ta, cho ta trở về sau những thăng trầm, vấp ngã bên ngoài cuộc đời rộng lớn.
+ Ta có thể có nhiều bạn bè nhưng gia đình chỉ có một mà thôi.
( Lấy dẫn chứng để làm rõ)
- Đánh giá, mở rộng vấn đề:
+ Gia đình là tài sản quí giá của mỗi người, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong cuộc sống mỗi người.
+ Phê phán những kẻ bất hiếu, coi nhẹ gia đình.
- Bài học:
+ Cần trân trọng , biết ơn, xây dựng, gìn giữ hạnh phúc gia đình.
+ Liên hệ bản thân với tư cách là một người con , người cháu trong gia đình.
* Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề.
Bài tập3 : Suy nghĩ về hiếu thảo được gợi ra từ bài thơ?
Bài làm
Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ vốn là truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta và là phẩm chất cần có trong mỗi con người.
Hiếu là hiếu nghĩa, biết ơn người sinh thành dưỡng dục mình, biết cung kính bề trên. Thảo là mở rộng tấm lòng của mình, là chia ngọt sẻ bùi. Tóm lại lòng hiếu thảo là sự biết ơn, tôn trọng và đáp đền cha mẹ, ông bà, người có công sinh thành hoặc dưỡng dục mình.
Trong thời kì phong kiến, lòng hiếu thảo đóng vai trò trung tâm của đạo đức Nho giáo. Lòng hiếu thảo được biểu hiện phong phú trong cuộc sống hằng ngày. Nó không chỉ được thể hiện trong thái độ tình cảm mà còn qua hành động, việc làm cụ thể. Người có lòng hiếu thảo là người luôn biết cung kính, lễ phép, biết vâng lời và làm cho cha mẹ, ông bà luôn được vui vẻ, thoải mái về tinh thần. Lúc cha mẹ khỏe mạnh, con cái hiếu thuận, vâng lời, lắng nghe dạy bảo. Lúc cha mẹ già yếu hết lòng chăm sóc phụng dưỡng. Khi cha mẹ qua đời phụng thờ chu đáo. Trong thực tế cuộc sống chúng ta đã có nhiều người con hiếu thảo trở thành tấm gương để người đời sau noi theo. “Hiếu tử truyện” có ghi lại những tấm gương hiếu thuận đáng để noi theo. Đó là một người con nhà nghèo, mùa đông, nằm ủ ấm chiếc giường rồi mời cha mẹ lên, mùa hè thức đêm để quạt cho cha mẹ ngủ. Đó là lão Lai Tử, tuổi đã già những vẫn diễn hài mua vui cho cha mẹ. Cũng có những người con như Nguyễn Trãi vì hiếu thảo mà dằn lòng, gạt dòng nước mắt, từ biệt cha già Nguyễn Phi Khanh để trở về nuôi giấc mộng như lời cha dặn “Hãy rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đạo hiếu”. Còn bao nhiêu người con đã vâng lời, hiếu thuận với ông bà, cha mẹ trở thành người có ích làm rạng danh cha mẹ, tổ tiên.
Chúng ta sống hiếu thảo với ông bà, cha mẹ bởi ai cũng có cội nguồn, thân tộc. Ông bà cha mẹ là người đã sinh ra ta, nuôi dưỡng ta khôn lớn, dành cho ta những gì tốt đẹp nhất một cách vô điều kiện. Hơn nữa con cái sống hiếu thảo thì gia đình sẽ giữ được hòa khí, trên kính dưới nhường gia đình hòa thuận, yên vui, hạnh phúc là động lực để chúng ta học tập và làm việc. Lòng hiếu thảo đã gắn kết các thành viên trong gia đình. Sống hiếu thảo góp phần hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách của mỗi con người. Người sống hiếu thảo luôn được người khác trân trọng, yêu mến và dễ thành công trong cuộc sống bởi giá trị của con người không phải được nhìn nhận bằng sự giàu sang, quyền quý mà nó được thể hiện bằng nhiều yếu tố tinh thần đep đẽ trong đó nền tảng là chữ “hiếu”.
Mặc dù vậy không phải ai cũng thấm thía ý nghĩa của chữ Hiếu trong đạo làm người. Họ sống lỗi đạo, bất hiếu, vô lễ, thậm chí bỏ bê hoặc hành hạ đánh đập cha mẹ, ông bà. Những “con sâu làm rầu nồi canh” ấy là biểu hiện của lối sống vô ơn, nhân cách kém cỏi và bị xã hội lên án mạnh mẽ.
Là học sinh - thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước phải lấy chữ hiếu làm đầu, kính trọng lễ phép, lắng nghe ông bà, cha mẹ dạy bảo, phấn đấu trong học tập và rèn luyện, trở thành người tốt để ông bà, cha mẹ được vui lòng. Đó là cách để đền đáp phần nào công ơn của người đi trước. Lòng hiếu thảo thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, là nét đẹp cao quý của văn hóa Việt Nam. Vì thế mỗi chúng ta cần nhớ làm lòng “Tội lớn nhất của đời người là bất hiếu”.
Bài tập 4: Suy nghĩ về ý nghĩa của những kí ức tuổi thơ trong cuộc đời mỗi con người.
Hướng dẫn lập dàn ý:
I. Mở bài: Từ bài thơ đầy xúc động – “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt, thêm một lần chúng ta nhận ra ý nghĩa quan trọng của những kí ức tuổi thơ trong cuộc đời mỗi con người.
II. Thân bài:
1. Giải thích: Kí ức tuổi thơ là gì?
Kí ức là những hình ảnh, sự việc đã qua được trí nhớ ghi lại. Vậy kí ức tuổi thơ được hiểu là những kỉ niệm sâu sắc mà ta nhớ mãi về thuở thiếu thời, khi ta còn nhỏ.
2. Bàn về vai trò của kí ức tuổi thơ:
Tuổi thơ là nền tảng quyết định tương lai của mỗi con người do vậy kí ức cũng góp phần quan trọng vào việc xây dựng tương lai của chúng ta bởi nó chính là một phần không thể thiếu của nền tảng đầu tiên trong cuộc đời.
Phần lớn kí ức tuổi thơ của mỗi người thường là tươi đẹp. Bởi tuổi thơ như hạt sương tinh khôi trong nắng mai. Đó là tuổi hồn nhiên chẳng có so đo tính đếm lợi ích cá nhân, chẳng có được mất, sẵn sàng hết mình giúp bè bạn. Phải chăng vì thế mà khi chúng ta lớn lên ai cũng mong ước có cho mình một chiếc vé về tuổi thơ. Hơn nữa, tuổi thơ là giai đoạn đứa trẻ được gia đình, nhà trường và xã hội chăm lo, bao bọc trong tình yêu thương. Chúng không vướng bận gì cả, chúng chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là cố gắng trong học tập, rèn luyện. Vì thế nhân cách và phẩm chất của mỗi đứa trẻ khi trưởng thành phản ánh môi trường mà chúng ta sinh ra và lớn lên.
Kí ức tuổi thơ là một phần đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Dù vui hay buồn thì mỗi lần nhớ về nó, mọi người đều có một cảm xúc thật khó tả. Nó khiến ta thêm gắn bó với gia đình, quê hương, nguồn cội. Nó là một phần điểm tựa tinh thần tạo ra sức mạnh để ta vượt qua những khó khăn, vấp ngã trên đường đời muôn nẻo.
3. Phản đề: Như đã nói kí ức tuổi thơ có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của mỗi người khi lớn lên. Một tuổi thơ hạnh phúc hay không là nền tảng quyết định con người chúng ta sẽ trở thành. Vậy mà đâu đó trong cuộc sống này vẫn có những đứa trẻ phải lớn lên với những đứa trẻ phải lớn lên với những kí ức không hề đẹp đẽ. Chúng có thể vượt qua được để một sống một cuộc đời có ích hoặc không.
III. Kết bài:
- Là học sinh, sống trong thời thơ ấu, mỗi chúng ta cần cố gắng học tập, rèn luyện để tạo ra những kí ức tốt đẹp.
- Mong sao mọi trẻ em trên thế giới đều có một tuổi thơ hạnh phúc.
*******************************************
CHUYÊN ĐỀ 9:Văn bản: ÁNH TRĂNG
(Nguyễn Duy)
I, Kiến thức cơ bản
1, Tác giả | - Tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa. - Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước: + Trước đổi mới: ND tập trung viết về đề tài chiến tranh và quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của người nông dân. + Sau đổi mới: Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời. - Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối lập: mộc mạc, dân dã mà tinh tế sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà thiết tha sâu lắng, nhân tình; tự nhiên ngẫu hứng mà trau truốt công phu. |
2, Văn bản | * Hoàn cảnh sáng tác: - Được sáng tác năm 1978, ba năm sau khi đất nước được thống nhất. Lúc này tác giả đang sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh. - Xuất xứ: In trong tập thơ Ánh trăng. |
* Thể thơ: 5 chữ, chữ cái đầu dòng không viết hoa. Toàn bài chỉ có một dấu phẩy và một dấu chấm kết bài -> tạo cho cảm xúc liền mạch, sâu lắng. | |
* PTBĐ: Tự sư kết hợp với biểu cảm | |
* Mạch cảm xúc Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ tới hiện tại, gắn các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy, mạch cảm xúc đi từ quá khứ tới hiện tại và lắng kết trong cái giật mình ở cuối bài thơ *Bố cục: - Phần 1: 2 khổ đầu: Vầng trăng trong quá khứ - Phần 2: Hai khổ tiếp: Vầng trăng trong hiện tại - Phần 3: 2 khổ còn lại: cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình. | |
Nghệ thuật, nội dung của văn bản: * Nghệ thuật: - Sử dụng thàng công thể thơ 5 chữ. - Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp với yếu tố trữ tình, tự sự khiến bài thơ như một lời tự bạch chân thành, sâu sắc. - Hình ảnh giàu tính biểu cảm và biểu tượng. - Vạn dụng thàng công các BPTT: nhân hóa, so sánh, ẩn dụ.. * Nội dung: -Với giọng điệu tâm tình, bài thơ như là một lời tâm sự của tác giả về những năm tháng gian khổ đã đi qua với những tình cảm bình dị và hiền hậu. - Gợi nhắc đến chúng ta về một thái độ sống tích cực: ‘uống nước nhớ nguồn”. | |
3, Ý nghĩa nhan đề | - Nhan đề “ Ánh trăng” trước hết là một phần của thiên nhiên với tất cả những gì gần gũi, thân thuộc nhất - “ Ánh trăng” là biểu tượng cho quá nhứ nghĩa tình, thủy chung gắn bó với lịch sử hào hùng của dân tộc. - Gợi cho ta liên tưởng đến những con người giản dị mà thủy chung nghĩa tình: nhân dân , đồng đội. |
II, Đọc- hiểu văn bản
1, Vầng trăng trong quá khứ. | Trong hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ: “Hồi nhỏ sống với rừng với sông rồi với bể hồi chiến tranh ở rừng vầng trăng thành tri k Trần trịu với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa” - Những câu thơ ngắn với giọng tâm tình, thủ thỉ (hồi nhỏ, hồi chiến tranh) cộng với biện pháp tu từ liệt kê (đồng, sông, bể) đã gợi lại một tuổi thơ sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên - Điệp từ “với” được lặp lại ba lần để nhấn mạnh sự gắn bó, thân thiết giữa con người với thiên nhiên. - Hình ảnh “Hồi chiến tranh ở rừng” : + Gợi liên tưởng đến sự trưởng thành của nhân vật trữ tình, từ cậu bé thiếu niên nay đã vác súng ra chiến trường. + Gợi về những năm tháng gian khổ, ác liệt của chiến tranh. - Nghệ thuật nhân hóa “Vầng trăng thành tri kỉ”: + Gợi liên tưởng đến những năm tháng hành quân hay phiên gác giữa rừng, có vầng trăng chiếu rọi. + Trăng như trở thành người bạn thân thiết, tri âm, tri kỉ, luôn đồng cam cộng khổ để chia sẻ những vui buồn đời lính. - Hình ảnh so sánh, ẩn dụ: “Trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ”: + Gợi vẻ đẹp bình dị, vô tư, trong sáng của vầng trăng. + Đó cũng là cốt cách, vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc trong tâm hồn của người lính =>Trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hòa tình nghĩa. Bởi sự gắn bó tình nghĩa ấy, nhân vật trữ tình đã tự tâm nguyện “sẽ không bao giờ quên”. - Từ “ngỡ” như báo hiệu sự chuyển biến trong câu chuyện cững như trong tình cảm của con người. Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy khó khăn, khắc nghiệt, trăng vẫn đồng hành trên mọi bước đường và trở thành người bạn tri kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn. Vầng trăng đã trở thành biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung. |
2, Vầng trăng trong hiện tại. | - Song, trước sự xoay vần của thời gian, sự biến đổi của hoàn cảnh đã khiến cho mọi thứ trở nên thay đổi: “Từ hồi về thành phố quen ánh điện cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường” + Tác giả đã tạo ra sự đối lập trong hoàn cảnh sống của con người giữa hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại của thành phố. + “quen ánh điện cửa gương” là cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc sống đầy đủ tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. + Hình ảnh nhân hóa, so sánh: “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: Vầng trăng thì vẫn còn đấy, thủy chung tình, nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra =>Câu thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi những gian khổ, nhọc nhằn của một thời đã qua. Song, cái sự quên ấy cũng là lẽ thường tình bởi những lo toan thường nhật từ cuộc sống -Tác giả đặt con người vào một tình huống bất ngờ: “Thìng lình đèn điện tắt phòng buyn – đinh tối om vội bật tung cửa sổ vột ngột vầng trăng tròn” + Hai từ “thình lình”, “đột ngột” và cách đảo trật tự cú pháp đã ghóp phần diễn tả thật chính xác, ấn tượng về một sự việc đột ngột, bất thường “đèn điện tắt... tối om” + Ba động từ mạnh “vội, bật, tung” đã diễn tả hành động khẩn trương, vội vàng của nhân vật trữ tình. + Hình ảnh “vầng trăng tròn” đột ngột xuất hiện chiếu rọi vào căn phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập: giữa ánh sáng và bóng tối. Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình: vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, bể, rừng” kia đâu có mắt, tất cả vẫn đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có nhận ra hay không. =>Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ. |
3, Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình | Từ tình huống bất ngờ, đã mở ra những dòng cảm xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình: “Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì dưng dưng”
+ Mặt đối mặt đó còn là quá khứ đối diện với hiện tại, tình nghĩa thủy chung đối diện với vô tình lãng quên. -Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã khiến cho cảm xúc dâng trào. Cụm từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc động đến nghẹn ngào, thổn thức trong cảm xúc của nhân vật trữ tình Giọt nước mắt như khiến con người ta trở nên thân thiết hơn, trong sáng hơn để rửa trôi đi những ý nghĩ, lo toan thường nhật để kỉ niệm ùa về: “như là đồng là bể Như là sông là rừng” -Cấu trúc song hành (như là... là), cộng với biện pháp tu từ so sánh (như), điệp ngữ (như là, là) và liệt kê (đồng, bể, sông, rừng) diễn tả những dòng kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với thiên nhiên bỗng từ từ ùa về. -Khổ thơ cuối những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà thơ: “Trăng cứ tròn vành vạnh k chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình” -Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”: + Diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la + Bên cạnh đó, còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, vẫn tròn đầy, tron vẹn mặc cho con người thay đổi, vô tình.
+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần phải thay đổi cách sống + Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay =>Bài thơ “ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ thơ cuối đã dồn nén biết bao tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người lời nhắc nhở về đạo lí sống, về đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung. |
Bài tập1.
Cho câu thơ: “ Hồi nhỏ sống với đồng” 1. Hãy chép chính xác những câu thơ tiếp theo để hoàn thành hai khổ thơ? Nêu nội dung chính của hai khổ thơ em vừa chép? 2. Hai khổ thơ em vừa chép của tác giả nào? Hãy giới thiệu đôi nét về tác giả đó và hoàn cảnh sáng tác bài thơ? Hoàn cảnh sáng tác đó có ảnh hưởng gì đến chủ đề bài thơ? 3. Trong khổ thơ đầu tác giả sử dụng những biên pháp tu từ gì? Nêu tác dụng? 4. Em hiểu nghĩa câu thơ “vầng trăng thành tri kỉ” như thế nào?. Chép lại câu thơ có từ tri kỉ trong chương trình ngữ văn 9, ghi rõ tên tác giả và tác phẩm? 5. Em hiểu như thế nào về hai dòng thơ đầu của khổ thơ thứ hai? Việc tác giả sử dụng từ “ngỡ” ở cuối khổ thơ thứ hai có tác dụng gì? 6. Em hãy viết đoạn văn khoảng 10 đến 12 câu theo cách diễn dịch, sử dụng lời dẫn trực tiếp và một câu ghép để làm rõ nội dung hai khổ thơ em vừa chép? |
1. Hs chép chính xác hai khổ thơ. Nội dung chính: Hai đoạn thơ đã ghi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.
2. Tác giả Nguyễn Duy:
- Tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa.
- Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước:
+ Trước đổi mới: ND tập trung viết về đề tài chiến tranh và quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của người nông dân.
+ Sau đổi mới: Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời.
- Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối lập: mộc mạc, dân dã mà tinh tế sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà thiết tha sâu lắng, nhân tình; tự nhiên ngẫu hứng mà trau truốt công phu.
* Hoàn cảnh sáng tác:
- Được sáng tác năm 1978, ba năm sau khi đất nước được thống nhất. Lúc này tác giả đang sống và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh.
-Thời điểm đó, có những người từng trải qua thử thách gian khổ, từng gắn bó với thiên nhiên, nhân dân, đồng đội, sau khi ra khỏi thời đạn bom, được sống trong hòa bình, giữa những tiện nghi hiện đại…đã quên đi những nghĩa tình của thời đã qua. Trước hiện tượng đó, nhà thơ viết bài thơ như lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao xưa. Đồng thời, bài thơ còn có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.
3. Biện pháp tu từ ở khổ thơ 1:
- Điệp ngữ và liệt kê: Từ “ với” được lặp lại cùng phép liệt kê( đồng, sông, bể, rừng) nhấn mạnh sự gắn bó gần gũi, chan hòa giữa con người và thiên nhiên qua các khong gian sống khác nhau.
- Nhân hóa: “ Vầng trăng” được nhân hóa thành “ tri kỉ”, thể hiện sự gắn bó thấu hiểu giữa con người và vầng trăng.
4. Nghĩa của câu thơ “Vầng trăng thành tri kỉ”: vầng trăng là bạn bè thân thiết với con người.
“ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”( Đồng chí- Chính Hữu)
5.
- Hai dòng đầu của khổ thơ thứ hai miêu tả những kí ức đẹp của người lính- đó là những năm tháng được sống hồn nhiên, tâm hồn rộng mở.
+ “Trần trụi…”: giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách
+ So sánh “hồn nhiên như cây cỏ”: con người hoàn toàn vô tư, không tính toán.
- “ Ngỡ” có nghĩa là tưởng vậy mà không phải vậy, diễn tả một sự ngộ nhận. Xuất hiện trong câu thơ cuối khổ thơ thứ hai, nó báo hiệu những chuyển biến của câu chuyện cũng như trong tình cảm của con người với vầng trăng.
6. Gồm các ý cơ bản sau:
Câu chủ đề: Hai đoạn thơ đã ghi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ.
Các câu khai triển:
- Thời thơ ấu con người gắn bó với vầng trăng, gắn liền với những hình ảnh “đồng, sông, bể”
- Khi trưởng thành, trở thành người lính, người và vầng trăng vẫn là những người bạn thân thiết
- Tình bạn giữa người và vầng trăng tròn /hồn nhiên, vô tư
- ;trăng và người /có nhiều kỉ niệm đẹp trong quá khứ.( câu ghép)
- Nhân hóa: “ Vầng trăng” được nhân hóa thành “ tri kỉ”, thể hiện sự gắn bó thấu hiểu giữa con người và vầng trăng.
- Hai dòng đầu của khổ thơ thứ hai miêu tả những kí ức đẹp của người lính- đó là những năm tháng được sống hồn nhiên, tâm hồn rộng mở.
+ “Trần trụi…”: giữa con người và thiên nhiên không còn khoảng cách
+ So sánh “hồn nhiên như cây cỏ”: con người hoàn toàn vô tư, không tính toán.
- “ Ngỡ” có nghĩa là tưởng vậy mà không phải vậy, diễn tả một sự ngộ nhận. Xuất hiện trong câu thơ cuối khổ thơ thứ hai, nó báo hiệu những chuyển biến của câu chuyện cũng như trong tình cảm của con người với vầng trăng.
- Liên hệ: Đoạn thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên sâu sắc
- Bài học: Mỗi chúng ta phải biết sống yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, từ đó mỗi người phải làm cho thiên nhiên ngày một đẹp hơn.
Câu kết: Tóm lại, với việc sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ, so sánh, hai khổ thơ đã làm hiện kên những kỉ niệm trong quá khứ đầy lãng mạn và đẹp đẽ giữa con người và vầng trăng.
Bài tập 2.
Cho câu thơ: “Từ hồi về thành phố” 1. Hãy chép tiếp những câu thơ tiếp theo để hoàn thiện hai khổ thơ? Nêu nội dung chính hai khổ thơ đó? 2. Cả bài thơ chỉ có duy nhất một dấu chấm cuối bài. Điều đó có tác dụng gì? 3 Chỉ ra và nêu tác dụng của các phép tu từ được sử dụng ở khổ thơ 3? 4. Ghi lại các từ láy và nêu tác dụng của chúng trong hai khổ thơ em vừa chép? 5. Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ trong câu thơ “vội bật tung cửa sổ”. Câu thơ cho thấy điều gì về nhân vật trữ tình? |
1. Chép chính xác hai khổ thơ 3,4 của bài thơ. Nội dùng chính: Hai đoạn thơ đã ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ của tác giả về vầng trăng trong hiện tại.
2. Cả bài thơ chỉ có duy nhất một dấu chấm cuối bài, làm cho cảm xúc thơ được liền mạch, đồng thời khiến bài thơ như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian.
3.
- Hoán dụ “ ánh điện, của gương” tượng trưng cho cuộc sống đầy đủ tiện nghi nơi phố thị. Phép hoán dụ đã làm rõ sự thay đổi về hoàn cảnh sống của con người từ hồi về thành phố: khép kín, tách biệt và xa rời thiên nhiên. Đó là một trong những lí do dẫn đến sự thay đổi trong thái độ, tình cảm của con người với vầng trăng.
- Hình ảnh nhân hóa, so sánh: “vầng trăng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: Vầng trăng thì vẫn còn đấy, thủy chung tình, nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra.
-> Các phép tu từ ở khổ 3 đã vẽ lên chân dung người lính năm nào, nay là một con người bội bạc, quay lưng lại với quá khứ.
4.
- Các từ “ thình lình, đột ngột”
+ Từ láy “ thình lình” diễn tả sự bất ngờ của tình huống đèn điện tắt.
+ Từ láy “đột ngột” diễn tả sự bất ngờ của cuộc gặp gỡ giữa người và trăng cũng như tâm trạng thảng thốt của con người khi gặp lại người bạn tình nghĩa năm nào mà mình đã lãng quên.
5. Cách sử dụng từ ngữ trong câu thơ “ vội bật tung của sổ”: Tính từ “vội” và động từ mạnh “ bật tung” đi liền nhau, diễn tả sự gấp gáp vội vàng, cho thấy sự ngột ngạt của một con người ( đã quen với tiện nghi, sung sướng) khi đứng trước bóng tối. Hành động đó gợi giây phút tâm hồn con người khao khát dược thoát khỏi không gian tù túng, chật hẹp.
- Câu thơ cho ta thấy sự vội vàng, khẩn trương của con nguwoif khi đi tìm nguồn sống.
Bài tập 3.
Chép thuộc lòng đoạn kết bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy 1. Giải thích nghĩa của hai từ “mặt” trong câu thơ “ Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ nào được dùng theo nghĩa gốc? Từ nào được dừng theo nghĩa chuyển? Chỉ ra phương thức chuyển nghĩa trong trường hợp này? Phân tích cái hay của việc sử dụng từ “ mặt”? 2. Từ “ rưng rưng” thuộc kiểu từ gì xét theo cấu tạo ? Nó biểu lộ tâm trạng gì của nhân vật trữ tình? 3, Chỉ ra và nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai khổ thơ em vừa chép? 4. Nêu cảm nhận của em về hình ảnh “ Vầng trăng tròn” và “ Trăng cứ tròn vành vạnh” 5 Tìm các từ láy trong hai khổ thơ em vừa chép và nêu tác dụng? 6, Hình ảnh “Vầng trăng” trong bài thơ có ý nghĩa gì? Tại sao suốt bài thơ tác giả có tới 4 lần gọi là “vầng trăng” mà nhan đề và khổ thơ cuối lại viết “ánh trăng” 7. Em hiểu thế nào về cái “giật mình” của nhân vật trữ tình? Viết một câu khái quát nhất về cái giật mình của người trong thơ? 8. Đọc bài thơ “Ánh trăng” em cảm nhận được bài học sâu sắc nào? Viết đoạn văn từ ba đến năm câu ? 9. Nêu chủ đề của bài thơ. Cảm nhận về đoạn thơ cuối của bài từ 8 đến 10câu ( sử dụng thành phần tình thái và phụ thái) 10. Trăng còn xuất hiện ở trong một số bài thơ trong chương trình NV9 mà em đã học. Ghi lại từ đó hãy phân tích và so sánh trăng trong những bài trên? |
1.
- Giải thích: từ “mặt” thứ nhất chỉ một bộ phận trên cơ thể người, tính từ trán xuống cằm( nghĩa gốc). Từ “ mặt” thứ hai chỉ mặt trăng( nghĩa chuyển)
- Từ “mặt” thứ hai được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ
- Phân tích cái hay của từ “mặt”:
+ Từ “mặt” (thứ 2) mang ý nghĩa ẩn dụ sâu xa, gợi cái hồn, tinh thần của sự vật :
+ “Mặt” gợi hình ảnh mặt trăng, thiên nhiên tươi mát, là gương mặt người bạn tri kỉ, quá khứ nghĩa tình, lương tâm của chính mình (tự vấn).
+ Hai từ “mặt” trong cùng 1 câu thơ tạo tư thế mặt đối mặt, đối diện đàm tâm giữa người và trăng, thức tỉnh mọi người hướng tới lối sống cao đẹp: ân nghĩa thủy chung, bao dung, độ lượng.
2.
- Xét theo cấu tạo từ “ rưng rưng” thuộc kiểu từ láy, diễn tả sự xúc động nghẹn ngào của con người khi gặp lại vẩng trăng. “ Rưng rưng” là khoảnh khắc đầu tiên của sự thức tỉnh.
3,
- Nghệ thuật điệp ngữ “ như là” và phép liệt kê” đồng, sông, bể, rừng” cho thấy những kỉ niệm trong quá khứ đang ùa về đồng hiện trong tâm trí người lính cũng như niềm xúc động của người lính khi gặp lại vầng trăng- người bạn tình nghĩa năm nào
Nghệ thuật nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy khiến chi nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.
4. - Hình ảnh “ Vầng trăng tròn” và “ Trăng cứ tròn vành vạnh” nói lên sự tròn đầy cũng như sự vẹn nguyên, thủy chung, không thay đổi của quá khứ.
5 .
- Từ láy “vành vạnh” miêu tả sự tròn đầy của vầng trăng, cho thấy sự vẹn nguyên của quá khứ.
- Từ láy “phăng phắc” miêu tả sự im lặng tuyệt đối, gợi cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung độ lượng của vầng trăng, đủ khiến con người giật mình thức tỉnh.
6,
- Ý nghĩa “vầng trăng”: Vầng trăng trong bài thơ là một hình ảnh đa nghĩa
+) Vầng trăng là hình ảnh thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời tuổi thơ, rồi thời chiến tranh ở rừng.
+) Vầng trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên, chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng vầng trăng trong quá khứ thì luôn tràn đầy, bất diệt
Trong bài thơ, bốn lần tác giả viết là “vầng trăng” trong khi nhan đề và khổ thơ cuối lại là “ánh trăng” vì
+) Đối với tác giả, “vầng trăng” là người bạn tri ân tri kỉ, từ hồi thơ ấu và khi ở chiến trường. Vì thế xuyên suốt bài thơ là hình ảnh “vầng trăng”
+) Còn hình ảnh “ánh trăng” là ánh sáng của vầng trăng, quầng sáng của vầng trăng, là sự tinh tế, nhẹ nhàng ở thiên nhiên. Vầng trăng có lúc tròn, lúc khuyết nhưng ánh trăng luôn có màu vàng không đổi, soi sáng, tỏa mát xuống cõi lòng con người làm cho con người thêm thanh thản, nhẹ nhàng. Ánh trăng còn là ánh sáng trong mỗi tâm hồn con người. Hình ảnh ánh trăng mang ý nghĩa rộng hơn hình ảnh vầng trăng.
+) Tác giả đã rất tinh tế trong việc dùng ánh trăng thay vì vầng trăng trong nhan đề và khổ thơ cuối. Đó cũng là sáng tạo độc đáo của thơ góp phần làm cho bài thơ “ánh trăng” có giá trị về nội dung và nghệ thuật.
7.
- Cái “ giật mình” của con người là sự thức tỉnh, thể hiện sự ăn năn, hối lỗi, tự đấu tranh để sống tốt đẹp hơn, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp.
- Nhận ra những cám dỗ vật chất khiến con người đánh mất đi những giá trị tinh thần đẹp đẽ.
- Nhận ra bài học không được lãng quên quá khứ, thờ ơ, bội bạc với nghĩa tình sâu nặng, thiêng liêng phải biết nâng niu, trân trọng quá khứ, sống ân nghãi thủy chung
=> Với khoảnh khắc “giật mình”, nhà thơ đã gieo vào lòng người đọc niềm tin và sức sống mạnh liệt của lương tri con người.
Câu khái quát nhất về cái “giật mình” của những con người: Giật mình để con người tự hoàn thiện mình.
8. Từ bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy đã cho em một bài học sâu sắc:
- Thiên nhiên không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, mỗi chúng ta phải yêu quý và hòa hợp với thiên nhiên. Không chỉ thế bài thơ còn cho ta thấy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” , ân nghĩa thủy chung – đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chúng ta phải luôn biết ơn quá khứ, biết ơn những người đã biết ơn xây dựng đất nước.
- Bên cạnh đó, bài thơ còn cho ta thêm một bài học, cuộc sống phải biết bao dung độ lượng, biết nhận ra lỗi lầm và sửa chữa lỗi lầm để cuộc sống tốt đẹp hơn
9, Chủ đề bài thơ (nội dung bài ánh trăng): Bài thơ là tiếng lòng, là những suy ngẫm thấm thía, nhắc nhở ta về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ, gian lao, nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở củng cố người đọc thái độ sáng “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa cùng quá khứ.
- Câu mở đoạn: Đoạn thơ được trích trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy - một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Kĩ cứu nước- đã thể hiện tình cảm, thái độ của vầng trăng và cái giật mình, hối hận của con người .
- Các câu khai triển:
- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”:
+ Diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la
+ Bên cạnh đó, còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, vẫn tròn đầy, tron vẹn mặc cho con người thay đổi, vô tình.
- - Nghệ thuật nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy khiến chi nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.
- - Từ “giật mình” chính là một sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong ý thơ:
+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần phải thay đổi cách sống
+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay.
- - Trăng vẫn thủy chung, vẹn nguyên, tình cảm không phai mờ. Sự bao dung, độ lượng và nghiêm khắc của vầng trăng đã làm cho con người “giật mình”. Cái “giật mình” của sự hối hận trước những tình cảm thay đổi của con người. Có lẽ, đó cũng là cái giật mình của mỗi chúng ta?
- - Câu kết đoạn: Bằng nghệ thuật nhân hóa cùng với thể thơ năm chữ, Nguyễn Duy đã cho chúng ta một bài học sâu sắc về lẽ sống: sự chung thủy, biết ơn quá khứ, ân nghĩa thủy chung là một lối sống đẹp đáng để chúng ta suy ngẫm.
Trong chương trình ngữ văn lớp 9 em đã học, một số bài thơ có hình ảnh vầng trăng là:
+”Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận
Câu thơ: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”
+”Đồng chí” – Chính Hữu – Câu thơ “Đầu súng trăng treo”
- *Phân tích và so sánh trăng trong 3 câu thơ
- -Trăng trong bài thơ “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy là một người bạn ân nghĩa, thủy chung, tình cảm luôn vẹn nguyên.
- -Còn ánh trăng trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận lại chỉ vẻ đẹp của biển cả với nhiều màu sắc rực rỡ.
- -Trăng trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu lại là 1 hình ảnh lãng mạn. Trăng cho thấy đêm đã về khuya,trăng xuống thấp dần như chạm vào đầu ngọn súng tạo cảm giác trăng treo đầu súng. Trăng ở đây còn thể hiện 1 ước mơ hòa bình, một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Bài tập 4 : Đọc bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy và trả lời các câu hỏi sau:
a)Tại sao trong cả bài thơ Ánh trăng tác giả đều dùng từ “Vầng trăng”nhưng đến cuối bài lại viết “ánh trăng”?
b)Hình ảnh : “Ánh trăng im phăng phắc –đủ cho ta giật mình”giúp em biểu gì về nhân vật trữ tình trong bài bài thơ?
c) Trong cuộc đời con người khi nào cần có những cái giật mình như vậy?
*Gợi ý trả lời:
a) Cả bài thơ Ánh trăng tác giả đều dùng từ “Vầng trăng” nhưng đến cuối bài lại viết “ánh trăng”vì:
-vầng trăng: là hình ảnh của tự nhiên vĩnh hằng, tượng trưng cho sự viễn mãn trọn vẹn, không bao giờ đổi thay. Vầng trăng được nhân hóa trở thành người bạn thân của nhân vật trữ tình, thủy chung trong mọi hoàn cảnh
- ánh trăng: là ánh trăng của vầng trăng tỏa xuống trần gian. Ánh sáng ấy không chỉ soi tô không gian nơi thành phố, soi vào phòng buyn – đinh mà còn soi tỏ cả góc khuất trong lòng người, cảm hóa và thức tỉnh con người, giúp người giật mình nhận ra lỗi lầm trong cách cư xử. Đó là ánh sáng của lương tri, của đạo làm người nên nhà thơ đặt nhan đề là ánh trăng
Cả bài thơ dùng từ “vầng trăng” để chỉ đối tượng khách quan và biểu tượng ẩn dụ. Khổ cuối cùng “ánh trăng” với ý nghĩa gọi sự cảm hóa, thức tỉnh con người như một điểm nhấn của toàn bài
B, Qua “ánh trăng im ... giật mình” giúp ta hiểu nhân vật trữ tình:
- Nhân vật trữ tình là người có chiều sâu nội tâm với những cảm nhận tinh tế sâu sắc về vẻ đẹp của vầng trăng
- Nhân vật trữ tình luôn có sự nhìn nhận soi chiếu lại mình
- Nhân vật trữ tình biết sống ân nghĩa: trải qua những biến động của cuộc đời dẫu có lúc lãng quên song anh vẫn không thay đổi bản chất. Sự bao dung độ lượng nghiêm khắc của vầng trăng giúp anh nhận ra lỗi lầm, tự vấn lương để từ đó biết sống đẹp hơn.
- Con người có những lúc giật mình trước, trong và sau khi làm một việc gì đó có ảnh hưởng không tốt đến mọi người, đến cuộc sống. Từ đó, mỗi người rút ra cho mình một lối sống đẹp, biết giật mình đúng lúc để hoàn thiện mình hơn
- Liên hệ bản thân: đã mắc lỗi gì, đã biết giật mình và sửa chữa như thế nào?
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
....
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Từ vẻ đẹp của đoạn thơ trên, trình bày những suy nghĩ của em về vấn đề mà đoạn thơ đặt ra
Gợi ý trả lời
1, Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 như một thông điệp giàu ý nghĩa nhắc nhở mỗi chúng ta về tình cảm uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với qua khứ gian lao mà tình nghĩa. Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thứ tư chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc thể hiện chủ đề của tác phẩm:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
......
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
IV. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
BÀI LÀM THAM KHẢO, ĐỌC VÀ CẢM NHẬN
BAI 5. Bài phân tích, cảm nhận
Tình cảm là thứ quan trọng nhất đối với mỗi con người. Nó như dòng nước ngọt ngào chảy dọc trong ống nhựa tắm mát tâm hồn ta, tưới nước cho cái hạt giống tinh thần bên trong ta nảy nở. Thiếu đi cái ngọt ngào của tình cảm, ta sẽ chỉ như cái ống nước rỗng ruột, khô cứng, tâm hồn ta sẽ chẳng khác gì hoang mạc cằn khô nứt nẻ. Tình cảm trong quá khứ gian khổ khó khăn lại càng đáng nhớ hơn, nó thể hiện sự gắn bó, yêu thương không điều kiện, đồng cam cộng khổ vượt qua những chông gai đường đời. Thế nhưng trong xã hội hiện đại ngày nay vẫn có một số người vì mải mê chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ quên mất tình cảm yêu thương của một thời đã qua, hờ hững với những gì thuộc về quá khứ.
Qua bài thơ "Ánh trăng" của mình, nhà thơ Nguyễn Duy đã nhắc nhở một cách nhẹ nhàng những kẻ đang tự cuốn mình theo cái vòng xoay vô tận của phù du hãy dừng lại, dù chỉ một chút thôi, mà nhớ về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Rằng những cái mình có được hôm nay là nhờ đâu, cái gì đã từng là một phần trong cuộc sống của mình...để từ đó biết trân trọng quá khứ hơn, sống đẹp hơn, "Uống nước nhớ nguồn" hơn.
Vầng trăng luôn là cảm hứng bất tận trong thơ ca, luôn gắn bó mật thiết với đời sống của con người: Trăng soi bóng những tối cùng nhau lao động vui tươi của người nông dân:
"Trong đêm thanh, trăng tàn canh, bao tiếng ca theo tiếng chày nhanh nhanh
Dư âm xa, còn vang mãi trong ánh đêm trăng tà"
("Gạo trắng trăng thanh")
là chút gì đó lãng mạn như "Say trăng" của Hàn Mặc Tử:
"Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm..."
là chứng nhân cho lời nguyện thề tình tự của bao đôi lứa yêu đương:
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song"
("Truyện Kiều")
Trăng còn là tri âm, tri kỉ, là người bạn gắn bó thở ấu thơ, là nỗi niềm gợi nhớ quê hương như trong chủ đề "Nguyệt vọng hoài hương" của thơ văn cổ. Và Nguyễn Duy đã đem lại cho ta một góc nhìn, một cách nhìn mới về trăng qua tác phẩm của ông. Trăng trong "Ánh trăng" mang đậm dấu ấn của tình cảm qua từng chặng đường khác nhau của thời gian, là hình ảnh sống động của quá khứ, là những gì tốt đẹp của một thời đã qua: tình cảm bạn bè, lý tưởng chiến đấu,... và là biểu tượng của nghĩa tình. Tác phẩm được sáng tác sau khi đất nước thống nhất, tác giả giã từ cuộc đời người lính đến sống tại thành phố Hồ Chí Minh để rồi từ đây, bao cảm xúc chân thành trào dâng đã cô đọng thành bài thơ có lối viết đặc biệt: chữ đầu mỗi câu thơ không viết hoa. Chính nét sáng tạo đặc biệt đó đã làm "Ánh trăng" trở nên khác biệt: vừa như một bài thơ với những vần, những âm điệu nhịp nhàng, đều đặn, vừa như một câu chuyện với mạch xúc cảm tuôn dâng, hiện lên dần dần theo trình tự thời gian.
Mở đầu bài thơ là dòng hồi tưởng của nhân vật trữ tình về tuổi thơ, về quãng thời gian chiến đấu giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do:
"Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ"
"Hồi" biểu thị thời gian trong quá khứ. Trong khoảng thời gian ấy con người đã có những phút giây sống chan hòa với thiên nhiên. Các hình ảnh lớn dần "đồng, sông, bể" mang nhiều ý nghĩa đặc biệt khác nhau, nhưng có một điểm chung là đều mang nét hồn nhiên trong trẻo của thời trẻ con vô tư. Cánh đồng lúa, hay cỏ hoa, lúc nào cũng ngập tràn nắng gió, ngập tràn những tâm tư dịu dàng, ngập tràn cái thanh bình, hạnh phúc. "Sông" dạt dào chảy, nước sông trong vắt "soi tóc những hàng tre", soi bóng cả cái tâm hồn ngây thơ, đong đầy biết bao ước mơ trẻ nhỏ. "Bể" hiền hậu nhưng cũng hung hăng, mang theo bao con sóng vỗ bờ, mang theo bao hoài bão của tuổi hồng mộng mơ. Và "đồng, sông, bể" đã gắn bó với nhân vật trữ tình, một cách thắm thiết, như người bạn thuở ấu thơ thân thương gần gũi. Từ "với" được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự kết nối con người với những tươi đẹp tuổi thơ, với vầng trăng dung dị của quá khứ. Bức tranh không gian về thiên nhiên đằm thắm ấy đã kéo theo sự vận động của thời gian, mang vầng trăng tròn đầy thời ấu thơ đi qua quãng đời chiến đấu của người lính:
"hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ"
Biện pháp nhân hóa đã được sử dụng để biến trăng thành "tri kỷ", thành người bạn chí cốt lúc nào cũng hiểu hết về nhau. Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi "Rừng hoang sương muối" ("Đồng chí"), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bốn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê. Vầng trăng vẫn tròn đầy dù trải qua bao mưa bom bãođạn, vẫn sáng trong dù đã trải qua thời gian khó khăn nhất, tối tăm nhất, vẫn:
"Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ"
Vầng trăng ngày ấy mới đẹp làm sao! Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật "trần trụi với thiên nhiên" cho ta thấy rõ hơn vẻ đôn hậu hiền hòa của ánh trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: không giả tạo, giả dối, không lọc lừa nhỏ nhen, không có những toan tính thiệt hơn, những đố kị ghen ghét. Trong sáng vô tư như tuổi thơ, chân thành và thật thà như nhiệt huyết sục sôi của người lính trẻ cách so sánh trăng với vẻ hồn nhiên như cây cỏ của nhà thơ Nguyễn Duy đã đem lại cho ta ấn tượng đó về ánh trăng quá khứ. "Cây cỏ" những sự vật tưởng chừng vô tri giác nhưng lại mang một hàm ý lớn lao: cây cỏ tạo ra dưỡng khí giúp ích cho đời, sống cuộc sống hồn nhiên, không chen lấn giành giật với đời, không nghi kị xảo trá mà tự nhiên, chan hòa với mọi người mọi vật. Vầng trăng của ngày ấy thật tự nhiên, không giấu, không che đậy, gần gũi hoang sơ như dáng vóc mộc mạc của người lính, tỏa sáng vằng vặc, đẹp đến nỗi nhân vật trữ tính - người lính đã phải nói rằng:
"ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa"
Từ "ngỡ" ở đây không dưng lại làm ta hình dung rõ cái mầm mống, cái dự báo của sự lãng quên. Lãng quên cái vầng trăng tròn ắp đầy tình nghĩa, hoang sơ mộc mạc như cây cỏ, chân chất đôn hậu như người chiến sĩ đã trải lòng mình ra với thiên nhiên. Đoạn thơ cũng diễn tả một cách rõ nét những nỗi đau trong lòng con người: Lúc nào cũng nghĩ là mình sẽ nhớ, cũng khăng khăng sẽ khắc sâu vào tâm tưởng nhưng rồi tự bao giờ, ta đã không thể cùng ánh trăng tình nghĩa kia đi trọn kiếp người được nữa. Bởi vì nó đã bị ta bỏ lại đằng sau, cùng với những kỉ niệm đáng nhớ của một thời xưa cũ ấy ta đã quên. Ý thơ lay động tâm hồn, thức tỉnh lương tâm những kẻ vô tình, gợi nhắc về cái "vầng trăng tình nghĩa", về biểu tượng đẹp của một thời quá khứ hào hùng.
Chiếc thuyền mang bao kỉ niệm gắn bó đã lùi xa vào quá khứ, theo dòng chảy bất tận của thời gian. Theo dòng chảy đó, chiến tranh cũng đã kết thúc, và người lính ngày xưa trở về, nhưng không phải là về nơi "đồng, sông, bể" dung dị và thân thương, mà là trở về chốn phồn hoa đô hội, chốn thị thành tấp nập đông vui. Bao khó khăn gian khổ của cuộc sống chiến đấu nay đã trở thành dĩ vãng, còn cái tình cảm gắn kết xưa kia giờ nay đã đi về đâu? Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả đã nói về điều đó:
"Từ hồi về thành phố
..........
như người dưng qua đường"
Câu thơ đột ngột quay trở về thực tại, dứt khỏi khoảng không kí ức của nhân vật trữ tình. Ở cái thực tại không xa ấy, nhân vật trữ tình bắt đầu quen với những thuận lợi vật chất, những "ánh điện cửa gương" bóng loáng giả tạo. Hình ảnh ẩn dụ đối lập giữa "vầng trăng tình nghĩa" mộc mạc, hiền hòa với "ánh điện cửa gương" tuy có sáng hơn ánh trăng thật, nhưng thứ ánh sáng nhân tạo đó không thể nào bằng được cái ánh sáng nghĩa tình mà trăng đem lại. Biện pháp liệt kê "ánh điện, cửa gương" như cũng đồng thời liệt kê ra cái tiện nghi đủ đầy vật chất xuất hiện trong đời sống người lính, bên cạnh những bộn bề lo toan của cuộc sống thường ngày. Và mới thật bạc bẽo làm sao, cái đủ đầy vật chất, cái ngổn ngang bận bịu của sự đời đã lấn át đi nhu cầu đủ đầy về mặt tinh thần, về tình cảm son sắt từng một thời được coi như máu thịt của người lính.
Vầng trăng bây giờ đối với anh lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. Cái bóng của sự xa hoa đã che lấp đi "vầng trăng tình nghĩa", vòng xoay của thời gian đã thay đổi cả bản chất, tâm hồn con người. Để rồi giờ đây, khi mà anh lính năm xưa bị che mắt bởi những phồn vinh thành thị, người đã không thể thấy được sự hiện diện của trăng, dù trăng vẫn đều đặn "đi qua ngõ". Trăng vẫn tồn tại, vẫn thủy chung, tròn đầy, sáng vằng vặc, không thay đổi nhưng thật đau xót làm sao, lòng người đã lại đổi thay không còn đủ sáng để hòa nhịp tâm hồn cùng trăng, không còn đủ yêu thương để gắn bó với những ân tình quá khứ. Đối với người lính lúc này, trăng chẳng khác gì "người dưng qua đường", hờ hững, lạnh nhạt, không đáng để bận tâm. Trăng được nhân hóa, đi qua ngõ mà như người dưng. Một hình ảnh đối lập tinh tế mang nặng màu chua xót: "ngỡ không bao giờ quên" - "như người dưng qua đường". Một sự đổi thay quá là phũ phàng của con người. Tình cảm là thứ dễ bị chia lìa đến thế sao, lòng người dễ dàng phôi pha chỉ bởi những phù phiếm vật chất đến thế sao?
Trăng lại xuất hiện, trong một tình huống bất ngờ, cùng với kết cấu thơ pha chút kịch tính, hồi hộp:
"Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn"
Mất điện. Cả căn phòng "tối om". Không còn chút ánh sáng nào cạnh bên, nhân vật trữ tình bèn theo phản xạ tự nhiên mà "bật tung cửa sổ", và cái mà người lính nhìn thấy, cảm nhận thấy đầu tiên không phải là ngọn gió mát rượi hay ngọn đèn đường rọi vào phòng mà là vầng trăng vầng trăng tròn như những nghĩa tình thủy chung không phai nhòa theo thời gian xuất hiện một cách "đột ngột". Các từ ngữ "thình lình, vội, bật tung, đột ngột" gợi tả cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ của con người. Ánh trăng tròn hiện lên sừng sững giữa bầu trời đen đặc kia đâu phải chỉ lúc "đèn điện tắt" mới có? Trăng vẫn luôn ở đó, vẫn luôn mang tấm lòng trọn vẹn thủy chung với người, nhưng chính sự vô tâm lạnh lùng đã ngăn cản nhân vật trữ tình để ý đến trăng, nhìn thấy trăng.
"Bật tung cửa sổ", cái cửa sổ ấy có lẽ không chỉ đơn thuần là cửa sổ bình thường, mà là cái cửa sổ của lạnh nhạt che khuất tâm hồn người lính, là rào cản đưa lòng người rời xa tình cảm quá khứ, là bức tường vốn đang từng ngày đưa tâm hồn con người vào bóng tối của sự hững hờ, bạc bẽo, tách dần khỏi ánh sáng nghĩa tình của vầng trăng yêu thương. Đến khi người lính vội vàng "bật tung cửa sổ", không còn gì ngăn cách, không còn một ranh giới rào cản nào nữa, người chiến sĩ xưa mới nhận ra trăng, một cách thình lình và đột ngột, như không hề ngờ tới, không hề nghĩ tới. Trăng vẫn tròn như những nghĩa tình vẫn đầy ắp không sứt mẻ, vẫn hiện diện bên cạnh nhân vật trữ tình như thuở ấu thơ, như thời chiến đấu; nhưng người đã không còn nhớ gì cả. Để khi gặp mặt, người lính cảm thấy ngỡ ngàng tột độ, và sau đó:
"Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng"
Vần thơ có cái gì đó khiến lòng người cảm động. Hai từ "mặt" trong cùng một dòng thơ: mặt người và mặt trăng, mặt đối mặt, lòng đối lòng. Bao cảm xúc bên trong nhân vật trữ tình lúc này cũng như cánh cửa sổ "bật tung" ra, trào dâng đến nỗi như "có cái gì rưng rưng". Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái "rưng rưng", cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính. Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng_ biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư.
Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, "như là đồng là bể, như là sông là rừng". Đồng, bể, sông, rừng, những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm. Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như "có cái gì rưng rưng", đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc. Đọc bốn câu thơ, ta thấy thương thay cho trăng và tiếc thay cho người chiến sĩ.
"Khéo trách người sao quá vội vàng
Bỏ lại bao kỉ niệm quá khứ
Khá trách người sao quá phũ phàng
Lãng quên những yêu thương tình tự".
Nhân vật trữ tình đã có biết bao lần có thể hội ngộ cùng trăng, nhưng người đều bỏ lỡ dịp đó. Người đã xem trăng như người dưng, và giờ là lúc người bị cắn rứt lương tâm tột độ. Mặc dù như vậy, trăng - gương mặt của ân tình quá khứ, vẫn điềm đạm, cao thương và bao dung:
"Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình."
Trăng vẫn tròn như tình nghĩa trọn vẹn thủy chung son sắt, nhân hậu của đất nước, cuộc đời, trái ngược với cái hờ hững của kẻ sống bạc bẽo. Trăng không lên tiếng trách móc mà im lặng, chẳng giận dỗi "người vô tình" mà bao dung. Tuy vậy, người lính vẫn không tránh khỏi bản án lương tâm, không tránh khỏi ám ảnh bởi ánh nhìn im lặng đầy vẻ trách cứ. Trăng độ lượng, khoan dung, nhưng chính cái khoan dung ấy của trăng lại khiến lòng người nhói đau hơn bao giờ hết. Phải chi trăng cứ hờn dỗi, cứ trách mắng người lính năm xưa thì người lính đã chẳng phải đau lòng như thế.
Đôi khi sự im lặng lại là sự trừng phạt nặng nề nhất. "Ánh trăng im phăng phắc" - cái im lặng của trăng lại càng làm cho sóng gió trỗi dậy trong tâm trí, càng làm lương tri nhân vật trữ tình - người lính cảm thấy đau xót, đau xót đến "giật mình". Giật mình đồng nghĩa với việc thức tỉnh, nhưng không phải sự thức tỉnh nhẹ nhàng mà lại vô cùng dữ dội. Cả bài thơ như lắng đọng trong từ "giật mình", và tâm trạng giật mình đó cũng chính là cái kết của bài thơ, của một câu chuyện đời đầy ý nghĩa. Bài học tình nghĩa về tri ân quá khứ được viết ra, nhưng con người đã phải trả cái giá quá đắt để học nó. Người ta không thể nào mãi chìm đắm trong quá khứ mà tiến lên, nhưng cũng không thể nào tiến lên mà không có bước đệm của quá khứ. Trân trọng, khắc ghi, tri ân kỉ niệm. Luôn nhớ, yêu thương, không quên ngày đã qua. Một triết lý sống giản đơn nhưng sâu sắc: tình người.
Với ngôn ngữ giản dị mà hàm súc, cô đọng, giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm được thể hiện qua thể thơ năm chữ kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, cùng đạo lý làm người không bao giờ cũ: uống nước nhớ nguồn; bài thơ như một lời tâm sự, nhắc nhở người ta sống tình cảm với những quá khứ đã qua, trân trọng, biết ơn những thứ mình đã có và đang có. Nhịp thơ sâu lắng làm người đọc phải suy ngẫm. Cùng nói về vầng trăng gợi nhớ nhưng trăng trong "Ánh trăng" không phải là vầng trăng cố hương như "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch:
"Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương."
mà là vầng trăng trữ tình đong đầy yêu thương, chất chứa hằng bao xúc cảm, về một thời "ngày ấy" của thiên nhiên, đất nước, cuộc đời, và cả tâm hồn con người. "Ánh trăng" thực sự để lại trong lòng người đọc rất nhiều những suy tư đáng quý.
Bài thơ kết thúc nhưng ánh trăng vẫn còn đó, như muốn soi tỏ những ngổn ngang nơi lòng người, để những tâm hồn chìm đắm trong phù du có thể tìm đường về với những ân tình ân nghĩa, có thể tìm lại phút giây bình yên trong khoảng trời kỉ niệm thân thương. Bài thơ đã đem lại cho dàn hợp xướng như bài thơ về trăng một nốt nhạc mới lạ, lắng sâu vào trái tim độc giả. Ta cũng như chợt bắt gặp lời gửi gắm đầy ý nghĩa qua câu thơ:
"Xin đừng tham đó bỏ đăng
Thấy lê quên lựu, thấy trăng quên đèn"
Đề 1: Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả.
- Giới thiệu văn bản.
- Nêu ội dung chính của văn bản.
Tham khảo mở bài:
- -Nguyễn Duy là gương mặt nhà thơ trẻ, trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Duy trẻ trung, linh hoạt, bất ngờ trong cấu tứ ngôn từ, đậm aam hưởng dân ca đồng quê nhưng cũng giàu màu sắc chiết lí, giàu chiêm nghiệm khiến người đọc phỉa giật mình suy nghĩ
- -Bài thơ Ánh trăng được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 tại thành phô Hồ Chí Minh, in trong tập thơ cùng tên. Bài thơ như một lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Từ đó nhắc nhở mỗi chúng ta về tình cảm uống nước nhớ nguồn, ân tình thủy chung với quá khứ, với những người đã khuất và cả đối với chính mình
a, Vầng trăng trong hoài niệm
- -Thời thơ ấu: trăng là vẻ đẹp của thiên nhiên vĩnh hằng, là bầu bạn của tuổi thơ, trăng ngập tràn trên cánh đồng, dòng sông, bãi bể ... người đi đâu, làm gì cũng có vầng trăng làm bạn. Trăng đã nuôi lớn tâm hồn tuổi ấu thơ
- -Khi trưởng thành: người lính chiến đấu ở rừng sâu, vầng trăng thành tri kỉ. Trăng là ánh sáng trong những đêm tối chiến tranh. Trăng đến làm bạn với người chân thành, vô tư, tình cảm giữa người với trăng vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn.
b, Vầng trăng thời hiện tại
-Chiến tranh qua đi, cuộc sống bình yên trở lại, người lính may mắn từ rừng sâu trở về nơi thành phố. Cuộc sống thị thành đủ đầy, hiện đại văn minh với ánh điện, cửa gương, phòng buyn – đinh, ... đối lập hoàn toàn với quá khứ khi xưa. Cuộc sống đổi thay, lòng người cũng thay đổi. Mối quan hệ giữa người và trăng không còn như xưa nữa:
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Trăng vẫn như xưa, vẫn ngày ngày qua ngõ, vẫn dõi theo người nhưng người đã ngoảnh mặt lằm ngơ, coi trăng như người xa lạ. Sự vô tình đến mức tàn nhẫn
-Tình huống bất ngờ xảy ra:
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
Giữa bóng tối của màn đêm là ánh sáng rực rỡ tràn đầy của vầng trăng. DÙ cuộc gặp gỡ giữa người và trăng không hẹn trước, người vẫn bất ngờ nhận ra “đột ngột vầng trăng tròn”. Phải đến khi đèn tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra vầng trăng tròn”. Dù cuộc sống đổi thay, lòng người đổi thay, trăng vẫn thủy chung, tình nghĩa, vẫn là thứ ánh sáng trong ngần như xưa
-Trong cuộc gặp gỡ đột ngột, bất ngờ, vầng trăng đã làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc:
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Người ngửa mặt nhìn trăng: “Ngửa mặt lên nhìn mặt” trăng và người đã có cuộc đối diện đàm tâm. Đó là khoảnh khắc bất ngờ gặp lại cố nhân. Nhìn trăng, lòng người xúc động trào dâng: “có cái gi rưng rưng”. Cùng với trạng thái rưng rưng, tất cả những kỉ niệm hồn nhiên tuổi ấu thơ, kỉ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu nơi rừng sâu cũng ùa về.
Như vậy, vầng trăng hiện tại đánh thức quá khứ tươi đẹp đã ngủ yên trong lòng người “từ hồi về thành phố”. Trăng là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình chẳng thể mờ phai, luôn tròn đầy, bất diệt.
c, Vầng trăng suy ngẫm
-Trong niềm xúc động rưng rưng, người lính nhìn trăng và suy ngẫm. Trăng vẫn tròn, vẫn sáng đẹp, vẫn thứ ánh sáng rực rỡ trong ngần, vẫn vẹn nguyên, thủy chung không hề hao khuyết.
+ “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ,vẹn nguyên chẳng thể phai mờ
+ “Ánh trăng im phăng phắc” : Phép nhân hóa khiến vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình chỉ lặng lẽ, vị tha, bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ.
-Sự bao dung nhưng cũng rất nghiêm khắc của vầng trăng đã có sức cảm hóa lớn khiến con người “giật mình” nhìn lại mình, nhận ra sự vô tình không nên có, sự lãng quên đáng trách của mình. Thấy trăng tròn bao nhiêu, người nhận ra mình hao khuyết bấy nhiêu.
Ánh sáng đẹp đẽ, vô nguồn của vầng trăng không chỉ soi tỏ không gian đêm thành phố, soi vào “phòn buyn – đinh tối om”, gọi về những kỉ niệm người đã vô tình quên lãng mà còn cảm hóa, đánh thức lương tri, lẽ sống làm người, nhắc nhở con người phải sống ân tình, thủy chung cùng quá khứ. Ánh trăng là ánh sáng của lương tri, ánh sáng của đạo làm người
3, Kết luận:
-Với thể thơ năm trữ, ngôn ngữ thơ giản dị mà hàm xúc sâu xa, kết hợp hài hòa giữa tự sự , trữ tình và suy ngẫm sâu lắng, Ánh trăng là một câu chuyện đời thường được kể bằng thơ rất giàu ý nghĩa triết lí
ĐỀ 2. Cảm nhận về vẻ đẹp của đoạn thơ
- -Thời gian, không gian, sự việc diễn biến bất thường “thình lình đèn điện tắt” là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Vầng trăng tròn bên ngoài cửa sổ đối lập với “phòng buyn – đinh tối om”. Vầng trăng xuất hiện đột ngột trong hoàn cảnh ấy gợi ra bao cảm xúc trong lòng người.
- -Vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn tri kỉ của một thời, trong phút chốc xuất hiện làm dậy lên trong lòng người lính bao kỉ niệm của những năm tháng gian lao, bao hình ảnh của thiên nhiên đất nước bình dị, hiền hậu: “như là đồng là bể - như là sông là rừng”
- -Vầng trăng là hình ảnh của quá khứ tình nghĩa, là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của cuộc sống. “Trăng cứ tròn vành vạnh” là hình ảnh của quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể mờ phai. Hình ảnh nhân hóa “ánh trăng im phăng phắc” chính là sự vị tha, độ lượng, sự nghiêm khắc nhắc nhở người lính và mỗi người về lẽ sống ở đời. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên quá khứ nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì vẫn tròn đầy bất diệt
- -Cái “giật mình” của nhân vật trữ tình ở cuối bài thơ là cái giật mình của lương tri, là lời tự nhắc nhở thấm thía về thía độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa. Đoạn thơ khéo léo gợi ra bài học về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay
- -Đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” đã trở thành truyền thống tốt đẹp, là nét đẹp nhân văn của người Việt Nam ta xưa nay. Chính nét đẹp đó tạo lên sức mạnh giúp ta vượt qua mọi khó khăn để chiến đấu và chiến thắng, xây dựng và phát triển
- -Trong xã hội hôm nay, khi ta đang dừng bước hội nhập và phát triển, xây dựng một xã hội văn minh, ấm no và hạnh phúc, hành trang ta mang theo còn có cả một quá khứ hào hùng mà cha ông ta để lại, ta không được phép lãng quên. Đó cũng là ý nghĩa sâu xa mà đoạn thơ đã gợi ra.
- -Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại cũng làm con người dễ quên những gian khổ, vất vả, hi sinh đã qua. Nếu ta thờ ơ, quay lưng lại hoặc lãng quên quá khứ thì ta chẳng thể thành người tốt, ta lại nhận được sự phản bội từ thế hệ tương lai
Bài mẫu
Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng - người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (Vọng nguyệt- NKTT). Và với bài thơ “Ánh trăng”, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.
Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ trữ tình của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ . Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của
Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Ba khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc:
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dài, hùng vĩ.
Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng.
Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm không ngờ. Tình huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đã quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại.
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn-đinh tối om vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương, hối hả của tác giả để đi tìm nguồn sáng. Và hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ mà tự nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời, chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng kia. Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng.
Vầng trăng đến đột ngột đã làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn đổi khác.
Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa.
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng như là đồng là bể như là sông là rừng
Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc, dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động, cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm
hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa. Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng
là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về
đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.
Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.
- V. ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN CHỦ ĐỀ.
- ĐỀ BÀI 1:
GỢI Ý:
STT | Thao tác | Nội dung |
1 | Giải thích | - “Uống nước” là sự thừa hưởng những thành quả vật chất và tinh thần. “Nhớ nguồn” thể hiện lòng biết ơn, sự tri ân, ghi nhớ những người đã giúp đỡ chúng ta được hưởng những thành quả đó. - Cả câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” nhắc nhở mỗi người lối sống ân nghĩa, thủy chung; trân trọng và biết ơn với quá khứ, với những thế hệ đi trước. |
2 | Biểu hiện | Hiện nay, trên bước đường hội nhập quốc tế, những ngày lễ truyền thống như ngày thương binh liệt sĩ 27/7, ngày 20/11, ngày giỗ tổ Hùng Vương hay ngày Tết âm lịch,…những ngày để thế hệ hiện tại, thế hệ con cháu hướng về quá khứ, hướng về gia đình, thầy cô chưa bao giờ bị lãng quên. Hay những gia đình chính sách, người có công với cách mạng luôn luôn được sự quan tâm từ cộng đồng, xã hội… Đó đều là những hành động thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, thể hiện một tình cảm đẹp, một đạo lí đẹp của dân tộc. |
3 | Phân tích chứng minh | Tại sao chúng ta phải “Uống nước nhớ nguồn”? - Nhỏ bé như hạt gạo, hay lớn lao như cuộc sống hòa bình, tự do chúng ta đang tận hưởng, tất cả đều bắt nguồn từ một quá trình lao động miệt mài và cả sự hi sinh máu xương,tính mạng của thệ hệ đi trước. Không có điều gì tự nhiên mà có, như cây có cội, như sông có nguồn, như con người có tổ tiên, và quá khứ. Bởi vậy chúng ta phải biết quý trọng, biết ơn những người đã giúp đỡ ta, cho ta những gì ta đang có. - “Uống nước nhớ nguồn” giúp ta đoàn kết gắn bó và yêu thương nhau qua nhiều thế hệ. ( Dẫn chứng: Con cháu thể hiện lòng biết ơn, tình yêu thương với ông bà cha mẹ. Vào những ngày nghỉ lễ, hay dịp Tết, dù bận rộn đến đâu cũng trở về thăm gia đình, đó là việc làm đơn giản nhưng rất có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương, lòng nhớ ơn đến các bậc sinh thành ) - Truyền thống đạo lý tốt đẹp sẽ được gìn giữ muôn đời, và tạo nên sức mạnh của dân tộc. ( Dẫn chứng: Trong chiến tranh, thế hệ này ngã xuống thế hệ sau tiếp nối đứng lên để bảo vệ độc lập, tự do đất nước. Và trong hòa bình, chúng ta biết trân trọng, giữ gìn cuộc sống độc lập tự do ấy, tiếp nối truyền thống ngàn đời của cha ông dành cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ) |
4 | Phê phán | Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn đâu đó một số cá nhân có lối sống ích kỉ, ăn cháo đá bát, vong ân bội nghĩa, lãng quên đi quá khứ, chỉ biết hưởng thụ mà quên mất nguồn cội. Chúng ta đau lòng trước những tin tức như con bỏ rơi bố mẹ, đối xử không có nhân tính với bố mẹ, cô gái ngồi lên bia mộ chụp ảnh…đó đều là những hành động đáng bị lên án và phê phán. |
5 | Liên hệ bản thân | - Thấm nhuần ý nghĩa của câu tục ngữ, ta thấy: "Uống nước nhớ nguồn" là phẩm chất cần có của con người. Mỗi chúng ta cần có trách nhiệm gìn giữ, vun đắp, phát huy truyền thống đạo lí tốt đẹp đó. - Ở lứa tuổi học sinh, chúng ta chưa làm ra của cải vất chất, tinh thần cho xã hội, do đó hãy bày tỏ lòng biết ơn chân thành với cha mẹ, thầy cô bằng lời nói, việc làm cụ thể của mình: phấn đấu học tập, rèn luyện và tu dưỡng thành con ngoan, trò giỏi để trở thành những công dân có ích cho xã hội sau này . |
Bài viết tham khảo:
Đất nước ta trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Trang lịch sử hào hùng đó được viết nên bằng máu và nước mắt của bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ. Để cho con cháu được tận hưởng “trái ngọt” như ngày hôm nay. Chúng ta những người đi sau cần phải biết phát huy truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Bởi nó chính là gốc rễ cội nguồn của mọi giá trị đạo đức nhân văn trong xã hội.
Uống nước nhớ nguồn là một tinh thần đạo đức quý báu của dân tộc ta nó được lưu truyền và tiếp nối qua bao nhiêu thế hệ. Trở thành kim chỉ nam xuyên suốt trong mấy ngàn năm lịch sử. Vậy uống nước nhớ nguồn nghĩa là gì? Uống nước là một hành động thể hiện sự hưởng thụ thành quả. “Nguồn” chính là nơi bắt nguồn của những con sông, con suối, nơi khởi nguồn cho tất cả những mạch nước mát lành nuôi sự sống. Sở dĩ có câu tục ngữ trên vì nó mang ý nghĩa răn đe dạy dỗ con cháu sống phải biết nhớ về quá khứ, nhớ đến cha ông những lớp người đã hi sinh cuộc đời để làm đẹp cho thế hệ mai sau. Đây cũng là một phạm trù đạo đức để đánh giá một con người. Bởi sâu trong tâm khảm ai cũng có trong mình một tư tưởng truyền thống sâu sắc.
Con người không phải ngẫu nhiên mà sinh ra và lớn lên được. Đó là một quá trình dài đằng đẵng nhờ công ơn sinh thành của cha mẹ, công lao dạy dỗ của thầy cô. Chính vì thế chúng ta hãy biết ơn những người thân xung quanh mình, bằng hành động bằng suy nghĩ thực tế trong đời sống hàng ngày. Trên thực tế hiện nay truyền thống uống nước nhớ nguồn đã và đang được lưu truyền và phát huy vô cùng mạnh mẽ bằng những bằng chứng thiết thực như: Mỗi năm vào ngày 27/7 ( ngày thương binh liệt sĩ), toàn dân lại dành những giây phút thiêng liêng để tưởng nhớ những vị anh hùng dân tộc, những con người đã xả thân vì độc lập tự do của tổ quốc. Đó không chỉ là ngày chúng ta nhớ về các anh hùng dân tộc, mà còn là dịp các con cháu ôn lại những trang sử hào hùng bi tráng, những năm tháng “đầy đau thương nhưng cũng đầy vẻ vang”. Không chỉ trong những dịp lễ lớn mang tính dân tộc mà còn ngay trong đời sống gia đình truyền thống “uống nước nhớ nguồn” cũng được phát huy sâu rộng. Hàng năm chúng ta có rất nhiều những dịp lễ tết, giỗ chạp mà tiêu biểu nhất đó là dịp Tết nguyên đán. Đó không chỉ là thời gian kết thúc một năm cũ mở ra một năm mới với nhiều khởi sắc mà nó còn là những ngày con cháu tưởng nhớ về cội nguồn cha ông của mình.
Các lễ hội truyền thống khắp cả nước diễn ra quanh năm cũng là một cách thức để con cháu thể hiện niềm biết ơn sâu sắc tới những người đã khai hoang mở lối cho thế hệ sau. Thế nhưng bên cạnh những hành động thể hiện truyền thống vô cùng quý báu đó cũng có không ít những cá nhân những con người đang ngày một đi ngược lại với tư tưởng đạo lí. Con đánh cha, cháu mắng chửi ông bà còn diễn ra rất nhiều. Tuy nhiên nó chỉ là những tồn tại rất nhỏ bên trong một tập thể vô cùng nhân văn đó. Nhiệm vụ của con cháu chúng ta những người đi sau hưởng thụ những “trái ngọt” của thế hệ trước là phải biết phát huy và tiếp nối truyền thống quý báu của dân tộc. Bằng những hành động nhỏ nhất hàng ngày như giúp đỡ cha mẹ, ông bà học tập thật tốt, vâng lời thầy cô… Hãy hành động để góp phần khiến cho xã hội này trở nên văn minh hơn và tốt đẹp hơn.
Uống nước nhớ nguồn là một trong những tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc. Nó sẽ mãi mãi lưu truyền và tỏa sáng qua mọi thế hệ. Hãy khiến cho xã hội, cho môi trường sống của chúng ta trở nên văn minh và tốt đẹp hơn bằng những suy nghĩ hành động tích cực nhất
Đề bài 2:
Bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy) có ý nghĩa thức tỉnh lối sống ân nghĩa trong mỗi người chúng ta. Em hãy viết đoạn tổng – phân – hợp, 2/3 trang giấy thi, bày tỏ suy nghĩ của mình về thế hệ cha ông – những người đã làm nên lịch sử, đã hi sinh cuộc đời mình cho quê hương đất nước.
Bài viết tham khảo:
Bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy) với ý nghĩa thức tỉnh lối sống ân nghĩa trong mỗi người chúng ta đã gợi cho chúng ta nhớ về thế hệ cha ông – những người đã làm nên lịch sử, đã hi sinh cuộc đời mình cho quê hương đất nước. Thế hệ cha ông là tập thể quần chúng nhân dân, những người đi trước, là tổ tiên của chúng ta từ đời nay qua đời khác. Đó là thế hệ đã tạo ra các giá trị vật chất và truyền thống văn hóa tinh thần, tập quán phong tục, văn hiến cho các thế hệ sau kế thừa. Nói cách khác, từ thuở khai thiên lập địa cha ông ta đã thành lập, xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước. Lịch sử 4000 năm của dân tộc ta là lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bờ cõi nước nhà liên tục bị ngoại bang nhòm ngó và xâm phạm. Trong cuộc trường chinh vạn dặm bảo vệ bờ cõi, cha ông ta đã đổi bao máu xương. Hành trình viết tên Việt Nam lên bản đồ thế giới là hành trình của mồ hôi, công sức, nước mắt, nhiệt huyết và biết bao nhọc nhằn lam lũ của người dân Việt Nam qua hàng ngàn thế hệ. Tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió vẫn vững vàng qua bao cuộc bể dâu bởi
“Cha ông ta đâu bố trí những binh đoàn
Trên vai đỉnh Trường Sơn, dọc bờ Đông Hải
Tên tổ quốc vang vang ngoài bờ cõi
Ta đội triệu tấn bom để hái mặt trời hồng”
Cha ông ta là những người “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ đã làm nên đất nước bằng cách hi sinh, hóa thân cuộc đời mình vào hình sông dáng núi, viết lên lịch sử đáng tự hào của dân tộc. Ý thức được những hi sinh của cha ông trong quá khứ, mỗi chúng ta cần thức tỉnh lối sống ân nghĩa, thủy chung, biết ơn quá khứ, biết ơn những người đi trước. Trong thực tế các phong trào đền ơn đáp nghĩa, ngày kỉ niệm thương binh liệt sĩ, phong tặng bà mẹ Việt Nam anh hùng,… là cách thế hệ đi sau đã và đang thể hiện và nhắc nhở con cháu lòng biết ơn với tổ tiên. Tuy nhiên, vẫn có một số ít những người sống thờ ơ, ích kỉ, quay lưng với quá khứ, với dân tộc. Ý thức được lối sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ là một biểu hiện của lòng yêu nước, một cách thiết thực nhất với học sinh, thế hệ trẻ là cần cố gắng học tập và rèn luyện để hiểu biết về lịch sử dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, trở thành người có ích, góp phần xây dựng đất nước, sống xứng đáng với những gì đã cho và nhận.
Đề bài 3 : Suy nghĩ về bao dung (Từ bài “Ánh trăng” – Nguyễn Duy…)
Bài làm:
Con người thường không tránh khỏi những vấp ngã, lỗi lầm trong cuộc sống. Để có thể đứng lên, bước tiếp ngoài nghị lực của bản thân, người ấy cần cả sự bao dung của người khác và của chính bản thân mình. Nói như Pi-e Bê-noa có câu: “Bao dung dung là đức tính đem lợi về cho cả ta lẫn người khác”.
Bao dung là lòng rộng lượng, khoan dung , thương yêu con người, sẵn sàng tha thứ, không khắt khe, không trừng phạt, hoặc sẵn sàng xoá bỏ những lỗi lầm mà người khác thường là người dưới đã phạm phải.
Trong cuộc sống khó tránh khỏi những va chạm, xung đột trong lời nói, hay việc làm, hành động có thể dẫn tới những hậu quả đáng tiếc nếu ta không biết nhìn nhận lại chính mình, xem xét khách quan sự việc, chủ động giảng hòa, sẵn sàng tha thứ, bắt tay cởi bỏ oán thù.
Tha thứ cho lỗi lầm của người khác có tác dụng cảm hóa người phạm phải sai lầm. Họ thấy lòng bao dung của ta mà ăn năn, hối hận, sửa chữa lỗi lầm. Lòng khoan dung của một người còn có thể tiếp thêm nghị lực sống cho nhiều người khác. “Sự khoan dung là món trang sức của đức hạnh”. Trong tác phẩm “Những người khốn khổ” của V.Huy-go, chẳng phải tấm lòng bao dung đức độ của Cha xứ như một tia sáng soi rõ, giúp Giăng-văng-giăng tìm lại được con người thật của mình trước khi bị chính cái tòa án với những bản án khắc nghiệt điên rồ biến ông thành kẻ trộm cắp xấu xa, một người tù khổ sai khốn cùng. Và rồi ông đã bắt đầu lại cuộc đời dựa trên chính lòng bao dung mà ông đã được con người cao thượng kia trao tặng trở thành một ngài thị trưởng đáng kính được người người tán thưởng. Rồi: “đem đại nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân để thay cường bạo” những câu thơ hùng hồn đó chẳng phải đã in sâu vào lòng người Việt ta từ bao đời nay, đã trở thành phẩm chất quý giá, tài sản, dũng khí sắc bén thể hiện qua từng cuộc chiến thắng giặc ngoại xâm?
Một người có tấm lòng bao dung sẽ không bao giờ chấp nhặt những chuyện cỏn con mà người khác đã gây ra cho mình. Đó là cách ứng xử rộng lượng, có văn hóa, vị tha. Vì vậy, cuộc sống của họ trở nên thoải mái, họ thấy nhẹ lòng, tránh xa những suy nghĩ tiêu cực, không hẹp hòi hay có những suy nghĩ việc làm trả thù, độc ác và họ sống chan hòa với mọi người xung quanh mà không hề để tâm những mâu thuẫn, xung đột xảy ra. Nhờ thế mà họ sẽ được nhiều người yêu quý, cảm mến. “Người hạnh phúc nhất là người không bao giờ giận”.
Thói xấu của con người trong cuộc sống (ấn tượng, thành kiến, ích kỉ, hẹp hòi,…). Nếu dùng lòng khoan dung để đối nhân xử thế thì những thói xấu đó sẽ không có cơ hội tồn tại. Trong mối quan hệ xã hội, một điều nhịn bằng chín điều lành, hãy thử đặt mình vài địa vị đối phương, sẵn lòng bỏ qua những thiếu xót và cùng nhau bắt tay làm lại, mọi việc nhờ đó sẽ thuận buồm xuôi gió. Trong mối quan hệ thứ bậc, giả dụ như không có lòng khoan dung cao cả, tấm lòng vị tha to lớn vì thương yêu con cái, dù chúng có làm gì sai trái đi chăng nữa, cha mẹ vẫn luôn sẵn dang rộng cánh tay chào đón chúng trở về, con cái nhờ đó biết được tình thương yêu sâu rộng của đấng sinh thành luôn dành trọn cho mình, rồi biết chọn cho mình đường mình sẽ bước, rằng con cũng sẽ cho đi và chia sẻ với cả mọi người lòng khoan dung cha mẹ đã dành cho con; rồi trong mối quan hệ giữa anh em trong nhà, nhường nhịn nhau, luôn hòa thuận, luôn biết đùm bọc nhau mà sống thì ngoài trời dù tuyết rơi nhưng trong nhà vẫn ấm. Trong mối quan hệ vợ chồng “Chồng giận thì vợ bớt lời - Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê”. Có thế thì con người mới được sống trong sự bình an, sung sướng được.
Trong thực tế, chúng ta cần lên án những người sống nhỏ nhen, ích kỉ, không biết khoan dung và chúng ta cũng không nên khoan dung với cái xấu, cái ác.
Như vậy, nhận thức được bao dung là niềm vui to lớn, đích thực để trước hết là mình thanh thản, mỗi chúng ta phải rèn luyện lòng khoan dung, đối xử với người khác bằng tình yêu thương, biết tha thứ cho lỗi lầm của người khác cũng như chính bản thân mình. Khi người ta biết bao dung, cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn, tâm hồn mỗi người cũng trở nên thanh thản hơn, cuộc sống vì thế cũng trở nên đáng sống hơn. Hãy luôn nhớ “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung”.
*******************************************
CHUYÊN ĐỀ 10
VĂN BẢN: KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ
(Nguyễn Khoa Điềm)
I) Kiến thức cơ bản
1, Tác giả | - SN 1943, quê ở Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên- Huế - Ông là nhà thơ chiến sĩ và trở thành một trong những gương tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. - Thơ ông tập trung khám phá vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc. - Phong cách sáng tác: Thơ NKĐ có sự hòa quyện giữa cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng; mang đậm chất dân gian bằng việc vận dụng ca dao, dân ca, tục ngữ. |
2, Văn bản | * Hoàn cảnh sáng tác - Bài thơ sáng tác năm 1970, khi ông đang công tác ở chiến khu miền Tây tỉnh Thừa Thiên. Đây là thời kì ác liệt của cuộc khnags chiến chống Mĩ cứu nước. - Bài thơ được in trong tập thơ “ Đát và khát vọng” năm 1984. |
* Cấu trúc của bài thơ: - Lặp cấu trúc: Bài thơ được chia làm ba khúc ru, mỗi khúc lại được cấu thành bởi hai khổ thơ + Khổ đầu: Lời ru của nhà thơ + Khổ hai: Lời ru của mẹ -> Cấu trúc đặc biệt này đã tạo cho bố cục bài thơ trở nên cân đối và chặt chẽ. Đồng thời tạo cho âm điệu của khúc ru trở nên da diết, vấn vương tựa như tình cảm trìu mến của mẹ. - Lặp câu: + Mở đầu lời ru là những câu thơ: “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ” ++ Miêu tả một hình ảnh có thực, xuất hiện trong những năm tháng kháng chiến của đất nước: Những em bé ngủ trên lưng mẹ từ trong sản xuất tới chiến đấu. ++ Gợi về một hình ảnh vĩ đại của những người mẹ vùng cao, dù trong bom đạn chiến tranh vẫn bao bọc chở che cho những đứa con được khôn lớn, trưởng thành. + Mở đầu lời ru của mẹ là câu thơ: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi” -> Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ nói tiếp, đan cài một cách nhịp nhàng khiến cho lời ru thêm ngọt ngào, đằm thắm, lắng sâu. | |
Nghệ thuật - Giọng thủ thỉ tâm tình - Cách ngắt nhịp linh hoạt Nội dung Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là những lời tâm tình tha thiết của người mẹ Tà-ôi đối với đứa con yêu. Thông qua lời ru, người mẹ đã bộc lộ tình thương đằm thắm đối với người con, tình cảm gắn bó với quê hương, với cuộc sống lao động và chiến đấu dù còn nhiều những gian nan, vất vả. Đồng thời, mẹ còn gửi gắm những ước mơ về sự trưởng thành, khỏe mạnh, khôn lớn của con trở thành công dân của một đất nước tự do. | |
3, Ý nghĩa nhan đề | Đây là một bài thơ có nhan đề dài, độc đáo và chưá đựng hai hình ảnh nổi bật: - Hình ảnh khúc hát ru: + Gợi cho chúng ta liên tưởng đến giai điệu ngọt ngào, thiết tha trong nững bài hát ru của mẹ. + Gợi tấm lòng của những người bà, người mẹ. + Gợi âm hưởng của ca dao, dân ca với chất trữ tình sâu lắng, thiết tha. - Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ: + Gợi cho chúng ta liê tưởng đến những em bé được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đặc biệ. + Gợi không gian núi rừng- nơi đồng bào, dân tộc cư trú, sinh sống. + Gợi lên tình yêu thương và niềm tin, nghị lực của những bà mẹ vùng cao. |
II) Đọc- hiểu văn bản
1, Khúc hát ru thứ nhất | a, Lời ru của tác giả Hình ảnh người mẹ dân tộc Tà – ôi xuất hiện trong công việc: “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội Nhịp nhàng nghiêng giấc ngủ em nghiêng Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi Lưng đưa nôi vầ tim hát thành lời” Đó là một công việc vô cùng vất vả, nặng nhọc + Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” giàu giá trị tạo hình, gợi lên vóc dáng nghiêng nghiêng trong công việc của mẹ. + Hình ảnh “giấc ngủ em nghiêng” gợi về một giấc ngủ chao nghiêng, đung đưa theo nhịp chày của mẹ + Giữa những hình ảnh liệt kê: “mồ hôi, vai gầy” để đặc tả , tô đậm sự vất vả trong lao động của mẹ. -Giữa những công việc vất vả như thế, tình yêu thương mẹ dành cho con càng thêm sâu sắc: + Hình ảnh “vai mẹ gầy” gợi vóc dáng mẹ gầy, lam lũ của mẹ. Nhưng cũng chính đôi vai gầy ấy cũng chính là chiếc gối đưa con vào giấc ngủ êm + Câu thơ “lưng đưa nôi và tim hát thành lời” là hình ảnh mới lạ của bà mẹ Tà – ôi đưa nôi cho con bằng tấm lưng và hát bằng cả trái tim yêu thương sâu lắng. |
b, Lời ru của mẹ -Trong lời ru của mẹ, mẹ đã gửi gắm, mong muốn bao điều tốt đẹp cho con: Mẹ thương A – kay, mẹ thương bộ đội Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần Mai sau con lớn vung chày lún sân + Mẹ thương con, yêu con sâu sắc. Và tình thương của mẹ cứ lón dần và được chuyển hóa, mở rộng sang tình thương bộ đội. + Hình ảnh “hạt gạo trắng ngần” mẹ mơ gợi lên một cuộc sống no đủ, êm đềm sẽ đến với con. + Hình ảnh “vung chày lún sân” cho thấy mẹ không chỉ mong con có một cuộc sống no đủ mà còn ước con khỏe mạnh, lao động giỏi Khúc hát ru thứ nhất đã cho thấy tấm lòng bao la, vĩ đại của người mẹ, mẹ vừa là mẹ, vừa là gia đình, vừa là người mẹ của kháng chiến, của đất nước. | |
2, Khúc hát ru thứ hai | a, Lời ru của tác giả: Hình ảnh người mẹ Tà – ôi được tái hiện trong khung cảnh, không gian rộng lớn: Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka – lưi Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng -Hình ảnh “lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” là một hình ảnh tượng phản: + Gợi thiên nhiên, khung cảnh mênh mông, heo hút của núi rừng Ka – lưi + Gợi vóc dáng nhỏ bé, hao gầy của mẹ trong lao động, sản xuất.
+ “mặt trời của mẹ” là sự sáng tạo độc đáo, ẩn dụ cho con. Mẹ muốn nói con chính là nguồn sáng, là niềm hạnh phúc, sự ấm áp của đời mẹ. |
b, Lời ru của mẹ “Mẹ thương A – kay, mẹ thương làng đói Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka – lưi”
| |
3, Khúc hát ru thứ ba | a, Lời ru của tác giả Nếu như ở hai khúc ra trên, công việc chủ yếu ở hậu phương để phục vụ chiến đấu thì ở khúc ru thứ ba mẹ đang ở tư thế trực tiếp chiến đấu. Mẹ đang chuyển lán, mẹ đang đạp rừng Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông Mẹ địu em đi để giành trận cuối Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn”
+ Cho thấy sự lớn mạnh, trưởng thành vượt bậc của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chúng ta tập hợp được một lực lược đông đảo, thuộc mọi tầng lớp từ già trẻ, gái trai cùng tham gia chiến đấu. -Cấu trúc “từ ... đến ...” gợi sự trưởng thành của anh em cu Tai từ trên lưng mẹ đã khôn lớn, đủ khỏe để chiến đấu - Nhịp thơ 4/4 nhanh, mạnh gợi không khí hào hùng, sôi động của cuộc kháng chiến |
b, Lời ru của mẹ Mẹ thương A – kay, mẹ thương đất nước Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người tự do ...”
+ Ước mơ tha thiết nhất, mãnh liệt nhất của mẹ là con được “làm người tự do”, sống trong một dân tộc làm chủ được vận mệnh của mình
|
III. BÀI TẬP
Bài tập1: Trình bày bằng một đoạn văn ngắn cảm nghĩ của em về hình ảnh người mẹ Tà Ôi trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.
* Gợi ý:
1. Yêu cầu về nội dung: Có thể nêu một số cảm nghĩ về hình ảnh người mẹ Tà Ôi: trong bài thơ tương đối tự do, nhưng cần làm rõ cảm nghĩ về những tình cảm sau của người mẹ:
- Người mẹ Tà-ôi làm những công việc vất vả: giã gạo, phát rẫy, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng.
- Tình cảm của mẹ: Tình thương con hoà quyện trong tình thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước. Chính tình thương ấy làm cho mẹ có sức mạnh bền bỉ, dẻo dai để nuôi những đứa con hiến dâng cho kháng chiến.
* Người mẹ Tà-ôi vô danh là tiêu biểu cho người mẹ Việt Nam anh hùng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước.
2. Yêu cầu về hình thức:
- Hình thức là một đoạn văn ngắn (có độ dài từ 7 đến 10 câu văn).
- Các câu liên kết chặt chẽ.
- Lời văn có cảm xúc.
- Diễn đạt lưu loát.
Bài tập 2. Trong bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, tại sao chỉ có một em cu Tai mà tác giả lại viết là “ những em bé lớn trên lưng mẹ”? Nhan đề bài thơ có ý nghĩa như thế nào?
* Gợi ý:
- Chỉ có một em cu Tai, nhưng tác giả lại viết là những em bé. Đây là cách khái quát ở trong thơ. Em cu Tai là một hình ảnh cụ thể, nhưng có bao nhiêu em bé ở rừng đã lớn trên lưng của các bà mẹ người dân tộc Tà- ôi. Cũng có bao nhiêu bà mẹ ngoài đời, nhưng nhà thơ lại chỉ viết một từ mẹ mà thôi. Một em bé để nói rất nhiều em bé. Một bà mẹ , nhưng là để nói về nhiều người mẹ.
- Nhan đề bài thơ là một ý thơ. Bài thơ ca ngợi người mẹ miền núi, cũng là người mẹ Việt Nam, kết hợp lòng thương con, yêu con với yêu thương bộ đội, yêu thương dân làng, yêu nước. Hình ảnh người mẹ là hình ảnh tượng trưng đã nuôi lớn những người con của mình để hiến dâng cho cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bài tập 3. Có bao nhiêu người ru trong bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”? Khúc hát này có điều gì đặc biệt về nhịp điệu, nội dung tình cảm?
*Gợi ý:
- Có hai người ru em cu Tai, một là lời ru của tác giả, một lời ru khác là của mẹ em “ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời. Hai lời ru này hoà quyện vào nhau trong suốt bài thơ tạo thành khúc hát ru độc đáo. Hai lời ru trong một khúc hát. Mỗi lời ru gồm hai phần: lời ru của tác giả và lời ru của mẹ. Lời ru của tác giả kể ra những công việc mẹ làm. Lời ru của mẹ mong ước về em và về kết quả công việc đó.
- Điều đặc biệt của khúc hát:
+ Về nhịp điệu: Âm điệu có phần lặp lại, nhưng cũng có phần phát triển làm cho lời ru vừa du dương, lại vừa biến hoá.
+ Nội dung tình cảm: Không phải là lời ru buồn quen thuộc với những sung chát đào chua, với những con cò và cơn mưa mù mịt. Nội dung lời ru là những công việc của một bà mẹ kháng chiến: giã gạo nuôi bộ đội, phát rẫy tỉa bắp lấy lương thực cho kháng chiến, chuyyển lán, đạp rừng đánh Mỹ. Tình cảm không chỉ dành cho con trai bé bỏng, mà còn dành cho bộ đội, cho dân làng, cho lãnh tụ và cho đất nước. Đấy chính là những nét mới mẻ, độc đáo của bài hát ru.
Bài tập 4. Hãy nêu tư tưởng chủ đề của bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
* Gợi ý:
Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên. Bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm và tấm lòng trân trọng, tác giả ca ngợi người mẹ dân tộc Tà-ôiyêu con, thương làng, thương bộ đội, yêu nước đã làm những công việc phục vụ cho cuộc kháng chiến và nuôi những người con hiến dâng cho cuộc kháng chiến cứu nước.
Bài tập 5. Cho câu thơ sau:
“…Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng…”
Phân biệt nghĩa của từ “nghiêng” trong câu thơ trên? Cho biết đó là hiện tượng gì trong tiếng Việt?
* Gợi ý:
- Từ “nghiêng” trong “giấc ngủ em nghiêng” được sử dụng với nghĩa chuyển miêu tả trạng thái của giấc ngủ, đứa trẻ trên lưng mẹ ngủ không yên giấc, nghiêng theo nhịp chày giã gạo, nỗi vất vả của người mẹ lan truyền sang đứa con, em cu Tai chia sẻ gian truân cùng với mẹ.
- Đây là hiện tượng chuyển nghĩa của từ trong tiếng Việt.
Bài tập 6. Trong bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, giữa từng lời ru của người mẹ với hoàn cảnh, công việc mà mẹ đang làm được miêu tả trước đó có mối quan hệ thật chặt chẽ. Hãy chứng minh điều đó.
*Gợi ý:
- Cần đọc kĩ từng đoạn thơ để chỉ ra hoàn cảnh cụ thể, công việc mà người mẹ ở chiến khu đang làm.
- Phân tích nội dung cảm xúc, ước vọng được gửi vào từng khúc ru.
- Chứng minh hai phần này có mối liên hệ chặt chẽ và tự nhiên:
+ Vì đang giã gạo nuôi bộ đội nên mẹ ước: “ Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần – Mai sau con lớn vung chày lún sân”.
+ Vì đang tỉa bắp trên núi nên mẹ ước: “ Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười ka-lưi”.
+ Vì đang chuyển lán, đạp rừng, đang địu con đi để giành trận cuối nên mẹ ước: “ Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ – Mai sau con lớn làm người tự do”.
Bài tập 7. Đọc bài thơ: “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm, đối chiếu với bài thơ “ Con cò” của Chế Lan Viên, chỉ ra cách vận dụng lời ru ở mỗi bài thơ có điểm gì giống và khác nhau?
* Gợi ý:
Cả hai bài thơ đều thấm đẫm trong âm điệu con của người mẹ, nhưng hai bài thơ lại có những điểm khác nhau:
- Bà mẹ Tà- ôi ru trực tiếp đứa con, trực tiếp nói lên tình hình người mẹ. Còn bà mẹ trong “Con cò” của Chế Lan Viên gửi gắm tình cảm suy nghĩ về con qua hình ảnh con cò trong ca dao.
- Thơ Nguyễn Khoa Điềm : Thể thơ 8 chữ. Thơ Chế Lan Viên: Thể thơ tự do.
- Hình ảnh con cò ở bài thơ của Chế Lan Viên thay đổi theo suy nghĩa, tình cảm, mang tính đa nghĩa. Còn ở bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” hình ảnh người mẹ Tà- ôi được nâng dần lên từ người mẹ thương con đến người mẹ- chiến sĩ.
- Ở bài thơ “Con cò”, người mẹ ru con trong cuộc sống hoà bình trên miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở “Khúc hát ru nhưng em bé lớn trên lưng mẹ” người mẹ - chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt của dân tộc.
Bài tập 8. Trong bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” có câu thơ:
“Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.”
a/ Em hiểu hai câu thơ trên như thế nào?
b/ Chép chính xác năm câu thơ trước hai câu thơ trên.
c/ Có kiến cho rằng trong tác phẩm không chỉ có một lời ru. Theo em điều đó có đúng không?
d/ Viết một đoạn văn 10 câu theo cách tổng - phân- hợp trong đó sử dụng câu hỏi tu từ, câu tình thái để phân tích đoạn thơ em vừa chép.
* Gợi ý:
a. Hai câu thơ trên vừa tả việc làm của mẹ, vừa biểu hiện tình cảm, xúc động của mẹ với con, với bộ đội cách mạng. Người mẹ nhỏ nhắn vừa giã gạo, vừa địu con trên lưng. Trong lúc lao động cật lực, mẹ vẫn chăm chú đến giấc ngủ của con. Câu thơ gợi lên hình ảnh người mẹ chịu thương, chịu khó trong lao động và vô cùng yêu con.
b. Chép năm câu thơ trước hai câu thơ trên:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi.
c/ Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” không chỉ có một lời ru: Bài thơ có ba khúc hát, mỗi khúc hát được tạo nên bằng hai lời ru ( Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ).
- Lời ru “ em” ( Tác giả nhập vai) được mở đầu bằng câu: “ Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi.”
- Lời ru “ con”( mẹ) được mở đầu bằng câu: “Ngủ ngoan a - kay ơi, ngủ ngoan a - kay hỡi”.
d. Viết đoạn văn:
* Nội dung.
- Câu chủ đề: Hình ảnh người mẹ Tà-ôi chịu thương chịu khó trong lao động và vô cùng yêu con.
- Các câu triển khai.
+ Mẹ vừa địu con trên lưng vừa giã gạo góp phần nuôi bộ đội ăn no đánh giặc.
+ Từ láy “ Nghiêng”: Giàu chất tạo hình và gợi nhiều xúc động, diễn tả dáng điệu nghiêng nghiêng vất vả của mẹ bên cối gạo đồng thời cũng giúp ta cảm nhận về giấc ngủ của em cu Tai. Trong giấc ngủ say nồng trên tấm lưng gầy của mẹ, cả người em cũng nghiêng nghiêng áp vào lưng mẹ và nhấp nhô lên xuống theo mỗi nhịp chày.
+ Hình ảnh “ giọt mồ hôi nóng hổi”: khiến ta cảm nhận được sự vất vả, chịu thương, chịu khó của mẹ.
+ Hình ảnh “ vai mẹ gầy” kết hợp với từ láy “ nhấp nhô“: không chỉ diễn tả sự thiếu thốn mà còn cho ta thấy tất cả sự cố gắng, nỗ lực, kiên trì, nhẫn nại trong công việc của mẹ.
+ Dù lao động cật lực nhưng mẹ vẫn chăm chú đến giấc ngủ của đứa con yêu.
- Câu kết: Hình ảnh người mẹ Tà - ôi cần cù, nhân hậu chính là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
* Hình thức:
- Đoạn văn viết theo kiểu tổng- phân- hợp.
- Sử dụng câu hỏi tu từ và tình thái.
Bài tập 9.
1. Chép chính xác những đoạn thơ diễn tả trực tiếp lời ru của bà mẹ Tà-ôi trong bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm.
2. Nêu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời của bài thơ này.
3. Em hiểu thế nào về hai câu thơ:
“ Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
4. Cho câu chủ đề: “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ không chỉ là lời ru thiết tha ngọt ngào của người mẹ mà còn thể hiện tình cảm ngọt ngào của nhân dân Tây Nguyên đối với cách mạng.”
Hãy viết tiếp câu trên bằng một đoạn văn theo kiểu tổng - phân - hợp có độ dài khoảng 10 câu. Trong đoạn có sử dụng câu cảm thán, câu hỏi tu từ.
* Gợi ý:
1. Những đoạn thơ diễn tả trực tiếp lời ru của bà mẹ Tà-ôi trong bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm:
“… Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…”
“…Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười ka-lưi…”
“…Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do…”
2. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: Bài thơ được sáng tác năm 1971, khi tác giả ở chiến khu Thừa Thiên. Lúc này cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta đang bước vào giai đoạn gay go quyết liệt nhất “ tất cả vì miền Nam ruột thịt”
3.- Mặt trời ở đây là một hình ảnh so sánh, ẩn dụ rất sáng tạo, giàu ý nghĩa thẩm mĩ, thể hiện một liên tưởng đẹp: “ mặt trời của bắp” là mặt trời của thiên nhiên vĩnh hằng, đem ánh sáng và sự sống cho muôn loài, đem lại sự tốt tươi cho ngô lúa, sắn khoai…Từ mặt trời của vũ trụ, nhà thơ đã liên tưởng đến “ mặt trời của mẹ”, đó là em cu Tai. Em là nguồn sống, nguồn hạnh phúc, niềm tự hào của mẹ.
- Ca ngợi lòng mẹ, tình yêu thương tha thiết của mẹ dành cho con thì đây là hai câu thơ tuyệt vời nhhất, nó vừa bình dị nhưng vừa thấm thía biết bao! Đứa con chính là mặt trời trong lòng mỗi người mẹ, một ẩn dụ sáng tạo làm rung động lòng người. Thế mới thấy tình mẫu tử thiêng liêng biết nhường nào.
4. Viết đoạn văn nghị luận:
* Nội dung:
- Câu chủ đề: “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” không chỉ là lời ru thiết tha, ngọt ngào của người mẹ mà còn thể hiện tình cảm của nhân dân Tây Nguyên đối với cách mạng.
- Các câu triển khai: Bài thơ có ba khúc ru thể hiện tình cảm yêu con tha thiết.
+ Ơ khúc ru thứ nhất tình yêu thương con gắn liền với tình yêu thương bộ đội.
+ Ơ khúc ru thứ hai tình yêu thương con gắn liền với tình yêu dân làng.
+ Ơ khúc ru thứ ba tình yêu thương con gắn liền với tình yêu đất nước đang anh dũng kháng chiến.
+ Trong ước mơ của người mẹ Tà-ôi, bên cạnh mong muốn đứa con trưởng thành, khát khao con được tự do, được thấy Bác Hồ còn là tình yêu sâu đậm mẹ dành cho kháng chiến, cho cách mạng, cho Bác Hồ.
- Câu kết: Phải chăng tình cảm của bà mẹ Tà-ôi chính là một biểu tượng đẹp đẽ cho tình cảm của nhân dân Tây Nguyên đối với cách mạng.
* Hình thức.
- Đoạn văn trình bày theo kiểu tổng - phân - hợp.
- Trong đoạn văn có sử dụng câu hỏi tu từ, câu cảm thán.
III. LUYỆN TẬP NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
ĐỀ BÀI1: Cảm nhận hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ?
Dàn bài:
1, Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, văn bản.
- Nêu vấn đề nghị luận: hình tượng người mẹ Tà-ôi.
2, Thân bài:
a) Cảm nhận về hình tượng người mẹ Tà-ôi
- Đó là một người mẹ đảm đang, giàu nghị lực.
+ Bà mẹ luôn được miêu tả trong trạng thái làm việc: “ giã gạo nuôi bộ đội”, “ tỉa bắp trên núi Ka-lưi”, “ đi chuyển lán, đi đạp rừng.”
+ Dù công việc nhọc nhằn, vất vả, khổ cực, vừa phải địu con vừa làm, “ mồ hôi mẹ rơi”, “ lưng núi thì to, lưng mẹ thì nhỏ”, thậm chí là nguy hiểm “ Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối” thì người mẹ vẫn không quản ngại, vẫn chăm chỉ, nỗ lực.
- Đó là một người mẹ giàu tình yêu thương con.
+ Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mẹ vẫn có bên cạnh và mong cho con giấc ngủ ngon “ Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ.” ( điệp 3 lần).
+ Lưng mẹ là chiếc nôi, mẹ ru con bằng tiếng hát từ trái tim: “ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.”
+ Mẹ yêu con, ví con như “mặt trời”- con là nguồn sống, là niềm hi vọng soi sáng cuộc đời mẹ. Hình ảnh ẩn dụ “ mặt trời của mẹ” thực sự gây ấn tượng về tình mẹ sâu sắc, bao la.
+ Tình yêu thương còn bộc lộ trực tiếp qua lời ru: “ Mẹ thương a-kay”( điệp ngữ 3 lần).
+ Mẹ luôn mong ước cho con những điều tốt đẹp nhất:
. Mong con lớn lên có sức khỏe phi thường “ Mai sau con lớn vung chày lún sân”/ “ Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”
. Mong con lớn lên trở thành “người tự do.
-> Tình yêu con của người mẹ Tà-ôi thật lớn lao, xúc động.
- Đó còn là bà mẹ yêu nước, có tinh thần cách mạng cao.
+ Mẹ tham gia vào kháng chiến cả trực tiếp và gián tiếp : “ giã gạo nuôi bộ đội”, “ chuyển lán”, “ đạp rừng”, “ đi giành trận cuối”, “ mẹ “ đến chiến trường”, mẹ “ vào Trường Sơn”.
+ Tình yêu nước được bộc lộ trực tiếp qua lời ru: “ mẹ thương bộ đội”, “ mẹ thương làng đói”, “ mẹ thương đất nước”.
+ Khát vọng của mẹ đều hướng tới những điều tốt đẹp cho kháng chiến. Cho đất nước:” Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần”, “ Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”, mong đất nước sớm được độc lập, tự do.
+ Lòng kính yêu đối với lãnh tụ của bà mẹ cũng là một biểu hiện đẹp của tinh thần yêu nước: “ Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ”
-> Bà mẹ Tà- ôi mang những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam và tinh thần thời đại: vừa yêu thương con , vừa yêu đất nước và giàu tinh thần chiến đấu.
b) Nghệ thuật xây dựng hình tượng
- Đặt bà mẹ trong hoàn cảnh đặc biệt- chiến tranh, đói nghèo, vất vả để làm nổi bật hơn vẻ đẹp của người mẹ dân tộc thiểu số.
- Sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp tu từ: điệp ngữ, ẩn dụ, nói quá.
- Kết cấu lời ru thể hiện tình mẹ chan chứa, dạt dào trong toàn bài.
3, Kết bài
- Hình tượng người mẹ Tà-ôi là điển hình cho những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới.
- Khẳng dịnh sức sống của hình tượng nhân vật trong lòng độc giả.
Bài viết tham khảo:
Hình ảnh người mẹ Tà-Ôi được miêu tả trong bài thơ qua lời ru của tác giả Từ lời ru của tác giả tượng hình lên vóc dáng người mẹ được gắn với hoàn cảnh và công việc cụ thể qua từng đoạn thơ. Người mẹ vừa địu con vừa làm biết bao công việc của người dân nơi chiến khu, việc nhà mà cũng là việc nước, việc kháng chiến. Đầu tiên là mẹ giã gạo góp phần nuôi bộ đội kháng chiến. Công việc thì vất vả nhưng tình cảm mẹ giành cho con thì sâu nặng vô cùng:
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi mà em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời Hai mẹ con cùng chung một nhịp, theo nhịp chày giã, nhịp lao động của mẹ. Tấm thân của mẹ như dành trọn cho con: vai làm gối, lưng đưa nôi và tim hát thành lời ru cho con ngủ. Tiếp đến là hình ảnh người mẹ “Tỉa bắp trên núi Ka-lưi”, nghĩa là đang làm công việc lao động sản xuất của người dân ở chiến khu – bám đất bám làng chiến đấu. Sự chịu đựng gian khổ của người mẹ giữa núi rừng mênh mông, heo hút được thể hiện qua hình ảnh đối lập: “Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ”. Tấm lưng người mẹ nhỏ nhưng bền bỉ như lưng núi và kiêu hãnh hơn lưng núi vì con trai – mặt trời của mẹ nằm ở trên lưng:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Lối nói ẩn dụ đã diễn tả tình cảm mẹ yêu con thật cảm động. Mặt trời là kì vĩ, quý giá nhất trong vũ trụ này, thì con cũng là mặt trời của mẹ, là nguồn cảm xúc ấm áp vừa gần gũi, vừa thiêng liêng của đời mẹ, góp phần sưởi ấm lòng tin yêu, ý chí của mẹ trong cuộc sống, con là ánh sáng, là sự sống, là hi vọng của đời mẹ. Mặt trời con cứ trẻ trung và ngày càng rực rỡ trên thế gian này như mặt trời kia là vĩnh hằng. Từ trên sân nhà, mẹ ra nương rẫy rồi mẹ đến chiến trường: “Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng”. Mẹ cùng các anh trai, chị gái cầm súng, cầm chông, “mẹ địu em đi để dành trận cuối”. Mẹ đã trực tiếp tham gia chiến đấu để bảo vệ căn cứ, di chuyển lực lượng để kháng chiến lâu dài với lòng quyết tâm, tin tưởng vào thắng lợi. Và đứa con của mẹ cũng lớn dần, cùng mẹ góp phần vào kháng chiến:
Từ trên lưng mẹ em tới trường
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn
Phải chăng mẹ đã dùng tấm lưng làm nôi nuôi dưỡng những dũng sĩ cho cuộc kháng chiến của dân tộc và gánh chịu tất cả nỗi vất vả, gian lao để giành chiến thắng. Ta hiểu vì sao mà tác giả đặt nhan đề cho bài thơ là “Khúc hát ru của những em bé lớn trên lưng mẹ”. Qua ba đoạn thơ, lần lượt hiện lên những công việc và tấm lòng của người mẹ nơi chiến khu gian khổ. Người mẹ ấy bền bỉ, quyết tâm trong công việc lao động và kháng chiến thường ngày. Người mẹ ấy thắm thiết yêu con và nặng tình thương buôn làng, đất nước, khát khao độc lập, tự do. Vì thế, người mẹ ấy không chỉ riêng của Cu Tai mà còn là mẹ chiến sĩ, cao hơn là mẹ Tổ quốc. Tấm lòng và ước mong của người mẹ qua những lời ru trực tiếp của mẹ – “Tim hát thành lời” Người mẹ còn hiện lên rõ nét qua những lời ru của mẹ. Tình yêu con tha thiết, dịu dàng, âu yếm thể hiện ngay từ lời mở đầu mỗi khúc hát ru: “Ngủ ngoan A-kay ơi, ngủ ngoan A-kay hỡi”. Qua lời ru, ta thấy được sự nâng niu, âu yếm, vỗ về rất dịu dàng của người mẹ với con. Tình mẹ yêu con trải dài qua những lời ru nhắc đi nhắc lại như điệp khúc: “Mẹ thương A-kay, mẹ thương …”. Qua mỗi lời ru ở mỗi đoạn thơ, chiều dày tình cảm càng tăng lên, càng được nâng lên. Thương con, mẹ mong ước cho con bao điều. Nếu lời ru của tác giả hướng vào thực tại thì lời ru của mẹ lại hướng về tương lai, như là lời lí giải động lực tinh thần sâu xa giúp mẹ vượt qua gian lao, thử thách. Tình cảm và ước mong người mẹ giành cho con hòa với tình cảm và ước mong dành cho bộ đội, dân làng, đất nước. Giữa hoàn cảnh, công việc cụ thể của người mẹ ở từng đoạn thơ với tình cảm, ước mong của mẹ có sự liên hệ tự nhiên, chặt chẽ. Vì đang giã gạo nuôi bộ đội, mẹ ước: “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần. Mai sau con lớn vung chày lún sân”. Vì đang tỉa bắp trên núi nên mẹ ước “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều – Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi”. Vì đang đìu con đi để “giành trận cuối” nên mẹ ước “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ – Mai sau con lớn được làm tự do”, (lúc ấy, mơ được thấy Bác Hồ là mơ nước nhà thống nhất, Bắc Nam sum họp). Người mẹ mong cho con mau chóng lớn khôn để trở thành chàng trai cường tráng, mạnh mẽ trong lao động sản xuất (vung chày lún sân, phát mười Ka-lưi) và trở thành người lính chiến đấu vì nền độc lập, tự do thiêng liêng, để được làm người dân của một đát nước hòa bình. Ước mong của người mẹ gắn liền và hòa hợp tình yêu con với tình thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước. Ước mong ấy lớn dần lên, từ hạt gạo, hạt bắp đến tự do, từ cho con, cho đến quê hương, cho đất nước. Tình cảm và khát vọng của người mẹ ngày càng lớn rộng và hòa cùng công việc kháng chiến gian khổ, anh dũng của quê hương, đất nước. Điều thú vị là người mẹ gửi trọn niềm mong ước vào giấc mơ của đứa con: “Con mơ cho mẹ…”, mà không nói mẹ mơ điều này, điều kia. Mẹ mong con ngủ ngoan, có giấc ngủ sâu và những giấc mơ đẹp. Lặp lại cụm từ “Con mơ cho mẹ…”, lời ru càng thêm thiết tha, tin tưởng, tự hào.
Từ những hình ảnh, tấm lòng người mẹ Tà-Ôi, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, y chí chiến đấu cho độc lập tự do và khát vọng thống nhất nước nhà của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ đã khắc tạc nên bức tượng đài kì vĩ về người mẹ bình dị mà vĩ đại trong cuoovj kháng chiến oanh liệt của dân tộc. Khúc hát ru đã được phổ nhạc và góp một giai điệu đẹp vào bản trường ca bất tận về người mẹ Việt Nam.
V. NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LIÊN QUAN CHỦ ĐỀ
Đề bài1 : Từ bài thơ “ Khúc hát ru những em be lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm, hãy nêu suy nghĩ của em về tình mẫu tử.
I. Mở bài:
- Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận.
II. Thân bài:
a. Giải thích:
+ Tình mẫu tử là tình ruột thịt nồng nàn giữa người mẹ và đứa con của mình.
+ Nó còn là sự hi sinh vo điều kiện của người mẹ giành cho con.
+ Là sự yêu thương tôn kính của đứa con với người mẹ của mình.
b. Vai trò của tình mẫu tử:
+ Giúp đời sống tinh thần của ta đầy đủ, phong phú và ý nghĩa.
+ Giúp ta tránh khỏi những cám dỗ trong cuộc sống.
+ Là điểm tựa tinh thần, tiếp thêm cho ta sức mạnh trước mỗi khó khăn.
+ Là niềm tin, là động lực và là mục đích cho sự nỗ lực và khát khao sống của cá nhân.
c. Để giữ gìn tình mẫu tử:
+ Biết tôn trọng và khắc ghi công ơn mẹ.
+ Biết sống sao cho xứng đáng với tình mẹ.
+ Cần biết đón nhận, cởi mở với mẹ của mình để tạo điều kiện cho sự thấu hiểu của hai người.
III. Kết bài
- Khẳng định vai trò tình mẫu tử.
Bài viết tham khảo:
Có những lúc mỏi mệt trên đường đời, có những phút yếu lòng tưởng chừng như ngã gục, có những khi lỡ lầm đường lạc lối thì không ai khác chính mẹ là người đã nâng đỡ, đã tiếp thêm sức mạnh cho tôi trên con đường lắm chông gai ấy. Tình mẫu tử quả là thiêng liêng và bất diệt, tôi càng thấm thía hơn câu thơ của Chế Lan Viên:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đười lòng mẹ vẫn theo con.”
Tình mẫu tử là tình cảm ruột thịt thiêng liêng cao qúy giữa người mẹ và đứa con. Đó là sự hi sinh vô điều kiện của người mẹ vì hạnh phúc và thành công của con cái mình, là sự tôn trọng, biết ơn và khắc cốt ghi tâm tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, vô tận. Chúng ta với sự hữu hạn của tâm hồn và lí trí không bao giờ có thể cân đong đo đếm được giá trị thiêng liêng và vai trò to lớn của người mẹ trong hành trình trưởng thành, trong hành trình sống làm người của mỗi người.
Tình mẫu tử là suối nguồn yêu thương vĩ đại nhất mà nhân loại được ban tặng. Tình mẫu tử giúp ta được sống đầy đủ và phong phú hơn với những nguồn tình cảm vốn xứng đáng được hưởng đặc quyền như nhau. Hãy thử nhìn những số phận bất hạnh ngoài kia, những người mồ côi không nơi nương tựa đang khao khát tình mẹ, khoa khát được một lần áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, được mẹ gối đầu, được sà vào vòng tay âu yếm của mẹ mà khó biết bao. Tình mẹ là điểm tựa vững chắc và mạnh mẽ giúp ta vượt qua những chông gai của cuộc đời. Mỗi khi cuộc sống khó khăn, mỗi khi thất bại tưởng chừng gục ngã, bên cạnh mẹ và những lời động viên của mẹ là liều thuốc thần tiên tiếp thêm cho ta sức mạnh để soi đường chỉ lối, giúp ta vượt lên phía trước. Tình mẹ bao la luôn dung chứa và khoan dung, độ lượng, nhân hậu vô điều kiện với những sai lầm và tội lỗi ta gặp phải trong hành trình trưởng thành làm người. Mẹ là ánh sáng trên cao soi đời con những lúc tăm tối, là ánh mặt trời bừng sáng để sưởi ấm và nạp đầy năng lượng cho những bước đi của con. Có những điều có thể mất đi, có thể thay thế nhưng tình mẫu tử thì không gì bù lấp được nếu mất đi.
Vậy nên, mới nói tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả như vậy. Lòng mẹ bao la là bến đỗ bình yên nhất trong cuộc đời mỗi người. Thế nên phật dạy: “đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”. Đó là sự hi sinh, sự cắt máu và nhỏ những giọt nước mắt chắt ra từ an ruột để nuôi ta không lớn. Ấy vậy mà vẫn có những người sẵn sàng vất bỏ đi tình mẹ thiêng liêng ấy, có khi chỉ vì những giá trị vật chất nhất thời, những danh lợi tầm thường và ti tiện. Rất phổ biến trong xã hội hiện nay là tình trạng con cái hỗ láo, đánh đạp và phụ bạc cha mẹ, bản thân sống trong giàu có, sung túc nhưng lại bỏ mặc mẹ già neo đơn, cô độc không nơi nương tựa. Hơn nữa là việc sau khi thành đạt rồi họ lại cảm thấy coi thường và xấu hổ chỉ vì mẹ mình không sang trọng và giàu có như người khác, ảnh hưởng đến thanh danh của họ nên cũng sẵn sàng gửi mẹ đến viện dưỡng lão hoặc phó mặc như một kẻ vô tình, máu lạnh. Buồn biết bao khi những giọt mồ hôi, máu và nước mắt của những dấu chân mẹ in mọi nẻo đường, những giọt mồ hôi thấm từng hạt gạo, bông lúa để tảo tần nuôi con ăn học, thành đạt mà nay lại bị đối xử như vậy.
Hãy sống như một con người chân chính đó là việc trân trọng tình mẹ thiêng liêng, tôn thờ vai trò và tấm òng thiêng liêng của mẹ. Chính tình mẫu tử là nguồn cội, gốc rễ sâu xa nhất cho sự trưởng thành và phát triển bền vững của tâm hồn ta.
VĂN BẢN: LÀNG
( Kim Lân)
ĐÔI NÉT VỀ NHÀ VĂN KIM LÂN
Kim Lân và từng trang sách đong đầy bóng dáng đồng bằng Bắc Bộ
Là một nhà văn trải qua nhiều biến cố lịch sử và cả hai giai đoạn lớn trong nền văn học nước nhà, Kim Lân là một trong số ít những cây bút truyện ngắn dù để lại một số lượng tác phẩm không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng sáng tác nào của ông cũng rất hay và sâu sắc.
Bằng giọng văn chân thực, giản dị, Kim Lân đưa cả làng quê và con người Việt Nam vào những câu chuyện của mình cùng một tâm hồn đầy tình cảm gắn bó với quê hương đất nước.
Vài nét về cuộc đời của nhà văn Kim Lân
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920 tại thôn Phù Lưu hay còn gọi là làng chợ Dầu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Tuổi thơ của Kim Lân trải qua khá nhiều gian truân, cha đẻ của ông từng có hai đời vợ, người vợ cả mất sớm, người cha đi thêm bước nữa nhưng vì người này không sinh được con nên cha ông lại lấy thêm người vợ ba.
Người vợ ba sinh được hai đứa con trong đó có Kim Lân, không chỉ mang mặc cảm con vợ lẽ nhà văn còn mang nỗi niềm con của người dân ngụ cư vì mẹ ông là dân Hải Phòng.
Họa sĩ Nguyễn Thị Hiền con gái đầu trong bảy người con của nhà văn Kim Lân sau này có kể lại:
“Sinh thời thầy tôi thường mang nhiều mặc cảm.”
Nhà văn Kim Lân cho biết, thời trẻ ông là con nhà nghèo ở trong một cái làng giàu, người lại gầy gò xấu xí nên dù mê nhiều cô gái nhưng ông không dám tỏ bày.
Say mê người đẹp nhưng vì mặc cảm ông thường lánh họ, càng mê càng lánh, càng ít dám trò chuyện, thậm chí không dám nhìn vào mắt họ.
Kim Lân hay đến chơi nhà người bạn thân là Nguyễn Văn Bảy, một người cũng có máu văn nghệ ở làng Chợ Dầu sau này trở thành người tham gia sáng lập xưởng phim truyện Việt Nam đầu tiên được phong Nghệ sĩ nhân dân.
Bấy giờ, ông Nguyễn Văn Bảy có người em gái ruột khá xinh xắn, Kim Lân thấy thích mà không dám nói nhưng nhờ có người bạn ở giữa mối cho, thế là hai người nên duyên vợ chồng dù ông theo đuổi bà phải tới gần bốn năm trời.
Vợ ông nhà cũng nghèo lắm, đồng cảnh ngộ nên hai người dễ đồng cảm với nhau rồi càng trở nên thắm thiết.
“Tôi đi kháng chiến, viết văn, còn chuyện gia đình thì phó thác cho bà. Bà làm đủ thứ nghề, từ buôn bán hàng rong với từng quả mận quả cau quả bí quả bầu tới may vá, mở hàng bán nước kiếm từng đồng từng cắc để nuôi chồng nuôi con.”
Kim Lân được đánh giá sống rất nghĩa khí với bạn bè, con gái nhà văn kể:
“Khoảng sau 1980, một lần thầy tôi từ Hà Nội vào TP.HCM gặp tôi mà không hề báo trước. Thầy nói: “Con cho thầy ít tiền và ra chợ mua cho thầy ít quần áo”. Sau đó thầy tất tả quay ra Hà Nội dù tôi cố nài nỉ thầy ở lại chơi. Cuối cùng thầy mới kể: “Thầy cần tiền và quần áo không phải cho thầy mà để giúp một người bạn đang gặp khó khăn.”
Nhà văn Kim Lân luôn nhắc tới với mọi người về thế hệ nhà văn tinh hoa đồng thời cũng là những người bạn tốt của ông như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân mà theo ông là những người từng viết hay nhất.
Từ những trang viết mộc mạc trước Cách mạng tới cây bút truyện ngắn xuất sắc
Mang trong lòng một nỗi niềm nặng nề với cuộc sống, Kim Lân tìm tới viết lách để tự giải thoát cho chính mình và từ đó ông bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp văn chương. Trong một lần trả lời báo chí về lý do dẫn đến nghề cầm bút, nhà văn chia sẻ:
“Tôi ở trong gia đình bị khinh rẻ, ngoài xã hội cũng coi thường vì tôi là con vợ ba, một người ngụ cư. Chính vì muốn đòi cho mình sự công bằng với bè bạn, với làng xóm tôi chọn cách viết. Đây là cách để chứng tỏ mình không thua gì anh em, không thua gì ai. Các anh con nhà giàu, làm việc này việc kia, được học hành đến nơi đến chốn, còn tôi thì tôi viết.”
Quê hương ông là một làng quê nổi tiếng bởi truyền thống văn hóa yêu nước, nhiệt thành với cách mạng và có nhiều người thành danh. Nhà nghèo nên thuở ấu thơ Kim Lân chỉ học đến lớp nhất rồi phải đi phụ việc cho các thợ đàn anh như đi sơn quốc, khắc bình phong để giúp gia đình kiếm sống.
Có tính hiếu kì và luôn tìm cách quan sát suy ngẫm về mọi thứ xung quanh nên ngay từ khi còn nhỏ, Kim Lân đã có vốn hiểu biết tương đối phong phú về quê hương mình.
Kim Lân bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm 1941 tới 1944, ông được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận đi cùng vẻ đẹp chân quê bình dị với những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc Bộ.
Từng trang viết của người con sinh ra từ đồng ruộng này đều thấm đượm mùi hương của lúa mới, ngai ngái mùi rơm rạ, cay xè khói bếp và nhẹ nhàng cánh cò chao nhịp.
Đặc biệt, cũng với chất liệu của đề tài làng quê Việt Nam nơi những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan tưởng chừng đã khai thác trọn vẹn nơi này song cũng trên mảnh đất xưa cũ ấy nhà văn Kim Lân cũng đã xây cho mình ngôi nhà rất riêng, rất vững giữa lòng người và thách thức với thời gian.
“Chỉ với ba truyện Vợ Nhặt, Làng, Con chó xấu xí Kim Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn Việt Nam.”
Tuy học vấn theo kiểu trường lớp của ông không nhiều nhưng tài năng văn học thiên phú của ông đã được khẳng định. Trên nửa thế kỷ đã trôi qua, truyện ngắn Kim Lân vẫn được giảng dạy trong nhà trường và chọn làm đề thi văn của nhiều trường Đại học trong cả nước.
Kim Lân là mẫu nhà văn nâng niu từng con chữ, ông viết kỹ lưỡng, viết từ gan ruột và không chấp nhận sự nhạt nhẽo cũng như sự giả tạo trong văn học.
Mặc dù cùng một đề tài chung với nhiều nhà văn khác, làng quê trong văn Kim Lân với các nhân vật dù nghèo hay chỉ là dân lao động thô sơ vẫn không bao giờ bị lam lũ, thô mộc, tuềnh toàng vây bủa.
Có lẽ ảnh hưởng từ nét hào hoa phong nhã với những thú chơi phong tục như chơi chọi gà, đánh vật hay chơi pháo của làng chợ Dầu, Phù Lưu mà hình ảnh làng quê và người nông dân trong văn học Kim Lân không u tối, bần hàn mà vẫn toát lên những nét yêu đời, trong sáng, tài hoa.
Từ tư tưởng này, ông được dư luận chú ý khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê Kinh Bắc, các truyện Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.
Chính vì thế mà giá trị lớn nhất và cao nhất trong các tác phẩm của ông không phải giá trị hiện thực mà là giá trị nhân đạo.
Từ bóng tối hoàn cảnh, Kim Lân muốn làm toả sáng một chất thơ của hồn người, ánh sáng của nhân tâm toả ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động.
Tư tưởng này xuyên suốt trong các sáng tác của Kim Lân và có thể nhận thấy rõ nhất trong Vợ nhặt, một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam.
Chính nhà văn Kim Lân khi nói về tác phẩm này đã cho biết:
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.”
Sau này vẫn viết về nông thôn, Kim Lân đề cập đến sự đổi mới mặt tình cảm của người nông dân trong cách mạng và kháng chiến, sự đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất nhưng hoạt động phục vụ cách mạng tuy thầm lặng, bình thường nhưng thật đáng quý trọng.
Về phương diện này, nhà thơ Trần Ninh Hồ viết:
“Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy.”
Nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám đến sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng của ông là một ngòi bút sâu lắng, tỉ mẩn cũng như luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con người, từng số phận riêng.
Tất cả những điều đó góp một tiếng nói riêng vào trang sử chung về tâm tư, tình cảm con người Việt Nam của văn học hiện đại.
Hai truyện Làng và Vợ nhặt đã được Nhà xuất bản giáo dục tuyển chọn đưa vào bộ sách Nhà văn và tác phẩm dùng cho phần giảng văn của học sinh trong các trường phổ thông trong cả nước.
Đối với nhà văn Kim Lân cách mạng không chỉ mang lại sự thay đổi cuộc sống của bản thân và gia đình mà còn giúp đổi thay sự nghiệp cầm bút của ông.
Khi tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc Kim Lân được gặp và trao đổi nghề nghiệp với các nhà văn lớn như Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài.
Từ đó, cách viết của nhà văn Kim Lân bắt đầu đổi khác, như lời ông nói: Trình độ một anh nhà quê viết theo bản năng, cảm tính mới dần dần thấy được công việc thực sự của người viết văn chuyên nghiệp.
“Theo kinh nghiệm của tôi, những chuyện thật mà tôi ghi lại được thì đều nhạt nhẽo và khô cứng. Nhưng sự thật cũng có giá trị của sự thật, rất giá trị, rất cần thiết nữa. Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí đều dựa trên cái nền là sự thật. Còn những truyện khác, kể cả Làng, hầu hết là tôi bịa. Bịa cả nhân vật lẫn tình tiết. Bởi không có sự thật nào như thế cả. Nhưng cái bịa ấy là cái điều mà chính tác giả muốn nói. Và chính tác giả muốn nói nên mới sinh ra cái bịa. Gọi là bịa chứ kỳ thực chính là sáng tạo.”
Cái bịa hay sáng tạo trong tác phẩm văn học đôi khi lại trở nên thực, thậm chí rất thực hơn đời thường, đó cũng chính là một điểm mấu chốt thể hiện tài năng của nhà văn.
Hiện thực chỉ là chất liệu thô, qua lăng kính nhà văn thì hiện thực được thăng hoa như Kim Lân lý giải:
“Vì sao phải bịa? Người viết muốn nói một việc gì, một ý nghĩ gì thì chuyện đời thường hằng ngày tự thân đã có tiếng nói riêng của nó, còn tiếng nói của chính tâm linh người viết chỉ có bịa mới ra được. Nhưng như vậy không có nghĩa là nó tách rời hoàn cảnh xã hội, tách rời đời sống, mà hình như nó thực hơn. Chính vì vậy mà tôi cũng thường nói bịa lại thực hơn. Vì nó thực với chính mình trước tiên. Và kỳ lạ khi mình bịa ấy, mình viết say mê hơn nhiều. Không biết khi mình say sưa bịa ấy có phải là những giây phút thăng hoa nhất của người viết không?”
Vào năm 1958 nhà văn Kim Lân viết truyện ngắn Ông lão hàng xóm để nói về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, vốn là người trong cuộc và hiểu được những khuất tất, sai trái đằng sau vấn đề này nên ông đã quyết tâm thể hiện bằng văn học.
“Tôi viết về cái sự thật ấy nhưng khác mọi người. Người ta viết như hằn học, thù ghét cái sai lầm, còn tôi thì thể hiện sự đau lòng! Vì cái sai ấy là cái sai của Đảng mình. Tôi viết với tinh thần sửa sai chứ không hằn thù. Lúc tôi mới cho ra mắt Ông lão hàng xóm, dĩ nhiên có không ít cái nhìn giận ghét, coi mình như là một người không vững vàng, thậm chí như một kẻ bôi đen chế độ.”
Nhân dịp nói đến giới phê bình văn học, nhà văn Kim Lân còn nhìn nhận:
“Các nhà phê bình gần đây đỡ hơn các nhà phê bình thời bao cấp. Nhưng đỡ thôi, chứ thật tình mà nói, tôi thấy không phải chính các nhà phê bình, mà là các nhà văn thưởng thức được cái hay cái đẹp của văn chương một cách sâu sắc… Nhà phê bình ngày xưa quá thiên về quan điểm giai cấp, tư tưởng, lập trường phục vụ chính sách khô cứng. Nhà phê bình bây giờ hơn trước, là dám nói thẳng, nói theo lòng mình…”
Rồi ông ra vẻ trầm tư:
“Tôi nghĩ các nhà phê bình trước hết phải là người sành thưởng thức. Thưởng thức cái hay cái đẹp, cũng như không bằng lòng cái xấu cái dở. Nhà phê bình không hẳn chỉ là nhà lý luận. Nhà phê bình cũng phải có cái bản lĩnh thưởng thức rất riêng của mình thì bài phê bình viết ra mới có ý vị. Các nhà phê bình thời trước cứ đè người ta ra mà chửi, nâng người ta lên mà khen. Nghe ngóng ý kiến của người khác mà khen hay chê. Ví dụ truyện Con chó xấu xí của tôi nhé, chẳng qua tôi nói một cách thảm hại: tôi xấu xí xoàng xĩnh nhưng tôi trung thành, trung nghĩa. Chả thế mà có anh đã bảo: “Cái thằng này dại bỏ mẹ, tự ví mình là con chó xấu xí.”
Mặc dù số lượng các tác phẩm của Kim Lân không đồ sộ như bao tác giả khác nhưng dường như tất cả tâm huyết và tinh hoa ngôn từ của ông đều dồn hết vào đó. Chẳng vậy mà hai trong ba tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân đã được đưa vào giảng dạy và tất cả các truyện ngắn khác đều được độc giả đón nhận một cách say mê.
Sự nghiệp điện ảnh đầy vinh quang
Không chỉ là nhà văn sâu sắc và đa tài mà Kim Lân còn để lại trong lòng khán giả những vai diễn ấn tượng nơi làng điện ảnh, một văn nghệ sĩ được nhiều thế hệ nhớ tới.
Ông có vị trí và gây được nỗi nhớ khán giả nhiều đến mức các diễn viên chuyên nghiệp, có tiếng cũng khát khao. Cũng như viết văn, Kim Lân đóng phim rất ít nhưng vai nào cũng tạo được cảm hứng nghệ thuật tốt cho người xem.
Ngoại hình và gương mặt khắc khổ cùng diễn xuất chân thực của nhà văn Kim Lân đem đến nhiều xúc động cho khán giả trước số phận nghiệt ngã của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến.
Từ Lý Cựu trong Chị Dậu dựa theo tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố ông đã đóng rất đạt vai chức dịch trong làng, vai diễn của ông cùng nhà văn Nguyễn Tuân ở trường đoạn “việc làng ngày đất thuế” đã gây ấn tượng mạnh đối với người xem.
Nhân vật Pụ Pạng trong Vợ chồng A Phủ một nhân vật vừa hèn vừa ma quái và gây ấn tượng trong phim khiến các diễn viên chuyên nghiệp được đào tạo ở trường ra cũng nể phục rồi tới lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy đều thành vai diễn để đời.
Không ai hợp hơn và thay thế được Kim Lân, một nhân vật ốm yếu vẻ gầy gò khắc khổ, thương xót vật nuôi. Vai diễn ấy đã được Kim Lân thể hiện một cách trọn vẹn nhất là cảnh Lão Hạc dỗ con chó vàng để nó chịu bán đi, vỗ về nó ăn bữa cuối khiến triệu người rơi nước mắt.
Có lẽ sự sâu lắng, tỉ mẩn, luôn cố gắng để đi tới tận cùng những nỗi niềm tâm trạng của từng con người và số phận của một Kim Lân trong văn học đã góp phần làm nên một vị thế riêng của một Kim Lân trong điện ảnh.
Những người yêu văn học vẫn thường xuyên nhớ tới ông không chỉ vì những di sản tinh thần của Kim Lân để lại mà có lẽ còn bởi chúng ta luôn có thể tìm thấy ẩn chứa trong tác phẩm, trong tư tưởng sống của ông những điều còn thiết thực, gần gũi và giá trị với chính chúng ta trong cuộc sống hôm nay.
I, KIẾN THỨC CƠ BẢN
1, Tác giả | - Kim Lân ( 1920 – 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn- tỉnh Bắc Ninh. - Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân.. Ông viết chân thực, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ- những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân luôn thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. - Tác phẩm chính : Nên vợ nên chồng ( tập truyện ngắn, 1955, con chó xấu xí ( tập truyện ngắn, 1962). - Năm 2001; Kim Lân được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. - Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết rất tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật. |
2, Văn bản | * Hoàn cảnh sáng tác Truyện ngắn làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948. |
* Ngôi kể: - Truyện được kể theo ngôi thứ 3 - Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm giác chân thực cho người đọc. | |
* Tóm tắt truyện: Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, vì thế ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến. - Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo lắng sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống ra sao. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không đồng tình với hành động theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình. - Cuối cùng, ông chủ tịch xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cài chính tín làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với tất cả mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa. | |
* Nghệ thuật: - Xây dựng tình huống truyện độc đáo: ông Hai rất yêu làng. Lúc nào ông cũng tự hào và khoe về ngôi làng của mình với sự giàu có và tinh thần kháng chiến. Nhưng đột nhiên ông Hai nghe được từ miệng những người tản cư cái tin làng Chợ Dầu quê ông theo giặc: “ Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” Đây là một tình huống đặc biệt gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình cảm của ông Hai. - Nghệ thuật xây dựng nhân vật; đặt nhân vật vào tình huống căng thẳng kịch tính để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Diễn biến tâm lý nhân vật được miêu tả qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ… đầy ám ảnh day dứt. - Ngôn ngữ kể chuyện: linh hoạt tự nhiên giầu tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân, thể hiện thành công cá tính của nhân vật. Có nhiều chi tiết sinh động hơn. - Điểm nhìn trần thuật : nhân vật chính, ông Hai kể. Cách trần thuật của tác giả linh hoạt, tự nhiên, có nhiều chi tiết sinh họt. - Bố cục truyện chặt chẽ, mạch lạc. * Nội dung: Truyện diễn tả chân thực và sinh động tình yêu làng, yêu quê hương, đất nước và tinh thần Cách mạng của nhân vật ông Hai,. Qua đó tác phẩm cho thấy một biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. | |
3, Ý nghĩa nhan đề | - Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng Chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là Làng Chợ Dầu”. Nếu lấy tên tác phẩm là “ Làng Chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một làng cụ thể, ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng Chợ Dầu ấy. Như vây, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát. - Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là “ Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân VN yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng. |
1, Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống chuyện | -Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây + Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng tập tề theo giặc + Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai -Ý nghĩa của tình huống chuyện + Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai + Về mặt nghệ thuật: Tình huống chuyện đã tạo nên một cái thắt núi cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm |
2, Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai: | a, Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết -Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể nó với niềm say mê, náo nức đến lạ thường: + Trước cách mạng tháng tám: Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng + Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hầm hào; ... -Khi buộc ông phải tảm cư, ông Hai đã rất nhớ về làng: + Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để ơi đi cái nỗi nhớ làng + Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không + Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự =>Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất tự nhiên, chân thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai đối với làng chợ Dầu của mình |
b, Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc: . Ban đầu , ông chết lặng vì đau đớn, tủi hổ như không thể điều khiển được cơ thể của mình: “Có ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được” -Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người đi tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông không thể không tin . Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day dứt:
+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...” + Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta chứa”
-Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và bế tắc hoàn toàn: + Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trở về làng” – rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ” + Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”
+ Tình yêu sâu nặng với làng, nếu ông muốn lí trí và trái tom bé bỏng của con phải khắc sâu, ghi nhớ câu: “Nhà ta ở làng chợ Dầu” – nơi chôn rau cắt rốn của bố con ông. + Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ của bố con ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố con ông” + Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền vững và rất thiêng liêng ấy: “Cái lòng của bố con ong là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì có bao giờ dám đơn sai”
| |
c, Khi nghe tin làng cải chính:
+ Nhưng ngôi nhà là tài sản riêng, dù có mất nhưng danh dự vẫn còn, thế là ông vui, ông hạnh phúc + Đó là minh chứng hùng hồn, chứng minh cho làng ông, cho bố con gia đình ông và những người tản cư trên đây không theo giặc, vẫn một lòng thủy chung, tình nghĩa và sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến
|
BÀI TẬP 1.
Đọc kĩ đoạn văn và trả lời câu hỏi: “Ông nằm vật trên giường vắt tay lên trán nghĩ ngợi vẩn vơ. Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. Ồ, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra. Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên. Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chưa? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm. Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá.” (Trích Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục 2015) Câu 1: Nhân vật ông lão được nói đến trong đoạn trích trên là ai? “ Ông lão” đang trong hoàn cảnh như thế nào? Câu 2: Phân tích giá trị của phép điệp và phép liệt kê trong đoạn trích. Giải thích từ “ bông phèng, khướt”, so sánh điểm giống và khác nhau giữa hai từ “ miên man” và “mê man”. Câu 3: Chỉ rõ tác dụng của hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong đoạn trích. Câu 4: “ Ồ”, “ Chao ôi” là thành phần biệt lập cảm thán hay câu cảm thán? Vì sao? Những từ đó là lời của ai? Có ý nghĩa gì? Câu 5: Phân tích và chỉ ra câu văn sau thuộc loại câu nào: Cũng hát hỏng, bông hèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày. Câu 6: Điều gì khiến ông lão cảm thấy “náo nức hẳn lên”? Lẽ ra nhớ làng như vậy, nhân vật sẽ rất muốn về làng nhưng vì sao ở phần sau của truyện, nhân vật lại có suy nghĩ: “Về làm gì cái làng ấy nữa.” Từ đó, em hiểu gì về nhân vật này? Câu 7: Cảm nhận của em bằng một đoạn văn về tình cảm của nhân vật ông Hai trong đoạn văn trên( có sử dụng câu ghép và câu có chứa thành phần phụ chú) |
GỢI Ý:
Câu 1:
- Nhân vật ông lão: Ông Hai, ông đang trong hoàn cảnh rất yêu làng nhưng phải xa làng, đi tản cư.
Câu 2.
- Phép điệp “ lại nghĩ”( 2 lần), “ lại muốn”( 2 lần), “nhớ làng”- “nhớ cái làng” diễn tả chân thực nỗi nhớ làng, khao khát trở về làng của ông Hai khi nghĩ về làng, cho thấy sự gắn bó và tình yêu làng của ông.
- Phép liệt kê: “ hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc”, “ đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá” làm rõ những kỉ niệm của ông Hai về những ngày tham gia kháng chiến ở làng. Mọi thứ như một thước phim quay chậm, hiện lên rõ nét trong tâm trí ông, cho thấy nỗi nhớ làng của ông thật đậm sâu, nồng nàn, tha thiết.
- Giải thích:
+ Bông phèng: Nói đùa một cách dễ dãi, không cần có ý nghĩa
+ Khướt: Mệt lắm, vất vả lắm, lâu lắm.
- So sánh hai từ “miên man và mê man”:
+ Giống nhau: Đều nói về một việc làm hoặc suy nghĩ nào đó kéo dài trong một thời gian lâu, hết sức tập trung.
+ Khác nhau: hai từ có sắc thái khác nhau: “mê man” là biểu hiện của sự say sưa, thích thú của người làm việc hoặc suy nghĩ, còn “ miên man” là một suy nghĩ hoặc việc làm kéo dài.
Câu 3.
- Đoạn trích có sử dụng hình thức ngôn ngữ độc thoại nột tâm: “Ồ, sao mà độ ấy vui thế. 9.{…}Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chua? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm.”
- Tác dụng: miêu tả chân thực, sinh động sự quan tâm thường trực tới chuyện làng của ông Hai, qua đó cho thấy tình yêu làng và tinh thần kháng chiến của ồng.
Câu 4.
- “ Ồ” là thành phần biệt lập cảm thán vì nó không nằm trong nghĩa sự việc của câu mà thể hiện cảm xúc của nhân vật.
- “ Chao ôi!” là câu cảm thán vì đứng độc lập, tách biệt với câu sau nó; kết thức bằng dấu chấm than và bộc lộ trực tiếp cảm xúc của nhân vật.
- Những từ đó là lời của người dẫn truyện thể hiện cảm xúc vui sướng của nhân vật ông Hai khi nghĩ về làng.
Câu 5. Câu văn: Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày.
Thuộc loại câu rút gọn thành phần chủ ngữ.
Câu 6.
- Ông lão cảm thấy náo nức hẳn lên vì: ông nghĩ về cái làng của ông, nghĩ về tinh thần kháng chiến của anh em, đồng chí ở làng ông…
- Ở phần sau của truyện, ông Hai không muốn về làng nữa vì: ông nghe tin làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây ; sau khi đấu tranh nội tâm ông đã đi đến quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.”, ông đã đặt tình yêu nước, lòng chung thuỷ với kháng chiến, với cách mạng lên trên tình yêu làng…
=>Từ đó, ta thấy ông Hai là một người nông dân có tình cảm yêu làng, yêu nước tha thiết…
Câu 7.
- Hình thức: một đoạn văn, có sử có sử dụng câu ghép và câu có chứa thành phần phụ chú.
- Nội dung và giới hạn: Cảm nhận của em về tình cảm của nhân vật ông Hai trong đoạn văn trên
Cụ thể như sau:
**Viết câu mở đoạn: Nêu tác giả, tác phẩm, nội dung chính cần cảm nhận.
Ví dụ: Đoạn văn trên trích trong văn bản “ Làng” của nhà văn Kim Lân- nhà văn có sở trường về truyện ngắn- đã rất thành công trong việc thể hiện tâm trạng vui sướng của ông Hai khi nghĩ về làng chợ Dầu của mình.
**Viết các câu thân đoạn: Gồm các ý cơ bản sau:
- Ông/ luôn tự hào về làng của mình vì làng ông /là làng kháng chiến. Ông đang trong hoàn cảnh rất yêu làng nhưng phải xa làng, đi tản cư.
- Bằng những chi tiết nghệ thuật nhà văn Kim Lâm đã làm rõ tâm trạng của ông Hai. Phép điệp “ lại nghĩ”( 2 lần), “ lại muốn”( 2 lần), “nhớ làng”- “nhớ cái làng” diễn tả chân thực nỗi nhớ làng, khao khát trở về làng của ông Hai khi nghĩ về làng, cho thấy sự gắn bó và tình yêu làng của ông.
- Phép liệt kê: “ hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc”, “ đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá” làm rõ những kỉ niệm của ông Hai về những ngày tham gia kháng chiến ở làng.
- Mọi thứ như một thước phim quay chậm, hiện lên rõ nét trong tâm trí ông, cho thấy nỗi nhớ làng của ông thật đậm sâu, nồng nàn, tha thiết.
- Tác giả sử dụng thành phần biệt lập cảm thán “ồ”, câu cảm thán “ Chao ôi!” đồng thời những từ đó là lời của người dẫn truyện đã thể hiện rõ cảm xúc vui sướng của nhân vật ông Hai khi nghĩ về làng. Tác giả sử dụng câu rút gọn thành phần chủ ngữ: “Cũng hát hỏng, bông phèng, cũng đào, cũng cuốc mê man suốt ngày”, càng thể hiện rõ hơn tâm trạng nhớ làng của ông.
- Ông luôn nhớ ngày còn ở làng, ông cùng với anh em tham gia vào công việc kháng chiến làm cho ông lại náo nức vui sướng. Ông khao khát được trở lại những ngày đó. Đoạn trích có sử dụng hình thức ngôn ngữ độc thoại nột tâm: “Ồ, sao mà độ ấy vui thế. 9.{…}Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã dựng xong chua? Những đường hầm bí mật chắc còn là khướt lắm.”, đã miêu tả chân thực, sinh động sự quan tâm thường trực tới chuyện làng của ông Hai, qua đó cho thấy tình yêu làng và tinh thần kháng chiến của ông Hai thật sâu sắc.
**Viết câu kết đoạn: Khẳng đinh lại vấn đề về nghệ thuật và nội dung của đoạn trích.
Ví dụ: Tóm lại, với việc sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật liệt kê, điệp ngữ, sử dụng câu cảm, thành phần cảm thán,…đoạn văn đã diễn tả sâu sắc tình yêu làng của ông Hai trong hoàn cảnh phải xa làng đi tản cư.
Thành phần phụ chú: nhà văn có sở trường về truyện ngắn
Câu gép: - Ông/ luôn tự hào về làng của mình vì /là làng kháng chiến.
BÀI TẬP 2
Đọc đoạn trích sau trong tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân và trả lời câu hỏi:
Câu 2: Trình bày hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhan đề của văn bản chứa đoạn trích? Câu 3: Nêu tinh huống truyện cơ bản của tác phẩm trên. Câu 4: Tìm lời dẫn trực tiếp có trong đoạn trích? cho biết dấu hiệu nhận biết đó là lời dẫn trực tiếp?
|
Câu 1: Đoạn trích trên thuộc văn bản “ Làng” của tác giả Kim Lân
Câu 2:
* Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948.
* Ý nghĩa nhan đề:
- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng Chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là Làng Chợ Dầu”. Nếu lấy tên tác phẩm là “ Làng Chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một làng cụ thể, ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng Chợ Dầu ấy. Như vây, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát.
- Tac giả đã sử dụng một danh từ chung là “ Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân VN yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.
Câu 3: Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây
+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng tập tề theo giặc
+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai
Ý nghĩa của tình huống chuyện
+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai
+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống chuyện đã tạo nên một cái thắt núi cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm
Câu 4:Lời dẫn trực tiếp:
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây...” dấu hiệu để trong dấu ngoặc kép.
Câu 5. Đoạn văn trên chủ yếu sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Nó diễn tả xung đột nội tâm sâu sắc của nhân vật ông Hai khi bị bà chủ nhà đánh tiếng đuổi đi.
Câu 6.Tâm trạng của ông Hai được thể hiện qua câu "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù": Tình yêu làng của ông gắn với tình yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tâm trạng của ông trong câu văn trên có vẻ mâu thuẫn, khó hiểu nhưng thật ra nó biểu hiện sự thống nhất của một tình cảm yêu làng, yêu nước sâu sắc. Đây là bước chuyển biến trong nhận thức, tình cảm của ông Hai...
Câu 7. Câu chuyện được kể ở ngôi thứ mấy? Tác dụng của ngôi kể đó?
- Kể ngôi thứ 3, có tác dụng người kể có điều kiện bộc lộ những suy nghĩ, dánh giá về các sự việc và nhân vật trong truyện.
Câu 8. Tác giả đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật ông Hai, vì vậy ở nhiều chỗ, ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái giọng điệu. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong việc thể hiện diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai.
BÀI TẬP 3.
Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi: “ Ông Hai vẫn cứ trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được… Có tiếng nói léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ…Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực ông lão đập thình thịch. Ông lão nín thở, lắng tai nghe ra bên ngoài.” Câu 1: Chỉ ra các yếu tố độc thoại nội tâm trong đoạn văn trên và nêu tác dụng của việc sử dụng các yếu tố ấy. Câu 2: Vì sao ông Hai lại “trằn trọc không sao ngủ được”? Câu 3: Chỉ ra câu nghi vấn trong đoạn trích trên và nêu tác dụng. Câu 4: Chỉ ra các từ tượng hình, tượng thanh trong đoạn văn trên. Nêu tác dụng. Câu 5: Đoạn trích diễn tả tâm trạng gì của ông Hai? Câu 6: Nếu lược bỏ các dấu ba chấm và câu hỏi trong đoạn văn trên thì cách miêu tả nhân vật và giá trị h.biểu cảm của đoạn văn có gì thay đổi? Vì sao? Câu 7:Trong một đoạn trích của Truyện Kiều đã học cũng có bốn câu thơ dùng câu hỏi để diễn tả tâm trạng nhân vật. Hãy chép lại những câu thơ đó (ghi rõ tên đoạn trích). |
Câu 1:
Yếu tố độc thoại nội tâm: “Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế?”.
Tác dụng: + Miêu tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùa ông Hai khi sợ mụ chủ nhà bàn tán đến chuyện làng Dầu Việt gian.
+ Tâm trạng bất an, cuộc sống căng thẳng vì lo sợ …
Câu 2: Ông Hai trằn trọc không ngủ được vì:
*Chủ quan:
Ông luôn yêu làng, tự hào về làng Chợ Dầu.
Ông đang đau khổ, dằn vặt và suy nghĩ về tin đồn làng Dầu Việt gian.
Lo lắng không biết tương lai sẽ ra sao, sẽ ở đâu nếu bị đuổi khỏi nơi tản cư.
* Khách quan:
Khi được giác ngộ, tình yêu nước, yêu cách mạng của người dân rất mạnh mẽ,rộng lớn, họ luôn căm ghét những người phản bội cách mạng.
Đi đâu cũng chỉ thấy mọi người bàn tán về chuyện làng Dầu -> Ông Hai càng lo lắng, sợ hãi.
Mụ chủ nhà hay soi mói, mỉa mai
Câu 3:
Câu nghi vấn trong đoạn trích: Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế?
Tác dụng: Miêu tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùa ông Hai khi sợ mụ chủ nhà bàn tán đến chuyện làng Dầu Việt gian.
Cách sử dụng câu linh hoạt và khéo léo của tác giả.
Câu 4:
Từ tượng hình: trằn trọc
Từ tượng thanh: léo xéo, lào xào, thình thịch.
Tác dụng: Miêu tả tâm trạng lo lắng, sợ hãi cùa ông Hai khi sợ mụ chủ nhà bàn tán đến chuyện làng Dầu Việt gian.
Cách sử dụng từ tinh tế và khéo léo của tác giả.
Câu 5: Tâm trạng lo lắng, buồn bã sau khi nghe tin làng mình theo giặc và ông phấp phỏng, âu lo nghe ngóng mụ chủ nhà, sợ bị đuổi đi.
Câu 6: Nếu lược bỏ các dấu ba chấm và câu hỏi trong đoạn văn trên thì cách miêu tả nhân vật vẫn không thay đổi: tâm trạng nhân vật vẫn được miêu tả qua cử chỉ, hành động và độc thoại nội tâm. Nhưng giá trị biểu cảm của đoạn văn sẽ ảnh hưởng: tâm trạng lo lắng buồn bã, sợ hãi và nghe ngóng của ông Hai không rõ nữa, tốc độ phát triển nhân vật cũng nhanh hơn.
Câu 7: Bốn câu thơ có dùng câu hỏi diễn tả tâm trạng nhân vật trong Truyện Kiều là: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu?
IV. LUYỆN TẬP ĐỀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
Đề 1: Tại sao nhà văn Kim Lân lại đặt tên tác phẩm là “ Làng” mà không phải là “ Làng Dầu”?
- Truyện ngắn Làng được Kim Lân viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp trí văn nghệ năm 1948. Nhan đề của tác phẩm được nhà văn chọn lọc và thể hiện dụng ý nghệ thuật.
- Làng Chợ Dầu là ngôi làng nơi ông Hai sinh sống, Nếu tác giả đặt tên tác phẩm là “ Làng Dầu”, nhan đề này sẽ thấy được tình yêu sâu nặng của ông Hai dành cho làng mình. Nhưng đây là một danh từ riêng nên tác phẩm có ý nghĩa khái quát không cao, mới chỉ dừng lại ở những con người cụ thể trên một làng quê cụ thể.
- Tác giả đã chọn một danh từ chung vốn chỉ một đơn vị hành chính ở nông thôn : “ Làng” đặt làm nhan đề cho tác phẩm. Nhan đề đó giúp cho người đọc không chỉ hiểu được tình yêu của ông Hai dành cho ngôi làng của mình mà còn thấy được ý nghĩa khái quát; tình cảm của ông Hai chính là tình yêu làng, yêu quê nước của người nông dân trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Và tình cảm đó ta có thể gặp ở bất cứ ngôi làng nào trên đất nước Việt Nam.
Câu 2: Nhan đề của truyện là "Làng" sao không phải là "Làng Dầu" chẳng hạn. Từ nhan đề của truyện, em hiểu gì về chủ đề của tác phẩm ?
Gợi ý trả lời
a. Nhan đề của truyện là "Làng" không phải là “Làng Dầu” vì nếu là “Làng Dầu” thì vấn đề mà tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng. Dụng ý của tác giả muốn nói tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong mọi người nông dân. Bởi thế "làng" là nhan đề hợp lý với dụng ý của tác giả. Qua đó ta hiểu chủ đề của truyện: ca ngợi tình yêu làng quê tha thiết của những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, nhan đề "làng" vừa nói lên được cái riêng là tình yêu làng của ông Hai, đồng thời qua cái riêng ấy, cũng nói lên được cái chung: tấm lòng của những người dân quê đất Việt.
Câu 3: Trong "Làng", Kim Lân có kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị giặc đốt, đốt nhẵn. Chi tiết này dường như vô lý. Ý kiến của em như thế nào? Ghi lại vắn tắt.
Gợi ý trả lời
Trong "Làng", chi tiết kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị đốt nhẵn… Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn. Hơn thế nó còn gắn với bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà không xót xa đau đớn ? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe" đó là biểu hiện của tâm trạng sung sướng, sung sướng đến tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ không bình thường? Không ! Đặt ông Hai trong hoàn cảnh của "Làng", làng Dầu đang bị hai tiếng việt gian theo tây thì ông Hai vui sướng sao được vì nhà bị tây đốt là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa lắm chứ. Nhưng dù thế nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song danh dự của làng đâu dễ lấy lại? Ông đã quên ??? sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê, đất nước, thế đấy, niềm vui, nỗi buồn của ông Hai luôn gắn liền với vận mệnh của Làng Dỗu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng, hoà quện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.
Đề 4: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân.
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác văn bản.
- Nêu vấn đề nghị luận.
Tham khảo:
- Kim Lân là một nhà văn có sở trường về truyện ngắn. Ông am hiểu sâu sắc về đời sống nông dân, nông thôn Việt Nam.
- Truyện ngắn Làng viết vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Ông Hai là nhân vật chính của tác phẩm. Một người nông dân phải rời làng đi tản cư để lại những ấn tượng sâu sắc bởi tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến, trung kiên với cách mạng.
2. Thân bài: Cần đi phân tích nhân vật ông Hai qua các luận điểm sau:
Luận điểm 1: Ông Hai là một nông dân có tình yêu làng sâu sắc đặc biệt với cái làng Chợ Dầu nơi chôn rau cắt rốn của ông.
Làng Chợ Dầu là nơi tổ tiên ông Hai sinh cơ lập nghiệp, nơi chôn rau cắt rốn của ông. Biết bao tình cảm đã gắn bó với ông với dân làng, với cảnh vật, với mảnh đất quê hương.
- Trước Cách mạng, với tâm lí nông dân, mang tính địa phương, ông thường tự hào làng mình giàu đẹp to lớn, thường khoe cái “ sinh phần của viên Tổng đốc người làng”. Ông yêu tất cả những gì thuộc làng ông: “ những nhà ngói san sát, những đường làng lát đá xanh trời mưa gió bùn không dính đến gót chân”…
- Kháng chiến chống Pháp nổ ra, tình yêu làng của ông Hai có sự chuyển biến:
+ Ông thấy căm thù cái “ sinh phần” của viên Tổng đốc vì nó là tàn tích của phong kiến, vì phục địch xây nó mà ông và người làng phải khổ.
+ Tự hào về làng, ông tự hào về phong trào cách mạng. tinh thần kháng chiến sôi nổi của làng, những buổi tập quân sự, những buổi đảo đường, đắp ụ, xẻ giao thông hào … tự hào luôn cả “ cái phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi, cái chòi phát thành cao”.
Trong con mắt ông Hai, cái gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào. Cuộc đời, số phận ông Hai đã thật sự gắn bó với những buồn vui của làng.
Luận điểm 2: Tình cảm yêu làng của ông Hai hòa quyện, thống nhất với tình yêu đất nước, yêu kháng chiến, cách mạng.
* Khi ở khu tản cư:
- Ông Hai tản cư đến vùng tự do theo chính sách của Cụ Hồ: tản cư là yêu nước.
- Khi mới lên khu tản cư, chưa quen người, quen việc nên ông hay nhớ về cái làng của mình “ Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”.
- Khi được nói chuyện về làng. Ông vui náo nức là thường: “ Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông thường ra phòng thông tin để nắm tin tức kháng chiến: trẻ em cắm cở trên Tháp Rùa Hà Nội, anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã hi sinh, đội nữ dân quân du kích Trung Trắc bắt sống tên quan Hai Pháp…
Khi biết những tin đó. Ông vui như người trong cuộc lập được chiến công. Điều đó cho thấy ở khu tản cư nhưng ông luôn hướng lòng về kháng chiến, lấy niềm vui kháng chiến để vơi bớt nỗi nhớ làng. Tình yêu làng, yêu nước, gắn bó với kháng chiến đã hòa quyện.
* Khi nghe tin làng Dầu là làng Việt gian theo Tây:
- Tác giả đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc, lập tể mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.
- Khi nghe tin:
+ Ông bàng hoàng, sững sờ “ Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được”…
+ Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn chưa tin mà hỏi lại. Giọng lạc hẳn đi. Lời khẳng định của người đàn bà “ Việt gian từ thẳng chủ tịch mà đi cơ” làm ông không còn nói gì được nữa, vớ vớ đứng làng ra chỗ khác, rồi đi thẳng.
- Trên đường về : trong tâm lí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó trở thành nỗi ám ảnh day dứt. Ông hổ thẹn, nhục nhã, “ cúi gằm mặt xuống mà đi”.
- Về đến nhà: Ông “ nằm vật ra giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “ nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủy đấy ư?”.
- Tối đến khi bà Hai trở về : gia đình ông Hai bao trùm không khí căng thẳng.
Chỉ bằng một đoạn văn ngắn nhà văn đã diễn tả nhiều tâm trạng đau đớn, vò xé trong lòng ông Hai. Phải là một người có tình yêu làng sâu nặng, tha thiết ông Hai mới có những tâm trạng như vậy.
* Những ngày sau đó:
- Suốt mấy ngày sau, ông Hai không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài: “ một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt Gian, diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến tháng sự sợ hãi thường xuyên trong ông Haio cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
- Rồi tin này ai cũng biết: mụ chủ nhà đuổi khéo nhà ông đi, người làng Dầu ở đây cũng bị đuổi như đuổi hùi. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của làng “ Việt gian”, cũng không thể quay về làng, “ Về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”, tức ;à “ bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ” Ông Hai đã bị đẩy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mỗi mâu thuẫn nội tâm diễn ra gay gắt giữa về làng hay ở lại.
- Ông dứt khoát lựa chọn theo cách của ông: “ Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình yêu nước đã rộng lớn hơn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù đã xác định như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
- Ông Hai nói chuyện với con trai để giãi bày nỗi lòng mình:
+ Ông Hai hỏi con: “ Thế nhà con ở đâu?”, “ Ùng hộ Cụ Hồ con nhỉ?”.
+ Đứa con trai út trả lời : “ Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”
+ Ông tự nhủ: “ Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”, “ Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai…”
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ và lời tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng mình, ta thấy rõ ở ông Hai tình yêu sâu nặng với cái làng Chợ Dầu của ông và tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ. Tỉnh cảm ấy là sâu nặng, bền vững, thiêng liêng.
* Khi nghe tin cải chính:
- Ông chủ tịch làng Chợ Dầu lên cải chính tin: làng ông vẫn là làng kháng chiến, làng bị giặc tàn phá vì không theo Tây, bằng chứng là: “ Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”.
- Ông Hai lật đật đi khoe với tất cả mọi người tin cái chính, lại vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông.
Niềm vui mừng kì lạ thể hiện một cách đau xót, cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Nhà bị giặc đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng chứng về lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến của ông. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những những người nông dân của nhân dân ta thời kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc, nên họ sẵn sàng hy sinh tất cả tính mạng và tài sản.
Luận điểm 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Xây dựng nhân vật ông Hai là nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng; miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến tâm lí phức tạp: bàng hoàng, đau đớn, căng thẳng, tuyệt vọng, sung sướng …; ngôn ngữ nhân vật sinh động, giàu tính khẩu ngữ và thể hiện cá tính.