- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,007
- Điểm
- 113
tác giả
TÀI LIỆU Ôn thi tốt nghiệp thpt môn văn THEO CHUYÊN ĐỀ MỚI NHẤT được soạn dưới dạng file word gồm 126 trang. Các bạn xem và tải tài liệu ôn thi tốt nghiệp thpt môn văn về ở dưới.
CHUYÊN ĐỀ 1: ĐỌC - HIỂU
I. Giới thiệu chung về phần đọc hiểu
1. Cấu trúc phần đọc hiểu trong đề thi THPT Quốc gia
- Phần thi Đọc hiểu là phần thi bắt buộc trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn, chiếm 3/10 điểm toàn bài và có 1 phần đọc cùng 4 câu hỏi, đây là phần kiểm tra năng lực đọc hiểu của học sinh: năng lực tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản.
- Cấu trúc của một đề bài kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu:
Phần 1: Đưa ra một văn bản (văn bản văn học hoặc văn bản nhật dụng, văn xuôi hoặc thơ, có thể là một văn bản hoàn chỉnh hoặc một đoạn trích…)
Phần 2: Đưa ra các câu hỏi theo các mức độ nhận thức từ thấp đến cao: từ nhận biết -> thông
hiểu -> vận dụng:
+ Câu hỏi nhận biết thường yêu cầu chỉ ra các phương thức biểu đạt, phong cách chức năng ngôn ngữ, các hình thức ngôn ngữ, biện pháp tu từ, thao tác lập luận, kiểu liên kết hay các lỗi diễn đạt … trong văn bản.
+ Câu hỏi thông hiểu thường yêu cầu thí sinh xác định nội dung, chủ đề, bố cục văn bản, đặt nhan đề văn bản, nêu tác dụng của các phép tu từ hay việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, sử dụng từ ngữ … trong văn bản.
+ Câu hỏi vận dụng thường là dạng câu hỏi bày tỏ quan điểm thái độ hoặc liên hệ thực tế đời sống (liên hệ hiện tượng nào và đưa ra giải pháp).
2. Phạm vi của phần đọc – hiểu
- Văn bản văn học (Văn bản nghệ thuật):
+ Văn bản trong chương trình (Nghiêng nhiều về các văn bản đọc thêm).
+ Văn bản ngoài chương trình (Các văn bản cùng loại với các văn bản được học trong chương trình).
- Văn bản nhật dụng (Loại văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: Vấn dề chủ quyền biển đảo, thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý, …Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản song có thể nghiêng nhiều về loại văn bản nghị luận và văn bản báo chí).
- Dung lượng vừa phải, số lượng câu phức và câu đơn hợp lý, không có nhiều từ địa phương, cân đối giữa nghĩa đen và nghĩa bóng.
3. Các bước làm bài đọc hiểu
a. Đọc thật kỹ đoạn trích
- Cần đọc nhiều lần để hiểu từng câu, từng từ, hiểu nội dung, ý nghĩa đoạn trích.
- Xác định xem văn bản gồm bao nhiêu đoạn, bao nhiêu câu.
b. Gạch những từ ngữ quan trọng và phân tích (Câu hỏi)
- Xác định số câu hỏi, số vế trong từng câu hỏi, mức điểm từng câu, từng vế.
- Gạch chân các từ ngữ quan trọng, câu quan trọng. Việc làm này giúp các em lí giải được yêu cầu của dề bài và xác định hướng đi đúng cho bài làm, tránh lan man, lạc đề.
- Phân tích sự liên quan của các câu hỏi vì có thể có sự gợi ý trả lời trong câu sau cho câu trước.
c. Trả lời
- Tách bạch các câu, các ý.
- Chọn từ ngữ chính xác để diễn đạt, viết câu rõ ràng,ngắn gọn, dễ hiểu.
d. Đọc lại
- Sửa chữa chuẩn xác từng câu trả lời. Không bỏ trống câu nào, dòng nào.
* Một số lưu ý trong quá trình làm bài:
- Chỉ dùng thời gian khoảng 20-30 phút làm câu hỏi đọc hiểu.
- Nên trả lời trực tiếp vào câu hỏi, theo kiểu “hỏi gì đáp nấy”.
- Diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu.
II. Kiến thức
1. Phong cách chức năng ngôn ngữ
a. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
- Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cá nhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè,…
- Đặc trưng:
+ Tính cụ thể: Cụ thể về không gian, thời gian, hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, nộii dung và cách thức giao tiếp…
+ Tính cảm xúc: Cảm xúc của người nói thể hiện qua giọng điệu, các trợ từ, thán từ, sử dụng kiểu câu linh hoạt,..
+ Tính cá thể: là những nét riêng về giọng nói, cách nói năng => Qua đó ta có thể thấy được đặc điểm của người nói về giới tính, tuổi tác, tính cách, sở thích, nghề nghiệp,…
*Lưu ý cách nhận biết : Trong đề đọc hiểu, nếu đề bài trích đoạn hội thoại, có lời đối đáp của các nhân vật, hoặc trích đoạn một bức thư, nhật kí, thì văn bản đó thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
b. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
- Là phong cách được dùng trong sáng tác văn chương.
- Đặc trưng:
+ Tính hình tượng: Xây dựng hình tượng chủ yếu bằng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, hoán dụ, điệp…
+ Tính truyền cảm: ngôn ngữ của người nói, người viết có khả năng gây cảm xúc, ấn tượng mạnh với người nghe, người đọc.
+ Tính cá thể: Là dấu ấn riêng của mỗi người, lặp đi lặp lại nhiều lần qua trang viết, tạo thành phong cách nghệ thuật riêng. Tính cá thể hóa của ngôn ngữ còn thể hiện trong lời nói của nhân vật trong tác phẩm.
*Lưu ý cách nhận biết: Trong đề đọc hiểu, nếu thấy trích đoạn nằm trong một bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tuỳ bút, ca dao,… và các tác phẩm văn học nói chung thì văn bản đó thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thật.
c. Phong cách ngôn ngữ chính luận
- Là phong cách được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội.
- Đặc trưng:
+ Tính công khai về quan điểm chính trị: Văn bản chính luận phải thể hiện rõ quan điểm của người nói/ viết về những vấn đề thời sự trong cuộc sống, không che giấu, úp mở. Vì vậy, từ ngữ phải được cân nhắc kĩ càng, tránh dùng từ ngữ mơ hồ; câu văn mạch lạc, tránh viết câu phức tạp, nhiều ý gây những cách hiểu sai.
+ Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận: Văn bản chính luận có hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, mạch lạc và sử dụng từ ngữ liên kết rất chặt chẽ: vì thế, bởi vây, do đó, tuy… nhưng…, để, mà,….
+ Tính truyền cảm, thuyết phục: Thể hiện ở lí lẽ đưa ra, giọng văn hùng hồn, tha thiết, bộc lộ nhiệt tình của người viết.
*Lưu ý cách nhận biết : Cách nhận biết ngôn ngữ chính luận trong đề đọc hiểu :
- Nội dung liên quan đến những sự kiện, những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,…
- Có quan điểm của người nói/ người viết
- Dùng nhiều từ ngữ chính trị
- Được trích dẫn trong các văn bản chính luận ở SGK hoặc lời lời phát biểu của các nguyên thủ quốc gia trong hội nghị, hội thảo, nói chuyện thời sự , …
d. Phong cách ngôn ngữ khoa học
- Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là các VBKH.
- Đặc trưng phong cách ngôn ngữ khoa học:
+ Tính khái quát, trừu tượng: ngôn ngữ khoa học dùng nhiều thuật ngữ khoa học, kết cấu văn bản mang tính khái quát (các luận điểm khoa học trình bày từ lớn đến nhỏ, từ cao đến thấp, từ khái quát đến cụ thể).
+ Tính lí trí, logic: từ ngữ: chỉ dùng với một nghĩa, không dùng các biện pháp tu từ, câu văn: chặt chẽ, mạch lạc, là một đơn vị thông tin, cú pháp chuẩn, kết cấu văn bản: câu văn liên kết chặt chẽ và mạch lạc.
- Tính khách quan, phi cá thể: câu văn trong văn bản khoa học: có sắc thái trung hoà, ít cảm xúc, ít có những biểu đạt có tính chất cá nhân.
*Lưu ý cách nhận biết : nhận biết dựa vào những đặc điểm về nội dung, từ ngữ, câu văn, cách trình bày,…
e. Phong cách ngôn ngữ báo chí
- Là ngôn ngữ báo chí được dùng ở những thể loại tiêu biểu là bản tin, phóng sự, tiểu phẩm,… Ngoài ra còn có quảng cáo, bình luận thời sự, thư bạn đọc,… Mỗi thể loại có yêu cầu riêng về sử dụng ngôn ngữ.
- Đặc trưng của PCNN báo chí:
+ Tính thông tin thời sự: thông tin nóng hổi, chính xác về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện,…
+ Tính ngắn gọn: lời văn ngắn gọn nhưng lượng thông tin cao. Phóng sự thường dài hơn nhưng cũng không quá 3 trang báo và thường có tóm tắt, in đậm đầu bài báo để dẫn dắt.
+ Tính sinh động, hấp dẫn: các dùng từ, đặt câu, đặt tiêu đề phải kích thích sự tò mò của người đọc.
*Lưu ý cách nhận biết :
- Văn bản báo chí rất dễ nhận biết khi đề bài trích dẫn một bản tin trên báo, và ghi rõ nguồn bài viết ( ở báo nào? ngày nào?).
- Nhận biết bản tin và phóng sự : có thời gian, sự kiện, nhân vật, những thông tin trong văn bản có tính thời sự.
g. Phong cách ngôn ngữ hành chính
- Ngôn ngữ hành chính là ngôn ngữ được dùng trong các VBHC.
- Đặc trưng PCNN hành chính: tính khuôn mẫu, tính minh xác, tính công vụ.
*Lưu ý cách nhận biết : Nhận biết văn bản hành chính rất đơn giản : chỉ cần bám sát hai dấu hiệu mở đầu và kết thúc: có phần tiêu ngữ ở đầu văn bản, có chữ kí hoặc dấu đỏ của các cơ quan chức năng ở cuối văn bản.
* Đề thi THPTQG phần Đọc hiểu rất ít khi trích đoạn văn bản hành chính, chủ yếu 5 phong cách ngôn ngữ trên.
2. Các phương thức biểu đạt
a. Tự sự: là dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng tạo thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta không chỉ chú trọng đến kể việc mà còn quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật và nêu lên những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người và cuộc sống.
* Cách nhận biết phương thức tự sự: có cốt truyện, có nhân vật, có diễn biến sự việc, có những câu văn trần thuật.
b. Miêu tả: là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người.
* Cách nhận biết phương thức miêu tả : Có các câu văn, câu thơ tái hiện lại hình dáng, diện mạo, màu sắc,… của người và sự vật ( tả người, tả cảnh, tả tình).
c. Biểu cảm: là một nhu cầu của con người trong cuộc sống bởi trong thực tế sống luôn có những điều khiến ta rung động (cảm) và muốn bộc lộ (biểu) ra với một hay nhiều người khác. PT biểu cảm là dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.
* Cách nhận biết phương thức biểu cảm : có các câu văn, câu thơ miêu tả cảm xúc, thái độ của người viết hoặc của nhân vật trữ tình.
d. Thuyết minh: là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.
e. Nghị luận: là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình.
* Cách nhận biết phương thức nghị luận : Có vấn đề bàn luận, có quan điểm của người viết
g. Hành chính – công vụ: là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở pháp lí.
* Phương thức hành chính công vụ thường ít xuất hiện trong đề đọc hiểu.
3. Phép tu từ và tác dụng
a. Nhận biết các phép tu từ:
* Các biện pháp tu từ ngữ âm: điệp âm (điệp phụ âm đầu, điệp vần , điệp thanh), hài âm, hài thanh, tạo nhịp điệu, tạo âm hưởng...
Biện pháp điệp âm
- Điệp âm là biện pháp cố ý lặp lại một số yếu tố ngữ âm nào đó (phụ âm đầu, vần hoặc thanh) để tạo ra sự cộng hưởng ý nghĩa, có tác dụng tô đậm thêm hình tượng hoặc xúc cảm, gợi liên tưởng, đồng thời giúp cho lời văn, lời thơ thêm nhạc tính:
+ Điệp phụ âm đầu
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên
+ Điệp vần
Lá bàng đang đỏ ngọn cây
Sếu mang giang lạnh đang bay ngang trời
+ Điệp thanh
Mục đích thi đua ái quốc là gì ?
Diệt giặc đói khổ,
Diệt giặc dốt nát,
Diệt giặc ngoại xâm
Biện pháp hài âm
- Hài âm là biện pháp tu từ ngữ âm, trong ñó người ta cố ý sử dụng một cách tổng hợp các biện pháp tu từ ngữ âm nhằm tạo nên một sự phù hợp giữa hiệu quả biểu cảm – cảm xúc của hình tượng âm thanh với nội dung biểu cảm của câu thơ.
- Biện pháp hài âm chú ý đến sự hài hoà các mặt đối lập của âm tiết như : mở /đóng, cao /thấp, ngắn/dài, mạnh /yếu, trầm/bổng, ở những vị trí nhất định để tạo âm hưởng (điểm nhấn thường là những âm tiết đứng ở cuối câu). Tính chất hài hoà này không chỉ thể hiện ở những câu thơ, lời văn riêng lẻ mà nó còn góp phần tạo ra đặc trưng về giọng ñiệu cho cả đoạn, cả bài.
Ví dụ:
Đời Trần, quân Nguyên đánh đâu được đấy, đánh được nước Tàu và nửa châu Âu, thế mà ba lần bị ông Trần Hưng Đạo đánh tan. Bình dân như ông Lê Lợi và ông Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân Tàu làm cho nước ta độc lập. Người già như ông Lí Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh đông dẹp bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân.
Biện pháp hài thanh
- Hài thanh là biện pháp tu từ ngữ âm nhằm hài hoà các mặt đối lập về thanhđiệu: cao/thấp; gãy /không gãy, tức là ñối lập âm vực và đường nét thanh điệu.
- Biện pháp hài thanh chủ yếu phát huy tác dụng trong những tác phẩm thơ bởi thơ ca tiếng Việt luôn chú ý đến tính nhạc, có thể xem đây là một trong những tiêu chí quan trọng để góp phần làm nên một bài thơ hay, nhất là những bài thơ được quy định bởi tính chất niêm luật chặt chẽ về cả vần và điệu.
Ví dụ: Gió sao là lạ. Mây khang khác
Không hiểu hay là nhịp cuối năm
Hôm qua thì tiếc.Mai thì sợ
Tuột cương. Trăng cũ lại trăng rằm ! (Cuối năm – Hữu Thỉnh)
Biện pháp tạo nhịp điệu
- Tạo nhịp điệu là biện pháp tu từ ngữ âm ñược dùng chủ yếu trong văn xuôi chính luận, trong đó người ta cốt tạo nên một âm hưởng hấp dẫn bằng những hình thức cân đối, nhịp nhàng của lời văn, nhằm làm cho lí luận có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Ví dụ: Bất kì đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra
sức chống thực dân cứu nước. (Hồ Chí minh)
Biện pháp tạo âm hưởng
- Biện pháp tạo âm hưởng là biện pháp tu từ ngữ âm được dùng chủ yếu trong văn xuôi nghệ thuật, trong đó người ta phối hợp âm thanh, nhịp điệu của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân đối, nhịp nhàng, uyển chuyển, êm ái, du dương, mà cao hơn thế, phải tạo ra một âm hưởng hoà quyện với nội dung hình tượng của câu văn.
* Các biện pháp tu từ từ vựng: So sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ, ngoa dụ, nói giảm, nhân hoá, vật hóa, điệp ngữ, uyển ngữ, nhã ngữ, chơi chữ...
Biệp pháp tu từ so sánh
- So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng có những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
- Cấu tạo của biện pháp so sánh: A là B, A như B, Bao nhiêu…. bấy nhiêu….
Trong đó:
+ A – sự vật, sự việc được so sánh
+ B – sự vật, sự việc dùng để so sánh
+ “Là” “Như” “Bao nhiêu…bấy nhiêu” là từ ngữ so sánh, cũng có khi bị ẩn đi.
Ví dụ:“Nước biếc trông như làn khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào” (Thu vịnh – Nguyễn Khuyến)
Biện pháp tu từ nhân hóa
- Nhân hóa là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ chỉ hoạt động, tính cách, suy nghĩ, tên gọi ... vốn chỉ dành cho con người để miêu tả đồ vật, sự vật, con vật, cây cối khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi, có hồn hơn.
Ví dụ:“Heo hút cồn mây súng ngửi trời” (Tây Tiến – Quang Dũng)
Biện pháp tu từ ẩn dụ
- Ẩn dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ “Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Biện pháp tu từ hoán dụ
- Hoán dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên của một sự vật, hiện
tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ “Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” (Việt Bắc - Tố Hữu)
Biện pháp tu từ nói quá/phóng đại/thậm xưng/khoa trương
- Nói quá là phép tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
Ví dụ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” (Việt Bắc - Tố Hữu)
Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh
- Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, nhằm tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Ví dụ:“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!” (Bác ơi – Tố Hữu)
Biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ
- Là BPTT nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, cụm từ có dụng ý làm tăng cường hiệu quả diễn đạt: nhấm mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc… và tạo nhịp điệu cho câu/ đoạn văn bản.
Ví dụ: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
(Cây tre Việt Nam – Thép Mới)
Biện pháp tu từ chơi chữ
– Chơi chữ là BPTT lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hước,…. làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
Ví dụ: “Bà già đi chợ cầu đông
Xem một que bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”(Ca dao)
Biện pháp tu từ liệt kê
- Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả đầy đủ, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm.
Ví dụ: “Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!” (Người con gái anh hùng – Trần Thị Lý)
Biện pháp tu từ tương phản
- Là cách sử dụng từ ngữ đối lập, trái ngược nhau để tăng hiệu quả diễn đạt.
Ví dụ:“O du kích nhỏ giương cao sung
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế, to gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu” (Tố Hữu)
*Các biện pháp tu từ cú pháp thường gặp: đảo ngữ, lặp cấu trúc, chêm xen, câu hỏi tu từ,
phép đối…
Biện pháp tu từ đảo ngữ
- Đảo ngữ là biện pháp tu từ thay đổi trật tự cấu tạo ngữ pháp thông thường của câu, nhằm nhấn mạnh ý, nhấn mạnh đặc điểm của đối tượng và làm câu thơ, câu văn thêm sinh động, gợi cảm, hài hòa về âm thanh,…
- Ví dụ:
“Lom khom dưới núi: tiều vài chú
Lác đác bên sông: chợ mấy nhà” (Qua Đèo Ngang – Bà huyện Thanh Quan)
=> Tô đậm cảm giác hoang vắng, cô liêu...
Biện pháp tu từ lặp cấu trúc
- Là biện pháp tu từ tạo ra những câu văn đi liền nhau trong văn bản với cùng một kết cấu nhằm nhấn mạnh ý và tạo sự nhịp nhàng, cân đối cho văn bản
- Ví dụ: “Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
=> Khẳng định chủ quyền dân tộc, bộc lộ niềm tự hào, vui sướng,….
Biện pháp tu từ chêm xen
- Là chêm vào câu một cụm từ không trực tiếp có quan hệ đến quan hệ ngữ pháp trong câu, nhưng có tác dụng rõ rệt để bổ sung thông tin cần thiết hay bộc lộ cảm xúc. Thường đứng sau dấy gạch nối hoặc trong ngoặc đơn.
Ví dụ “Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích!
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)” (Quê hương – Giang Nam)
=> Bộc lộ tình cảm, cảm xúc: ngạc nhiên, xúc động, yêu mến,… một cách kín đáo.
Câu hỏi tu từ
- Là đặt câu hỏi nhưng không đòi hỏi câu trả lời mà nhằm nhấn mạnh một ý nghĩa khác.
“Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
=> Nhấn mạnh cảnh ngộ mất mát, chia lìa, hoang tàn của quê hương trong chiến tranh.
Phép đối
- Là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các thành phần câu, vế câu song song, cân đối trong lời nói nhằm tạo hiệu quả diễn đạt: nhấn mạnh, gợi liên tưởng, gợi hình ảnh sinh động, tạo nhịp điệu cho lời nói.
Ví dụ “Ta/ dại /ta/ tìm/ nơi/ vắng vẻ
Người/ khôn/ người/ đến/ chốn/ lao xao” (Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
b. Các biện pháp tu từ có tác dụng:
- Làm rõ đối tượng nói đến,
- Tăng thêm gợi cảm, gợi hình ảnh, âm thanh, màu sắc, làm đối tượng hấp dẫn, sâu sắc.
4. Các thể thơ:
Để phân biệt được các thể thơ, xác định được đúng thể loại, hiểu luật thơ: những quy tắc
về số câu, số tiếng, cách hiệp vần, phép hài thanh, ngắt nhịp … Căn cứ vaò luật thơ,
người ta phân chia các thể thơ Việt Nam ra thành 3 nhóm chính:
- Các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát, hát nói;
- Các thể thơ Đường luật: ngũ ngôn, thất ngôn;
- Các thể thơ hiện đại: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ - văn xuôi,…
5. Các thao tác lập luận:
a. Thao tác lập luận giải thích:
- Là cắt nghĩa một sự vật, hiện tượng, khái niệm để người khác hiểu rõ, hiểu đúng vấn đề.
- Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ được tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm.
- Cách giải thích: Tìm đủ lí lẽ để giảng giải, cắt nghĩa vấn đề đó. Đặt ra hệ thống câu hỏi để trả lời.
b. Thao tác lập luận phân tích:
- Là cách chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận để đi sâu xem xét một cách toàn diện về nội dung, hình thức của đối tượng.
- Cách phân tích: Chia tách đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận theo những tiêu chí, quan hệ nhất định.
c. Thao tác lập luận chứng minh:
- Dùng những bằng chứng chân thực, đã được thừa nhận để chứng tỏ đối tượng.
- Cách chứng minh: Xác định vấn đè chứng minh để tìm nguồn dẫn chứng phù hợp. Dẫn chứng phải phong phú, tiêu biểu, toàn diện sát hợp với vấn đề cần chứng minh, sắp xếp dẫn chứng phải lô gic, chặt chẽ và hợp lí.
d. Thao tác lập luận so sánh:
- Làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong mối tương quan với đối tượng khác.
- Cách so sánh: Đặt đối tượng vào cùng một bình diện, đánh giá trên cùng một tiêu chí, nêu rõ quan điểm, ý kiến của người viết.
e. Thao tác lập luận bình luận:
- Bình luận là bàn bạc, nhận xét, đánh giá về một vấn đề .
- Cách bình luận: Trình bày rõ ràng, trung thực vấn đề được bình luận, đề xuất và chứng tỏ được ý kiến nhận định, đánh giá là xác đáng. Thể hiện rõ chủ kiến của mình.
g. Thao tác lập luận bác bỏ:
- Là cách trao đổi, tranh luận để bác bỏ ý kiến được cho là sai .
- Cách bác bỏ: Nêu ý kiến sai trái, sau đó phân tích, bác bỏ, khẳng định ý kiến đúng; nêu từng phần ý kiến sai rồi bác bỏ theo cách cuốn chiếu từng phần.
6. Xác định nhan đề, câu chủ đề văn bản
- Xác định nhan đề: Nhan đề của văn bản thường nằm ở những từ ngữ, những câu lặp đi, lặp lại nhiều lần trong văn bản.
- Xác định câu chủ đề: Nếu là đoạn văn trình bày theo cách diễn dịch thì câu chủ đề thường ở đầu đoạn, nếu là đoạn văn trình bày theo cách quy nạp thì câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Còn đoạn văn trình bày theo cách móc xích hay song hành thì câu chủ đề là câu có tính chất khái quát nhất, khái quát toàn đoạn. Câu đó có thể nằm bất cứ vị trí nào trong đoạn văn.
7. Xác định nội dung chính của văn bản
-Muốn xác định được nội dung của văn bản: căn cứ vào nhan đề, câu chủ đề của văn bản, những hình ảnh đặc sắc, câu văn, câu thơ được nhắc đến nhiều lần. Đây có thể là những từ khóa chứa đựng nội dung chính của văn bản.
8. Xác định từ ngữ, hình ảnh biểu đạt nội dung cụ thể trong văn bản
-Phần này trong đề thi thường yêu cầu chỉ ra một từ ngữ, một hình ảnh, một câu nào đó có sẵn trong văn bản. Sau khi chỉ ra được có thể lý giải phân tích vì sao lại như vậy.
- Vì thế cần đọc kĩ đề, khi lý giải phải bám sát vào văn bản. Phần này phụ thuộc nhiều vào khả năng cảm thụ thơ văn của mỗi bản thân học sinh.
9. Yêu cầu giải thích, thông hiểu, đồng ý, không đồng ý về một, một vài câu được trích từ của văn bản
-Trong đề đọc hiểu phần câu hỏi này thường là câu cuối cùng. Sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và trả lời các câu trên, đến câu này là câu có tính chất liên hệ mở rộng. Nó thuộc câu hỏi vận dụng.
* Ngoài ra, đề Đọc hiểu còn yêu cầu nhận diện các phương thức trần thuật, các phép liên kết câu trong văn bản, hình thức trình bày/kết cấu đoạn văn,…
CHUYÊN ĐỀ 2: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
- Với sự thay đổi cấu trúc đề thi THPT Quốc gia năm 2017, dạng câu hỏi Nghị luận xã hội thường chiếm 20% số điểm với yêu cầu khoảng 200 từ (tương ứng khoảng 20 dòng), cụ thể, phần nghị luận xã hội sẽ lấy một ý nhỏ trong bài đọc hiểu để làm đề thi viết đoạn văn. Để làm được câu này, trước hết cần phải đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được cốt lõi nội dung, từ đó xem đề nghị luận 200 từ họ yêu cầu bàn về vấn đề gì? Nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc về Tư tưởng đạo lý hay Hiện tượng đời sống.
- Có nhiều cách hỏi theo dạng tích hợp với văn bản đọc hiểu: Từ chủ đề của văn bản, trình bày ý kiến liên quan đến chủ đề đó; hoặc trích một vài câu của văn bản và yêu cầu triển khai thành đoạn văn; hoặc yêu cầu đưa thêm những ý kiến của người viết ngoài quan điểm, chính kiến của tác giả văn bản…
- Do đó, để có được một bài viết hay – ngắn gọn – cô đọng – súc tích đòi hỏi cần có những kiến thức và kĩ năng cơ bản sau đây:
I. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ
1. Nội dung: xoay quanh một số vấn đề sau:
-Vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống, nghề nghiệp, ước mơ…
- Vấn đề về đạo đức, tâm hồn, tính cách: lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ
lượng; tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn; thói ích kỉ, ba
hoa, vụ lợi…
-Vấn đề về các quan hệ gia đình: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em…
-Vấn đề về các quan hệ xã hội: tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn…
- Vấn đề về cách ứng xử, đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống.
2. Cách làm bài
a. Mở bài:
- Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận.
- Nêu vấn đề cần nghị luận ra ( trích dẫn).
- Phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận (có tính chuyển ý).
b. Thân bài:
* Bước 1: Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận
Tùy theo yêu cầu đề bài có thể có những cách giải thích khác nhau:
– Giải thích khái niệm, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.
Giải thích nghĩa đen của từ ngữ, rồi suy luận ra nghĩa bóng, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa,
nội dung vấn đề.
– Giải thích mệnh đề, hình ảnh trong câu nói, trên cơ sở đó xác định nội dung, ý nghĩa của vấn đề mà câu nói đề cập.
* Lưu ý: Tránh sa vào cắt nghĩa từ ngữ ( theo nghĩa từ vựng).
* Bước 2: Phân tích và chứng minh những mặt đúng của tư tưởng, đạo lí cần bàn luận (…)
Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để làm sáng tỏ tới cùng bản chất của vấn đề. Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? (Vì sao?) Vấn đề được biểu hiện như thế nào? Có thể lấy những dẫn chứng nào làm sáng tỏ?
* Bước 3: Bình luận, đánh giá (bàn bạc, mở rộng, đề xuất ý kiến…):
- Đánh giá vấn đề: Nêu ý nghĩa của vấn đề, mức độ đúng – sai, đóng góp – hạn chế của vấn đề.
- Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang bàn luận.
- Mở rộng vấn đề
* Bước 4: Rút bài học nhận thức và hành động
- Từ sự đánh giá trên, rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như trong tư tưởng, tình cảm, …( Thực chất trả lời câu hỏi: từ vấn đề bàn luận, hiểu ra điều gì? Nhận ra vấn đề gì có ý nghĩa đối với tâm hồn, lối sống bản thân?…)
- Bài học hành động – Đề xuất phương châm đúng đắn, phương hướng hành động cụ thể
( Thực chất trả lời câu hỏi: Phải làm gì? …)
c. Kết bài:
- Khẳng định chung về tư tưởng, đạo lí đã bàn luận ở thân bài.
- Lời nhắn gửi đến mọi người.
II. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
1. Nội dung
Kiểu bài nghị luận về hiện tượng đời sống thường đề cập đến những hiện tượng nổi bật, tạo được sự chú ý và có tác động đến đời sống xã hội như:
+ Ô nhiễm môi trường, sự nóng lên của trái đất, nạn phá rừng, thiên tai lũ lụt…
+ Bạo hành gia đình, Bạo lực học đường, tai nạn giao thông…
+ Tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục, hiện tượng chảy máu chất xám…
+ Phong trào tiếp sức mùa thi, giúp đỡ đồng bào lũ lụt, tấm gương người tốt, việc tốt, nếp sống đẹp…
2. Một vài lưu ý
Yêu cầu của kiểu bài này là học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống ( qua việc miêu tả, phân tích nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng…) từ đó thể hiện thái độ đánh giá của bản thân cũng như đề xuất ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời sống.
Cần có cách viết linh hoạt theo yêu cầu của đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc chung chung.
Ví dụ: Cùng bàn về vấn đề internet nhưng nếu đề yêu cầu trình bày suy nghĩ về vai trò của internet thì cần nhấn mạnh về vai trò, tác dụng. Còn nếu đề yêu cầu trình bày ý kiến trước hiện
tượng “nghiện” internet trong thanh niên hiện nay thì cần chú ý nhiều hơn đến mặt hạn chế và tác động tiêu cực của nó.
Ngoài việc trang bị cho mình những kỹ năng làm bài, học sinh cần tích lũy những vốn hiểu biết thực tế về đời sống xã hội.
3.Các bước làm bài
Bước 1: Miêu tả hiện tượng được đề cập đến trong bài.
+ Giải thích (nếu trong đề bài có khái niệm, thuật ngữ hoặc các ẩn dụ, hoán dụ, so sánh…)cần làm rõ để đưa ra vấn đề bàn luận.
+ Chỉ ra thực trạng ( biểu hiện của thực trạng)
Bước 2: Phân tích tác hại, các mặt đúng – sai, lợi – hại của vấn đề.
Phân tích tác dụng của vấn đề nếu là hiện tượng tích cực.
Phân tích tác hại của vấn đề nếu là hiện tượng tiêu cực.
Phân tích cả hai mặt tích cực và hạn chế nếu đề có cả hai mặt.
Bước 3: Chỉ ra nguyên nhân.
Bước 4: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá của người viết về hiện tượng., Giải pháp khắc phục hiện tượng tiêu cực.
CÁC BƯỚC VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Bước 1. Đọc kỹ đề
Theo như đề thi mẫu – phần nghị luận xã hội sẽ lấy một ý nhỏ trong bài đọc hiểu để làm đề thi viết đoạn văn 200 từ (cũng có khi là không). Nếu đề NLXH mà nằm trong đọc hiểu thì trước hết các em phải đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được cốt lõi nội dung, từ đó xem đề nghị luận 200 từ họ yêu cầu mình bàn về vấn đề gì? Nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc về Tư tưởng đạo lý hay Hiện tượng đời sống.
Ví dụ: Leo lên đỉnh núi không phải để cắm cờ mà là để vượt qua thách thức, tận hưởng bầu không khí và ngắm nhìn quang cảnh rộng lớn xung quanh. Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em. Hãy đến Paris để tận hưởng cảm giác đắm chìm trong Paris chứ không phải lướt qua đó để ghi Paris vào danh sách các địa điểm các em đã đi qua và tự hào mình là con người từng trải. Tập luyện những suy nghĩ độc lập, sáng tạo và táo bạo không phải để mang lại sự thỏa mãn cho bản thân mà là để đem lại lợi ích cho 6,8 tỷ người trên trái đất của chúng ta. Rồi các em sẽ phát hiện ra sự thật vĩ đại và thú vị mà những kinh nghiệm trong cuộc sống mang lại, đó là lòng vị tha mới chính là điều tốt đẹp nhất mà các em có thể làm cho bản thân mình. Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời thực ra lại đến vào lúc các em nhận ra các em chẳng có gì đặc biệt cả. Bởi tất cả mọi người đều như thế. (Trích Bài phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp trường trung học Wellesley của thầy Hiệu trưởng David McCullough)
Câu nghị luận xã hội cho là: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em.”
Như vậy câu trên là một câu trong bài đọc hiểu. Vậy phải đọc kỹ bài Đọc hiểu để hiểu được câu trên nằm trong một chỉnh thể mà ở đó tác giả đã dạy chúng ta về cách cảm nhận thế giới và thái độ ứng xử văn hóa trước thế giới, trước cuộc đời.
Nên viết đoạn theo cấu trúc Tổng – Phân – Hợp để đủ ý và rõ ràng.
Bước 2: Xây dựng câu mở đoạn
– Câu mở đoạn có thể dùng 1-3 câu để mở đoạn (giống như phần mở bài vậy). Phần này phải có cái nhìn tổng quát, khái quát được nội dung mà đề thi yêu cầu. Phải hiểu được đề thi bàn về vấn đề gì?
– Nên viết theo hướng: nêu nội dung khái quát rồi dẫn câu nói vào (hoặc không dẫn nguyên câu thì trích vào cụm từ khóa). Ví dụ theo đề trên ta có thể viết như sau:
Thành công luôn là khao khát của mỗi con người trên hành trình chinh phục những ước mơ và khát vọng – nhưng khi lên đến đỉnh của thành công, điều quan trọng nhất vẫn là để “ngắm nhìn thế giới” chứ không phải là để cho ai đó nhận ra mình.
Bước 3. Xây dựng thân đoạn
Phải giải thích các cụm từ khóa, giải thích cả câu (cần ngắn gọn, đơn giản)
Bàn luận:
+ Đặt ra các câu hỏi – vì sao – tại sao – sau đó bình luận, chứng minh từng ý lớn, ý nhỏ.
+ Đưa ra dẫn chứng phù hợp, ngắn gọn, chính xác (tuyệt đối không kể chuyện rông dài, tán gẫu, sáo rỗng)
+ Đưa ra phản đề – mở rộng vấn đề – đồng tình, không đồng tình.
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động.
Bước 4 – viết kết đoạn
– Viết kết đoạn thường kết lại bằng một danh ngôn hay câu nói nổi tiếng (Nếu được vậy, bài làm sẽ được giám khảo chú ý hơn khi chấm điểm)
Nhìn chung viết đoạn văn giống như cách làm bài nghị luận xã hội mà thầy đã cho cấu trúc trước đó. Chỉ khác là chúng ta viết ngắn lại, cô đúc hơn.
* Số dòng, số câu cho từng phần:
Mở đoạn: 2-3 câu (có khi chỉ cần 1 câu nếu viết tốt)
Thân đoạn:
Giải thích -4 dòng
Bàn luận -12 dòng
Mở rộng vấn đề – 4 dòng
Bài học – 5 dòng
Kết đoạn – 2 dòng (hoặc có khi gộp luôn vào chỗ bài học)
Bài văn 200 từ nhưng bạn có thể viết tới 250 từ (tương đương trên 20 dòng)
II. PHẦN 2: Luyện tập
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Bất cứ ai cũng đã từng thất bại, đã từng vấp ngã ít nhất một lần trong đời như một quy luật bất biến của tự nhiên. Có nhiều người có khả năng vực dậy, đứng lên rồi nhẹ nhàng bước tiếp như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng cũng có nhiều người chỉ có thể ngồi một chỗ và vẫn luôn tự hỏi lí do vì sao bản thân lại có thể dễ dàng “mắc bẫy” đến như thế…
Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá: Về một bài toán đã áp dụng cách giải sai, về lòng tốt đã gửi nhầm chủ nhân hay về một tình yêu lâu dài bỗng phát hiện đã trao nhầm đối tượng.
(…)
Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi. Thời gian làm tuổi trẻ đi qua nhanh lắm, không gì là mãi mãi, nên hãy sống hết mình để không nuối tiếc những gì chỉ còn lại trong quá khứ mà thôi…”
Câu 1. Hãy chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn văn?
Câu 2. Đoạn văn trên đề cập đến nội dung gì?
Câu 3. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì trong hai câu văn sau: Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi? Hãy phân tích hiệu quả biểu đạt của biện pháp tu từ đó?
Câu 4. Qua đoạn trích trên, tác giả muốn gửi gắm điều gì?
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Câu Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Gợi ý đáp án
I. Đọc hiểu
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn: Phương thức nghị luận
Câu 2. Nội dung đoạn trích:
-Hãy biết đứng lên sau vấp ngã vì mỗi lần vấp ngã là một lần ta rút ra được những bài học cho bản thân.
-Hãy sống yêu thương, sẻ chia, đồng cảm để không phải nuối tiếc khi nhìn lại quá khứ.
Câu 3. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ: Điệp ngữ (Đừng để khi) ; điệp cấu trúc ngữ pháp (lặp CTNP); đối lập (tia nắng…đã lên><giọt lê….rơi).
-Tác dụng:
- Điệp ngữ ; điệp cấu trúc ngữ pháp:
+ Tạo âm hưởng nhịp nhàng, cân đối.
+ Nhấn mạnh, khuyến khính mọi người hãy từ bỏ những ưu phiền để sống vui vẻ, hòa nhịp với thế giới xung quanh…
- Đối lập: Làm nổi bật sự trái ngược giữa ngoại cảnh với tâm trạng con người, nhằm khích lệ con người từ bỏ những ưu phiền, hướng đến cuộc sống vui tươi, ý nghĩa…..(HS có thể trả lời theo nhiều cách những vẫn xoay quanh tác dụng nêu ở trên)
Câu 4. Bất cứ ai cũng từng vấp ngã trong cuộc đời, vì vậy điều quan trọng sau mỗi lần vấp ngã ấy là phải biết đứng dậy và đi tiếp.
II. Làm văn
Câu 1.
- Trình bày từ khoảng 200 chữ.
- Triển khai thành đoạn cũng có 3 phần: mở đoạn – thân đoạn - kết đoạn.
Những bài học rút ra:
- Bài học về kinh nghiệm.
- Bài học về ý chí, nghị lực.
- Bài học về giá trị cuộc sống.
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
… Vàng bạc uy quyền không làm ra chân lí
Óc nghĩ suy không thể mượn vay
Bạch Đằng xưa, Cửu Long nay
Tắm gội lòng ta chẳng bao giờ cạn.
Ta tin ở sức mình, vô hạn
Như ta tin ở tuổi 25
Của chúng ta là tuổi trăng rằm
Dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái.
Ta tin ở loài người thúc nhanh thời đại
Những sông Thương bên đục, bên trong
Chảy về xuôi, càng đẹp xanh dòng
Lịch sử vẫn một sông Hồng vĩ đại…
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn thơ trên?
Câu 2. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng ở khổ thơ thứ 2.
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ Của chúng ta là tuần trăng rằm; Dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái?
Câu 4. Nhà thơ đã tâm sự gì qua đoạn thơ trên?
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Từ việc đọc đoạn thơ trên, anh/chị có suy nghĩ gì về vai trò thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước hiện nay.
Gợi ý đáp án:
I.Đọc hiểu
Câu 1: Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2: Biện pháp tu từ so sánh: “ Như ta tin ở tuổi 25; Của chúng ta là tuần trăng rằm”.
Câu 3: Hai câu thơ nói lên sức mạnh của tuổi trẻ: dám ước mơ và hành động để thực hiện những lí tưởng cao đẹp của mình- sẽ làm chủ tương lai của đất nước….
Câu 4:
- Nhà thơ đang tâm sự về tuổi trẻ của mình và thế hệ mình: mang tất cả sức mạnh tâm huyết, niềm tin của tuổi trẻ để dâng hiến đấu tranh, bảo vệ tổ quốc …
- Từ tâm sự cá nhân, nhà thơ nhắn gửi tới thế hệ trẻ sống phải có lí tưởng cao đẹp, có niềm tin vào chính mình và mọi người để tạo nên những trang sử hào hùng của dân tộc…
II. Làm văn
Câu 1. Vai trò thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước hiện nay:
- Trong thời kỳ phát triển mới, hơn lúc nào hết, tuổi trẻ cần phát huy trí tuệ và sức lực cho Tổ quốc. Lực lượng thanh niên đang gánh vác trách nhiệm vừa lớn lao nhưng cũng rất vinh quang là góp phần vào công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
- Muốn vậy, thanh niên cần không ngừng tu dưỡng đạo đức để trở thành những con người có nhân cách tốt, đồng thời luôn luôn cố gắng học tập nâng cao kiến thức hiểu biết, trở thành những người đủ đức, đủ tài phục vụ Tổ quốc. Mỗi chúng ta cần nắm bắt kiến thức cơ bản ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chính những kiến thức có tính chất nền tảng ấy sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trên con đường khám phá và chinh phục tri thức nhân loại. Và chỉ khi có kiến thức, có nhân cách tốt thì mới trở thành những công dân có ích trong công cuộc bảo vệ đất nước, phát triển quê hương ngày một giàu mạnh hơn.
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
(Đặng Thai Mai - trích Tiếng Việt, một biểu hiện của hùng hồn của sức sống dân tộc)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên.
Câu 2. Để làm rõ Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận nào?
Câu 3. Vì sao tác giả lại cho rằng: Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình.
Câu 4. Nêu nội dung chính của đoạn văn.
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Từ việc đọc đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của em về vấn đề làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của học sinh hiện nay.
Gợi ý đáp án
I.Đọc hiểu
Câu 1. Phương thức biểu đạt trong đoạn văn: nghị luận.
Câu 2. Để làm rõ Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận giải thích.
Câu 3. Tác giả cho rằng: Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình vì: Tiếng Việt có những vốn rất giàu và đẹp, tiếng Việt hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu và tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng, đời sống văn hóa của người Việt Nam.
Câu 4. Nội dung chính của đoạn văn: sự giàu đẹp của tiếng Việt.
II. Làm văn
Câu 1. Từ việc đọc đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn ngắn nêu suy nghĩ của em về vấn đề làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của học sinh hiện nay.
-Yêu cầu về kĩ năng: biết viết đoạn văn nghị luận, đoạn văn có mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn, không mắc lỗi dung từ, đặt câu.
- Yêu cầu về kiến thức: về cơ bản học sinh đáp ứng các ý sau:
+ Tiếng Việt của chúng ta giàu và đẹp.
+ Thực trạng sử dụng tiếng Việt của học sinh hiện nay.
+ Giải pháp
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Ứng xử là thái độ, hành vi, lời nói thích hợp trong quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa người với thiên nhiên. Thuật ngữ văn hóa đặt trước ứng xử có nghĩa là tô đậm chiều cao phẩm chất, chiều rộng quan hệ của người ứng xử. Có con người là có cách ứng xử giữa họ với nhau, giữa họ với môi trường sống. Nhưng văn hóa ứng xử được hình thành từ khi văn minh phát triển ở một cấp độ nào đó nhằm diễn đạt cách ứng xử con người đối với thiên nhiên, đối với xã hội và đối với chính mình...
(2) Ở các nền văn hóa khác nhau có hệ chuẩn không giống nhau, nhưng vẫn có giá trị chung. Đó là sống có lý tưởng, trung với nước, hiếu với cha mẹ, tình thương đối với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn hóa phương Đông, Khổng tử khuyên mọi người tu tâm dưỡng tín với sáu chữ: nhất nhật tam tĩnh ngô thân. Đối với người Nhật, nhân cách văn hóa được công thức hóa: thiện, ích, đẹp. Nước ta coi trọng mục tiêu giá trị: chân, thiện, mỹ. Ở châu Âu, người ta nói tính cách, khi bàn giá trị nhân cách tiêu biểu dân tộc. Tính cách Nga được thể hiện ở lòng đôn hậu, tình thủy chung, nghĩa cử quốc tế cao cả. Khẩu hiệu tri thức là sức mạnh được nhiều nước tư bản châu Âu viện dẫn và ảnh hưởng tới hành động đã mấy trăm năm. Bí quyết hàng đầu của người Do Thái là sự trọng học, đề cao vai trò của trí tuệ, tôn sùng học vấn và tài năng. Để con gái lấy được học giả, hoặc lấy được con người là học giả làm vợ thì không tiếc tài sản. Tuy nhiên, họ cũng coi tri thức mà thiếu thực tiễn chẳng khác nào chú lừa chỉ biết thồ trên lưng sách vở.
Câu 1. Nêu nội dung chính của từng đoạn trong văn bản trên.
Câu 2. Xác định thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng ở đoạn (1) và (2).
Câu 3. Hãy nên ít nhất 2 tiêu chí giao tiếp thể hiện văn hóa ứng xử trong cuộc sống hàng ngày. Trả lời trong khoảng 3-5 câu.
Câu 4. Điều gì khiến anh chị tâm đắc nhất qua đoạn trích.
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về cách ứng xử của con người với chính mình.
Gợi ý đáp án
Phần I. Đọc hiểu
Câu 1. Chủ đề của hai đoạn văn:
Đoạn (1): Giải thích ý nghĩa khái niệm "văn hóa ứng xử"
Đoạn (2): Các nền văn hóa khác nhau có hệ chuẩn không không giống nhau, nhưng vẫn có giá trị chung
Câu 2. Thao tác lập luận chủ yếu:
Đoạn (1): Thao tác lập luận giải thích.
Đoạn (2): Thao tác lập luận so sánh.
Câu 3:
- Khi giao tiếp với người trên tuổi phải có lời thưa gửi
- Khi đối thoại với một người nào đó phải chú ý nhường lượt lời cho họ.
Câu 4.
- Tuy mỗi nền văn hóa có những quy định cụ thể về cách giao tiếp, ứng xử nhưng vẫn có những giá trị chung mà chúng ta cần hiểu và tôn trọng.
Phần II. Làm văn
Câu 1.
* Giải thích:
+ Cách ứng xử với chính mình: Là thái độ, suy nghĩ, đánh giá về chính bản thân mình.
* Bình luận:
- Tại sao con người cần có thái độ ứng xử văn hóa với chính bản thân mình?
+ Bởi vì bất kì một người nào cũng cần hiểu rõ bản thân mình
+ Từ chỗ hiểu rõ bản thân, con người phải có thái độ, suy nghĩ , đúng đắn, tích cực về chính mình thì từ đó mới có thái độ, suy nghĩ tích cực về người khác.
Thái độ ứng cử văn hóa với chính bản thân được biểu hiện như thế nào?
- Hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của bản thân
- Biết phát huy điểm mạnh, hạn chế, khắc phục điểm yếu
- Không tự đánh giá quá cao về bản thân mình đồng thời cũng không tự hạ thấp mình
- Trân trọng, giữ gìn cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn.
Ý nghĩa của việc hình thành văn hóa ứng xử với chính bản than:
- Nâng cao giá trị bản thân
- Là cơ sở, nền tảng trong quan hệ ứng xử với những người xung quanh
Bài học nhận thức, hành động:
- Trước khi nhận thức, đánh giá về người khác, cần nhận thức, đánh giá về chính mình
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“… (1) Thật vậy, Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc từng viết: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”. Đáng tiếc, cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách cũng dần phôi pha. Sách in nhiều nơi không bán được, nhiều nhà xuất bản đóng cửa vì thua lỗ, đặc biệt sách bị cạnh tranh khốc liệt bởi những phương tiện nghe nhìn như ti vi, Ipad, điện thoại Smart, và hệ thống sách báo điện tử trên Internet. Nhiều gia đình giàu có thay tủ sách bằng tủ rượu các loại. Các thư viện lớn của các thành phố hay của tỉnh cũng chỉ hoạt động cầm chừng, cố duy trì sự tồn tại.
…(2) Bỗng chợt nhớ khi xưa còn bé, với những quyển sách giấu trong áo, tôi có thể đọc sách khi chờ mẹ về, lúc nấu nồi cơm, lúc tha thẩn trong vườn, vắt vẻo trên cây, lúc chăn trâu, lúc chờ xe bus… Hay hình ảnh những công dân nước Nhật mỗi người một quyển sách trên tay lúc ngồi chờ tàu xe, xem hát, v.v… càng khiến chúng ta thêm yêu mến và khâm phục. Ngày nay, hình ảnh ấy đã bớt đi nhiều, thay vào đó là cái máy tính hay cái điện thoại di động. Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay…”
(Trích “Suy nghĩ về đọc sách” – Trần Hoàng Vy, Báo Giáo dục & Thời đại)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn văn trên?
Câu 2. Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào?
Câu 3. Hãy ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản? Nêu nội dung chính của văn bản trên?
Câu 4. Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”.
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Anh (chị) hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa nội dung thông điệp: Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay.
Gợi ý đáp án:
Phần I. Đọc hiểu
Câu 1:
- Đoạn văn viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí.
- Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn: Nghị luận
Câu 2: Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận so sánh.
Câu 3:
- Câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản: “Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay…”
- Nội dung chính của đoạn văn:
+ Trong thời đại công nghệ số, văn hóa đọc đang có xu hướng bị cạnh tranh lấn át, có nguy cơ bị mất dần đi.
+ Cần thấy được ý nghĩa của việc đọc sách và có thói quen đọc sách.
Câu 4:
- Ý nghĩa câu nói: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”:
+ Sách là sản phẩm tinh thần quý giá của con người, do con người sáng tạo ra; là kho tàng tri thức vô tận của nhân loại.
+ Quá trình con người sử dụng, sưu tầm, giữ gìn, tích lũy, bảo tồn sách thật nhiều, phong phú
đến bao nhiêu cũng không bao giờ là đủ.
Phần II. Làm văn
Câu 1:
- Khẳng định vai trò của sách trong thời đại công nghệ số, các phương tiện thông tin nghe – nhìn đang phát triển, có nhiều ưu thế, hấp dẫn hơn so với sách, và thực tế chúng đang có xu hướng cạnh tranh lấn át văn hóa đọc. Tuy nhiên vẫn không thể thay thế được hoàn toàn cho sách.
- Đọc sách vẫn luôn được khẳng định là một nhu cầu cần thiết với những thế mạnh riêng của
nó:
+ Đó là cách thưởng thức văn hoá sang trọng và có chiều sâu.
+ Là phương cách tốt nhất để làm giàu có vốn ngôn từ và cách hành văn, hình thành được kỹ năng ngôn ngữ và sẽ tự tin giao tiếp.
+ Cung cấp thông tin, tri thức, mở rộng, nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực.
+ Bồi dưỡng giáo dục đạo đức, tình cảm, nâng cao khiếu thẩm mĩ, hoàn thiện nhân cách, phát triển tâm hồn để hướng tới những giá trị tốt đẹp.
+ Tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo, cải thiện khả năng tập trung, suy ngẫm, tra cứu, tìm tòi…
-Cần hình thành thói quen, tạo hứng thú đọc sách, biết lựa chọn sách để đọc và cần có
phương pháp đọc sách hiệu quả.
1. Hoàn cảnh ra đời
- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.
- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp.
2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”
- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thoát khỏi thân phận thuộc địa để hòa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập, dân chủ, tự do.
- Giá trị văn học:
+ Giá trị tư tưởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.
+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm, hùng hồn.
- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; Các nước trên thế giới; Bọn đế quốc, thực dân đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.
- Mục đích: Tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam mới; Ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.
3. Nội dung
3.1. Phần 1 (từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung
- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc.
- Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.
- Đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các nước bé nhỏ với các cường quốc năm châu.
- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận hết sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.
- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản TN.
3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khảng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại nước ta :
+ Pháp kể công "khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị (dẫn chứng)
+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật (dẫn chứng)
+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng hồn và đanh thép tội ác của thùc dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao.
b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp quan trọng:
+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước VN.
+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp
+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.
3.3. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc
- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc
- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.
- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.
Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái sau.
4. Nghệ thuật
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục
- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.
- Giọng điệu linh hoạt.
5. Chủ đề
Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền được tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, nền độc lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc.
BÀI 2. TÂY TIẾN (Quang Dũng)
I. Tác giả
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
- Một hồn thơ lãng mạn, tài hoa: nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, thơ giàu chất nhạc, họa...
- Các tác phẩm chính: Rừng về xuôi; Mây đầu ô....
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)
2. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ
Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.
3. Nội dung
3.1. Đoạn 1: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
.....
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.
*Đoạn mở đầu bằng những dòng thơ chan chưa nối nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.
- Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.
* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng.
- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
- Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút, sương lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn.
- Nhớ những những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy biến thung lũng thành ‘xa khơi”.
- Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ người mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội. Nơi đây thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
-> Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên.
* Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:
- Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.
- Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh gục bên súng mũ bỏ quên đời”.
- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc “Nhớ ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới. Nhớ ôi!- nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.
Nhận xét: Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nối nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.
3.2. Đoạn 2: :
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
a. Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm màu sắc lãng mạn, trữ tình
- Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:
+ Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân (hội đuốc hoa)
+ Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.
+ Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc,tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến
b. Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc
- Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.
- Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các cô gái Thái trên con thuyền độc mộc.
- Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.
- Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.
3. 3. Đoạn 3: Bức tượng người lính Tây Tiến bất tử với thời gian
Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
- Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:
+ Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá
+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu lá, dữ oai hùm
+ Trong gian khổ nhưng:
~ vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên giới” - mộng chiến công, khao khát lập công;
~ “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” - mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.
Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.
- Vẻ đẹp bi tráng:
+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.
+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.
+ Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.
3.4. Đoạn 4: đoạn thơ còn lại
- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử:
+ Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.
+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.
- Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến.
è Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.
4. Nghệ thuật
+ Cảm hứng lãng mạn, bi tráng
+ Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt
+ Kết hợp chất nhạc và họa.
5. Chủ đề: Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.
BÀI 3. VIỆT BẮC (TỐ HỮU)
I.Hoàn cảnh sáng tác
- Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp
- Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
II.Nội dung văn bản.
1.Kết cấu của bài thơ
+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai.
+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.
+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.
+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
2.Phân tích văn bản.
2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa kẻ ở người đi.
- Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại.
+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của mình.
+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi.
+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.
- Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi
+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, cùng với cử chỉ ‘cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.
+ Lời hỏi của người ở lại đã khéo nhưng câu trả lời còn khéo léo hơn thế. Không phải là câu trả lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.
+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc. Rất có thể đó là hình ảnh thực, nhưng cũng có thể là hình ảnh trong tưởng tượng của người cán bộ kháng chiến để rồi mỗi lần hình ảnh áo chàm bay về trong tâm trí của người cán bộ là mỗi lần bao nỗi nhớ thân thương lại dội về.
è khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.
2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:
- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người VB:
+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”
+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối thù nặng vai.
+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.
+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.
+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa.
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai.
- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc nương náu trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.
- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
2.3.Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình.
- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.
- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.
- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.
- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:
+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.
+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao … núi đèo
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa
=>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.
2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc.
- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” + Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại
+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả
+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.
2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
a. Từ câu 53-> 74
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống TDP xâm lược. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.
+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc.
+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…
+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.
+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc.
~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.
~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…
+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập.
+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.
b.Từ câu 75- câu 83.
Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.
3. Đặc sắc nghệ thuật
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.
- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình
+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ)
+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc
4. Chủ đề
Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đỗi với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung
I. Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng chiến chống Mỹ
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia chiến đấu.
II. Đoạn trích “Đất Nước”
1.Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
“Đất Nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng – tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
2. Nội dung
2.1.Phần 1: Cảm nhận về Đất Nước
- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo...
- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.
- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.
- Về không gian địa lý :
+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi em tắm).
+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại…”).
- Về thời gian lịch sử : Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).
+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước”)
+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).
- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi người :
+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.
+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.
+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.
2.2.Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích
- Về địa lý : nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :
+ những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;
+ cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;
+ người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;
+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
- Về lịch sử : khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến “lớp lớp” những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.
- Về văn hóa : khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.
3. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do.
- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi
- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt
- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
4. Chủ đề
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
I. Tác giả
- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đìnhvà tình mẫu tử
- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.
II. Bài thơ “Sóng”
1. Hoàn cảnh sáng tác
Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
2. Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ
- ¢m ®iÖu cña bµi th¬ Sãng lµ ©m ®iÖu, cña nh÷ng con sãng ngoµi biÓn kh¬i, lóc µo ¹t, d÷ déi lóc nhÑ nhµng, khoan thai. ¢m ®iÖu ®ã ®îc t¹o nªn bëi: ThÓ ngò ng«n víi nh÷ng c©u th¬ ®îc ng¾t nhÞp linh ho¹t.
- Bµi th¬ cã hai h×nh tîng lµ “sãng” vµ “em” - lóc ph©n t¸ch, soi chiÕu vµo nhau, lóc nhËp hßa lµm mét trong mét c¸i t«i tr÷ t×nh duy nhÊt lµ Xu©n Quúnh.
3. Nội dung
- Khổ 1 :
+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào>< lặng lẽ như những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.
+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.
- Khổ 2 :
+ Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.
+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
- Khổ 3, 4 :
+ Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.
+ Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt.
- Khổ 5 :
+ Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.
+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.
Khổ 6, 7
+ Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.
+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh. Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ.
- Hai khổ cuối :
+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ.
+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi. Đó là “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình chung của nhân loại, như con sóng hoà vào đại dương mênh mông, bất tận.
4. Nghệ thuật
- Nhịp điệu độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối khổ linh hoạt
- Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.
- Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệ thụât về tình yêu của người phụ nữ.
-Kết cấu song hành: sóng và em
5. Chủ đề
Sóng là bài thơ tình đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của trái tim người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh sáng tác, âm điệu, nhịp điệu của bài thơ.
Xem mục II.1,2
Câu 3. (5 điểm): Hình tượng sóng và em trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
Xem mục II.3,4,5………….VÀ CÁC ĐỀ KHÁC
BÀI 6. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)
1.Hoàn cảnh sáng tác
+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà
* Vẻ hung bạo, dữ dằn :
- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.
- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…
- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.
- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau
- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.
* Vẻ trữ tình, thơ mộng :
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều.
- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.
- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.
3.Hình tượng người lái đò
- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp
+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”.
+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
- Là người trí dũng tuyệt vời:Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm:
+ Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy độg hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng song hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.
- Là người tài hoa nghệ sĩ:
+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.
+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.
è Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…
4. Nghệ thuật
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.
- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông.
5. Chủ đề:
Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng mười của cuộc sống.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP:
Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh sáng tác bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà(Nguyễn Tuân)
Xem mục 1
Câu 2. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)
Xem mục 2
Câu 3. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lái đò trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”(Nguyễn Tuân)
Xem mục 3
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Sinh năm 1937 tại t.p Huế
- Là một người con của xứ Huế.
- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
- Văn phong: “Nét đặc sắc … tài hoa” (tr197)
- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên
- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần
+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn
+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.
II. Phân tích:
1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả về với hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá lịch sử.
- Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.
2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau :
Mở bài: - Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc Tường
-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sác thiên nhiên của song Hương
Thân bài:
* Từ thượng nguồn:
- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
- Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.
* Về châu thổ:
- Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau (dẫn chứng...). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
- Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ... > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hoà lẫn vào nhau.
+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
- Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:
- Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.
- Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.
Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:
- Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
- Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
- Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
Tiểu kết:
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của sông Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.
* Sông Hương với lịch sử hào hùng:
- Là 1 dòng sông anh hùng:
•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
•Thời trung đại:bảo vệ biên giới phiá nam của tổ quốc
•Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa
•Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
•Thời chống Mĩ:
- Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu kết:
- Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của dân tộc.
Kết bài:
- Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế, con người Huế.
-Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
- Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.
3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Chất trí tuệ:
Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình.
“ Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”
cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.
Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế.
Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.
Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.
Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
* Chất thơ:
- Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.
“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và “ giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Hay “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ
BÀI 8. VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI)
1. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời
- Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc.
- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.
- Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.
2. Tóm tắt truyện
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử - con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
3. Nhân vật Mị
3.1.Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện
+ Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác : “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.
+ Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”.
à Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.
3.2. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị
a. Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẽ có thể sống một cuộc sống hạnh phúc:
+ Một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.
+ Một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.
+ Một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.
+ Một người con hiếu thảo.
à Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị, toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục.
b. Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra :
- “Con dâu gạt nợ” :
Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ : nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao động). Nhưng Mị lại là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý. Linh hồn Mị đã bị con “ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.
- Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết. Ở đó :
+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.
+ Mị chỉ là một công cụ lao động.
+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.
+ Mị âm thầm như một cái bóng.
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.
à Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật thật đau xót : dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy diệt ý thức sống của con người thật đáng sợ !
c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt (đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài)
- Những tác động của ngoại cảnh :
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.
+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”.
+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
à Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
- Diễn biến tâm lý, hành động
+ Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”.
+ Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+ Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển hóa thành hành động thực tế và hành động này dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn được.
à Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một trận gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị, của mỗi cá nhân.
d. Sức phản kháng táo bạo (hành động cởi dây trói cho A Phủ)
Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài :
+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng.
+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và thương người.
+ Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.
+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài.
à Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
4. Nhân vật A Phủ
4.1. Một số phận éo le
- Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).
- Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.
4.2. Một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc
- Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.
- Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm.
- Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.
- Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
4.3. Một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo
- Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.
- Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.
à Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.
5. Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
5.1. Giá trị hiện thực
+ Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng Mị, A Phủ).
+ Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi ( dẫn chứng cha con thống lí Pá Tra)
+ Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ)
5.1. Giá trị nhân đạo.
+ Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi ( dẫn chứng nhân vật Mị, A Phủ)
+ Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần quyền).
+ Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật Mị- trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)
+ Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình ( dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).
6. Đặc sắc nghệ thuật
a. Nghệ thuật kể chuyện
- Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
- Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ.
b) Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật
Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật.
c) Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc
+ Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài).
+ Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).
7. Chủ đề
Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người- những con người dưới đáy xã hội- những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).
Xem mục 1
Câu 2. (2 điểm): Suy nghĩ của anh (chị) về hành động Mị cởi trói cho A Phủ rồi cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài.
Xem mục 3.2.d
Câu 3. (5 điểm): Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài?
Xem mục 3.2.c
BÀI 9: VỢ NHẶT (KIM LÂN)
1. Xuất xứ
Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
2.Tóm tắt
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng - một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
3. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
- “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
4.Tình huống truyện
- Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
- Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
- Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
5. Nhân vật
5.1 Tràng
- Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
+ Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
+ Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rẹo rọ trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
à Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.
+ Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
~ Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
~ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
- Niềm hạnh phúc khi có vợ :
+ Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.
+ Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
+ Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau:
~ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
~ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
~ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
~ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm- đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
~ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
~ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
- Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
5.2 Thị (người “vợ nhặt”)
- Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
- Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh... cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc... ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
- Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cung có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
- Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương
- Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đánh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.
- Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chính gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
5.3 Bà cụ Tứ :
- Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
- Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằn con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
- Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
- Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
- Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sang phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán- cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
- Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
6. Giá trị hiện thực, nhân đạo
6.1. Giá trị hiện thực:
- Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
- Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.
- Tuy nhiễn, còn có một hiện thực được phán ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
6.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
7. Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
- Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
- Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
- Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.
8. Chủ đề
Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai - Quảng Ngãi. Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2.Tóm tắt
Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Cau chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
3. Nhan đề
-Nhan đề là một sang tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
- Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
- Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
4.Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.
* Nghĩa thực: Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng:
- Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.
- Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.
- Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây
+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
5. Hình tượng nhân vật Tnú
- Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.
- Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.
- Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
- Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ ...
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
- Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
6. Cụ Mết, Dít, bé Heng
- Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
- Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.
- Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.
7. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng…
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
8. Đặc sắc nghệ thuật
+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật)
+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)
+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.
+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.
9. Chủ đề
Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách mạng
Câu 6. (5 điểm): Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 4
Câu 7. (5 điểm): Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của cụ Mết “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo!”. Làm sáng tỏ điều đó qua cuộc đời của Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 5
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320.- Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang tạp chí văn nghệ quân đội.
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách
- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật
* Tác phẩm chính : Dấu chân người lính, miền cháy, chiếc thuyền ngoài xa.
2. Xuất xứ văn bản
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
3.Tóm tắt văn bản
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.
4. Nhan đề văn bản
- Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
- Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.
- Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật !
5. Tình huống truyện
- Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.
- Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của đời thường.
- Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.
II. PHÂN TÍCH
1. Hai phát hiện của Phùng.
a) Phát hiện thứ nhất: phát hiện vẻ đẹp nghệ thuật
- Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.
- Mục đích của chuyến đi: chụp bổ sung một bức ảnh buổi sáng có sương mù theo yêu cầu của trưởng phòng (để xuất bản bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển).
- Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.
- Sự hình thành tác phẩm nghệ thuật:
+ Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.
+ Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:
o Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng.
o Trạng thái, hành động:
o Bối rối, trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại => cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung động cực điểm để tác phẩm hoài thai.
+ Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” => dường như thiên nhiên đã bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.
- Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:
+ Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. => nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.
+ “Cái đẹp là đạo đức” => khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” => cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện.
Nhận xét:
Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.
b) Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.
- Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng => gần, trực diện, rõ nét.
- Hình ảnh:
+ Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi(…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.
+ Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.
=> Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.
- Hành động:
+ Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà => hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.
+ Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.
+ Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.
=> Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng muốn vỡ ra.
Nhận xét:
Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.
* Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn và cuộc đời)
- Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.
- Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.
2. Người đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể.
- Hình dáng: thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.
- Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:
+ Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .
+ Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.
+ Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” => kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá.=> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng => một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) => Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo kia?
- Câu chuyện cuộc đời:
+ Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.
- Nội dung câu chuyện:
+ Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài
+ Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.
+ Bất kể lúc nào khổ quá, chồng lại lôi ra đánh, ngay trên tàu, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.
+ Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”:
+ Giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.
+ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển động => vì cần một trụ cột.
+ Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.
+ Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.
=> Nhận xét:
Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:
- Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.
- Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.
- Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.
3.Một số nhân vật khác
- Chánh án Đẩu :
+ Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.
+ Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.
- Nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài
+ Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”
+ Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.
+ Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
- Thằng bé Phác
+ Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.
+ Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.
+ Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.
4. Tấm ảnh trong “bộ lịch năm ấy”.
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời).
-Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.
5. Một số đặc sắc về nghệ thuật.
- Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.
+ Con thuyền có thật.
+ Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
- Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.
- Ngôn ngữ:
• Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật).
• Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)
6. Chủ đề
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật : nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
III. CỦNG CỐ KIẾN THỨC
Đề 1: Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 2: Phân tích tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”
Đề 3: Phân tích những phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 4: Tính luận đề trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 5: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 6: Phân tích “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy cái nhìn thấu hiểu trĩu nặng tình thương và nỗi lo cho con người.
Đề 7: Phân tích các nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để làm nổi bật tư tưởng của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Gợi ý giải đề
Đề 1: Ý nghĩa nhan đề.
+ Xuất xứ tác phẩm:
+ Ý nghĩa nhan đề:
- Con thuyền có thật trong cuộc đời
- Con thuyền biểu tượng cho nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
- Cái đẹp nghệ thuật dễ tìm hơn cái đẹp đích thực của con người
- Nghệ thuật phải quan tâm đến đời sống và phải quan tâm đến con người.
Đề 2: Tình huống truyện.
+ Giới thuyết:
+ Phân tích:
- Nhận diện
- Mô tả
- Ý nghĩa:
- Giúp nhà văn khám phá tính cách, vẻ đẹp nhân vật người đàn bà.
- Thể hiện rõ nét tư tưởng
+ Đánh giá
- Tình huống bất ngờ và kì lạ
- Khơi gợi tư duy và cảm hứng người đọc.
- Tình huống có “sức xoáy”
Đề 3: Những phát hiện của nghệ sĩ Phùng
+ 2 phát hiện
+ Phân tích dựa vào phần Kiến thức cơ bản.
Đề 4: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống
+ Hiện thực cuộc sống: bề bộn, nhiều chiều, phức tạp, không nhất phiến, lí tưởng mà đầy ngang trái.
+ Vẻ đẹp của con người vì thế cũng khó phát hiện hơn, đòi hỏi phải có một góc nhìn khác.
Đề 5: Phân tích các nhân vật để làm nổi bật tư tưởng
Dựa vào kiến thức cơ bản để làm bài.
BÀI 12. HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tác giả:
Lưu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đìng trí thức.
+ Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ đội và được biết đến với tư cách một nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn.
+ Từ 1970 đến 1978: ônng xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh.
+ Từ 1978 đến 1988: biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 với những vở đặc sắc như: Sống mãI tuổi 17, Hẹn ngày trở lại, Lời thề thứ 9, khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, TôI và chúng ta, Hai ngàn ngày oan tráI, Hồn Trương Ba, da hàng thịt,
+ Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận, nhưng thành công nhất là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại
Lưu Quang Vũ được tặng giảI thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Hoàn cảnh sáng tác
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới lần đầu ra mắt công chúng.
3. Tóm tắt đoạn trích
+ Cảm thấy không thể sống như thế này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát ra khỏi thân xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục.
+ Cuộc đối thoại giữa hồn và xác. Hồn Trương Ba đành bần thần nhập lại thân xác anh hàng thịt.
+ Những người thân trong gia đình (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy Trương Ba đã khác xưa, đã lệch lạc nhiều lắm. Đau đớn cực độ, Trương Ba lập cập đến bên cột nhà, đốt hương để gặp Đế Thích.
+ Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân xác cu Tị để bảo toàn sự sống. Trương Ba suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra quyết định dứt khoát : chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là "hồn Trương Ba, da hàng thịt".
+ Hồn Trương Ba vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, trong những điều tốt lành của cuộc đời và trong kí ức yêu thương của những người thân.
II. PHÂN TÍCH
1. Nhân vật Trương Ba
a. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
Hồn Trương Ba: Cho rằng : “Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác "không có tiếng nói", "không có tư tưởng, không có cảm xúc", "chỉ là xác thịt âm u đui mù", "chỉ là cái vỏ bên ngoài".
Xác hàng thịt: khẳng định "ông không tách khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác". “Lí lẽ” mà xác đưa ra là : “Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi”…
“Hồn Trương Ba: Hồn phủ nhận những “dẫn chứng” xác nêu ra không phải là hành động xuất phát từ ý thức của mình : “Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày…”.
Xác hàng thịt: Xác “chứng minh” ảnh hưởng “sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết” Hồn Trương Ba: Hồn cho rằng đó là những lí lẽ “ti tiện” không thể chấp nhận được.
Xác hàng thịt: Xác “tìm kiếm giải pháp” cho sự tồn tại “hoà bình” mang tên "hồn Trương Ba, da hàng thịt" bằng “trò chơi tâm hồn”. “Luật chơi” là hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết thánh thiện, làm điều gì xấu thì cứ đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại hồn sẽ làm đủ mọi việc để thoả mãn những khát thèm của xác.
Nhận xét chung:
- Hồn Trương Ba trở thành người “đuối lí” trong cuộc đối thoại này:
+ Từ chỗ cao giọng phủ nhận : “Vô lí, mày không thể biết nói !”, "Mày không có tiếng nói" đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói, nhưng đó là “tiếng gọi nơi hoang dã” của bản năng thấp kém, tầm thường.
+ Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra những bằng chứng “hai năm rõ mười” về sức mạnh sai khiến của nó, đến chỗ “không dám trả lời”, lúng túng trong câu nói đứt quãng “Ta… ta… đã bảo mày im đi”, “Nhưng… nhưng…”.
+ Từ chỗ hăng hái đấu lí, đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra, đến chỗ “bịt tai lại” “Ta không muốn nghe mày nữa”.
+ Từ cách xưng hô “mày” – “ta” vào đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra khi cuộc đối thoại ở vào hồi kết : “Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy !”.
+ Từ mạnh mẽ, đầy khí thế đấu tranh, đến tiếng kêu “trời” tuyệt vọng và dáng dấp bần thần tội nghiệp nhập lại thân xác anh hàng thịt cho người đọc cảm giác dường như hồn đã bị dồn vào con đường cụt không lối thoát, đành phải chấp nhận sự an bài, “hoà thuận” “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
- Trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi hồn Trương Ba:
+ Xác chủ động “tuyên chiến” khi hồn khao khát được tồn tại độc lập riêng mình.
+ Xác thách thức, giễu cợt mỉa mai hồn : “có đấy”, “có tiếng nói đấy”, “có thật thế không”.
+ Xác cao giọng khoái chí đòi hồn phải “thành thật trả lời”.
+ Xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình, đồng thời cũng tỏ ra hiểu thấu từ điệu bộ lúng túng bên ngoài đến những biện luận bên trong tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của hồn.
+ Xác “lợi khẩu” khi đưa ra lí lẽ. Xác “mềm dẻo” trong thuyết phục, tranh luận. Khi thì sử dụng lí lẽ, lúc đưa ra bằng chứng. Khi thì cao giọng thách thức, lúc buồn rầu thanh minh. Khi thì đắc ý, tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu, an ủi mà mỉa mai. Vừa dụ dỗ, mua chuộc vừa trắng trợn phỉ báng. Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự chi phối khủng khiếp của nó bằng kết cục màn đối thoại là “cái hồn ương bướng” lại tìm về với chỗ trú thân là xác anh hàng thịt.
® Cuộc đối thoại cũng cho thấy sự ngộ nhận của hồn về chính mình. Sau bấy nhiêu chuyện đã xảy ra với gia đình và bản thân, hồn vẫn cho rằng mình nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, mọi tội lỗi đều là do xác gây nên. Cho nên không phải ngẫu nhiên xác khẳng định “tác giả” của “trò chơi tâm hồn” không ai khác ngoài “những điều ông vẫn tự nói với mình và với người khác đấy chứ”, xác chỉ làm nhiệm vụ “tổng kết” và phát biểu “luật chơi” cho rõ ràng, cụ thể mà thôi. Mâu thuẫn kịch tạm thời chùng xuống để chờ đợi một cao trào bùng nổ mới, chỉ xảy ra khi nào điều ngộ nhận trên được “vỡ lẽ” hoàn toàn.
Hàm ý của cuộc đối thoại : Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần “người” và phần “con” trong mỗi con người.
b. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân
- Trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba đã không còn là mình. Tất cả những người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng.
- Người vợ yêu thương rưng rưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát, dằn dỗi.
- Đứa cháu gái vỡ oà tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu gần gũi lại trở thành một người “xấu lắm, ác lắm”.
- Chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm thế nào.
- Trương Ba “thẫn thờ”, ông ôm đầu bế tắc, để rồi nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát: thắp hương, châm lửa để gọi Đế Thích.
- Ý nghĩa:
→ Cả nhà đau khổ chán ngán tình cảnh hồn Trương Ba sống trong xác anh hang thịt. Đấy là động lực để đi đến quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba: Thắp hương mời Đế Thích xuống.
c. Đối thoại giữa Trương Ba - Đế Thích
* Trương Ba
+ Sự khập khiễng của “hồn Trương Ba, da hàng thịt” và giá mà nó phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết cái khát vọng : “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”. “Là tôi trọn vẹn”, cái điều tưởng chừng đơn giản nhưng lại chẳng dễ chút nào. Thói quen “sống nhờ, sống gửi” đã khiến con người ta có lúc quên đi cái tôi của bản thân mình. Thói quen “áp đặt” của Đế Thích cho người đời đôi khi cũng làm cho mong muốn giản dị “là tôi trọn vẹn” nghịch lí thay, lại trở thành khát vọng.
+ “Là tôi trọn vẹn”- dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình. Sống thực cho ra con người thật chẳng dễ chút nào. Sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là mình trọn vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào - kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô cùng. Ham sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi con người. Nhưng… Nếu cái giá phải trả đắt quá. Thì nhất định không thể sống như vậy được !
+ Hồn Trương Ba trước khi bước vào thế giới vình hằng còn qua một phép thử nữa, phép thử có tên “cu Tị”. Trương Ba hình dung trước cảnh một ông già 60 ngụ trong thân xác của một cậu bé 10 tuổi thì cũng đầy bi kịch. Trương Ba không chấp nhận.
+ Lựa chọn của Trương Ba là tất yếu. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái chết, chấp nhận sự hư vô để được "là tôi trọn vẹn". Đó là lẽ tất yếu bởi Trương Ba đã thấm thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình. Tất yếu bởi Trương Ba đã “ngộ” ra nhận thức về lẽ sống. Tất yếu bởi đó là kết quả của sự đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.
* Đế Thích
- Quan niệm về sự sống rất đơn giản, sống chỉ là sự tồn tại
- Ích kỉ, muốn Trương Ba sống chỉ là để thoả mãn thú hơi cờ của mình.
- Ý nghĩa:
→Vẻ đẹp tâm hồn của con người sẽ thắng trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn hợp với lẽ tự nhiên cùng sự toàn thiện nhân cách. Đây là chất thơ trong kịch của Lưu Quang Vũ.
2. Đặc sắc nghệ thuật
- Sáng tạo cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách góp phần phát triển tình huống truyện.
- Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.
3. Chủ đề
Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định: được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn quý giá hơn. Con người phải luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. (2 điểm): Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt có ý nghĩa gì?
Câu 2. (2 điểm): Chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự sống?
Câu 3. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật Trương Ba trong đoạn trích?...
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học dân tộc Việt Nam. Người đã viết thành công trên nhiều thể loại văn chính luận, truyện ký, thơ ca và ở thể loại nào cũng có những tác phẩm xuất sắc mẫu mực. Riêng ở thể loại văn chính luận Hồ Chí Minh đã chứng tỏ mình là một cây bút xuất sắc, mẫu mực mà dẫn chứng hùng hồn là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” 1945. “Tuyên ngôn độc lập” là một bản tuyên bố lịch sử được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Bản “Tuyên ngôn độc lập” vừa tuyên bố nền độc lập của dân tộc vừa bác bỏ luận điểm xâm lược của kẻ thù. “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận vừa có giá trị pháp lí, giá trị lịch sử, giá trị nhân văn và giá trị nghệ thuật cao. Cái tạo nên giá trị nghệ thuật cao chính là ở bút pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn, văn phong xúc tích trong sáng.
MB 1 :
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và ở tâm hồn của người lao động. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội hoặc những cảnh thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm là những trang văn miêu tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và lãng mạn.
MB 2 :Đề bài: Cảm nhận của em về hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của núi rừng Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười trong những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương. Chất vàng mười i ấy chính là vẻ đẹp người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ vĩ đại của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông ghi dấu các sự kiện, các dấu mốc của lịch sử quan trọng ở nước ta suốt hơn nửa thế kỉ. Việt Bắc là một trong số những bài thơ tiêu biểu. Tác phẩm ghi lại sự kiện Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện những tình cảm tha thiết của người đi – kẻ ờ, thể hiện những cảm nhận sâu sắc của tác giả về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta,
….Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
MB1 . Dùng cho nhân vật T Nú :
Rừng xà nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Tái hiện chân thực cuộc chiến đâu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mỹ, nhà văn tập trung miêu tả hình thành của một thê hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông, và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú.
MB 2 : Dùng cho đề bài : cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn sau :
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối….Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Bài làm:
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quốc Mỹ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Tác phẩm rất thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh rừng xà nu- một loài cây hùng vĩ, cao thượng, man dại, trong sáng cũng là hình ảnh ẩn dụ cho người dân Tây Nguyên nói riêng, con người Việt Nam nói chung. Ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ, để lại ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Mở bài khác :
Mỗi nhà văn dường như đều gắn bó với một vùng quê nhất định . Nếu như Nguyên Hồng tha thiết với Hải Phòng –thành phố hoa phượng đỏ, Nam Cao gắn bó cả cuộc đời với làng Vũ Đại qua những trang văn sắc lạnh mà thấm đẫm nước mắt, thì Nguyễn Trung Thành dường như có một niềm yêu thiết tha và mối giao cảm kì lạ với Tây Nguyên. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chính mảnh đất và con người nơi đây là nguồn cảm hứng lớn lao cho sáng tác của ông, làm nên tác phẩm “Rừng xà nu”- một bản anh hùng ca thời hiện đại. Đến với “Rừng xà nu”, ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ, để lại ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Có ai đó đã từng nhận xét: suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của văn học là góp phần nhân đạo hoá con người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó. Vì vậy tác phẩm văn học chỉ thực sự cóđ giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm như thế.
2. Đề bài :
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài:
“Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước…..
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai làng đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi, Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.”
BÀI LÀM
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc. Đoạn vân trên thể hiện rất rõ tài năng của Tô Hoài trong việc mô tả và khắc họạ tâm trạng nhân vật Mị, một nhân vật trung tâm của thiên truyện Vợ chồng A Phủ.
Gợi ý làm bài:
1. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là nhà văn khoác áo lính, tiên phong mở đường cho sự đổi mới văn học Việt Nam hiện đại.
- Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông thuộc sáng thời thời kì sau 1975 là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Nêu vấn đề cần nghị luận
2. Thân bài
a. Khái quát truyện
- Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự - triết lí của nhà văn.
-Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời.
b. Cảm nhận ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa
* Về nội dung:
- Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” – vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ”. Tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
- Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục…và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác “trở nên bối rối”, cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”…như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có.
- Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được:Đó là những con nguời, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn cuồng nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!
- Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc – thuyền – ngoài – xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
- Vậy nên, có thể nói hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật. Con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
* Về nghệ thuật:
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
-Tình huống truyện: tình huống nhận thức
c. Liên hệ hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam ) để nhận xét sự gặp gỡ về giá trị hiện thực từ các biểu tượng nghệ thuật trên.
- Về hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam )
+ Nêu đôi nét về nhà văn Thạch Lam và truyện Hai đứa trẻ;
+ Phân tích ý nghĩa hình ảnh chuyến tàu đêm:
++Con tàu mang đến một thế giới khác: Nó như con thoi ánh sáng xuyên thủng màn đêm phố huyện, đem lại ánh sáng xa lạ, rực rỡ chốn thị thành, át đi ánh sáng mờ ảo, yếu ớt của phố huyện. Âm thanh của còi tàu, bánh xe rít trên đường ray và tiếng ồn ào của hành khách át đi buồn tẻ, đơn điệu phố huyện. Nó là thói quen, là niềm vui, là sự chờ đợi, trở thành nhu cầu thiết yếu như cơm ăn, nước uống hàng ngày cho đời sống tinh thần người dân phố huyện;
++ Với hai đứa trẻ, đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.
++Ngòi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới tương lai.
- Nhận xét sự gặp gỡ về giá trị hiện thực từ các biểu tượng nghệ thuật:
+ Hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ và biểu tượng Chiếc thuyền ngoài xa đều là những hình ảnh có thực trong cuộc sống. Hình ảnh đó đã được các nhà văn lựa chọn để đưa vào tác phẩm với nhiều tầng nghĩa sâu sắc. Họ gặp gỡ nhau trong việc phản ánh hiện thực đời sống. Với Thạch Lam, hiện thực đó là một phố huyện nghèo nàn, buồn tẻ và đơn điệu, cùng với cuộc sống của cả một lớp người, sống không có hi vọng vào ngày mai, nếu có chăng là nhìn thấy thoáng qua sự ồn ào, vẻ sang trọng của người khác. Khi đoàn tàu đã đi xa, phố huyện “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, chỉ còn “vợ chồng bác xẩm ngủ gục manh chiếu tự bao giờ”, và “hình ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong đôi mắt” của Liên. Với Nguyễn Minh Châu, hiện thực đó là cuộc sống bấp bênh, cơ cực vì khổ quá mà sinh ra bạo hành gia đình của người dân hàng chài. Hình ảnh người đàn bà bước ra từ tấm ảnh sau mỗi lần nhân vật Phùng nhìn lâu hơn là biểu tượng cho cuộc đời lam lũ của con người thời hậu chiến mà nhà văn phải có trách nhiệm phát hiện và phản ánh bằng cái nhìn đa chiều, đa diện.
+ Sự gặp gỡ trong giá trị hiện thực từ các biểu tượng nghệ thuật của 2 nhà văn ở 2 thời kì lịch sử khác nhau đã làm sáng tỏ một trong quy luật của văn học, đó là văn học gắn liền với hiện thực. Đồng thời, các nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này, đúng như Nguyễn Minh Châu đã nói “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.
3. Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 hình ảnh đa nghĩa trong 2 truyện. Cảm nghĩ của bản thân về giá trị hiện thực của văn học.
VỢ CHỒNG A PHỦ- CHÍ PHÈO
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tinh thần phản kháng của nhân vật Mị trong cảnh Mị cởi trói A Phủ ( truyện Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài). Liên hệ hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí Phèo trong truyện Chí Phèo ( Nam Cao) để bình luận ngắn gon sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của mỗi nhà văn khi viết tác phẩm của mình.
Gợi ý:
I. Mở bài:
-Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người.
- Trong truyện, kết thúc phần 1, Tô Hoài ca ngợi vẻ đẹp tinh thần phản kháng của nhân vật Mị trong cảnh Mị cởi trói A Phủ . So với kết thúc truyện Chí Phèo của Nam Cao, người đọc nhận thức được sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của mỗi nhà văn khi viết tác phẩm của mình.
II. Thân bài:
1. Khái quát về truyện, nhân vật:
- “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” lấy bối cảnh ở miền núi Tây Bắc và câu chuyện xoay quanh 2 nhân vật Mị và A Phủ.
- Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và giải phóng Tây Bắc.
- “Vợ chồng A Phủ” In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
- Tóm tắt diễn biến: Vợ chồng A Phủ xoay quanh về nỗi khổ của Mị và A Phủ - những đứa con của núi rừng Tây Bắc, dưới ách thống trị của chúa đất và thực dân. Phần đầu kể về cuộc sống nô lệ tủi nhục của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra. Phần sau kể về quá trình giác ngộ tư tưởng Cách mạng và nên duyên của đôi vợ chồng. Từ đó, phản ánh sự vận động trong nhận thức của tuổi trẻ vùng cao về con đường đấu tranh tư tưởng giải phóng cuộc đời mình. Đặc biệt, hành động cởi trói của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ được xem là nút thắt cuối cùng trong diễn biến của câu chuyện, đẩy cuộc đời Mị và A phủ sang một trang mới, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp tinh thần phản kháng của Mị trước những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về vẻ đẹp tinh thần phản kháng của nhân vật Mị trong cảnh Mị cởi trói A Phủ
* Về nội dung:
- Tình huống để Mị bộc lộ tinh thần phản kháng của mình: Hoàn cảnh Mị gặp A Phủ:
+ A Phủ đánh A Sử (A Sử gây sự trước) nên bị bắt phạt ra ở đợ. A Phủ để con hổ ăn thịt nửa con bò nên bị Thống lí Pá Tra (A Phủ đã xin đi bắt con hổ lấy công chuộc tội nhưng không được cho phép) trói vào cây cọc bằng sợi dây mây. Những hình phạt được đưa ra đều không phù hợp, thậm chí có phần vô lí, bắt bớ, lạm quyền.
+Mị gặp đã gặp A Phủ trong hoàn cảnh bị trói nhờ ánh lửa. Mấy đêm liền thấy A Phủ bị trói như thế nhưng Mị vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Ở trong cái khổ, Mị đã quen với cái khổ nên tỏ ra thờ ơ, vô cảm tê liệt tinh phần phản kháng.
- Quá trình thức tỉnh, từ sự đồng cảm đến ý chí đấu tranh, từ nạn nhân trở thành ân nhân của Mị. Vẻ đẹp đầu tiên của sự phản kháng là cứu người.
+Trong đêm hôm ấy, lúc cả nhà đã ngủ yên, Mị cũng trở dậy thổi lửa như mọi ngày. “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xám đen lại”. Chính những giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức cảm nhận của Mị.
++ Sự hồi tưởng của Mị: “Mị nhớ đêm năm trước A Sử trói Mị”, “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.”. Từ đó dẫn đến sự đồng cảm. Vì đã ở lâu trong cái khổ nên Mị là người cảm nhận được cái khổ sâu sắc nhất, thương mình mà nghĩ đến người.
++Quá trình nhận thức, lên án, tố cáo việc làm của nhà thống lí nói riêng và kẻ thù giai cấp nói chung: “nó bắt trói đứng người ta đến chết”, ‘nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”, “chúng nó thât độc ác”.
++ Mị ý thức được sự sống của A Phủ chỉ còn rất mong manh, nếu không cứ chỉ chừng đêm mai là hết, “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
++ Mị chấp nhận số phận của mình “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” nhưng vẫn cho rằng việc A phủ chết tại đây là một điều vô lí “người kia việc gì mà phải chết”. Dù bị đối xử tệ bạc nhưng bản chất trong sáng, hiền lành của Mị vẫn không bị mất đi, phản ánh tâm hồn cao đẹp của Mị, hiểu và xót xa trước nỗi đau của người cùng cảnh ngộ.
++ Giả thiết về hậu quả của việc cởi trói cho A Phủ: “bố con Pá Tra sẽ bảo Mị đã cởi trói” “Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Đó có thể là hậu quả và kết thúc của Mị nếu bị phát giác. Thế nhưng “ trong tình cảnh này làm sau Mị cũng không thấy sợ”. Mị đã suy nghĩ đến việc cứu A Phủ.
+ Từ suy nghĩ đúng, Mị hành động đúng:
++ Tâm trạng thể hiện qua bước đi: “rón rén”; qua thái độ: “hốt hoảng”, qua lời nói; “thì thào” 1 tiếng “ĐI NGAY” . Mị vẫn còn lo sợ nhưng vẫn mạnh mẽ và dứt khoát.
++ Mị cắt đứt dây mây, xiềng xích nô lệ của cuộc đời, để cứu A Phủ được tự do. Hành động cứu người của Mị là một hành cộng chứng minh cho quy luật “tức nước vỡ bờ”, ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh. Mị dùng sự đồng cảm và căm hờn của chính mình để làm động lực và sức mạnh để cứu lấy A Phủ, chứng minh cho tình thần mạnh mẽ, và ý chí phản kháng âm ỉ của Mị. Chính khát khao được tự do và sự thấu hiểu của Mị là sức mạnh chiến thắng tâm lí sợ hãi, đi đến hành động đầu tiên là chống đối và cứu giúp những người cùng hoàn cảnh với mình.
- Quá trình tự giải thoát chính mình của Mị, đỉnh cao của sự phản kháng là cứu thoát chính mình. Vẻ đẹp thứ hai của sự phản kháng là cứu mình.
+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Những tưởng đây là kết thúc của cuộc đời Mị. Vì ngay cả trong khi cứu A Phủ, Mị cũng không hề có ý định tự cứu thoát chính mình. Tại thời điểm đó, Mị tưởng chừng đã chấp nhận, đầu hàng trước số phận. Nô lệ và tự do. Bóng tối và ánh sáng. Bất hạnh và hạnh phúc. Mị đang phân vân.
+ Mị chạy theo A Phủ. Đây chính là hành động trung tâm bộc lộ vẻ đẹp của tinh thần phản kháng. Mị tự ý thức được mình không đáng phải chịu tình cảnh phải làm con dâu gạt nợ như thế. Chính tại thời điểm đó, khát vọng sống, tự do, hạnh phúc chính thức được đánh thức. Mị đã chiến thắng nỗi sợ hãi, do dự, chần chừ.
+ Mị tự cứu thoát cho chính mình. Và chọn đi vào một con đường khác, tự mình bước ra ánh sáng và cứu rỗi chính mình khỏi những ngày tháng tối tăm. “Người đàn bà chê chồng đó vừa tự cứu chính mình”.
* Về Nghệ thuật:
- Miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế, phù hợp với quy luật phát triên tâm lí, hành động của nhân vật;
- Ngôn từ sáng tạo, câu văn giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đậm chất thơ
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
2. Liên hệ tới kết thúc truyện Chí Phèo để nhận xét sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của mỗi nhà văn khi viết tác phẩm của mình.
a. Về kết thúc truyện Chí Phèo
+ Chí Phèo của Nam Cao là tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Nam Cao luôn đau đáu về số phận bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, về số phận hẩm hiu của những người nông dân bị đẩy vào con đường bần cùng tha hóa.
+ TP Chí Phèo kết thúc với hành động Chí Phèo giết bá Kiến và tự sát.
Cách kết thúc gợi nhiều suy nghĩ về số phận con người trong xh cũ
Chí Phèo chết. Đó là kết cục tất yếu khi con người ( đã thức tỉnh ) bị dồn đẩy đến bước đường cùng, buộc phải lựa chọn giữa cái chết (chết để giữ nhân cách vừa sống lại) và sống (sống cuộc đời lưu manh, tha hóa).
Cái chết của CP là tiếng kêu cứu của Nam Cao: hãy cứu lấy con người
b. Nhận xét:
+ Giống nhau: Qua kết thúc truyện Chí Phèo và phần 1 truyện Vợ chồng A Phủ, cả 2 nhà văn đều để nhân vật thức tỉnh nhằm đòi quyền sống, thoát ra khỏi bị kịch của kiếp người bị áp bức dưới chế độ thực dân phong kiến bạo tàn.
+ Khác nhau:
++ Sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của nhà văn Nam Cao khi viết phần kết thúc tác phẩm nói riêng, cả truyện Chí Phèo nói chung: Cách kết thúc thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc trước hiện thực. Nhà văn chưa tìm ra được lối thoát cho số phận những người dân nghèo. Truyện ngắn ra đời năm 1941, sáng tác theo trào lưu hiện thực nên Nam Cao bị tác động không nhỏ từ hoàn cảnh lịch sử xã hội.Nhà văn chưa tiếp nhận sâu sắc tư tưởng cách mạng nên chưa tìm ra lối thoát tích cực hơn cho nhân vật của mình
++ Sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của nhà văn Tô Hoài khi viết phần kết thúc phần 1 nói riêng, cả truyện Vợ chồng A Phủ nói chung: Cách kết thúc của “Vợ chồng A Phủ”: Hai người thành vợ chồng và trốn sang Phiềng Sa. A Phủ kết nghĩa với A Châu, cán bộ cách mạng, rồi A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội bảo vệ quê hương. Hai nhân vật làm lại từ đầu bằng một thân phận và một vai trò mới, gạt quá khứ tăm tối ra sau và dùng nó để làm động lực sống cuộc đời mới. Cách kết thúc thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả. Nhân dân đã có một lối đi, lối thoát khỏi những lầm than.Truyện “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, sau tám tháng nhà văn cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc. Truyện sáng tác theo trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa nên Tô Hoài có cái nhìn biện chứng, thấy được quy luật vận động tất yếu của lịch sử.
+ Nguyên nhân khác nhau:
Do yếu tố thời đại nên cách nhìn hiện thực và cách giải quyết hiện thực của 2 tác giả khác nhau ( 2 tác phẩm thuộc 2 thời kì văn học khác nhau: Trước và sau cách mạng tháng Tám...). Từ đó, người đọc cảm nhận được vai trò của CMT8, vai trò của đường lối chính sách đúng đắn. Nếu trước đây Chí Phèo phải thốt lên “Ai cho tao lương thiện” và tự kết liễu cuộc đời mình để được giữ tâm hồn lương thiện thì đối với Mị và A Phủ, những băn khoăn bất lực được gỡ bỏ, gửi gắm niềm tin vào sự đổi đời của con người.
III.Kết bài
- Kết luận chung về vẻ đẹp của sự phản kháng: Là sự hi sinh, thức tỉnh, đồng cảm, đi đến hạnh động cứu người và cứu lấy chình mình.
- Nêu ý nghĩa của sự phản kháng: Sức sống mạnh mẽ và tinh thần phản kháng tiềm tàng Mị chính là sức sống và tinh thần phản kháng của giai cấp nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, nó sẽ biến thành một sức mạnh quật khởi, thành cơn thác lũ cách mạng khi có ánh sáng của Đảng rọi vào.
- Cảm nhận chung về kết thúc của 2 tác phẩm.
Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về phát hiện của nghệ sĩ Phùng trên bờ biển trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Từ đó, liên hệ đến khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài ” của Nguyễn Huy Tưởng để nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Gợi ý:
I. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu, nhà văn của những người lính, đã rất thành công với nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trước 1975, lại tiếp tục sáng tác với nhiều trăn trở về cách khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Nhờ những nỗ lực không ngừng của một người lao động nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã có mặt trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Thành công nổi bật trong sáng tác của ôn thời kì sau 1975 là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật nghệ sĩ Phùng để lại ấn tượng sâu sắc qua những phát hiện của anh trên bờ biển. Đồng thời, qua khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài ” , ta thấy cả 2 tác giả đều đặt ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
II.Thân bài
1. Khái quát về truyện ngắn, nhân vật:
- Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý.
-Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời.
2. Cảm nhận phát hiện nghệ thuật và sự trưởng thành trong nhận thức của nghệ sĩ Phùng:
* Về nội dung:
- Phát hiện lần thứ nhất: Bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng
+ Sau những ngày phục kích săn ảnh, trước mắt anh là một cảnh tượng trời cho. Hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi chủt màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu tròi mù sương... Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.
+ Cảm giác vui sướng trước khoảnh khắc trong ngần của cảm xúc mà trong suốt cả cuộc đời làm nghệ thuật của anh không dễ gì có được...
- Phát hiện lần thứ hai: Bức tranh hiện thực đời sống đầy nhọc nhằn, cay đắng.
+ Trong con mắt Phùng, phát hiện thứ hai là xấu xí, tồi tệ. Anh ta không thể ngờ một vùng bờ phá đẹp, bình yên mà anh ta vừa thu vào chiếc máy ảnh Pra- ti-ca nay lại tối sầm lại trong nạn bạo lực gia đình, không còn màn sương mai, ánh mặt trời mà thay vào đó là bão táp, là giông tố của biển khơi. Nó được đẩy lên đến cao trào khi người đàn ông rút chiếc thắt lưng và đánh tới tấp vào lưng người đàn bà. Lão như một con mãnh thú gầm thét lao vào con mồi, còn người đàn bà thì cam chịu, nhẫn nhục. Mụ “không kêu lên một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy”... Rõ ràng đối với Phùng cảnh này là không thể tưởng tượng được đến “há hốc mồm ra mà nhìn”. Anh ta không hình dung được trong đầu mình cuộc sống lai có những sắc màu, vết cứa như vậy. Anh ta nghĩ rằng, vùng bờ phá này chỉ có sự thanh bình, khoáng đạt nhưng ý nghĩ và nhận thức đó là đơn điệu, sai lầm. Bởi vì bản chất của cuộc sống là bức tranh đa màu sắc, ngoài vẻ đẹp nó còn cả sự tăm tối, xấu xí.
+ Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện, với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ bến đối với những đứa con. Phùng căy đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết.
+Tình huống được tạo nên ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc đời sao đầy rẫy bao ngang trái.
+ Nếu như so sánh với phát hiện thứ nhất, thì phát hiện thứ hai này tuy không có giá trị về vật chất nhưng lại trở nên vô giá đối với một con người. Bởi vì, trước khi làm nghệ sĩ, Phùng phải sống như một con người, phải có nhận thức đầy đủ và ứng xử với mọi thứ xung quanh. Cho nên, sự can thiệp của anh ta với nạn bạo lực gia đình là điều đáng khích lệ trong tư duy người nghệ sĩ.
+ Chính sự đối lập trong hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến người đọc một vấn đề nhân sinh rất mới mẻ. Đó chính là cuộc sống đầy đau khổ, bạo lực, tàn nhẫn mà con người phải chịu đựng. Chiến tranh đã đi qua nhưng những đau thương mà nó để lại vẫn còn đó. Cuộc chiến với đói nghèo, với những bất cập thời hậu chiến vẫn còn đó, vẫn ngang nhiên thách thức với con người. Và đó mới chính là mối lo thực sự ẩn sau những áng mây hồng hồng đầy thơ mộng. Phùng những tưởng anh đã chạm đến cảnh giới cao nhất của nghệ thuật, nhìn thấy vẻ đẹp được coi là “đạo đức” của cuộc đời.Nhưng Nguyễn Minh Châu đã làm trọn vẹn thiên mệnh của người nghệ sĩ đã khai sáng cho Phùng và cho cả chúng ta nữa về đời sống nhân sinh. Chiến tranh kết thúc không chỉ có nụ cười hoa nở mà còn có cả những dòng nước mắt (gia đình hàng chài chính là nạn nhân của thời hậu chiến - nền kinh tế lạc hậu, thất học). Hiện thực cuộc sống còn nhiều bất hạnh, mà con người phải đối mặt. Viết tác phẩm năm 1987, Nguyễn Minh Châu đã anh dũng dám nói đến phần hiện thực gai góc, sẫm màu của xã hội.
+Những nhận thức tiến bộ, tích cực của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng giúp anh tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm nghệ thuật: Trưởng phòng rất hài lòng về tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trâo dâng. Anh luôn luôn nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà lam lũ với tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân người ướt sũng đi ra từ bức ảnh đó. Chất sống của hiện thực đã giúp tác phẩm nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng bất tử trước thời gian.
* Về nghệ thuật:
- Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.
- Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
3. Liên hệ đến khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài ” của Nguyễn Huy Tưởng để nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
a. Về khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài ” của Nguyễn Huy Tưởng
+ Nguyễn Huy Tưởng là một nghệ sĩ lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những thành công xuất sắc ở hai thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa sâu sắc, thâm trầm. Sinh thời, ông luôn khao khát viết được những tác phẩm có qui mô lớn, nói được những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật.
+Vũ Như Tô là một trong những thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng nói riêng, của thể loại kịch nói hiện đại Việt Nam nói chung. Từ một sự kiện lịch sử xảy ra ở Thăng Long vào khoảng đầu thế kỉ XVI, dưới triều vua Lê Tương Dực, Nguyễn Huy Tưởng đã hư cấu và sáng tạo nên Vũ Như Tô, đặt ra những vấn đề lớn lao, sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật.
+ Vũ Như Tô được biết đến trong tác phẩm là một kiến trúc sư thiên tài, một nghệ sĩ có nhân cách và có khát vọng nghệ thuật cao cả, lớn lao. Ồng luôn khao khát xây dựng được những công trình vĩ đại trở thành niềm tự hào cho con cháu muôn đời sau. Bắt tay vào xây dựng Cửu Trùng Đài - một công trình mĩ thuật thế kỷ dưới sự chỉ đạo của hôn quân Lê Tương Dực, ông đã gặp phải sự cản trở rất lớn của quần chúng nhân dân.. .và dẫn đến bi kịch Vũ Như Tô.
+Cửu Trùng Đài là một công trình kiến trúc tuyệt tác, được xây bằng tài hoa tuyệt đỉnh và tâm huyết của Vũ Như Tô. Thế nhưng với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là phần tâm hồn, là sinh mệnh còn với nhân dân, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu cần bởi nó hiện thân cho cái đẹp xa hoa, đi ngược lại với lợi ích của người lao động.
+ Vũ Như Tô rơi vào bi kịch bị vỡ mộng. Cho đến phút cuối cùng, Vũ Như Tô vẫn không thể hiểu và không thể tin rằng việc mình làm là trái với quyền lợi của nhân dân. Ồng vẫn một mực khẳng định rằng mình không có tội và không thể hiểu vì sao dân chúng lại nổi lên phá Cửu Trùng Đài, không hiểu vì sao xây dựng Cửu Trùng Đài lại là việc làm hại nước, hại dân. Điều bi thương nhất của Vũ Như Tô là sự lạc lõng của ông giữa những kẻ nông nổi và tàn ác, là sự cô đơn đến đáng thuơng trước lòng hận thù của nhân dân
+ Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân.
b. Nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
- Giống nhau: Cả hai tác phẩm này đều dựng lên một nhân vật người nghệ sĩ hết lòng đam mê nghệ thuật, nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà để lại những trăn trở rất lớn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống:
+ Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống. Nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp.
+ Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật đích thực phải gắn với quyền lợi của con người. Nghệ thuật xa rời cuộc sổng chỉ là nghệ thuật suông và khi nghệ thuật không vì đời sống thì chính đời sống sẽ hủy hoại nó.
+Trước yêu cầu khắt khe trên, đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính phải là thứ nghệ thuật vị nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vị nghệ thuật.
Khác nhau:
+ Nhà kiến trúc thiên tài Vũ Như Tô do quá bàng quan, mù quáng trong khát vọng nghệ thuật cao siêu của bản thân mà xa rời hiện thực đã phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình.
+ Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai. Bằng hành động tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn thiện. Đây cũng chính là khát vọng kết nối Chân - Thiện - Mĩ mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm kiếm.
Nguyên nhân sự khác biệt :
+ Hai tác phẩm được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau
+ Phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau,
III. Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật về 2 nghệ sĩ Phùng và Vũ Như Tô. Cảm nghĩ của bản thân về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống..
Đề 4: Cảm nhận vẻ đẹp sử thi của hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu ( Nguyễn Trung Thành).Liên hệ sự lặp lại hình ảnh rừng xà nu và cái lò gạch cũ trong đoạn mở đầu và kết thúc Rừng xà nu - Chí Phèo ( Nam Cao) để nhận xét về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn
Gợi ý:
I.Mở bài:
- Tây Nguyên là mảnh đất của văn hóa cồng chiêng và những pho sử thi đồ sộ. Chính mảnh đất này đã thổi hồn vào những trang viết của Nguyễn Trung Thành và để lại nhiều dấu ấn qua “Rừng Xà Nu”, “Đất nước đứng lên”… Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi hình tượng cây xà nu- tiêu biểu cho thiên nhiên và con người Tây Nguyên kiêu hùng, bất khuất.
– Nêu vấn đề cần nghị luận
II.Thân bài:
1. Khái quát về truyện ngắn, hình tượng cây xà nu:
- Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965, in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, được viết trong bối cảnh khi đế quốc mĩ bắt đầu bổ bộ ào ạt vào miền Nam. Đây là câu chuyện kể về cụộc nổi dậy của dân làng Xô - Man.
- Trong tác phẩm, hình tượng cây xà nu – rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn, được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu
a. Vẻ đẹp của hình tượng rừng xà nu
- Cây xà nu hiện ra trong ko gian câu chuyện với vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng.
Đó là vẻ đẹp của sự đông đảo, rộng lớn, hùng vĩ. Mở đầu câu chuyện là 1 cánh rừng xà nu hàng vạn cây điệp trùng bất tận trải dài đến hết tầm mắt con người. Hình ảnh ấy cũng được lặp lại ở cuối tác phẩm. Sự lặp lại theo thủ pháp đầu cuối tương ứng ấy khiến người đọc có cảm tưởng cây xà nu chiếm lĩnh cả mảnh đất và bầu trời Tây Nguyên
Ko chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên, man dại cây xà nu còn mang vẻ đẹp của 1 sức sống kiên cường, bất khuất, bất diệt
Nằm trong tầm đại bác của đồn giặc, cả rừng xà nu hàng vạn cây ko có cây nào ko bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như 1 trận bão. Có cây vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi
Nhưng dù bị thương tích đầy mình, cả rừng xà nu vẫn hiên ngang tồn sinh trong bom đạn. Cạnh 1 cây ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Có những cây vết thương chóng lành như trên 1 thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã. Ở rừng xà nu dường như tiềm tàng 1 sức sống mãnh liệt mà bom đạn kẻ thù ko thể nào hủy diệt được
Và với sức sống mãnh liệt như vậy nên “ cứ thế, hai, ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lướn ra che chở cho buôn làng”
Bên cạnh sức sống mạnh mẽ, quật cường rừng xà nu còn có 1 vẻ đẹp khác “ trong rừng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”.
Hàng vạn cây xà nu ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Chúng tiếp lấy thứ ánh sáng từ trên cao rọi xuống rồi nở cành xòe lá, tung ra những hạt bụi vàng từ nhựa cây thơm mỡ màng. Với ánh sáng mặt trời rừng cây xà nu dường như phơi bày hết sức sống, sắc màu, hương thơm của nó tạo nên 1 vẻ đẹp quyến rũ.
Điều đặc biệt vẻ đẹp của xà nu ko chỉ gợi đến chất man dại, hoang dã của núi rừng Tây Nguyên mà hơn thế vẻ đẹp của cây xà nu gợi liên tưởng đến sức sống và phẩm chất của dân làng Xô Man:
+ Hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ chiếm lĩnh cả mảnh đất Tây Nguyên gợi cho người đọc liên tưởng đến khối đoàn kết toàn dân trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Những cụ Mết, bà Nhan, anh Xút, T nú, Mai, Dít, bé Heng... và đằng sau họ là đông đảo dân làng đã đoàn kết, gắn bó với nhau, muôn người như 1
+ Còn hình ảnh rừng xà nu hàng vạn cây ko có cây nào ko bị thương gợi liên tưởng đến những đau thương mà dân làng Xô Man phải chịu đựng trong trận chiến. Lịch sử làng Xô Man qua lời kể của cụ Mết cũng ko khác gì cánh rừng xà nu nơi đầu truyện. Nhiều quần chúng bị giặc giết vì nuôi cán bộ. Rồi anh Quyết hi sinh, Mai ngã xuống, T nú bị giặc tẩm nhựa xà nu đốt cháy 2 bàn tay
+ Thương tích đầy mình, mất mát, hi sinh ko thể kể hết. Nhưng cũng như xà nu dân làng Xô Man cũng tiềm ẩn 1 sức sống kiên cường, bất khuất. Trong đau thương, cả buôn làng đã đứng lên làm cách mạng, lớp sau nối tiếp lớp trước, chưa bào giờ khuất phục trước kẻ thù. Bà Nhan, anh Xút bị giết vì nuôi cán bộ đã có Tnu và Mai tiếp nối. Mai ngã xuống đã có Dít đứng lên. Sau Dít là bé Heng....Các thế hệ gắn bó với nhau như những cánh rừng xà nu tít tắp đến chân trời. Cụ Mết đã khẳng định: “ ko có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”
+ Hình ảnh cây xà nu ham ánh sáng mặt trời gợi nhớ đến những con người Tây Nguyên tha thiết yêu tự do, luôn hướng về cách mạng. Cụ Mết, bà Nhan, anh Xút rồi Tnu, Mai, Dít, bé Heng và biết bao dân làng Xô Man đã nuôi giấu cán bộ, bảo vệ cán bộ bất chấp sự khủng bố của kẻ thù. Họ hướng về cách mạng như cây xà xu hướng về ánh sáng mặt trời
* Nghệ thuật:
- Viết về rừng xà nu NTT đã thành công trong việc tạo ra 1 hình tượng nghệ thuật độc đáo. Miêu tả về rừng xà nu nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây cảm giác mạnh: ào ào, ưỡn, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, sinh sôi, ngã gục, mọc lên, lao thẳng, phóng lên..... kết hợp với những động, tính từ ấy là biện pháp so sánh, ẩn dụ được vận dụng 1 cách hiệu quả. Tất cả những biện pháp nghệ thuật ấy đã làm hiện lên 1 cách ấn tượng sức sống mãnh liệt của cây xà nu
- Đặc biệt nhà văn NTT còn sử dụng cái nhìn của điện ảnh để miêu tả rừng xà nu. Ống kính của nhà nghệ sĩ có lúc lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà nu, có khi lại quay về cận cảnh để rà soát, soi kĩ từng dáng cây xà nu. Vì thế cả đau thương lẫn sức sống của xà nu đều hiện lên 1 cách sống động. Và với thủ pháp miêu tả điện ảnh rừng xà nu trở nên có đường nét, hình khối bởi vậy có sức ám ảnh người đọc
c. Liên hệ sự lặp lại hình ảnh rừng xà nu và cái lò gạch cũ trong đoạn mở đầu và kết thúc Rừng xà nu - Chí Phèo để nhận xét về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn.
- Cách mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh cây xà nu trong tp “Rừng xà nu” gợi cho người đọc nhớ đến cách mở đầu và kết thúc trong truyện Chí Phèo- Nam Cao. Hai Tp có kết cấu mở đầu tương ứng nhưng lại khác nhau ở tư tưởng
- Về sự lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ trong đoạn mở đầu và kết thúc truyện Chí Phèo ( Nam Cao)
+Ý nghĩa nội dung: “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân. Kết thúc ấy thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.
+Ý nghĩa nghệ thuật
* Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
* Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.
- Nhận xét về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn:
+ Giống nhau: cả 2 nhà văn trong 2 truyện ngắn đều sử dụng hình ảnh mở đầu và kết thúc tác phẩm bằng sự lặp lại theo kết cấu vòng tròn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc về tư tưởng và nghệ thuật.
+ Khác nhau:
* Do ảnh hưởng trào lưu sáng tác khác nhau
* Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong tư tưởng và nghệ thuật mỗi nhà văn.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng cây xà nu. Cảm nghĩ của bản thân về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn qua hình tượng.
Đề 5: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc ( Tố Hữu) :
Từ đó, liên hệ với bài thơ Từ ấy để thấy được chất trữ tình trong thơ Tố Hữu .
Gợi ý:
I.Mở bài:
-Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản,là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam
- Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ Ấy , Việt Bắc. Gió Lộng,... Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca cách mạng chống Pháp nói chung. Bài thơ là khúc hùng ca và khúc tình ca cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.
- Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại . Và đoạn thơ:
“ Mình về mình có nhớ ta
.........................................
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”
là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ân nghĩa thủy chung đó. Kết hợp với đoạn thơ mở đầu trong bài thơ Từ ấy, ta thấy càng về sau chất trữ tình trong thơ Tố Hữu càng đậm nét.
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ
- Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này.
- Đoạn thơ gồm 8 câu thuộc phần đầu của bài thơ, diễn tả khung cảnh chia tay và tâm trạng kẻ ở, người đi.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về đoạn thơ
* Về nội dung:
-Bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết.
- Bốn câu đầu:
Dường như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, người ở lại lên tiếng trước, căn dặn người ra đi về tấm lòng chung thuỷ:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
…Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn “
Nghĩa tình giữa ta và mình bắt nguồn từ những lý lẽ hiển nhiên giống như đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc vậy. Liệu mình có giữ được tấm lòng chung thuỷ trước những cám dỗ mới của cuộc đời không? Đó cũng chính là tâm trạng, là nỗi lòng băn khoăn của “người ở lại”, của “ta”. Cách liên tưởng so sánh trên không chỉ mở rộng không gian của nỗi nhớ, mà còn làm cho kỷ niệm cứ như tuôn trào tầng tầng lớp lớp.
Các cặp hình ảnh “cây - núi”; “sông - nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo.Nó không chỉ gợi ra không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Mà nó còn nói lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn. Các từ “mình”, “ta”, câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ …” được láy lại 2 lần làm cho nỗi nhớ, niềm thương cứ dâng lên mãi trong lòng của người đi và kẻ ở.
- Đáp lại sự băn khoăn của người ở lại là tiếng lòng của người ra đi:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
+ Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…). Hoá ra người đi cũng cùng một tâm trạng, cùng một tình nghĩa chung thuỷ như bạn mình: Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
+ “Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào ? Tác giả đã sử dụng một loạt những từ láy, những từ chỉ trạng thái tình cảm của người đang yêu để giãi bày tình cảm không nói lên lời của người ra đi cũng thuỷ chung tình nghĩa như tấm lòng người ở lại vậy.
+Một thời gắn bó, một thời thủy chung, nay ta và mình chia xa :“Áo chàm đưa buổi phân li”. “Áo chàm” không đơn thuần là chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi mà nó đã được hoán dụ trở thành biểu tượng cho nhân dân Việt Bắc thuỷ chung sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Nay kẻ đi người ở, hỏi sao không bồi hồi xúc động : “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
+ Câu thơ ”Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay" đầy tính chất biểu cảm. Nó gợi ra cảnh bịn rịn luyến lưu tay trong tay mà không nói lên lời của đôi trai gái yêu nhau, để từ đó tác giả như khắc sâu thêm tình cảm gắn bó thắm thiết, thuỷ chung của người miền xuôi đối với người miền ngược.“Biết nói gì” không phải không có điều để giải bày mà chính là vì có quá nhiều điều muốn nói mà không biết phải bắt đầu từ đâu, nên nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…Trong buổi chia ly, mặc dù chưa biết nói gì với kẻ ở lại nhưng thực ra người ra đi đã nói được rất nhiều điều. Bởi im lặng cũng là một thứ ngôn ngữ của tình cảm.
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả một cách thân tình cái ngập ngừng, bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
*Về nghệ thuật:
-Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát truyền thống để thể hiện những nội dung tình cảm cách mạng có gốc rễ trong truyền thống tinh thần dân tộc. Đoạn trích sử dụng cách nói mình - ta và lối đối đáp của ca dao - dân ca, tạo nên một giọng thơ ngọt ngào thương mến, qua đó thể hiện những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của dân tộc.
-Nhà thơ sử dụng những từ ngữ và lối nói quen thuộc, những so sánh ví von truyền thống nhưng lại biểu hiện được những tư tưởng mới của thời đại. Sự chuyển đổi linh hoạt về ngôn ngữ và giọng điệu cũng tạo nên hiệu quả biểu đạt cao.
-Nhạc điệu thể hiện chiều sâu của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu. Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng các từ láy, dùng vần và phối hợp các thanh điệu,... kết hợp với nhịp thơ, tạo thành nhạc điệu phong phú của các câu thơ, diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn mà ở bề sâu của nó là điệu cảm xúc và tâm hồn dân tộc. Giai điệu thơ ngọt ngào, sâu lắng khi diễn tả tình cảm gắn bó, thuỷ chung.
3. Liên hệ bài thơ Từ ấy ( Ngữ văn 11) để thấy được chất trữ tình trong thơ Tố Hữu
a. Cảm nhận về bài Từ ấy:
b.Nhận xét chất trữ tình trong thơ Tố Hữu:
+ Bài Từ ấy được sáng tác năm 1938, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu ở thời kì đầu. Nhà thơ như choáng ngợp trước ánh sáng của lí tưởng cách mạng, ý thường sử dụng các hình ảnh rực rỡ, đẹp đẽ (mặt trời, nắng hạ), bút pháp lí tưởng hóa, đôi khi là thần thánh hóa sức mạnh của lí tưởng cách mạng. Giọng điệu chủ đạo trong thơ ông là giọng ngợi ca, biết ơn với âm hưởng sôi nổi, vui tươi, tràn đầy hứng khởi.
+ Bài Việt Bắc được sáng tác sau khi kháng chiến chống Pháp đã kết thúc (1954), trải qua quá trình trải nghiệm với cuộc sống của nhân dân, thơ Tố Hữu ngày càng đằm thắm. Các hình ảnh có tính lí tưởng hóa (nắng hạ, mặt trời chân lí) với giọng điệu ngợi ca hào sảng đã được thay thế bằng giọng điệu tâm tình, nhắn nhủ của lứa đôi với các hình ảnh giản dị, đời thường (áo chàm, cầm tay nhau...). Từ sự tuyệt đối hóa sức mạnh của lí tưởng cách mạng, đến đây Tố Hữu đã ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó keo sơn, tình nghĩa bền chặt với nhân dân kháng chiến... Tất cả đã cho thấy sự vận động trong hồn thơ Tố Hữu: vẫn gắn bó mật thiết với những sự kiện chính trị của dân tộc nhưng các sự kiện chính trị ấy ngày càng được “trữ tình hóa” bằng một giọng thơ ngọt ngào, thương mến nên dễ đi vào lòng người hơn.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về sự vận động cái tôi trong thơ Tố Hữu từ Từ ấy đến Việt Bắc.
Đề 6: Cảm nhận về vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến ( Quang Dũng) trong đoạn thơ:
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Từ đó, liên hệ vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy ( Tố hữu) để rút ra nhận xét về cách xây dựng hình tượng về người chiến sĩ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp
Gợi ý:
I.Mở bài
- Quang Dũng (1921 - 1988) là một nghệ sĩ đa tài; làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn... nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn.
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung nét đặc sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Nêu vấn đề cần nghị luận
II.Thân bài
1. Khái quát về bài thơ, vị trí đoạn thơ trong Tây Tiến:
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)
- Đoạn thơ thuộc đoạn thứ 3 của bài thơ, thể hiện cảm hứng nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến;
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về hình tượng người lính trong đoạn thơ
a. Về nội dung:
- 4 câu đầu: Cuộc sống gian khổ, khó khăn và vẻ đẹp tâm hồn người lính
+ 2 câu đầu là bức chân dung người lính hiện lên với những nét vẽ chân thực qua hình ảnh so sánh, tương phản:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm. .
++ Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sông gian khổ mà người lính phải chịu đựng: Hình ảnh không mọc tóc, quân xanh màu lá là hậu quả những trận sốt rét rừng, của thiếu lương thực, thiếu thuốc men... Tất cả làm mái tóc xanh của các chàng trai trẻ không còn nữa, da xanh như tàu lá.
++ Tuy vậy, cái vẻ xanh xao vì đói rét, bệnh tật ấy của người lính Tây Tiến, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ oai phong, dũng mãnh như những con hổ nơi rừng thiêng: dữ oai hùm. Bút pháp lãng mạn đã tạo ra cái nhìn xoáy vào bên trong khiến hình tượng người lính hiện lên ốm mà không yếu, khắc khổ mà không tiều tụy.
++ Hai chữ đoàn binh âm Hán Việt đã gợi ra một khí nghiêm trang, hùng dũng kết hợp với các thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến ", "mọc tóc" khiến âm hưởng của câu thơ vút lên mạnh mẽ, làm vợi đi ấn tượng xót xa về cuộc sống khó khăn, thiếu thốn.
+ 2 câu sau là vẻ đẹp tâm hồn đậm chất hào hoa, lãng mạn của các chàng trai Tây Tiến
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
++ Hình ảnh mắt trừng thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương, thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình.
++ Hình ảnh Đêm mơ Hà Hội dáng kiều thơm lại là phút giây mơ mộng của tâm hồn trở về mái trường góc phố. Bên trong cái dữ dội, oai hùng của người lính là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu thương. Họ là những chàng trai ra đi khi mới mười tám, đôi mươi, chắc hẳn ai cũng ôm ấp trong tim một bóng hình. Ba chữ dáng kiều thơm gợi vẻ đẹp yêu kiều thanh lịch của các thiếu nữ Hà thành.
Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
+4 câu sau: Những hi sinh mất mát và ý chí quyết tâm của người lính
++ Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng vào những mất mát hi sinh mà người lính phải trải qua: Rải rác biên cương mồ viễn xứ
+++ Từ láy tượng hình rải rác diễn tả hình ảnh những nấm mồ hoang lạnh trải khắp một vùng biên cương Tổ quốc. Nếu tách riêng câu thơ ra khỏi đoạn ta dễ có cảm giác đang đượe chứng kiến một bức tranh với màu sắc xám lạnh, u uất như vọng về từ thời chinh phu tráng sĩ;
+++ Tuy nhiên, cái bi như vơi bớt đi khi tác giả sử dụng ba từ Hán Việt liên tiếp: biên cương - mồ - viễn xứ gợi không khí thiêng liêng, trang trọng, làm nhòe đi nét nghĩa đau thương mà vang về âm thanh hào hùng. Những nấm mồ hoang lạnh nơi rừng sâu biên giới bỗng trở thành những mộ chí tôn nghiêm vĩnh hằng.
+ Câu thơ tiếp theo vang lên như một lời thề Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Đó cũng chính là lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những chàng trai đô thành này.
+ Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
++ Hình ảnh áo bào thay chiếu thực chất là hiện thực thiếu thốn, gian khổ: tiễn đưa người lính về nơi vĩnh hằng không có cả một chiếc quan tài, thậm chí không cả manh chiếu che thân. Câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ, gợi hình ảnh tấm áo choàng màu đỏ của các dũng tướng ra trận thuở xưa.
++ Nghệ thuật nói giảm, nói tránh anh về đất gợi tư thế ung dung, thanh thản, nhẹ nhõm của người lính khi đón nhận cái chết.
+ Đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh dòng sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến còn lay động đến cả đất trời, khiến dòng sông Mã gầm lên đau đớn, tiếc thương. Trong âm hưởng hào hùng và dữ dội của thiên nhiên, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Tây Tiến xứng đáng được xem là một tượng đài kỉ niệm bằng thi ca về đoàn quân Tây Tiến nói riêng về con người Việt Nam nói chung của một thời đại đầy gian lao mà anh dũng.
* Về nghệ thuật:
- Kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn.
- Ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, sáng tạo khi kết hợp từ Hán Việt và thuần Việt
- Nhiều biện pháp nghệ thuật: nói giảm, đối lập…
3. Liên hệ vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy (Tố Hữu) để rút ra nhận xét về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ.
- Về vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy (Tố Hữu)
+ Nêu đôi nét về Tố Hữu và bài thơ Từ ấy;
+ Phân tích vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy:
++Người chiến sĩ cộng sản có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng chính là ánh nắng hạ rực lửa, là mặt trời chói sáng, soi rọi giúp cho nhà thơ nhận ra con đường đi đến với chân lí, lẽ phải, công bằng, niềm tin, hi vọng. Lí tưởng còn hồi sinh, chỉ đường, đem đến cảm xúc mới, sức sống mới cho nghệ thuật thơ ca của người chiến sĩ.
++ Đó là người chiến sĩ có lẽ sống nhân đạo cao đẹp. Con người ấy từ khi được giác ngộ lí tưởng, ý thức rằng cuộc sống và nghệ thuật thơ ca của mình không thuộc về cá nhân mình nữa mà thuộc về quần chúng cần lao và cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Con người đã tự nguyện đem cái “tôi” nhỏ bé của mình gắn kết với cuộc đời để tạo nên sức mạnh đoàn kết, tranh đấu. Người chiến sĩ cũng ý thức rằng mình sẽ là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình cách mạng của những người lao khổ, bị áp bức, chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
- Nhận xét về cách xây dựng hình tượng chung người chiến sĩ.
+ Cả 2 nhà thơ Tố Hữu và Quang Dũng đều xây dựng hình tượng chung người chiến sĩ cách mạng với vẻ đẹp lí tưởng sáng ngời, cùng sử dụng bút pháp lãng mạng cách mạng để thể hiện;
+ Tuy nhiên, mỗi nhà thơ đều sáng tạo hình tượng người chiến sĩ cách mạng với vẻ đẹp độc đáo riêng. Người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy say mê lí tưởng Đảng, cất lên tiếng hát của một tâm hồn trẻ trong buổi đầu giác ngộ cách mạng. Tất cả đều thể hiện phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Người chiến sĩ trong Tây Tiến là đoàn binh hùng mạnh, can trường, tài hoa và lãng mạn khi còn sống và khi đã hi sinh. Tất cả đều thể hiện phong cách thơ trữ hồn hậu, phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình tượng người chiến sĩ
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình tượng người chiến sĩ của mỗi tác giả.
III.Kết bài:
Kết luận về vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng và Tố Hữu. Cảm nghĩ của bản thân về hình tượng.
ĐỀ 6: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp đoạn văn sau trích trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
Từ đó, liên hệ với đoạn thơ:
để nhận xét cái tôi của mỗi tác giả.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
Dẫn ý giới thiệu tác giả, đoạn trích và vấn đề cần liên hệ:
- HPNT là 1 ngòi bút xuất sắc của thể bút kí, các tác phẩm của ông là thành quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giọng văn nghị luận đầy sắc bén với lối tư duy đa chiều, súc tích, tài hoa.
- Thiên nhiên là nguồn thi liệu bất tận, phong phú trong văn học, là nơi các thi văn nhân hòa mình vào đó, thoải mái dùng ngòi bút mà họa nên mọi tâm tư, tình cảm với cảnh cùng người. Thế nhưng, từ cái nguồn chung đó, thiên nhiên của mỗi tác giả lại rất khác nhau. Cùng là mảnh đất Huế mộng Huế mơ, ấy mà Huế trong bút kí “AĐĐTCDS” của HPNT với điểm nhìn là dòng sông Hương, trở nên thật nhẹ nhàng, đằm thắm, còn Huế trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi sĩ Hàn Mặc Tử lại rất đỗi bình dị, gần gũi và lãng mạn. Cái tôi rất riêng của mỗi tác giả từ đây cũng được bộc lộ.
- Qua “AĐĐTCDS”, người đọc được chiêm ngưỡng con sông Hương đặc trưng của xứ Huế trong mối tương quan toàn diện với lịch sử, văn hóa và con người nơi đây. Đặc biệt là vẻ đẹp yêu kiều, duyên dáng của dòng sông vắt ngang thành phố qua trích đoạn: “….”
II.Thân bài:
1. Khái quát về bút kí, đoạn trích
+“AĐĐTCDS” là 1 tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
+Ra đời năm 1981 in trong tập sách cùng tên, gồm 3 phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất, nói về thủy trình Hương giang và mối lien hệ giữa sông Hương với lịch sử, văn hóa Huế. Đoạn văn bản trên miêu tả dòng sông khi vào thành phố Huế thơ mộng.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp của sông Hương trong trích đoạn
* Về nội dung: Sông Hương khi vào thành phố Huế:
+ Đoạn văn được cảm nhận dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn, hội họa và âm nhạc:
++Nhân hóa: “Sông Hương vui tươi hẳn lên” vì “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời”. Nhà văn thể hiện tâm trạng vui tươi khi trở lại là chính mính.
++So sánh: “như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, thể hiện một tình yêu kín đáo.
++“phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.” gợi vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và chiếc cầu trong thành phố.
++Dòng sông còn được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới:
• Sông Xen chảy vào thành phố Paris.
• Sông Đa-nuýp chảy vào thành phố Budapet.
Giống với dòng sông Hương nằm trong thành phố yêu quý của mình. Điều này thể hiện niềm tự hào của tác giả và vẻ đẹp riêng của sông Hương giữa đô thị cổ Huế.
+ Bức hoạ dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét chấm phá về những vườn cau Vĩ Dạ với nắng hàng cau trong trẻo tinh khôi, với lá trúc che ngang e ấp, dịu dàng, với màn sương khỏi huyền ảo gợi nhớ thi sĩ họ Hàn tài hoa mà bất hạnh... Với niềm hoài cổ của một nhà văn hoá, Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng cái nhìn trầm tư và mơ mộng tới những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, tới ánh lửa thuyền chài lập loè trong đêm sương- những hình ảnh khiến dòng sông vừa gần gũi với cuộc sống đời thường, vừa xa xăm trong cõi miên viễn của cổ thi…
+ Nhận xét chung: Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.
* Về nghệ thuật:
-Đoạn trích viết dưới dạng bút kí;
-Ngôn từ trau truốt;
-Sử dụng những hình ảnh đặc sắc, mang giá trị biểu cảm cao, giàu chất nhạc;
-Vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,..
- Thể hiện cái tôi mê đắm và tài hoa.
3. Liên hệ với đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để nhận xét cái tôi của mỗi tác giả
- Về đoạn thơ thứ hai trong bài Đây thôn Vĩ Dạ
+Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Cuộc đời ông ngắn ngủi, đầy bi thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ, để lại chặng đường thơ sáng ngời và nhiều bài thơ bất hủ cho hậu thế, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là một thi phẩm xuất sắc của Thơ mới và đồng thời tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử.
+ Cảnh sông nước đêm trăng ở sông Hương của thôn Vĩ đẹp vẻ thơ mộng, lãng mạn:
++Hai câu đầu gợi đặc điểm rất riêng của xứ Huế: sự nhẹ nhàng, khoan thai, hiện thực mà huyền ảo (gió thổi nhẹ, mây trôi chậm, dòng nước lững lờ và hoa bắp đôi bờ cũng chỉ khẽ lay).Cảnh đượm buồn: Dường như tất cả đều trôi chảy, xa dần (gió thổi, mây trôi, dòng nước cũng lững lờ trôi); dòng sông như một sinh thể có hồn mang nỗi niềm tâm trạng của nhân vật trữ tình (buôn thiu); gió mây chia lìa đôi ngả; hoa bắp khẽ lay đọng lại nỗi buồn cho câu thơ.
++ Hai câu sau: Tâm trạng hoài vọng mà phấp phỏng âu lo của thi nhân:
*Cảnh sông nước đêm trăng hiện thực mà huyển ảo: Dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Con thuyền vốn có thực trên sông trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng đê’ chở trăng về với thi nhân.
*Với Hàn Mặc Tử, trăng là người bạn tri âm tri kỉ. Trong hoàn cành bị cách biệt với thế giới bên ngoài, giường bệnh trở thành một sa mạc cô đơn, nhà thơ chỉ còn lại “trăng” đề trò chuyện, vui buồn. Nhà thơ trông trăng, hoài trăng là điều tất yếu.
*Chữ kịp cho thấy tâm trạng âu lo, phấp phỏng của Hàn Mặc Tử. Trong hoàn cảnh mắc bệnh hiểm nghèo, quĩ đời của thi nhân cứ vơi dần từng giây, từng phút. Cuộc ra đi chia lìa vĩnh viền có thể đến bất cứ lúc nào. Vậy nên, thuyền không chở trăng về kịp tối nay thì biết đâu thi sĩ sẽ ra đi trong vĩnh viễn đau buồn.
+ Nhận xét chung: Bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng vẫn đẹp nhưng buồn. Đồng thời, bức tranh phong cảnh này cũng là bức tranh tâm cảnh – chứa đựng nỗi buồn về dự cảm hạnh phúc chia xa nhưng vẫn thấy ở đó niềm khao khát giao cảm với đời, khao khát yêu, khao khát hạnh phúc của thi nhân vào những năm tháng cuối đời.
-Nhận xét cái tôi của mỗi tác giả
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Một cái tôi hoài vọng phấp phỏng lo âu vì mặc cảm chia lìa. Cái tôi đó thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên xứ Huế tuy đẹp nhưng nặng trĩu nỗi buồn đau.Chọn điểm nhìn cảm xúc ở một không gian hẹp, thu nhỏ, đồng thời đó là cái nhìn được gợi cảm hứng từ bức ảnh, là cái nhìn của kí ức nên Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật vẻ đẹp của xứ Huế qua những nét lãng mạn, dung dị, bình thường mà vô cùng đặc biệt: đó là thiên nhiên gần gũi, là cảnh sông nước hữu tình nhưng chất chứa nỗi đau thương.
+Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Cái tôi của nhà văn trong đoạn trích đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Tác giả chọn điểm nhìn là sông Hương. Đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn bao quát, trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, từ đời sông cho đến văn hóa xứ Huế. Vì thế, vẻ đẹp của xứ mộng mơ này hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa, mang những nét đẹp thuần túy chưa hề phai mờ trong kí ức của những người yêu xứ Huế.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện cái tôi trong sáng tác;
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn cái tôi của mỗi tác giả.
III. Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng thiên nhiên, nhất là vẻ đẹp dòng sông trong 2 tác phẩm.
Cảm nghĩ của bản thân về cái tôi của các nhà thơ. Liên hệ bản thân ( nếu có)
ĐỀ 7: Cuộc đời tuy dài thế
GỢI Ý:
I.Mở bài:
* Dẫn dắt , giới thiệu sơ lược về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ “Sóng”
- Xuân Quỳnh được mệnh danh là một trong những thi sĩ viết thơ tình hay nhất của dân tộc. Dù có mộc cuộc đời bất hạnh nhưng thơ chị luôn đằm thắm dịu dàng, khát khao hạnh phúc và mong gắn bó hết mình với cuộc sống.
- Nhắc đến Xuân Quỳnh, không thể không kể đến “Sóng”, một bài thơ mang trọn môt tình yêu vừa nồng nhiệt, táo bạo lại thiết tha, say đắm. Và đặc biệt, nơi đoạn thơ
“ Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
..................................
Để ngàn năm còn vỗ”
tình yêu của thi nhân hiện lên không chỉ mang xúc cảm mà còn xen lẫn nhiều suy tư và triết lí.
* Nêu ý phụ:
- Nếu bài thơ ‘Sóng” mang vẹn khát vọng yêu đương của Xuân Quỳnh, thì “Vội vàng” là tác phẩm gói trọn khát khao hạnh phúc của Xuân Diệu. Hai tác phẩm là hai khát khao, ước vọng của hai hồn thơ tuy rất riêng nhưng cùng làm nên vẻ đẹp của tình yêu trong thơ ca.
II.Thân bài:
1. Khái quát sơ lược về tác phẩm và đoạn thơ cần cảm nhận
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Sóng sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm Điền và được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968) .
- Bài thơ gồm 9 khổ, qua việc miêu tả sóng biển thể hiện diễn biến tâm trạng và khát khao hạnh phúc của tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
- Đoạn thơ trên là hai khổ cuối của tác phẩm, thể hiện những suy tư trăn trở của 1 trái tim nhạy cảm trước sự trôi chảy của thời gian và khát khao được sống hết mình trong tình yêu vĩnh viễn.
2. Cảm nhận vẻ đẹp đoạn thơ
* Vẻ đẹp nội dung
- Khổ 1
+ Cảm nhận về cuộc đời: “Cuộc đời tuy dài thế”, nhưng vui buồn hạnh phúc cũng theo năm tháng mà qua đi “Như biển kia dẫu rộng” vẫn có giới hạn là bờ. Mây tuy bé hơn biển nhưng vẫn vượt biển để “bay về xa” . Đó là tâm hồn đang khát khao yêu đương của người phụ nữ, thấm thía nỗi lo âu trước sự ngắn ngủi của cuộc đời.
+Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô cùng vô tận của thiên nhiên. Trước cái vĩnh hằng của tạo hóa, trước qui luật “sinh - lão - bệnh - tử” của kiếp người, cảm thức về thời gian càng làm cho tình yêu thêm mãnh liệt. Càng nghĩ về thời gian con người càng khát khao yêu và được yêu, được gắn bó mãi với tình yêu, với cuộc đời.
- Khổ 2
+Lời giãi bày về khát vọng tình yêu sẽ mãi trường tồn “ Làm sao được tan ra ....”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hóa tình yêu, hòa tình yêu của chính mình vào khối tình chung của nhân loại như con sóng hòa vào đại dương bất tận;
+ Chỉ khi để tình yêu hòa “tan” vào biển lớn, gắn tình yêu đôi lứa với tình yêu tổ quốc, tình yêu mới được sống mãi và hóa nên bất tử như khát khao của con người.
* Vẻ đẹp nghệ thuật
- Đoạn thơ sử dụng thể thơ 5 chữ truyền thống kết hợp với cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo tạo nên chất thơ rất riêng, làm nên tình yêu rất riêng của thi nhân;
- Giọng thơ thiết tha, chân thành thể hiện một tâm hồn đa cảm, một tình yêu thủy chung, mãnh liệt;
- Nhịp thơ như nhịp sóng biển, cũng là sóng tình yêu trong trái tim người phụ nữ.
3. Liên hệ, so sánh để bàn luận mở rộng
- Nếu Xuân Diệu là “ông hoàng” thì Xuân Quỳnh là “nữ hoàng” của thơ tình Việt. Cả hai cùng mang nỗi lo trước sự trôi chảy của thời gian và cùng khát vọng cháy bỏng được sống, được yêu để rồi cùng gửi gắm hết những nỗi lòng ấy vào thơ ca
- Tuy cả hai cùng đi về một khát vọng yêu đương mãnh liệt, nhưng khát vọng nơi hồn thơ của Xuân Quỳnh và Xuân Diệu có nét độc đáo riêng:
+Ở “Vội vàng”, Xuân Diệu bộc bạch một khát vọng sống mãnh liệt, một niềm ham sống vô biên, khát khao vô cùng, “muốn ôm”, “muốn riết”, “muốn say”, “muốn thâu” để được sống, được yêu, được giao cảm trọn vẹn với cuộc đời. Khát vọng của Xuân Diêu cũng mang tên là tình yêu, nhưng nó vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, đó là tình yêu sự sống.
+Ở “Sóng”, Xuân Quỳnh mang một khát khao của người phụ nữ vừa truyền thống vừa hiện đại, dù lo âu trước cái vô tận của thời gian, vẫn vững tin vào sức mạnh tình yêu, vẫn khao khát yêu và được yêu, đươc “tan ra” hòa trong khối tình chung bất tận vô biên của nhân loại để gắn bó mãi với tình yêu cùng cuộc đời.
Trước cuộc đời, trong tình yêu, Xuân Quỳnh, Xuân Diệu mang những khát vọng rất riêng, rất thơ, tạo nên sự đa dạng trong văn học và cùng làm đẹp thêm khối tình thơ của dân tộc.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện về khát vọng của mỗi nhà thơ.
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh để thể hiện khát vọng của mỗi nhà thơ.
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về vẻ đẹp khát vọng sống và yêu.
ĐỀ: Cảm nhận vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến ( Quang Dũng). Từ đó, liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 11), nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
– Giới thiệu Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
+ Là nghệ sĩ đa tài : làm thơ , viết văn , vẽ tranh , soạn nhạc.
+ Là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
+Hồn thơ : phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài ( Sơn Tây ) .
+Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng.
– Nêu vấn đề cần nghị luận.
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ và nêu nhận định chung
-Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
- Chất lãng mạn và bi tráng đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của bài thơ, tập trung ở hình tượng người lính
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến
- Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng( đoạn 1), cái nền mĩ lệ, thơ mộng của thiên nhiên và cuộc sống Tây Bắc( đoạn 2), người lính xuất hiện với tư thế thật oai phong, dữ dội.
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :
+Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Tuy nhiên, họ ốm mà không yếu. Trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng;…
+Ẩn giấu sau cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
- Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
Nói về người lính cùng cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến nhà thơ nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
+Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
+Sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã – dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. Hình ảnh những người lính Tây Tiến thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa.
- Về nghệ thuật
+Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
+Thể thơ 7 chữ chắc khỏe mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.
+Thủ pháp đối lập, khắc họa hình tượng nhân vật
+ Dùng nhiều từ Hán Việt….
3. Liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
- Về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù Nam bộ, sống gắn bó với nhân dân miền Nam. Ông là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
+ Bài văn tế được viết trong thời kì lịch sử “khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc đêm 16.12.1861.
+Nét độc đáo của hình tượng người nông dân nghĩa sĩ:
++Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là người nông dân thuần phác, giản dị, quanh năm chỉ biết “ Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Họ tự nguyện đứng lên đánh giặc cứu nước. Trang bị vũ khí vô cùng thô sơ, kinh nghiệm trận mạc ít ỏi nhưng họ chiến đấu với tinh thần quả cảm và đã hi sinh anh dũng.
++Nghệ thuật khắc họa: Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc: giọng điệu trang trọng, bi thương, câu văn biền ngẫu có kết cấu đăng đối, ngôn ngữ giàu hình ảnh và sức biểu cảm với hệ thống các hình ảnh so sánh ví von, chi tiết chọn lọc đặc sắc…
- Hình tượng người lính Tây Tiến:
+ Hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến là những thanh niên, học sinh Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp rất hào hùng mà cũng rất hào hoa.
+Được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng…
-Nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm
+Điểm giống:
++ Đề tài: Hai tác phẩm cùng viết về những con người đã dám xả thân hi sinh vì đất nước
++Hình tượng các nhân vật mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
++Cảm hứng: trân trọng, ngợi ca
+Điểm khác:
++ Cùng viết về người lính nhưng với tài năng nghệ thuật riêng các nhà thơ, nhà văn đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính trong văn học và cho người đọc một bài học về sự sáng tạo.
++Với bài “ Văn tế…”, lần đầu tiên người nông dân áo vải bước vào văn học với tư cách là người lính, cùng với những tác phẩm khác cùng đề tài tạo nên vẻ đẹp của người lính trong văn học Trung đại. “ Tây tiến” chính là sự kế thừa và sáng tạo từ hình ảnh này.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình ảnh người lính;
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh hình ảnh người lính của mỗi tác giả.
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng người lính trong 2 tác phẩm. Cảm nghĩ của bản thân về hình tượng.
ĐỀ: Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gõ vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi. Cả đêm Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ. Mị bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết. Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến, vợ chết rồi. Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
( Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)
Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đoạn văn trên. Từ đó, liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm ( Truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11) để bình luận về khát vọng sống của con người.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm :
+Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. "Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953.
+Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân. Cũng như Mị, nhân vật Liên trong đêm đợi tàu đã thể hiện khát vọng sống cao cả của con người
II.Thân bài:
1. Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tối khi bị trói thể hiện qua đoạn trích:
* Về nội dung:
- Sơ lược về cảnh ngộ của Mị trước khi bị trói trong đêm tình mùa xuân:
+ Mị là 1 cô gái trẻ đẹp, yêu đời, chăm chỉ lao động, nhà nghèo và rất hiếu thảo;
- Do món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải làm dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, sống cuộc đời trâu ngựa khổ đau;
+ Nhưng tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói tia lửa sống, chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ. Dịp ấy đã đến trong 1 đêm tình mùa xuân phơi phới mà tiếng sáo gọi bạn đầu làng đã làm xao động lòng người phụ nữ trẻ;
+ Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu đèn lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát. Mị bồi hồi nghe tiếng sáo, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+Trông thấy Mị, A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa...
- Diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân:
+Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.
+Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi... Mị vùng bước đi."Như không đang biết mình đang sợ bị trói... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi", quên mọi đau đớn về thể xác, "Mị đã vùng dậy bước đi". Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào...
+Nhưng tay chân đau không cử động được. Khi ấy, Mị mới biết mình đang bị trói, đang ở trong căn nhà tù ngục này. Lòng Mị đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
+Cả đêm Mị lúc mê lúc tỉnh.
+Bị trói đứng suốt đêm, Mị bàng hoàng tỉnh giấc
+Mị thấy thương cho những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan
+Mị nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết trong nhà thống lí. Mị sợ chết. Chính bóng ma thần chết ở ngôi nhà thống lí đã làm Mị sợ. Đồng thời, Mị nhận ra một điều chết lúc này là oan uổng. Tiếng sáo, khát vọng tự do đã làm cho Mị khao khát sống;
+Mị sợ hãi cựa quậy khi xem mình còn sống không thì sợi dây đay đã siết vào da thịt Mị. Đau đớn đến tận cùng…
* Về nghệ thuật:
-Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế
-Cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên
-Giọng trần thuật của tác giả hòa vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể truyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
3. Liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm ( Truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11) để bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người.
- Về nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm:
+ Thạch Lam là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện như một bài thơ đượm buồn. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”(1938). Truyện đã miêu tả diễn biến nội tâm của hai đứa trẻ trước chiều muộn về đêm. Qua cảm xúc, tâm trạng của Liên và An, tác giả đã thể hiện được bức tranh nơi phố huyện nghèo, niềm hy vọng mỏng manh mơ hồ của những con người nơi phố huyện. Trong đó, nhân vật Liên khi đợi tàu về đêm đã thể hiện được khát vọng sống của con người.
+Tương tự như Mị, nhân vật Liên là một cô bé sống trong đói khổ nhưng vẫn có một tâm hồn hướng tới cuộc sống tơi đẹp hơn.
+ Nếu như tâm hồn Mị theo tiếng sáo gọi bạn tình thì tâm hồn của Liên cũng luôn khao khát, hướng về ánh sáng. Trong màn đêm, Liên luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa. Liên cố thức đợi chuyến tàu không phải để bán hàng mà là để được nhìn thấy một cuộc sống náo động, một nguồn sáng rực rỡ của con tàu như mang đến một cuộc sống khác, một thế giới khác.
- Bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người:
+Hai nhân vật Liên và Mị đã khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp khát vọng sống của con người.Tâm hồn của họ luôn hướng về ánh sáng, về âm thanh cuộc sống cũng chính là niềm khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc. Họ đều hi vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm. Nhưng cuối cùng, cuộc đời Liên vẫn mãi chìm trong “bóng tối”, còn Mị đã được đổi đời nhờ có tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác;
+ Qua khát vọng sống của 2 nhân vật, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Tô Hoài. Các nhà văn có cùng niềm cảm thông với nỗi khổ của những người phụ nữ bất hạnh dưới chế độ thực dân phong kiến; ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân; đặc biệt ca ngợi khát vọng sống cao đẹp của họ. Đó cũng chính là niềm tin vào con người của các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật nhân vật Mị qua đoạn trích. Cảm nghĩ của bản thân về khát vọng sống của nhân vật Mị và Liên.
ĐỀ: Cảm nhận vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2017).Từ đó, liên hệ với nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục, 2017) để thấy điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật này.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt;
– Nêu vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị; điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật thị và thị Nở.
II.Thân bài
1. Khái quát về truyện Vợ nhặt, nhân vật thị
(về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, cốt truyện, nhận định chung về nhân vật thị…)
2. Cảm nhận vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
* Về nội dung:
- Thị nạn nhân của nạn đói, cái đói không chỉ để lại hậu quả ở ngoại hình, xuất thân (không tên tuổi, quê quán, xấu xí, gầy đói) mà còn ở cả tính cách của cô: chao chát, chỏng lỏn, sưng sỉa, cong cớn, sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc không nói năng gì,… là những từ ngữ hoạt họa một con người vô duyên và quên sĩ diện...
- Tuy nhiên, sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ ấy là niềm khát khao hạnh phúc gia đình.
+ Trên đường theo Tràng về nhà, thị chân nọ bước díu cả vào chân kia đầy vẻ ngượng ngịu, âu lo. Trong lúc chờ đợi mẹ chồng về, thị chọn ngồi ở mép giường, dáng ngồi và cách vân vê tà áo đã rách bợt gợi bao nhiêu nỗi niềm tủi hổ. Biểu hiện sự thay đổi của thị rõ nhất là vào buổi sáng hôm sau. Hành động dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ Tràng cho thấy cô cũng có lòng tự trọng của riêng mình, không phải là người ăn bám, nhác lười. Và qua con mắt của Tràng thì thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.
+ Thị biết san sẻ, vun đắp mái ấm gia đình: Thị đã cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, xây dựng tổ ấm cùng mẹ con Tràng. Trong bữa ăn ngày đói, khi nhận từ tay mẹ chồng bát cháo cám đắng chát, thị vẫn vui vẻ bằng lòng. Rõ là thị cũng đã có ý thức chia sẻ khó khăn cùng gia đình mà không hề ca thán.
+ Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên sự ấm áp. Thị mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết.
*Nghệ thuật thể hiện:
- Tác giả đặt nhân vật thị vào tình huống truyện độc đáo để bộc lộ phẩm chất, tính cách.
- Cách kể chuyện tự nhiên, dựng cảnh sinh động...
- Đối thoại hấp dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị...
3. Liên hệ với nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để thấy điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật này.
- Thị Nở, một người phụ nữ với vẻ ngoài xấu ma chê quỷ hờn, tính tình dở hơi, ba mươi tuổi vẫn trong tình trạng ế chồng.
- Nhưng từ khi gặp gỡ và sống chung với Chí Phèo, những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật bắt đầu ngời sáng. Khác với những con người ở làng Vũ Đại, thị Nở đến với Chí Phèo tự nhiên mà không một chút định kiến. Bằng tình thương vô tư của mình, thị Nở đã chăm sóc Chí Phèo, thức tỉnh Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở về con đường lương thiện.
+ Tình thương: đối tượng của tình thương là Chí Phèo - một người ốm và cô đơn - "ốm mà nằm còng queo một mình". Biểu hiện của lòng thương là nấu cháo hành để giải cảm - cách chăm sóc người ốm đơn giản nhất; mang cháo sang cho Chí với thái độ ân cần, chân thành. Giá trị của tình thương ấy rất lớn: vừa giải cảm, giải độc cho Chí Phèo để Chí rũ bỏ cái vỏ quỷ dữ mà trở lại với bản tính người vốn có vừa khiến cho chính thị Nở cũng trở nên có giá trị hơn khi trong mắt Chí, thị có duyên, đáng yêu và đúng là người, khác hẳn với bà ba bá Kiến là con quỷ cái dâm đãng khiến Chí khinh bỉ và ghê sợ.
+ Tình nghĩa: ý thức trách nhiệm trong mối quan hệ với Chí khiến thị không bỏ mặc Chí khi Chí ốm đau, khiến thị tự nguyện chăm sóc Chí một cách ân cần.
+ Khát khao hạnh phúc: thích cuộc sống gia đình có vợ, có chồng và nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí (cảm giác "ngường ngượng mà thinh thích", hành động về xin phép bà cô, sự tức giận khi bị bà cô từ chối,...).
- Về hai nhân vật thị và thị Nở của hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao có nhiều điểm gặp gỡ, tương đồng: cả hai nhân vật đều mang vẻ ngoài xấu xí với hoàn cảnh tính cách chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng khi được sống trong tình yêu thương, họ lại toát lên vẻ đẹp phẩm chất, có thể đại diện cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người và người phụ nữ nói riêng.
- Cả hai nhà văn đều có điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người. Con người đẹp nhất là vẻ đẹp tâm hồn, khao khát yêu và được yêu, khao khát hạnh phúc và mái ấm gia đình. Đó cũng là vẻ đẹp của tinh thần nhân đạo mà các nhà văn đã gửi gắm qua các nhân vật.
III.Kết bài:
Kết luận về vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị và thị Nở. Nêu cảm nghĩ của bản thân về vấn đề đã nghị luận.
ĐỀ:
XÁC HÀNG THỊT: (lắc đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khổn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác.
HỒN TRƯƠNG BA: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u, đui mù…
XÁC HÀNG THỊT: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!
HỒN TRƯƠNG BA: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc !
XÁC HÀNG THỊT: Có thật thế không?
HỒN TRƯƠNG BA: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…
XÁC HÀNG THỊT: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: khi ông ở bên nhà tôi… khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại...Đêm hôm đó, suýt nữa thì…
HỒN TRƯƠNG BA: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày…
XÁC HÀNG THỊT: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ! Tôi chỉ trách là sao đêm ấy ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của !...Này, nhưng ta nên thành thật với nhau một chút: chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao? Để thỏa mãn tôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào, hãy thành thật trả lời!
HỒN TRƯƠNG BA: Ta… ta… đã bảo mày im đi!
XÁC HÀNG THỊT: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tớ được! Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!
HỒN TRƯƠNG BA: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…
XÁC HÀNG THỊT: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
HỒN TRƯƠNG BA: (bịt tai lại) Ta không muốn nghe mày nữa!
( Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt-Lưu Quang Vũ)
Cảm nhận bị kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, liên hệ với bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo ( truyện Chí Phèo, Nam Cao), bình luận quan niệm nghệ thuật về con người mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
– Giới thiệu Lưu Quang Vũ và vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
– Nêu vấn đề cần nghị luận ( bị kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba; bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo ( truyện Chí Phèo, Nam Cao), quan niệm nghệ thuật về con người mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.)
II.Thân bài:
1. Khái quát về vở kịch, vị trí đoạn trích:
-Hồn Tương Ba, da hàng thịt ( 1981) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian, nhà văn xây dựng một vở kịch hiện đại chứa đựng những vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và giá trị triết lí nhân sinh sâu sắc.
- Tóm tắt sơ lược vở kịch
- Đoạn trích thuộc phần đầu cảnh VII, diễn tả cuộc đối thoại giữa Hồn và xác.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về bị kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba:
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!” . Hồn Trương Ba đang sống với tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì…". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…". Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
- Nghệ thuật thể hiện:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giã cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.
+ Xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong.
+ Lời thoại 13 lời hồn, 13 lời xác, ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.
3. Liên hệ với bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo ( truyện Chí Phèo, Nam Cao), bình luận quan niệm nghệ thuật về con người mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
- Giải thích: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Thông qua quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, ta có thể hình dung đầy đủ tư tưởng nghệ thuật cũng như dấu ấn sáng tạo của nhà văn ấy.
-Phân tích, chứng minh quan niệm nghệ thuật về con người qua bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo và bi kịch tha hoá của Trương Ba:
+ Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao qua bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo:
++Vì cơn ghen vô cớ, bá Kiến đầy Chí vào tù, trở về làng sau 7, 8 năm ở nhà tù thực dân, Chí biến đổi hoàn toàn từ nhân tình đến nhân tính. Ngoại hình dữ dằn: cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn… một ông tướng cầm chùy. Tính cách hung hăng, liều lĩnh: say khướt, cứ sau là hắn chửi bới, đến nhà Bá Kiến đánh nhau với lí Cường, rạch mặt ăn vạ, la làng. Chí mang dáng hình, tính cách của một thằng lưu manh.
++ Sau khi ra tù, Chí Phèo ý thức được kẻ thù của mình và tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng lại bị Bá Kiến dụ dỗ. Chí Phèo bị Bá Kiến lừa gạt trở thành tay sai cho Bá Kiến để đi đòi nợ Đội Tảo. Hắn triền miên trong cơn say và gây tội ác cho dân làng Vũ Đại. Chí Phèo trở thành con quỷ dữ trong mắt người dân làng Vũ Đại.
++Qua bi kịch bị tha hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn ở làng quê Việt Nam trước Cách mạng: hiện tượng người nông dân lương thiện bị tha hóa, bị chà đạp về tinh thần và thể xác, bị xã hội phi nhân tính cướp đi cả hình hài lẫn tính người. Ông gióng lên tiếng chuông cảnh báo hiện tượng một bộ phận người nông dân từ lương thiện trở thành lưu manh, từ lưu manh trở thành quỷ dữ, đồng thời kêu gọi để thức tỉnh con người: đừng bao giờ làm tay sai cho kẻ thù.
+ Quan niệm nghệ thuật về con người của Lưu Quang Vũ qua bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba:
++ Vì sực tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu và sửa sai không đúng của Đế Thích mà Trương Ba phải sống trong cảnh Hồn này, Xác nọ. Để rồi từ đó, Hồn Trương Ba đã bị xác hàng thịt điều khiển, lấn át, dụ dỗ, mỉa mai, cười cợt…
++ Qua cuộc đối thoại, thực chất là độc thoại nội tâm, nhà biên kịch khẳng định: trong một con người, thể xác và linh hồn cùng tồn tại. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi.
++Qua bi kịch tha hóa của Trương Ba, tác giả có lời cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì sớm hay muộn những phẩm chất tốt đẹp cũng sẽ bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá. Vì thế phải đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
- Bình luận quan niệm nghệ thuật về con người của 2 nhà văn
+ Con người sẽ đau khổ nếu rơi vào bi kịch bị tha hoá hoặc tha hoá. Tất cả đều do những kẻ thống trị, có quyền, có chức gây ra;
+ Tuy sống và sáng tác ở 2 thời kì lịch sử khác nhau, lựa chọn thể loại khác nhau… nhưng cả hai nhà văn đều có cái nhìn hiện thực về con người và triết lí nhân sinh sâu gắc: hãy cứu con người và đấu tranh triệt để nhằm chống lại cái ác, cái xấu trong bất cứ hoàn cảnh xã hội nào.
III.Kết bài:
Kết luận về bi kịch của 2 nhân vật trong 2 tác phẩm. Cảm nghĩ của bản thân về vấn đề đã nghị luận.
ĐỀ:
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Ðiêu ! Người thế mà điêu !
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Ðây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở! (Tiền nhiều lắm, tiếng Pháp phát âm theo lối nói bồi).
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:
- Chậc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...
( Trích Vợ nhặt, Kim Lân)
Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bốn bát bánh đúc trong đoạn trích trên. Từ đó liện hệ với chi tiết bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giao dục Việt: Nam, 2016) để bình luận ngắn gọn về giá trị của tình thương trong cuộc sống
GỢI Ý:
I.Mở bài:
- Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: chi tiết bốn bát bánh đúc trong đoạn trích cùng chi tiết bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao) đã minh chứng quan niệm của M. Gorki: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
II. Thân bài:
1. Khái quát truyện Vợ nhặt
– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).
-Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật chi tiết bốn bát bánh đúc trong đoạn trích
- Về nội dung:
+ Hoàn cảnh, tình huống xuất hiện chi tiết: Tràng là một anh nông dân nghèo sống ở xóm ngự cư. Trong nạn đói, anh làm thuê, kéo xe bò thóc cho liên đoàn lên tỉnh.Tràng gặp thị ở chợ tỉnh, cũng đang trong nạn đói. Lần thứ hai gặp lại, Tràng thấy thị “gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Sau những câu nói tầm phơ tầm phào, Tràng đã mời thị ăn. Tràng vỗ vỗ vào Túi: Rích bố cu. Thế là thị sà xuống ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng…”
+ Chi tiết bốn bát bánh đúc thể hiện số phận thảm thương, khốn cùng của nhân vật trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, nhân vật người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đó đó
++Vì cái đói, cái nghèo nên khi được Tràng mời ăn giầu, thị đã nói “Ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Thị đã “gợi ý” để được ăn. Lúc này cái đói, cái nghèo đang bám riết lấy thị nên cái điều đơn giản nhất và cũng lớn lao nhất với thị là có được miếng ăn.
++ Vì miếng ăn mà thị đánh mất sĩ diện của người con gái . Hành động“sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc” với động từ “sà” cho ta thấy thị thật đáng thương, tội nghiệp. Khi ranh giới giữa sự sống và cái chết trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 chỉ còn bằng sợi tóc thì sĩ diện đành phải gạt qua một bên.
++Thị theo không Tràng về làm vợ cũng chỉ vì cái đói, muốn chạy trốn cái đói và khao khát hạnh phúc.
+Hình ảnh bát bánh đúc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân:
++Vì sự sinh tồn nên thị “ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì”, ăn để sống ( chứ không phải sống để ăn).
++Hình ảnh bát bánh đúc thể hiện thể hiện vẻ đẹp của tình người ở nhân vật Tràng. Tràng tuy nghèo nhưng có một gia tài rất giàu- đó là trái tim nhân hậu, biết cưu mang đồng loại. Tràng đã giành giật sự sống cho người đàn bà nghèo khổ từ tay thần Chết;
++Bánh đúc nên duyên vợ chồng. Từ bát bát bánh đúc ấy mà thị thành vợ Tràng và sau này thị trở nên hiền thục, nữ tính sau khi làm vợ Tràng. Từ đó Tràng cũng có được hạnh phúc bất ngờ, sung sướng khi có vợ. Sau này tâm tính Tràng thay đổi, thấy mình nên người gắn bó, trưởng thành và có trách nhiệm với gia đình.
+ Đánh giá ý nghĩa tư tưởng của chi tiết:
++Qua chi tiết bát bánh đúc, nhà văn đã phản ánh hiện thực về nạn đói năm 1945, trong đó con người bị coi như cọng rơm cái rác, giá trị người phụ nữ trở nên rẻ mạt. Nhà văn gián tiếp tố cáo tội ác do bọn thực dân phát xít và phong kiến gây ra;
++ Qua chi tiết bát bánh đúc, tác giả thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: trong tận cùng của cái đói, cái chết, người nông dân Việt Nam vẫn thương yêu, cưu mang nhau, có niềm tin vào tương lai và sự sống bất diệt.
- Về nghệ thuật:
+Là chi tiết nhỏ nhưng quan trọng, góp phần thúc đẩy cốt truyện, nhất là tình huống truyện, khắc họa số phận, phẩm chất, tính cách của nhân vật.
+ Thể hiện được nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Kim Lân. Nhà văn thường viết về cuộc sống giản dị của người nông dân với tâm lí rất đời thường. Ông sử dụng ngôn ngữ nôm na, gần gũi trong cuộc sống hằng ngày.
3. Liên hệ với chi tiết bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giao dục Việt: Nam, 2016) để bình luận ngắn gọn về tình thương
+ Cả hai chi tiết đã phản ảnh vẻ đẹp tình người cao quý ở người nông dân
++ Chi tiết bát cháo hành của Thị Nở rất đơn sơ, giản dị, đời thường nhưng thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vô tư của thị khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi. Nó là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Nó còn là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí, gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến Chí ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống con người. Như vậy, bát cháo hành không những giúp Chí Phèo tỉnh rượu mà còn tỉnh ngộ, từ thế giới của con quỷ trở lại con người lương thiện.
++ Chi tiết bát bánh đúc mà nhân vật Tràng đã người đàn bà xa lạ cũng rất đơn sơ, bình thường về vật chất nhưng cao quý ở tấm lòng.
+ Cả 2 chi tiết đã làm nên 2 nhà văn lớn: Nam Cao và Kim Lân
++ Nam Cao là nhà văn lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Bát cháo hành là biểu tượng của tình thương và tình yêu mà thị Nở dành cho Chí Phèo. Nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng, bị cự tuyệt quyền làm người. Qua đó, người đọc nhận ra tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn: cảm thông với số phận con người khi bị lưu manh hoá, yêu thương, ca ngợi vẻ đẹp lương thiện, khát vọng được làm người, yêu và được yêu của họ nhưng cuối cùng đã rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Giọng văn của ông lạnh lùng nhưng chan chứa yêu thương. Ông đã khai thác được diễn biến tâm lí nhân vật phức tạp mà sâu sắc; ngôn ngữ đậm chất nông dân, giàu chất triết lí.
++ Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nông thôn Việt Nam trong văn học hiện đại. Bát bánh đúc của nhân vật Tràng là biểu tượng của tình nghĩa con người. Trong hoàn cảnh hết sức bi đát, họ vẫn yêu thương, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, khao khát sống và có niềm tin vào tương lai tươi sáng, hướng về cách mạng sau này. Như vậy, ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật dưới sự lãnh đạo của Đảng.
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 chi tiết trong 2 truyện. Cảm nghĩ của bản thân về 2 nhà văn.
Đề: Cảm nhận vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến ( Quang Dũng). Từ đó, liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 11), nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
Mở bài
– Giới thiệu Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
+ Là nghệ sĩ đa tài : làm thơ , viết văn , vẽ tranh , soạn nhạc.
+ Là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
+Hồn thơ : phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài ( Sơn Tây ) .
+Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng.
– Nêu vấn đề cần nghị luận.
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ và nêu nhận định chung:
-Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
- Chất lãng mạn và bi tráng đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của bài thơ, tập trung ở hình tượng người lính
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến
- Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng( đoạn 1), cái nền mĩ lệ, thơ mộng của thiên nhiên và cuộc sống Tây Bắc( đoạn 2), người lính xuất hiện với tư thế thật oai phong, dữ dội.
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :
+Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Tuy nhiên, họ ốm mà không yếu. Trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng;…
+Ẩn giấu sau cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
- Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
Nói về người lính cùng cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến nhà thơ nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
+Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
+Sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã – dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. Hình ảnh những người lính Tây Tiến thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa.
- Về nghệ thuật
+Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
+Thể thơ 7 chữ chắc khỏe mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.
+Thủ pháp đối lập, khắc họa hình tượng nhân vật
+ Dùng nhiều từ Hán Việt….
3. Liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
- Về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù Nam bộ, sống gắn bó với nhân dân miền Nam. Ông là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
+ Bài văn tế được viết trong thời kì lịch sử “khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc đêm 16.12.1861.
+Nét độc đáo của hình tượng người nông dân nghĩa sĩ:
++Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là người nông dân thuần phác, giản dị, quanh năm chỉ biết “ Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Họ tự nguyện đứng lên đánh giặc cứu nước. Trang bị vũ khí vô cùng thô sơ, kinh nghiệm trận mạc ít ỏi nhưng họ chiến đấu với tinh thần quả cảm và đã hi sinh anh dũng.
++Nghệ thuật khắc họa: Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc: giọng điệu trang trọng, bi thương, câu văn biền ngẫu có kết cấu đăng đối, ngôn ngữ giàu hình ảnh và sức biểu cảm với hệ thống các hình ảnh so sánh ví von, chi tiết chọn lọc đặc sắc…
- Hình tượng người lính Tây Tiến:
+ Hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến là những thanh niên, học sinh Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp rất hào hùng mà cũng rất hào hoa.
+Được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng…
-Nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm
+Điểm giống:
++ Đề tài: Hai tác phẩm cùng viết về những con người đã dám xả thân hi sinh vì đất nước
++Hình tượng các nhân vật mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
++Cảm hứng: trân trọng, ngợi ca
+Điểm khác:
++ Cùng viết về người lính nhưng với tài năng nghệ thuật riêng các nhà thơ, nhà văn đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính trong văn học và cho người đọc một bài học về sự sáng tạo.
++Với bài “ Văn tế…”, lần đầu tiên người nông dân áo vải bước vào văn học với tư cách là người lính, cùng với những tác phẩm khác cùng đề tài tạo nên vẻ đẹp của người lính trong văn học Trung đại. “ Tây tiến” chính là sự kế thừa và sáng tạo từ hình ảnh này.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình ảnh người lính;
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh hình ảnh người lính của mỗi tác giả
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng người lính trong 2 tác phẩm. Cảm nghĩ của bản thân về hình tượng.
ĐỀ:
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Cảm nhận vẻ đẹp đoạn thơ trên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Từ đó, liên hệ với đoạn thơ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Có chở trăng về kịp tối nay?
để nhận xét cái nhìn về thiên nhiên của mỗi nhà thơ.
Mở bài:
– Giới thiệu Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
– Nêu vấn đề cần nghị luận ( chép đầy đủ, chính xác đoạn thơ)
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ
-Bài thơ được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Khi đó, nhà thơ vừa rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại đơn vị khác đã nhớ và viết lên bài thơ này.
- Đoạn thơ thuộc phần hai khổ thứ hai của bài thơ với cảm hứng là nỗi nhớ về buổi chiều chia tay đi Châu Mộc
2. Cảm nhận vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến
*Về nội dung:
Nếu ở những câu thơ trước, Quang Dũng cho ta bước vào cảnh đêm liên hoan rực rỡ, vui tươi, thì đến với những câu thơ tiếp theo, tác giả lại cho ta thả tâm hồn mình vào cái mờ ảo, mênh mang của cảnh sông nước miền Tây:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
-Hình ảnh dòng sông lúc chiều xuống giăng mắc màn sương mờ ảo cho ta thấy nét đặc trưng của núi rừng nơi đây, tạo cảm giác bâng khuâng, man mác trong lòng người đọc.
- Không gian hoang vắng, tĩnh lặng có chút gì đó mơ hồ, phảng phất chút tâm linh của rừng núi. Điều này được thể hiện qua hình ảnh “hồn lau”. Những cây lau vô tri vô giác bỗng chốc trở nên có linh hồn. Những triền lau xám bạc phất phơ theo chiều gió đưa đẩy, qua cảm nhận của người ra đi có chất chứa nỗi lòng thật quyến luyến, như có hồn phảng phất trong gió trong cây.
Giữa thiên nhiên hoang vu, tĩnh lặng của núi rừng Tây Bắc chợt xuất hiện hình ảnh của con người với vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Độc mộc là một con thuyền làm bằng cây gỗ to khoét trũng dùng để vượt thác leo ghềnh. Chính vì hình ảnh đó, đã làm cho “dáng người” lại càng mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, cứng cáp. Dáng người ấy có thể là hình ảnh của những cô gái Thái Mèo đã từng đưa các chiến sĩ vượt sông. Hình ảnh ấy đã để lại cho tâm hồn nhạy cảm của những người lính một ấn tượng khó phai nhòa;
-Hòa vào khung cảnh nên thơ ấy là hình ảnh những cánh hoa rừng đong đưa trên dòng nước lũ, gợi cảm giác mềm mại, nhẹ nhàng làm cho lòng người thêm say đắm bâng khuâng.
- Đoạn thơ là một bức tranh hòa hợp giữa thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đồng thời, ta cũng có thể cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả và hơn cả là của những người lính Tây Tiến, dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời, tận hưởng từng khoảnh khắc đẹp của cuộc sống.
* Về nghệ thuật:
-Bút pháp lãng mạn, trữ tình
-Nghệ thuật miêu tả hết sức độc đáo
-Đoạn thơ có sự kết hợp giữa chất thơ, chất họa, chất nhạc.
3. Liên hệ đến đoạn thơ của Hàn Mạc Tử để nhận xét cái nhìn về thiên nhiên của mỗi nhà thơ
- Về đoạn thơ của Hàn Mạc Tử trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
+Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người … Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng, nhất là khổ thơ thứ hai.
+Hai câu đầu là một bức tranh phong cảnh với đủ cả gió mây sông nước. Câu thơ đầu Gió theo lối gió, mây đường mây không chỉ tả cảnh, từ hình ảnh đến giọng điệu thơ còn gợi lên một cảm giác buồn bã và hiu hắt. Nhịp ngắt 4/3 với những chữ gió, chữ mây riêng rẽ ở từng vế câu đã tạo ra cảm giác có một sự ngăn cách, chia lìa thật quyết liệt. Từ sự phi lí về hiện tượng tự nhiên, Hàn Mặc Tử đã thể hiện những hợp lí của tâm trạng trong cảnh ngộ của một con người gắn bó tha thiết với đời lại vĩnh viễn phải xa cách cuộc đời! Thiên nhiên đã nhuốm sắc màu của tâm trạng con người, hay đúng hơn, thiên nhiên chỉ là những hình ảnh được nhà thơ nhắc đến để gửi gắm tâm trạng và thể hiện cảnh ngộ của chính bản thân mình. Câu thơ thứ 2 miêu tả dòng sông Hương và hoa bắp ven bờ: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Phép nhân hoá trong hình ảnh dòng nước buồn thiu vừa làm hiện lên một dòng sông phẳng lặng như ngưng trệ, không trôi chảy, vừa gợi tả nỗi buồn. Hai câu thơ vẽ nên một không gian hoang vắng, chia lìa trong một thời gian như ngưng trệ, cảnh vật hờ hững, lạnh lẽo với con người. Bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm cảnh, thiên nhiên như đã không còn là đối tượng miêu tả mà trở thành phương tiện biểu hiện cõi lòng u ám, buồn bã khi con người trở về với cõi thực của bi kịch riêng mình trong hiện tại.
+ Hai câu sau: cảnh tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhoà, lạnh lẽo, như thực, như mơ... Trong thế giới của cõi mộng, trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, bến trở thành bến trăng, thuyền thành thuyền chở trăng và cả bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, nhoà mờ trong trăng... Hình ảnh sông trăng có thể hiểu là ánh trăng chan chứa trên dòng sông; cũng có thể hiểu là ánh trăng từ trên trời cao tuôn chảy thành dòng sông trăng lai láng khắp thế gian... Dù hiểu theo cách nào thì dòng sông Hương thực của xứ Huế cũng đã từ cõi thực chảy trôi vào cõi mộng. Hai câu thơ đựng trong đó ít nhất hai câu hỏi da diết, đau đáu về một cõi mơ đẹp huyền ảo, ngập tràn sắc trăng cứu rỗi vốn luôn xuất hiện trong thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử. Thi sĩ khao khát sống, khao khát yêu đời lại phải chia lìa, cách biệt với cuộc đời trong một thực tại nghiệt ngã nên ông chỉ còn cách miên man dõi theo bóng ai trong ánh trăng huyền ảo, bám víu vào cõi mộng để hình dung như được trở lại với đời. Cách diễn đạt phiếm chỉ trong câu hỏi thứ nhất “thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác thật tội nghiệp: dường như nhà thơ đang bị vây bọc trong một thế giới tăm tối, lạnh lẽo, chới với vọng hỏi một ai đó ở thế giới bên ngoài.
-Nhận xét cái nhìn về thiên nhiên của mỗi nhà thơ:
+ Nét giống nhau của cả 2 đoạn thơ là đều nói về những nét đẹp của thiên nhiên. Phong cảnh thiên nhiên được chính tâm hồn lãng mạn của các nhà thơ thể hiện nên rất sinh động, giàu sức gợi hình, gợi cảm.
+Nhưng với mỗi cảm xúc riêng, hoàn cảnh riêng của mỗi tác giả, nét đẹp thiên nhiên lại được thể hiện khác nhau:
++ Đối với Hàn Mặc Tử, cái nhìn thiên nhiên gợi cảm giác man mác buồn; cảnh vật tuy đẹp nhưng vẫn gợi sự u sầu, đau đớn. Bởi lẽ vì chính tâm trạng lúc này của Hàn Mạc Tử, khi đang phải chịu đựng những con đau của căn bệnh quái ác và hơn cả là phải đối diện với cái chết, nhà thơ của chúng ta lại trở nên đa sầu trước mọi cái nhìn cảnh vật.
++ Đối với nhà thơ Quang Dũng, cái nhìn thiên nhiên được thể hiện một cách đầy thơ mộng, trữ tình với một hồn thơ đầy tinh tế, nhạy cảm; tạo cho người đọc một cảm giác bâng khuâng, nao lòng trước cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Bằng chính cái tôi lãng mạn hào hoa của mình, nhà thơ muốn thể hiện sự quyến luyến, nhớ nhung khi phải chia tay thiên nhiên và con người Tây Bắc.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp thiên nhiên ở 2 đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về tình yêu thiên nhiên của các nhà thơ.
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Bản lĩnh là khi bạn dám nghĩ, dám làm và có thái độ sống tốt. Muốn có bản lĩnh bạn cũng phải kiên trì luyện tập. Chúng ta thường yêu thích những người có bản lĩnh sống. Bản lĩnh đúng nghĩa chỉ có được khi bạn biết đặt ra mục tiêu và phương pháp để đạt được mục tiêu đó. Nếu không có phương pháp thì cũng giống như bạn đang nhắm mắt chạy trên con đường có nhiều ổ gà. Cách thức ở đây cũng rất đơn giản. Đầu tiên, bạn phải xác định được hoàn cảnh và môi trường để bản lĩnh được thể hiện đúng lúc, đúng nơi, không tùy tiện. Thứ hai bạn phải chuẩn bị cho mình những tài sản bổ trợ như sự tự tin, ý chí, nghị lực, quyết tâm ... Điều thứ ba vô cùng quan trọng chính là khả năng của bạn. Đó là những kỹ năng đã được trau dồi cùng với vốn tri thức, trải nghiệm. Một người mạnh hay yếu quan trọng là tùy thuộc vào yếu tố này.
Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh. Khi xây dựng được bản lĩnh, bạn không chỉ thể hiện được bản thân mình mà còn được nhiều người thừa nhận và yêu mến hơn.”
Câu 1 (0,5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2 (0,5 điểm): Theo tác giả, thế nào là người bản lĩnh?
Câu 3 (1,0 điểm): Tại sao tác giả cho rằng “Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh”.
Câu 4 (1,0 điểm): Theo anh/chị, một người có bản lĩnh sống phải là người như thế nào?
II. LÀM VĂN: (7 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý kiến được gợi ra từ phần Đọc hiểu: Tuổi trẻ cần sống có bản lĩnh để dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách.
Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm:
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 121)
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Có một loại lực vô cùng mạnh mẽ, loại lực mà tới tận bây giờ khoa học cũng chưa thể tìm ra định nghĩa chính xác nào cho nó. Lực này bao gồm và chi phối mọi loại lực khác, thậm chí còn đứng sau vô vàn hiện tượng do vũ trụ vận hành mà chúng ta vẫn chưa thể lý giải. Đó chính là TÌNH YÊU.
Khi các nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ qua lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này. Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỷ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng chính là tình yêu.
Loại lực này giải thích mọi điều và thổi ý nghĩa vào cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ là do chúng ta vẫn duy trì nỗi sợ trước một thứ con người không thể nào hiểu và kiểm soát được.
Để giúp khái niệm tình yêu trở nên dễ hình dung hơn, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương. Chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng: tình yêu chính là năng lượng bất khả chiến bại, bởi nó là vô hạn.
Sau những thất bại liên tiếp của nhân loại trong nỗ lực điều khiển các nguồn lực của vũ trụ, đã đến lúc chúng ta phải nuôi dưỡng mình bằng một loại năng lượng khác…
Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.
Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.”
(Trích Thư của nhà Bác học Vật lí người Đức Albert Einstein gửi con gái)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra hai biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn:
“Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỷ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng chính là tình yêu.”
Câu 3. Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến “Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.”
Câu 4. Đoạn trích trên gửi tới anh/chị thông điệp gì ?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.”
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
(Trích Đất Nước-Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12-tập một, trang 119, 120 NXB GD)
Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của Hướng dẫn chấm và Đáp án – Biểu điểm để đánh giá tổng quát bài làm của học sinh. Do đặc trưng bộ môn nên giám khảo cần linh hoạt trong quá trình chấm, khuyến khích những bài viết sáng tạo.
Bài thi được chấm theo thang điểm 10, lấy đến 0,25; không làm tròn điểm.
Môn: Ngữ văn 12
I - ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
(1) Sáng nay tôi thức dậy với những lời trong một bài hát của ca sĩ Mick Jagger: “Ủy mị chẳng ích gì, chuyện trôi qua nhanh lắm”. Đúng như thế. Cuộc đời thực sự đang trôi nhanh lắm.
(2) Sao lại trì hoãn những việc có thể làm hôm nay cho những lúc rảnh rỗi trong tương lai xa xôi nào đó?Sao không đóng vai một con người vượt trội bây giờ mà lại dành điều đó vào một thời điểm khác mai sau? Sao lại chần chừ thụ hưởng những giờ phút tuyệt vời và chờ đến khi về già? Một ngày nọ tôi đọc cuốn sách về một phụ nữ trẻ suy tư về kế hoạch để dành tiền hưu. Cô nói: “Tôi muốn bảo đảm mình sẽ để dành thật nhiều tiền – như vậy tôi mới có thể vui sống vào cuối đời”. Tôi không nghĩ vậy. Tại sao phải chờ đến già mới hưởng thụ cuộc sống?
(3) Tôi không có ý nói rằng bạn nên bỏ qua tầm quan trọng của việc lên kế hoạch cho tương lai. Hãy biết nhìn xa và chuẩn bị cho suốt cuộc đời. Đó là sự quân bình. Hãy lên kế hoạch. Để dành tiền cho tuổi hưu. Hãy dự trù. Nhưng đồng thời cũng cần biết sống cho giây phút này. Sống thật đầy đủ.
(Trích Đời ngắn đừng ngủ dài – Robin Sharma, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ, 2017, tr.25 – 26)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (0.5 điểm)
Câu 2. Nêu tên một biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng trong đoạn (2). (0.5 điểm)
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về câu hỏi của tác giả: Tại sao phải chờ đến già mới hưởng thụ cuộc sống ? (1.0 điểm)
Câu 4. Theo anh/chị, việc lên kế hoạch cho tương lai có cần thiết với cuộc đời mỗi người không? Vì sao? (1.0 điểm)
II.LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1. (2.0 điểm) Từ thông điệp của đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về tác hại của thói quen trì hoãn công việc.
Câu 2. (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai chỉ nguyên là một hạt cát, một hạt bụi biển xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai. Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước dãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đâu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình (và vì trai chết nên cái bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy hạt đau, hạt xót. Tới một thời gian nào đó, hạt cát, khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai, đã trở thành lõi sáng của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.
(Trích Tờ hoa - Nguyễn Tuân)
Câu 1. Xác định nội dung của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Đặt tiêu đề cho đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 3. Từ “lẻn” trong câu “Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai” sử dụng biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng của việc sử dụng biện pháp tu từ đó? (1,0 điểm)
Câu 4. Từ đoạn văn trên, Anh/chị rút ra bài học gì trong cuộc sống? (1,0 điểm)
II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm) Từ ngữ liệu phần Đọc hiểu trên, Anh/ chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa quá trình khổ luyện của con người để thành công.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của Anh/chị về đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Sách Giáo khoa Ngữ văn 12, tập Một).
………………………….HẾT……………………………
Học sinh không được sử dụng tài liệu.
ĐÁP ÁN
Tổng điểm: 10,0
....................Hết....................
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm): Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
TỰ SỰ
Dù đục, dù trong con sông vẫn chảy
Dù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh
Dù người phàm tục hay kẻ tu hành
Đều phải sống từ những điều rất nhỏ.
Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó
Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?
Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng
Nếu tất cả đường đời đều trơn láng
Chắc gì ta đã nhận ra ta
Ai trong đời cũng có thể tiến xa
Nếu có khả năng tự mình đứng dậy.
Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy
Đâu chỉ dành cho một riêng ai.
(Lưu Quang Vũ)
Câu 1 ( 0,5 điểm): Xác định hai phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 2 (1,0 điểm): Chỉ ra hai biện pháp tu từ được sử dụng trong bốn câu thơ đầu và nêu tác dụng của chúng.
Câu 3 (0,5 điểm): Theo anh (chị) vì sao tác giả cho rằng:
" Nếu tất cả đường đời đều trơn láng
Chắc gì ta đã nhận ra ta”
Câu 4 (1,0 điểm): Anh (chị) hiểu thế nào về ý nghĩa hai câu thơ sau (trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng):
" Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm):
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý thơ nêu trong phần đọc – hiểu: “Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó - Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?”
Câu 2 (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12 tập 1, NXB Giáo dục, 2010)
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
“Không còn là cảnh báo, các chứng bệnh có liên quan đến việc sử dụng mạng xã hội đang ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Sự lệ thuộc quá nhiều vào Facebook, Youtube, Instagram hay Twitter đã khiến không ít cư dân mạng, trong đó phần lớn là những người trẻ quay cuồng trong "thế giới ảo" mà quên rằng cuộc sống thực tại mới chính là cuộc sống đúng nghĩa của mình.
Nhập viện vì "nghiện Facebook" đã trở thành một căn bệnh được các bác sĩ tại nhiều bệnh viện lớn trên cả nước xác nhận trong thời gian qua. Ðặc điểm chung của phần lớn người bệnh là thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên, ngại giao tiếp; biểu hiện cáu gắt khi không được tiếp xúc với Facebook; sức khỏe suy giảm…
Trước khi bị coi là "một chất gây nghiện", Facebook đã là môi trường cho nhiều phát ngôn, hành động bộc phát, không cẩn trọng, thiếu kiểm soát, thậm chí là hành vi phạm tội của một bộ phận thanh thiếu niên… Những thí dụ về tác hại xấu của Facebook với người dùng trẻ tuổi tại Việt Nam không hề hiếm. Gần đây, có thể kể đến sự việc 10 thanh niên tại tỉnh Phú Thọ mang hung khí chặn xe ô-tô đang lưu hành trên đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai để cướp tiền ngày 29-12-2017. Trong quá trình gây án, nhóm này không quên thực hiện video livestream (truyền trực tiếp) trên Facebook khoe "chiến tích". Với số tiền chiếm đoạt chỉ hơn 400.000 đồng cho thấy, dường như mục đích livestream của họ chỉ là thói háo danh trên mạng xã hội. Song bản án dành cho những thanh niên có tuổi đời chưa quá 20 nhận lại vì những phút giây bốc đồng của mình có thể sẽ không hề nhẹ... "Câu like" (lượt yêu thích) trên Facebook cũng được cho là nguyên nhân chính khiến một cô bé 13 tuổi tại Khánh Hòa đốt ngôi trường THCS mà mình đang học tập vào năm 2016...
Từ một dịch vụ liên lạc, nhưng vì lợi nhuận không ít trang mạng xã hội đã không ngần ngại biến khách hàng nhất là giới trẻ... trở thành những con nghiện mạng xã hội cùng những căn bệnh thần kinh khác, đồng thời trở thành mục tiêu của giới tội phạm và các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rõ rằng, mạng xã hội hoàn toàn không xấu, mà còn có nhiều mặt tích cực. Vấn đề là sử dụng mạng xã hội sao cho hiệu quả, có mục đích rõ ràng nhằm phục vụ công việc hoặc cuộc sống phong phú của chính mình chứ không phải trở nên lệ thuộc, bị thế giới "ảo" dắt mũi. Vì vậy, trước khi tính đến trách nhiệm của những dịch vụ truyền thông như Facebook hay Youtube, cư dân mạng, nhất là thế hệ trẻ phải biết tự bảo vệ mình trước những cám dỗ từ mạng xã hội.”
Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính trong văn bản? (0,5 đ)
Câu 2: Theo tác giả, những người mắc căn bệnh “nghiện Facebook” có đặc điểm chung như thế nào? (0,5 đ)
Câu 3: Vì sao nói Facebook cũng bị coi là “một chất gây nghiện”? (1,0 đ)
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với câu nói: “…dường như mục đích livestream của họ chỉ là thói háo danh trên mạng xã hội.” ? (1,0 đ)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
Từ nội dung của văn bản phần đọc - hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân trước hiện tượng một phần không nhỏ giới trẻ hiện nay “quay cuồng trong thế giới ảo”.
Câu 2: (5,0 điểm)
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Aó bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
DUYỆT BAN GIÁM HIỆU
TÀI LIỆU ÔN THI THPT LỚP 12
NHÓM NGỮ VĂN
CỤM SINH HOẠT CHUYÊN MÔN SỐ 8
NHÓM NGỮ VĂN
CỤM SINH HOẠT CHUYÊN MÔN SỐ 8
CHUYÊN ĐỀ 1: ĐỌC - HIỂU
I. Giới thiệu chung về phần đọc hiểu
1. Cấu trúc phần đọc hiểu trong đề thi THPT Quốc gia
- Phần thi Đọc hiểu là phần thi bắt buộc trong đề thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn, chiếm 3/10 điểm toàn bài và có 1 phần đọc cùng 4 câu hỏi, đây là phần kiểm tra năng lực đọc hiểu của học sinh: năng lực tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản.
- Cấu trúc của một đề bài kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu:
Phần 1: Đưa ra một văn bản (văn bản văn học hoặc văn bản nhật dụng, văn xuôi hoặc thơ, có thể là một văn bản hoàn chỉnh hoặc một đoạn trích…)
Phần 2: Đưa ra các câu hỏi theo các mức độ nhận thức từ thấp đến cao: từ nhận biết -> thông
hiểu -> vận dụng:
+ Câu hỏi nhận biết thường yêu cầu chỉ ra các phương thức biểu đạt, phong cách chức năng ngôn ngữ, các hình thức ngôn ngữ, biện pháp tu từ, thao tác lập luận, kiểu liên kết hay các lỗi diễn đạt … trong văn bản.
+ Câu hỏi thông hiểu thường yêu cầu thí sinh xác định nội dung, chủ đề, bố cục văn bản, đặt nhan đề văn bản, nêu tác dụng của các phép tu từ hay việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, sử dụng từ ngữ … trong văn bản.
+ Câu hỏi vận dụng thường là dạng câu hỏi bày tỏ quan điểm thái độ hoặc liên hệ thực tế đời sống (liên hệ hiện tượng nào và đưa ra giải pháp).
2. Phạm vi của phần đọc – hiểu
- Văn bản văn học (Văn bản nghệ thuật):
+ Văn bản trong chương trình (Nghiêng nhiều về các văn bản đọc thêm).
+ Văn bản ngoài chương trình (Các văn bản cùng loại với các văn bản được học trong chương trình).
- Văn bản nhật dụng (Loại văn bản có nội dung gần gũi, bức thiết đối với cuộc sống trước mắt của con người và cộng đồng trong xã hội hiện đại như: Vấn dề chủ quyền biển đảo, thiên nhiên, môi trường, năng lượng, dân số, quyền trẻ em, ma tuý, …Văn bản nhật dụng có thể dùng tất cả các thể loại cũng như các kiểu văn bản song có thể nghiêng nhiều về loại văn bản nghị luận và văn bản báo chí).
- Dung lượng vừa phải, số lượng câu phức và câu đơn hợp lý, không có nhiều từ địa phương, cân đối giữa nghĩa đen và nghĩa bóng.
3. Các bước làm bài đọc hiểu
a. Đọc thật kỹ đoạn trích
- Cần đọc nhiều lần để hiểu từng câu, từng từ, hiểu nội dung, ý nghĩa đoạn trích.
- Xác định xem văn bản gồm bao nhiêu đoạn, bao nhiêu câu.
b. Gạch những từ ngữ quan trọng và phân tích (Câu hỏi)
- Xác định số câu hỏi, số vế trong từng câu hỏi, mức điểm từng câu, từng vế.
- Gạch chân các từ ngữ quan trọng, câu quan trọng. Việc làm này giúp các em lí giải được yêu cầu của dề bài và xác định hướng đi đúng cho bài làm, tránh lan man, lạc đề.
- Phân tích sự liên quan của các câu hỏi vì có thể có sự gợi ý trả lời trong câu sau cho câu trước.
c. Trả lời
- Tách bạch các câu, các ý.
- Chọn từ ngữ chính xác để diễn đạt, viết câu rõ ràng,ngắn gọn, dễ hiểu.
d. Đọc lại
- Sửa chữa chuẩn xác từng câu trả lời. Không bỏ trống câu nào, dòng nào.
* Một số lưu ý trong quá trình làm bài:
- Chỉ dùng thời gian khoảng 20-30 phút làm câu hỏi đọc hiểu.
- Nên trả lời trực tiếp vào câu hỏi, theo kiểu “hỏi gì đáp nấy”.
- Diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu.
II. Kiến thức
1. Phong cách chức năng ngôn ngữ
a. Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
- Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, thuộc hoàn cảnh giao tiếp không mang tính nghi thức. Giao tiếp ở đây thường với tư cách cá nhân nhằm để trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người thân, bạn bè,…
- Đặc trưng:
+ Tính cụ thể: Cụ thể về không gian, thời gian, hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, nộii dung và cách thức giao tiếp…
+ Tính cảm xúc: Cảm xúc của người nói thể hiện qua giọng điệu, các trợ từ, thán từ, sử dụng kiểu câu linh hoạt,..
+ Tính cá thể: là những nét riêng về giọng nói, cách nói năng => Qua đó ta có thể thấy được đặc điểm của người nói về giới tính, tuổi tác, tính cách, sở thích, nghề nghiệp,…
*Lưu ý cách nhận biết : Trong đề đọc hiểu, nếu đề bài trích đoạn hội thoại, có lời đối đáp của các nhân vật, hoặc trích đoạn một bức thư, nhật kí, thì văn bản đó thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
b. Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
- Là phong cách được dùng trong sáng tác văn chương.
- Đặc trưng:
+ Tính hình tượng: Xây dựng hình tượng chủ yếu bằng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, hoán dụ, điệp…
+ Tính truyền cảm: ngôn ngữ của người nói, người viết có khả năng gây cảm xúc, ấn tượng mạnh với người nghe, người đọc.
+ Tính cá thể: Là dấu ấn riêng của mỗi người, lặp đi lặp lại nhiều lần qua trang viết, tạo thành phong cách nghệ thuật riêng. Tính cá thể hóa của ngôn ngữ còn thể hiện trong lời nói của nhân vật trong tác phẩm.
*Lưu ý cách nhận biết: Trong đề đọc hiểu, nếu thấy trích đoạn nằm trong một bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tuỳ bút, ca dao,… và các tác phẩm văn học nói chung thì văn bản đó thuộc phong cách ngôn ngữ nghệ thật.
c. Phong cách ngôn ngữ chính luận
- Là phong cách được dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội.
- Đặc trưng:
+ Tính công khai về quan điểm chính trị: Văn bản chính luận phải thể hiện rõ quan điểm của người nói/ viết về những vấn đề thời sự trong cuộc sống, không che giấu, úp mở. Vì vậy, từ ngữ phải được cân nhắc kĩ càng, tránh dùng từ ngữ mơ hồ; câu văn mạch lạc, tránh viết câu phức tạp, nhiều ý gây những cách hiểu sai.
+ Tính chặt chẽ trong diễn đạt và suy luận: Văn bản chính luận có hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, mạch lạc và sử dụng từ ngữ liên kết rất chặt chẽ: vì thế, bởi vây, do đó, tuy… nhưng…, để, mà,….
+ Tính truyền cảm, thuyết phục: Thể hiện ở lí lẽ đưa ra, giọng văn hùng hồn, tha thiết, bộc lộ nhiệt tình của người viết.
*Lưu ý cách nhận biết : Cách nhận biết ngôn ngữ chính luận trong đề đọc hiểu :
- Nội dung liên quan đến những sự kiện, những vấn đề về chính trị, xã hội, văn hóa, tư tưởng,…
- Có quan điểm của người nói/ người viết
- Dùng nhiều từ ngữ chính trị
- Được trích dẫn trong các văn bản chính luận ở SGK hoặc lời lời phát biểu của các nguyên thủ quốc gia trong hội nghị, hội thảo, nói chuyện thời sự , …
d. Phong cách ngôn ngữ khoa học
- Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là các VBKH.
- Đặc trưng phong cách ngôn ngữ khoa học:
+ Tính khái quát, trừu tượng: ngôn ngữ khoa học dùng nhiều thuật ngữ khoa học, kết cấu văn bản mang tính khái quát (các luận điểm khoa học trình bày từ lớn đến nhỏ, từ cao đến thấp, từ khái quát đến cụ thể).
+ Tính lí trí, logic: từ ngữ: chỉ dùng với một nghĩa, không dùng các biện pháp tu từ, câu văn: chặt chẽ, mạch lạc, là một đơn vị thông tin, cú pháp chuẩn, kết cấu văn bản: câu văn liên kết chặt chẽ và mạch lạc.
- Tính khách quan, phi cá thể: câu văn trong văn bản khoa học: có sắc thái trung hoà, ít cảm xúc, ít có những biểu đạt có tính chất cá nhân.
*Lưu ý cách nhận biết : nhận biết dựa vào những đặc điểm về nội dung, từ ngữ, câu văn, cách trình bày,…
e. Phong cách ngôn ngữ báo chí
- Là ngôn ngữ báo chí được dùng ở những thể loại tiêu biểu là bản tin, phóng sự, tiểu phẩm,… Ngoài ra còn có quảng cáo, bình luận thời sự, thư bạn đọc,… Mỗi thể loại có yêu cầu riêng về sử dụng ngôn ngữ.
- Đặc trưng của PCNN báo chí:
+ Tính thông tin thời sự: thông tin nóng hổi, chính xác về địa điểm, thời gian, nhân vật, sự kiện,…
+ Tính ngắn gọn: lời văn ngắn gọn nhưng lượng thông tin cao. Phóng sự thường dài hơn nhưng cũng không quá 3 trang báo và thường có tóm tắt, in đậm đầu bài báo để dẫn dắt.
+ Tính sinh động, hấp dẫn: các dùng từ, đặt câu, đặt tiêu đề phải kích thích sự tò mò của người đọc.
*Lưu ý cách nhận biết :
- Văn bản báo chí rất dễ nhận biết khi đề bài trích dẫn một bản tin trên báo, và ghi rõ nguồn bài viết ( ở báo nào? ngày nào?).
- Nhận biết bản tin và phóng sự : có thời gian, sự kiện, nhân vật, những thông tin trong văn bản có tính thời sự.
g. Phong cách ngôn ngữ hành chính
- Ngôn ngữ hành chính là ngôn ngữ được dùng trong các VBHC.
- Đặc trưng PCNN hành chính: tính khuôn mẫu, tính minh xác, tính công vụ.
*Lưu ý cách nhận biết : Nhận biết văn bản hành chính rất đơn giản : chỉ cần bám sát hai dấu hiệu mở đầu và kết thúc: có phần tiêu ngữ ở đầu văn bản, có chữ kí hoặc dấu đỏ của các cơ quan chức năng ở cuối văn bản.
* Đề thi THPTQG phần Đọc hiểu rất ít khi trích đoạn văn bản hành chính, chủ yếu 5 phong cách ngôn ngữ trên.
2. Các phương thức biểu đạt
a. Tự sự: là dùng ngôn ngữ để kể một chuỗi sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng tạo thành một kết thúc. Ngoài ra, người ta không chỉ chú trọng đến kể việc mà còn quan tâm đến việc khắc hoạ tính cách nhân vật và nêu lên những nhận thức sâu sắc, mới mẻ về bản chất của con người và cuộc sống.
* Cách nhận biết phương thức tự sự: có cốt truyện, có nhân vật, có diễn biến sự việc, có những câu văn trần thuật.
b. Miêu tả: là dùng ngôn ngữ làm cho người nghe, người đọc có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc như đang hiện ra trước mắt hoặc nhận biết được thế giới nội tâm của con người.
* Cách nhận biết phương thức miêu tả : Có các câu văn, câu thơ tái hiện lại hình dáng, diện mạo, màu sắc,… của người và sự vật ( tả người, tả cảnh, tả tình).
c. Biểu cảm: là một nhu cầu của con người trong cuộc sống bởi trong thực tế sống luôn có những điều khiến ta rung động (cảm) và muốn bộc lộ (biểu) ra với một hay nhiều người khác. PT biểu cảm là dùng ngôn ngữ để bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình về thế giới xung quanh.
* Cách nhận biết phương thức biểu cảm : có các câu văn, câu thơ miêu tả cảm xúc, thái độ của người viết hoặc của nhân vật trữ tình.
d. Thuyết minh: là cung cấp, giới thiệu, giảng giải,,…những tri thức về một sự vật, hiện tượng nào đó cho những người cần biết nhưng còn chưa biết.
e. Nghị luận: là phương thức chủ yếu được dùng để bàn bạc phải trái, đúng sai nhằm bộc lộ rõ chủ kiến, thái độ của người nói, người viết rồi dẫn dắt, thuyết phục người khác đồng tình với ý kiến của mình.
* Cách nhận biết phương thức nghị luận : Có vấn đề bàn luận, có quan điểm của người viết
g. Hành chính – công vụ: là phương thức dùng để giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước, giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác trên cơ sở pháp lí.
* Phương thức hành chính công vụ thường ít xuất hiện trong đề đọc hiểu.
3. Phép tu từ và tác dụng
a. Nhận biết các phép tu từ:
* Các biện pháp tu từ ngữ âm: điệp âm (điệp phụ âm đầu, điệp vần , điệp thanh), hài âm, hài thanh, tạo nhịp điệu, tạo âm hưởng...
Biện pháp điệp âm
- Điệp âm là biện pháp cố ý lặp lại một số yếu tố ngữ âm nào đó (phụ âm đầu, vần hoặc thanh) để tạo ra sự cộng hưởng ý nghĩa, có tác dụng tô đậm thêm hình tượng hoặc xúc cảm, gợi liên tưởng, đồng thời giúp cho lời văn, lời thơ thêm nhạc tính:
+ Điệp phụ âm đầu
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên
+ Điệp vần
Lá bàng đang đỏ ngọn cây
Sếu mang giang lạnh đang bay ngang trời
+ Điệp thanh
Mục đích thi đua ái quốc là gì ?
Diệt giặc đói khổ,
Diệt giặc dốt nát,
Diệt giặc ngoại xâm
Biện pháp hài âm
- Hài âm là biện pháp tu từ ngữ âm, trong ñó người ta cố ý sử dụng một cách tổng hợp các biện pháp tu từ ngữ âm nhằm tạo nên một sự phù hợp giữa hiệu quả biểu cảm – cảm xúc của hình tượng âm thanh với nội dung biểu cảm của câu thơ.
- Biện pháp hài âm chú ý đến sự hài hoà các mặt đối lập của âm tiết như : mở /đóng, cao /thấp, ngắn/dài, mạnh /yếu, trầm/bổng, ở những vị trí nhất định để tạo âm hưởng (điểm nhấn thường là những âm tiết đứng ở cuối câu). Tính chất hài hoà này không chỉ thể hiện ở những câu thơ, lời văn riêng lẻ mà nó còn góp phần tạo ra đặc trưng về giọng ñiệu cho cả đoạn, cả bài.
Ví dụ:
Đời Trần, quân Nguyên đánh đâu được đấy, đánh được nước Tàu và nửa châu Âu, thế mà ba lần bị ông Trần Hưng Đạo đánh tan. Bình dân như ông Lê Lợi và ông Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân Tàu làm cho nước ta độc lập. Người già như ông Lí Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh đông dẹp bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc cứu dân.
Biện pháp hài thanh
- Hài thanh là biện pháp tu từ ngữ âm nhằm hài hoà các mặt đối lập về thanhđiệu: cao/thấp; gãy /không gãy, tức là ñối lập âm vực và đường nét thanh điệu.
- Biện pháp hài thanh chủ yếu phát huy tác dụng trong những tác phẩm thơ bởi thơ ca tiếng Việt luôn chú ý đến tính nhạc, có thể xem đây là một trong những tiêu chí quan trọng để góp phần làm nên một bài thơ hay, nhất là những bài thơ được quy định bởi tính chất niêm luật chặt chẽ về cả vần và điệu.
Ví dụ: Gió sao là lạ. Mây khang khác
Không hiểu hay là nhịp cuối năm
Hôm qua thì tiếc.Mai thì sợ
Tuột cương. Trăng cũ lại trăng rằm ! (Cuối năm – Hữu Thỉnh)
Biện pháp tạo nhịp điệu
- Tạo nhịp điệu là biện pháp tu từ ngữ âm ñược dùng chủ yếu trong văn xuôi chính luận, trong đó người ta cốt tạo nên một âm hưởng hấp dẫn bằng những hình thức cân đối, nhịp nhàng của lời văn, nhằm làm cho lí luận có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Ví dụ: Bất kì đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc, ai cũng phải ra
sức chống thực dân cứu nước. (Hồ Chí minh)
Biện pháp tạo âm hưởng
- Biện pháp tạo âm hưởng là biện pháp tu từ ngữ âm được dùng chủ yếu trong văn xuôi nghệ thuật, trong đó người ta phối hợp âm thanh, nhịp điệu của câu văn không phải chỉ cốt tạo ra một sự cân đối, nhịp nhàng, uyển chuyển, êm ái, du dương, mà cao hơn thế, phải tạo ra một âm hưởng hoà quyện với nội dung hình tượng của câu văn.
* Các biện pháp tu từ từ vựng: So sánh, ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ, ngoa dụ, nói giảm, nhân hoá, vật hóa, điệp ngữ, uyển ngữ, nhã ngữ, chơi chữ...
Biệp pháp tu từ so sánh
- So sánh là đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc mà giữa chúng có những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời văn.
- Cấu tạo của biện pháp so sánh: A là B, A như B, Bao nhiêu…. bấy nhiêu….
Trong đó:
+ A – sự vật, sự việc được so sánh
+ B – sự vật, sự việc dùng để so sánh
+ “Là” “Như” “Bao nhiêu…bấy nhiêu” là từ ngữ so sánh, cũng có khi bị ẩn đi.
Ví dụ:“Nước biếc trông như làn khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào” (Thu vịnh – Nguyễn Khuyến)
Biện pháp tu từ nhân hóa
- Nhân hóa là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ chỉ hoạt động, tính cách, suy nghĩ, tên gọi ... vốn chỉ dành cho con người để miêu tả đồ vật, sự vật, con vật, cây cối khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi, có hồn hơn.
Ví dụ:“Heo hút cồn mây súng ngửi trời” (Tây Tiến – Quang Dũng)
Biện pháp tu từ ẩn dụ
- Ẩn dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ “Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Biện pháp tu từ hoán dụ
- Hoán dụ là BPTT gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm này bằng tên của một sự vật, hiện
tượng khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
Ví dụ “Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” (Việt Bắc - Tố Hữu)
Biện pháp tu từ nói quá/phóng đại/thậm xưng/khoa trương
- Nói quá là phép tu từ phóng đại mức độ, quy mô, tính chất của sự vật, hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu cảm.
Ví dụ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” (Việt Bắc - Tố Hữu)
Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh
- Nói giảm nói tránh là một biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, nhằm tránh gây cảm giác quá đau buồn, ghê sợ, nặng nề; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Ví dụ:“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!” (Bác ơi – Tố Hữu)
Biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ
- Là BPTT nhắc đi nhắc lại nhiều lần một từ, cụm từ có dụng ý làm tăng cường hiệu quả diễn đạt: nhấm mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, cảm xúc… và tạo nhịp điệu cho câu/ đoạn văn bản.
Ví dụ: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
(Cây tre Việt Nam – Thép Mới)
Biện pháp tu từ chơi chữ
– Chơi chữ là BPTT lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm, hài hước,…. làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
Ví dụ: “Bà già đi chợ cầu đông
Xem một que bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”(Ca dao)
Biện pháp tu từ liệt kê
- Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả đầy đủ, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm.
Ví dụ: “Tỉnh lại em ơi, qua rồi cơn ác mộng
Em đã sống lại rồi, em đã sống!
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng!” (Người con gái anh hùng – Trần Thị Lý)
Biện pháp tu từ tương phản
- Là cách sử dụng từ ngữ đối lập, trái ngược nhau để tăng hiệu quả diễn đạt.
Ví dụ:“O du kích nhỏ giương cao sung
Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu
Ra thế, to gan hơn béo bụng
Anh hùng đâu cứ phải mày râu” (Tố Hữu)
*Các biện pháp tu từ cú pháp thường gặp: đảo ngữ, lặp cấu trúc, chêm xen, câu hỏi tu từ,
phép đối…
Biện pháp tu từ đảo ngữ
- Đảo ngữ là biện pháp tu từ thay đổi trật tự cấu tạo ngữ pháp thông thường của câu, nhằm nhấn mạnh ý, nhấn mạnh đặc điểm của đối tượng và làm câu thơ, câu văn thêm sinh động, gợi cảm, hài hòa về âm thanh,…
- Ví dụ:
“Lom khom dưới núi: tiều vài chú
Lác đác bên sông: chợ mấy nhà” (Qua Đèo Ngang – Bà huyện Thanh Quan)
=> Tô đậm cảm giác hoang vắng, cô liêu...
Biện pháp tu từ lặp cấu trúc
- Là biện pháp tu từ tạo ra những câu văn đi liền nhau trong văn bản với cùng một kết cấu nhằm nhấn mạnh ý và tạo sự nhịp nhàng, cân đối cho văn bản
- Ví dụ: “Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
=> Khẳng định chủ quyền dân tộc, bộc lộ niềm tự hào, vui sướng,….
Biện pháp tu từ chêm xen
- Là chêm vào câu một cụm từ không trực tiếp có quan hệ đến quan hệ ngữ pháp trong câu, nhưng có tác dụng rõ rệt để bổ sung thông tin cần thiết hay bộc lộ cảm xúc. Thường đứng sau dấy gạch nối hoặc trong ngoặc đơn.
Ví dụ “Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích!
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)” (Quê hương – Giang Nam)
=> Bộc lộ tình cảm, cảm xúc: ngạc nhiên, xúc động, yêu mến,… một cách kín đáo.
Câu hỏi tu từ
- Là đặt câu hỏi nhưng không đòi hỏi câu trả lời mà nhằm nhấn mạnh một ý nghĩa khác.
“Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”
(Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
=> Nhấn mạnh cảnh ngộ mất mát, chia lìa, hoang tàn của quê hương trong chiến tranh.
Phép đối
- Là cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các thành phần câu, vế câu song song, cân đối trong lời nói nhằm tạo hiệu quả diễn đạt: nhấn mạnh, gợi liên tưởng, gợi hình ảnh sinh động, tạo nhịp điệu cho lời nói.
Ví dụ “Ta/ dại /ta/ tìm/ nơi/ vắng vẻ
Người/ khôn/ người/ đến/ chốn/ lao xao” (Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm)
b. Các biện pháp tu từ có tác dụng:
- Làm rõ đối tượng nói đến,
- Tăng thêm gợi cảm, gợi hình ảnh, âm thanh, màu sắc, làm đối tượng hấp dẫn, sâu sắc.
4. Các thể thơ:
Để phân biệt được các thể thơ, xác định được đúng thể loại, hiểu luật thơ: những quy tắc
về số câu, số tiếng, cách hiệp vần, phép hài thanh, ngắt nhịp … Căn cứ vaò luật thơ,
người ta phân chia các thể thơ Việt Nam ra thành 3 nhóm chính:
- Các thể thơ dân tộc: lục bát, song thất lục bát, hát nói;
- Các thể thơ Đường luật: ngũ ngôn, thất ngôn;
- Các thể thơ hiện đại: năm tiếng, bảy tiếng, tám tiếng, hỗn hợp, tự do, thơ - văn xuôi,…
5. Các thao tác lập luận:
a. Thao tác lập luận giải thích:
- Là cắt nghĩa một sự vật, hiện tượng, khái niệm để người khác hiểu rõ, hiểu đúng vấn đề.
- Giải thích trong văn nghị luận là làm cho người đọc hiểu rõ được tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm.
- Cách giải thích: Tìm đủ lí lẽ để giảng giải, cắt nghĩa vấn đề đó. Đặt ra hệ thống câu hỏi để trả lời.
b. Thao tác lập luận phân tích:
- Là cách chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận để đi sâu xem xét một cách toàn diện về nội dung, hình thức của đối tượng.
- Cách phân tích: Chia tách đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận theo những tiêu chí, quan hệ nhất định.
c. Thao tác lập luận chứng minh:
- Dùng những bằng chứng chân thực, đã được thừa nhận để chứng tỏ đối tượng.
- Cách chứng minh: Xác định vấn đè chứng minh để tìm nguồn dẫn chứng phù hợp. Dẫn chứng phải phong phú, tiêu biểu, toàn diện sát hợp với vấn đề cần chứng minh, sắp xếp dẫn chứng phải lô gic, chặt chẽ và hợp lí.
d. Thao tác lập luận so sánh:
- Làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong mối tương quan với đối tượng khác.
- Cách so sánh: Đặt đối tượng vào cùng một bình diện, đánh giá trên cùng một tiêu chí, nêu rõ quan điểm, ý kiến của người viết.
e. Thao tác lập luận bình luận:
- Bình luận là bàn bạc, nhận xét, đánh giá về một vấn đề .
- Cách bình luận: Trình bày rõ ràng, trung thực vấn đề được bình luận, đề xuất và chứng tỏ được ý kiến nhận định, đánh giá là xác đáng. Thể hiện rõ chủ kiến của mình.
g. Thao tác lập luận bác bỏ:
- Là cách trao đổi, tranh luận để bác bỏ ý kiến được cho là sai .
- Cách bác bỏ: Nêu ý kiến sai trái, sau đó phân tích, bác bỏ, khẳng định ý kiến đúng; nêu từng phần ý kiến sai rồi bác bỏ theo cách cuốn chiếu từng phần.
6. Xác định nhan đề, câu chủ đề văn bản
- Xác định nhan đề: Nhan đề của văn bản thường nằm ở những từ ngữ, những câu lặp đi, lặp lại nhiều lần trong văn bản.
- Xác định câu chủ đề: Nếu là đoạn văn trình bày theo cách diễn dịch thì câu chủ đề thường ở đầu đoạn, nếu là đoạn văn trình bày theo cách quy nạp thì câu chủ đề nằm ở cuối đoạn. Còn đoạn văn trình bày theo cách móc xích hay song hành thì câu chủ đề là câu có tính chất khái quát nhất, khái quát toàn đoạn. Câu đó có thể nằm bất cứ vị trí nào trong đoạn văn.
7. Xác định nội dung chính của văn bản
-Muốn xác định được nội dung của văn bản: căn cứ vào nhan đề, câu chủ đề của văn bản, những hình ảnh đặc sắc, câu văn, câu thơ được nhắc đến nhiều lần. Đây có thể là những từ khóa chứa đựng nội dung chính của văn bản.
8. Xác định từ ngữ, hình ảnh biểu đạt nội dung cụ thể trong văn bản
-Phần này trong đề thi thường yêu cầu chỉ ra một từ ngữ, một hình ảnh, một câu nào đó có sẵn trong văn bản. Sau khi chỉ ra được có thể lý giải phân tích vì sao lại như vậy.
- Vì thế cần đọc kĩ đề, khi lý giải phải bám sát vào văn bản. Phần này phụ thuộc nhiều vào khả năng cảm thụ thơ văn của mỗi bản thân học sinh.
9. Yêu cầu giải thích, thông hiểu, đồng ý, không đồng ý về một, một vài câu được trích từ của văn bản
-Trong đề đọc hiểu phần câu hỏi này thường là câu cuối cùng. Sau khi đã nghiên cứu, tìm hiểu và trả lời các câu trên, đến câu này là câu có tính chất liên hệ mở rộng. Nó thuộc câu hỏi vận dụng.
* Ngoài ra, đề Đọc hiểu còn yêu cầu nhận diện các phương thức trần thuật, các phép liên kết câu trong văn bản, hình thức trình bày/kết cấu đoạn văn,…
CHUYÊN ĐỀ 2: NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
- Với sự thay đổi cấu trúc đề thi THPT Quốc gia năm 2017, dạng câu hỏi Nghị luận xã hội thường chiếm 20% số điểm với yêu cầu khoảng 200 từ (tương ứng khoảng 20 dòng), cụ thể, phần nghị luận xã hội sẽ lấy một ý nhỏ trong bài đọc hiểu để làm đề thi viết đoạn văn. Để làm được câu này, trước hết cần phải đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được cốt lõi nội dung, từ đó xem đề nghị luận 200 từ họ yêu cầu bàn về vấn đề gì? Nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc về Tư tưởng đạo lý hay Hiện tượng đời sống.
- Có nhiều cách hỏi theo dạng tích hợp với văn bản đọc hiểu: Từ chủ đề của văn bản, trình bày ý kiến liên quan đến chủ đề đó; hoặc trích một vài câu của văn bản và yêu cầu triển khai thành đoạn văn; hoặc yêu cầu đưa thêm những ý kiến của người viết ngoài quan điểm, chính kiến của tác giả văn bản…
- Do đó, để có được một bài viết hay – ngắn gọn – cô đọng – súc tích đòi hỏi cần có những kiến thức và kĩ năng cơ bản sau đây:
I. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ
1. Nội dung: xoay quanh một số vấn đề sau:
-Vấn đề nhận thức: lí tưởng, mục đích sống, nghề nghiệp, ước mơ…
- Vấn đề về đạo đức, tâm hồn, tính cách: lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ
lượng; tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn; thói ích kỉ, ba
hoa, vụ lợi…
-Vấn đề về các quan hệ gia đình: tình mẫu tử, tình phụ tử, tình anh em…
-Vấn đề về các quan hệ xã hội: tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn…
- Vấn đề về cách ứng xử, đối nhân xử thế của con người trong cuộc sống.
2. Cách làm bài
a. Mở bài:
- Dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận.
- Nêu vấn đề cần nghị luận ra ( trích dẫn).
- Phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận (có tính chuyển ý).
b. Thân bài:
* Bước 1: Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận
Tùy theo yêu cầu đề bài có thể có những cách giải thích khác nhau:
– Giải thích khái niệm, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.
Giải thích nghĩa đen của từ ngữ, rồi suy luận ra nghĩa bóng, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa,
nội dung vấn đề.
– Giải thích mệnh đề, hình ảnh trong câu nói, trên cơ sở đó xác định nội dung, ý nghĩa của vấn đề mà câu nói đề cập.
* Lưu ý: Tránh sa vào cắt nghĩa từ ngữ ( theo nghĩa từ vựng).
* Bước 2: Phân tích và chứng minh những mặt đúng của tư tưởng, đạo lí cần bàn luận (…)
Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để làm sáng tỏ tới cùng bản chất của vấn đề. Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? (Vì sao?) Vấn đề được biểu hiện như thế nào? Có thể lấy những dẫn chứng nào làm sáng tỏ?
* Bước 3: Bình luận, đánh giá (bàn bạc, mở rộng, đề xuất ý kiến…):
- Đánh giá vấn đề: Nêu ý nghĩa của vấn đề, mức độ đúng – sai, đóng góp – hạn chế của vấn đề.
- Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang bàn luận.
- Mở rộng vấn đề
* Bước 4: Rút bài học nhận thức và hành động
- Từ sự đánh giá trên, rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như trong tư tưởng, tình cảm, …( Thực chất trả lời câu hỏi: từ vấn đề bàn luận, hiểu ra điều gì? Nhận ra vấn đề gì có ý nghĩa đối với tâm hồn, lối sống bản thân?…)
- Bài học hành động – Đề xuất phương châm đúng đắn, phương hướng hành động cụ thể
( Thực chất trả lời câu hỏi: Phải làm gì? …)
c. Kết bài:
- Khẳng định chung về tư tưởng, đạo lí đã bàn luận ở thân bài.
- Lời nhắn gửi đến mọi người.
II. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
1. Nội dung
Kiểu bài nghị luận về hiện tượng đời sống thường đề cập đến những hiện tượng nổi bật, tạo được sự chú ý và có tác động đến đời sống xã hội như:
+ Ô nhiễm môi trường, sự nóng lên của trái đất, nạn phá rừng, thiên tai lũ lụt…
+ Bạo hành gia đình, Bạo lực học đường, tai nạn giao thông…
+ Tiêu cực trong thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục, hiện tượng chảy máu chất xám…
+ Phong trào tiếp sức mùa thi, giúp đỡ đồng bào lũ lụt, tấm gương người tốt, việc tốt, nếp sống đẹp…
2. Một vài lưu ý
Yêu cầu của kiểu bài này là học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống ( qua việc miêu tả, phân tích nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng…) từ đó thể hiện thái độ đánh giá của bản thân cũng như đề xuất ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời sống.
Cần có cách viết linh hoạt theo yêu cầu của đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc chung chung.
Ví dụ: Cùng bàn về vấn đề internet nhưng nếu đề yêu cầu trình bày suy nghĩ về vai trò của internet thì cần nhấn mạnh về vai trò, tác dụng. Còn nếu đề yêu cầu trình bày ý kiến trước hiện
tượng “nghiện” internet trong thanh niên hiện nay thì cần chú ý nhiều hơn đến mặt hạn chế và tác động tiêu cực của nó.
Ngoài việc trang bị cho mình những kỹ năng làm bài, học sinh cần tích lũy những vốn hiểu biết thực tế về đời sống xã hội.
3.Các bước làm bài
Bước 1: Miêu tả hiện tượng được đề cập đến trong bài.
+ Giải thích (nếu trong đề bài có khái niệm, thuật ngữ hoặc các ẩn dụ, hoán dụ, so sánh…)cần làm rõ để đưa ra vấn đề bàn luận.
+ Chỉ ra thực trạng ( biểu hiện của thực trạng)
Bước 2: Phân tích tác hại, các mặt đúng – sai, lợi – hại của vấn đề.
Phân tích tác dụng của vấn đề nếu là hiện tượng tích cực.
Phân tích tác hại của vấn đề nếu là hiện tượng tiêu cực.
Phân tích cả hai mặt tích cực và hạn chế nếu đề có cả hai mặt.
Bước 3: Chỉ ra nguyên nhân.
Bước 4: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá của người viết về hiện tượng., Giải pháp khắc phục hiện tượng tiêu cực.
CÁC BƯỚC VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Bước 1. Đọc kỹ đề
Theo như đề thi mẫu – phần nghị luận xã hội sẽ lấy một ý nhỏ trong bài đọc hiểu để làm đề thi viết đoạn văn 200 từ (cũng có khi là không). Nếu đề NLXH mà nằm trong đọc hiểu thì trước hết các em phải đọc kỹ bài đọc hiểu, nắm được cốt lõi nội dung, từ đó xem đề nghị luận 200 từ họ yêu cầu mình bàn về vấn đề gì? Nhất là phải xác định được vấn đề đó thuộc về Tư tưởng đạo lý hay Hiện tượng đời sống.
Ví dụ: Leo lên đỉnh núi không phải để cắm cờ mà là để vượt qua thách thức, tận hưởng bầu không khí và ngắm nhìn quang cảnh rộng lớn xung quanh. Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em. Hãy đến Paris để tận hưởng cảm giác đắm chìm trong Paris chứ không phải lướt qua đó để ghi Paris vào danh sách các địa điểm các em đã đi qua và tự hào mình là con người từng trải. Tập luyện những suy nghĩ độc lập, sáng tạo và táo bạo không phải để mang lại sự thỏa mãn cho bản thân mà là để đem lại lợi ích cho 6,8 tỷ người trên trái đất của chúng ta. Rồi các em sẽ phát hiện ra sự thật vĩ đại và thú vị mà những kinh nghiệm trong cuộc sống mang lại, đó là lòng vị tha mới chính là điều tốt đẹp nhất mà các em có thể làm cho bản thân mình. Niềm vui lớn nhất trong cuộc đời thực ra lại đến vào lúc các em nhận ra các em chẳng có gì đặc biệt cả. Bởi tất cả mọi người đều như thế. (Trích Bài phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp trường trung học Wellesley của thầy Hiệu trưởng David McCullough)
Câu nghị luận xã hội cho là: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Leo lên đỉnh cao là để các em có thể nhìn ngắm thế giới chứ không phải để thế giới nhận ra các em.”
Như vậy câu trên là một câu trong bài đọc hiểu. Vậy phải đọc kỹ bài Đọc hiểu để hiểu được câu trên nằm trong một chỉnh thể mà ở đó tác giả đã dạy chúng ta về cách cảm nhận thế giới và thái độ ứng xử văn hóa trước thế giới, trước cuộc đời.
Nên viết đoạn theo cấu trúc Tổng – Phân – Hợp để đủ ý và rõ ràng.
Bước 2: Xây dựng câu mở đoạn
– Câu mở đoạn có thể dùng 1-3 câu để mở đoạn (giống như phần mở bài vậy). Phần này phải có cái nhìn tổng quát, khái quát được nội dung mà đề thi yêu cầu. Phải hiểu được đề thi bàn về vấn đề gì?
– Nên viết theo hướng: nêu nội dung khái quát rồi dẫn câu nói vào (hoặc không dẫn nguyên câu thì trích vào cụm từ khóa). Ví dụ theo đề trên ta có thể viết như sau:
Thành công luôn là khao khát của mỗi con người trên hành trình chinh phục những ước mơ và khát vọng – nhưng khi lên đến đỉnh của thành công, điều quan trọng nhất vẫn là để “ngắm nhìn thế giới” chứ không phải là để cho ai đó nhận ra mình.
Bước 3. Xây dựng thân đoạn
Phải giải thích các cụm từ khóa, giải thích cả câu (cần ngắn gọn, đơn giản)
Bàn luận:
+ Đặt ra các câu hỏi – vì sao – tại sao – sau đó bình luận, chứng minh từng ý lớn, ý nhỏ.
+ Đưa ra dẫn chứng phù hợp, ngắn gọn, chính xác (tuyệt đối không kể chuyện rông dài, tán gẫu, sáo rỗng)
+ Đưa ra phản đề – mở rộng vấn đề – đồng tình, không đồng tình.
+ Rút ra bài học nhận thức và hành động.
Bước 4 – viết kết đoạn
– Viết kết đoạn thường kết lại bằng một danh ngôn hay câu nói nổi tiếng (Nếu được vậy, bài làm sẽ được giám khảo chú ý hơn khi chấm điểm)
Nhìn chung viết đoạn văn giống như cách làm bài nghị luận xã hội mà thầy đã cho cấu trúc trước đó. Chỉ khác là chúng ta viết ngắn lại, cô đúc hơn.
* Số dòng, số câu cho từng phần:
Mở đoạn: 2-3 câu (có khi chỉ cần 1 câu nếu viết tốt)
Thân đoạn:
Giải thích -4 dòng
Bàn luận -12 dòng
Mở rộng vấn đề – 4 dòng
Bài học – 5 dòng
Kết đoạn – 2 dòng (hoặc có khi gộp luôn vào chỗ bài học)
Bài văn 200 từ nhưng bạn có thể viết tới 250 từ (tương đương trên 20 dòng)
II. PHẦN 2: Luyện tập
BÀI TẬP VẬN DỤNG
ĐỀ SỐ 01
ĐỀ SỐ 01
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Bất cứ ai cũng đã từng thất bại, đã từng vấp ngã ít nhất một lần trong đời như một quy luật bất biến của tự nhiên. Có nhiều người có khả năng vực dậy, đứng lên rồi nhẹ nhàng bước tiếp như thể chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng cũng có nhiều người chỉ có thể ngồi một chỗ và vẫn luôn tự hỏi lí do vì sao bản thân lại có thể dễ dàng “mắc bẫy” đến như thế…
Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá: Về một bài toán đã áp dụng cách giải sai, về lòng tốt đã gửi nhầm chủ nhân hay về một tình yêu lâu dài bỗng phát hiện đã trao nhầm đối tượng.
(…)
Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi. Thời gian làm tuổi trẻ đi qua nhanh lắm, không gì là mãi mãi, nên hãy sống hết mình để không nuối tiếc những gì chỉ còn lại trong quá khứ mà thôi…”
(Trích: Hãy học cách đứng lên sau vấp ngã – Nguồn: www.vietgiaitri.com, 4/6/2015)
Câu 1. Hãy chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn văn?
Câu 2. Đoạn văn trên đề cập đến nội dung gì?
Câu 3. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì trong hai câu văn sau: Đừng để khi tia nắng ngoài kia đã lên, mà con tim vẫn còn băng lạnh. Đừng để khi cơn mưa kia đã tạnh, mà những giọt lệ trên mi mắt vẫn còn tuôn rơi? Hãy phân tích hiệu quả biểu đạt của biện pháp tu từ đó?
Câu 4. Qua đoạn trích trên, tác giả muốn gửi gắm điều gì?
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Câu Bất kì vấp ngã nào trong cuộc sống cũng đều mang lại cho ta một bài học đáng giá gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Gợi ý đáp án
I. Đọc hiểu
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn: Phương thức nghị luận
Câu 2. Nội dung đoạn trích:
-Hãy biết đứng lên sau vấp ngã vì mỗi lần vấp ngã là một lần ta rút ra được những bài học cho bản thân.
-Hãy sống yêu thương, sẻ chia, đồng cảm để không phải nuối tiếc khi nhìn lại quá khứ.
Câu 3. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ: Điệp ngữ (Đừng để khi) ; điệp cấu trúc ngữ pháp (lặp CTNP); đối lập (tia nắng…đã lên><giọt lê….rơi).
-Tác dụng:
- Điệp ngữ ; điệp cấu trúc ngữ pháp:
+ Tạo âm hưởng nhịp nhàng, cân đối.
+ Nhấn mạnh, khuyến khính mọi người hãy từ bỏ những ưu phiền để sống vui vẻ, hòa nhịp với thế giới xung quanh…
- Đối lập: Làm nổi bật sự trái ngược giữa ngoại cảnh với tâm trạng con người, nhằm khích lệ con người từ bỏ những ưu phiền, hướng đến cuộc sống vui tươi, ý nghĩa…..(HS có thể trả lời theo nhiều cách những vẫn xoay quanh tác dụng nêu ở trên)
Câu 4. Bất cứ ai cũng từng vấp ngã trong cuộc đời, vì vậy điều quan trọng sau mỗi lần vấp ngã ấy là phải biết đứng dậy và đi tiếp.
II. Làm văn
Câu 1.
- Trình bày từ khoảng 200 chữ.
- Triển khai thành đoạn cũng có 3 phần: mở đoạn – thân đoạn - kết đoạn.
Những bài học rút ra:
- Bài học về kinh nghiệm.
- Bài học về ý chí, nghị lực.
- Bài học về giá trị cuộc sống.
ĐỀ SỐ 02
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
… Vàng bạc uy quyền không làm ra chân lí
Óc nghĩ suy không thể mượn vay
Bạch Đằng xưa, Cửu Long nay
Tắm gội lòng ta chẳng bao giờ cạn.
Ta tin ở sức mình, vô hạn
Như ta tin ở tuổi 25
Của chúng ta là tuổi trăng rằm
Dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái.
Ta tin ở loài người thúc nhanh thời đại
Những sông Thương bên đục, bên trong
Chảy về xuôi, càng đẹp xanh dòng
Lịch sử vẫn một sông Hồng vĩ đại…
(Trích Tuổi 25 -Tố Hữu, sách Tố Hữu Từ ấy và Việt Bắc, NXB văn học, tr332)
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn thơ trên?
Câu 2. Chỉ ra biện pháp tu từ được sử dụng ở khổ thơ thứ 2.
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về hai câu thơ Của chúng ta là tuần trăng rằm; Dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái?
Câu 4. Nhà thơ đã tâm sự gì qua đoạn thơ trên?
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Từ việc đọc đoạn thơ trên, anh/chị có suy nghĩ gì về vai trò thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước hiện nay.
Gợi ý đáp án:
I.Đọc hiểu
Câu 1: Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ tự do.
Câu 2: Biện pháp tu từ so sánh: “ Như ta tin ở tuổi 25; Của chúng ta là tuần trăng rằm”.
Câu 3: Hai câu thơ nói lên sức mạnh của tuổi trẻ: dám ước mơ và hành động để thực hiện những lí tưởng cao đẹp của mình- sẽ làm chủ tương lai của đất nước….
Câu 4:
- Nhà thơ đang tâm sự về tuổi trẻ của mình và thế hệ mình: mang tất cả sức mạnh tâm huyết, niềm tin của tuổi trẻ để dâng hiến đấu tranh, bảo vệ tổ quốc …
- Từ tâm sự cá nhân, nhà thơ nhắn gửi tới thế hệ trẻ sống phải có lí tưởng cao đẹp, có niềm tin vào chính mình và mọi người để tạo nên những trang sử hào hùng của dân tộc…
II. Làm văn
Câu 1. Vai trò thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước hiện nay:
- Trong thời kỳ phát triển mới, hơn lúc nào hết, tuổi trẻ cần phát huy trí tuệ và sức lực cho Tổ quốc. Lực lượng thanh niên đang gánh vác trách nhiệm vừa lớn lao nhưng cũng rất vinh quang là góp phần vào công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước.
- Muốn vậy, thanh niên cần không ngừng tu dưỡng đạo đức để trở thành những con người có nhân cách tốt, đồng thời luôn luôn cố gắng học tập nâng cao kiến thức hiểu biết, trở thành những người đủ đức, đủ tài phục vụ Tổ quốc. Mỗi chúng ta cần nắm bắt kiến thức cơ bản ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chính những kiến thức có tính chất nền tảng ấy sẽ giúp chúng ta tiến xa hơn trên con đường khám phá và chinh phục tri thức nhân loại. Và chỉ khi có kiến thức, có nhân cách tốt thì mới trở thành những công dân có ích trong công cuộc bảo vệ đất nước, phát triển quê hương ngày một giàu mạnh hơn.
ĐỀ SỐ 03
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó. Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử.
(Đặng Thai Mai - trích Tiếng Việt, một biểu hiện của hùng hồn của sức sống dân tộc)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt trong đoạn văn trên.
Câu 2. Để làm rõ Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận nào?
Câu 3. Vì sao tác giả lại cho rằng: Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình.
Câu 4. Nêu nội dung chính của đoạn văn.
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Từ việc đọc đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) nêu suy nghĩ của em về vấn đề làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của học sinh hiện nay.
Gợi ý đáp án
I.Đọc hiểu
Câu 1. Phương thức biểu đạt trong đoạn văn: nghị luận.
Câu 2. Để làm rõ Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, tác giả đã sử dụng thao tác lập luận giải thích.
Câu 3. Tác giả cho rằng: Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình vì: Tiếng Việt có những vốn rất giàu và đẹp, tiếng Việt hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu và tiếng Việt có đầy đủ khả năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng, đời sống văn hóa của người Việt Nam.
Câu 4. Nội dung chính của đoạn văn: sự giàu đẹp của tiếng Việt.
II. Làm văn
Câu 1. Từ việc đọc đoạn trích trên, em hãy viết đoạn văn ngắn nêu suy nghĩ của em về vấn đề làm thế nào để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt của học sinh hiện nay.
-Yêu cầu về kĩ năng: biết viết đoạn văn nghị luận, đoạn văn có mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn, không mắc lỗi dung từ, đặt câu.
- Yêu cầu về kiến thức: về cơ bản học sinh đáp ứng các ý sau:
+ Tiếng Việt của chúng ta giàu và đẹp.
+ Thực trạng sử dụng tiếng Việt của học sinh hiện nay.
+ Giải pháp
ĐỀ SỐ 04
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
(1) Ứng xử là thái độ, hành vi, lời nói thích hợp trong quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa người với thiên nhiên. Thuật ngữ văn hóa đặt trước ứng xử có nghĩa là tô đậm chiều cao phẩm chất, chiều rộng quan hệ của người ứng xử. Có con người là có cách ứng xử giữa họ với nhau, giữa họ với môi trường sống. Nhưng văn hóa ứng xử được hình thành từ khi văn minh phát triển ở một cấp độ nào đó nhằm diễn đạt cách ứng xử con người đối với thiên nhiên, đối với xã hội và đối với chính mình...
(2) Ở các nền văn hóa khác nhau có hệ chuẩn không giống nhau, nhưng vẫn có giá trị chung. Đó là sống có lý tưởng, trung với nước, hiếu với cha mẹ, tình thương đối với đồng bào, trung thực với bạn bè, giữ chữ tín trong mọi quan hệ. Trong văn hóa phương Đông, Khổng tử khuyên mọi người tu tâm dưỡng tín với sáu chữ: nhất nhật tam tĩnh ngô thân. Đối với người Nhật, nhân cách văn hóa được công thức hóa: thiện, ích, đẹp. Nước ta coi trọng mục tiêu giá trị: chân, thiện, mỹ. Ở châu Âu, người ta nói tính cách, khi bàn giá trị nhân cách tiêu biểu dân tộc. Tính cách Nga được thể hiện ở lòng đôn hậu, tình thủy chung, nghĩa cử quốc tế cao cả. Khẩu hiệu tri thức là sức mạnh được nhiều nước tư bản châu Âu viện dẫn và ảnh hưởng tới hành động đã mấy trăm năm. Bí quyết hàng đầu của người Do Thái là sự trọng học, đề cao vai trò của trí tuệ, tôn sùng học vấn và tài năng. Để con gái lấy được học giả, hoặc lấy được con người là học giả làm vợ thì không tiếc tài sản. Tuy nhiên, họ cũng coi tri thức mà thiếu thực tiễn chẳng khác nào chú lừa chỉ biết thồ trên lưng sách vở.
Câu 1. Nêu nội dung chính của từng đoạn trong văn bản trên.
Câu 2. Xác định thao tác lập luận chủ yếu được sử dụng ở đoạn (1) và (2).
Câu 3. Hãy nên ít nhất 2 tiêu chí giao tiếp thể hiện văn hóa ứng xử trong cuộc sống hàng ngày. Trả lời trong khoảng 3-5 câu.
Câu 4. Điều gì khiến anh chị tâm đắc nhất qua đoạn trích.
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về cách ứng xử của con người với chính mình.
Gợi ý đáp án
Phần I. Đọc hiểu
Câu 1. Chủ đề của hai đoạn văn:
Đoạn (1): Giải thích ý nghĩa khái niệm "văn hóa ứng xử"
Đoạn (2): Các nền văn hóa khác nhau có hệ chuẩn không không giống nhau, nhưng vẫn có giá trị chung
Câu 2. Thao tác lập luận chủ yếu:
Đoạn (1): Thao tác lập luận giải thích.
Đoạn (2): Thao tác lập luận so sánh.
Câu 3:
- Khi giao tiếp với người trên tuổi phải có lời thưa gửi
- Khi đối thoại với một người nào đó phải chú ý nhường lượt lời cho họ.
Câu 4.
- Tuy mỗi nền văn hóa có những quy định cụ thể về cách giao tiếp, ứng xử nhưng vẫn có những giá trị chung mà chúng ta cần hiểu và tôn trọng.
Phần II. Làm văn
Câu 1.
* Giải thích:
+ Cách ứng xử với chính mình: Là thái độ, suy nghĩ, đánh giá về chính bản thân mình.
* Bình luận:
- Tại sao con người cần có thái độ ứng xử văn hóa với chính bản thân mình?
+ Bởi vì bất kì một người nào cũng cần hiểu rõ bản thân mình
+ Từ chỗ hiểu rõ bản thân, con người phải có thái độ, suy nghĩ , đúng đắn, tích cực về chính mình thì từ đó mới có thái độ, suy nghĩ tích cực về người khác.
Thái độ ứng cử văn hóa với chính bản thân được biểu hiện như thế nào?
- Hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của bản thân
- Biết phát huy điểm mạnh, hạn chế, khắc phục điểm yếu
- Không tự đánh giá quá cao về bản thân mình đồng thời cũng không tự hạ thấp mình
- Trân trọng, giữ gìn cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn.
Ý nghĩa của việc hình thành văn hóa ứng xử với chính bản than:
- Nâng cao giá trị bản thân
- Là cơ sở, nền tảng trong quan hệ ứng xử với những người xung quanh
Bài học nhận thức, hành động:
- Trước khi nhận thức, đánh giá về người khác, cần nhận thức, đánh giá về chính mình
ĐỀ SỐ 05
PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau đây và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
“… (1) Thật vậy, Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc từng viết: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”. Đáng tiếc, cuộc sống hiện nay dường như “cái đạo” đọc sách cũng dần phôi pha. Sách in nhiều nơi không bán được, nhiều nhà xuất bản đóng cửa vì thua lỗ, đặc biệt sách bị cạnh tranh khốc liệt bởi những phương tiện nghe nhìn như ti vi, Ipad, điện thoại Smart, và hệ thống sách báo điện tử trên Internet. Nhiều gia đình giàu có thay tủ sách bằng tủ rượu các loại. Các thư viện lớn của các thành phố hay của tỉnh cũng chỉ hoạt động cầm chừng, cố duy trì sự tồn tại.
…(2) Bỗng chợt nhớ khi xưa còn bé, với những quyển sách giấu trong áo, tôi có thể đọc sách khi chờ mẹ về, lúc nấu nồi cơm, lúc tha thẩn trong vườn, vắt vẻo trên cây, lúc chăn trâu, lúc chờ xe bus… Hay hình ảnh những công dân nước Nhật mỗi người một quyển sách trên tay lúc ngồi chờ tàu xe, xem hát, v.v… càng khiến chúng ta thêm yêu mến và khâm phục. Ngày nay, hình ảnh ấy đã bớt đi nhiều, thay vào đó là cái máy tính hay cái điện thoại di động. Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay…”
(Trích “Suy nghĩ về đọc sách” – Trần Hoàng Vy, Báo Giáo dục & Thời đại)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ và phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn văn trên?
Câu 2. Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào?
Câu 3. Hãy ghi lại câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản? Nêu nội dung chính của văn bản trên?
Câu 4. Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”.
PHẦN II. LÀM VĂN
Câu 1. (2 điểm): Anh (chị) hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa nội dung thông điệp: Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay.
Gợi ý đáp án:
Phần I. Đọc hiểu
Câu 1:
- Đoạn văn viết theo phong cách ngôn ngữ báo chí.
- Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn: Nghị luận
Câu 2: Trong đoạn (2), tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận so sánh.
Câu 3:
- Câu văn nêu khái quát chủ đề của văn bản: “Song sách vẫn luôn cần thiết, không thể thiếu trong cuộc sống phẳng hiện nay…”
- Nội dung chính của đoạn văn:
+ Trong thời đại công nghệ số, văn hóa đọc đang có xu hướng bị cạnh tranh lấn át, có nguy cơ bị mất dần đi.
+ Cần thấy được ý nghĩa của việc đọc sách và có thói quen đọc sách.
Câu 4:
- Ý nghĩa câu nói: “Sách vở đầy bốn vách/ Có mấy cũng không vừa”:
+ Sách là sản phẩm tinh thần quý giá của con người, do con người sáng tạo ra; là kho tàng tri thức vô tận của nhân loại.
+ Quá trình con người sử dụng, sưu tầm, giữ gìn, tích lũy, bảo tồn sách thật nhiều, phong phú
đến bao nhiêu cũng không bao giờ là đủ.
Phần II. Làm văn
Câu 1:
- Khẳng định vai trò của sách trong thời đại công nghệ số, các phương tiện thông tin nghe – nhìn đang phát triển, có nhiều ưu thế, hấp dẫn hơn so với sách, và thực tế chúng đang có xu hướng cạnh tranh lấn át văn hóa đọc. Tuy nhiên vẫn không thể thay thế được hoàn toàn cho sách.
- Đọc sách vẫn luôn được khẳng định là một nhu cầu cần thiết với những thế mạnh riêng của
nó:
+ Đó là cách thưởng thức văn hoá sang trọng và có chiều sâu.
+ Là phương cách tốt nhất để làm giàu có vốn ngôn từ và cách hành văn, hình thành được kỹ năng ngôn ngữ và sẽ tự tin giao tiếp.
+ Cung cấp thông tin, tri thức, mở rộng, nâng cao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực.
+ Bồi dưỡng giáo dục đạo đức, tình cảm, nâng cao khiếu thẩm mĩ, hoàn thiện nhân cách, phát triển tâm hồn để hướng tới những giá trị tốt đẹp.
+ Tăng cường khả năng tư duy, phân tích, sáng tạo, cải thiện khả năng tập trung, suy ngẫm, tra cứu, tìm tòi…
-Cần hình thành thói quen, tạo hứng thú đọc sách, biết lựa chọn sách để đọc và cần có
phương pháp đọc sách hiệu quả.
PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
BÀI 1. TUYÊN NGÔN ĐỌC LẬP (HỒ CHÍ MINH)
BÀI 1. TUYÊN NGÔN ĐỌC LẬP (HỒ CHÍ MINH)
1. Hoàn cảnh ra đời
- Ngày 19/08/1945, chính quyền Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/08/1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội và tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn “Tuyên ngôn Độc lập”.
- Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Người đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- “Tuyên ngôn Độc lập” ra đời trong một tình thế vô cùng cấp bách : nền độc lập vừa mời giành được bị đe dọa bởi các thế lực phản động, bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị chiếm lại nước ta: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, đằng sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là đất “bảo hộ” của người Pháp bị nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp.
2. Giá trị lịch sử và văn học, mục đích, đối tượng của bản “Tuyên ngôn Độc lập”
- Giá trị lịch sử: Là văn kiện lịch sử vô giá, là lời tuyên bố của một dân tộc đã đứng lên xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, thực dân, thoát khỏi thân phận thuộc địa để hòa nhập vào cộng đồng nhân loại với tư cách là một nước độc lập, dân chủ, tự do.
- Giá trị văn học:
+ Giá trị tư tưởng: “Tuyên ngôn Độc lập” là tác phẩm kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc và tinh thần yêu chuộng tự do.
+ Giá trị nghệ thuật: Là áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, những bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục, ngôn ngữ gợi cảm, hùng hồn.
- Đối tượng: Nhân dân Việt Nam; Các nước trên thế giới; Bọn đế quốc, thực dân đang lăm le xâm lược nước ta : Mỹ, Pháp.
- Mục đích: Tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam mới; Ngăn chặn âm mưu xâm lược của bọn đế quốc, thực dân.
3. Nội dung
3.1. Phần 1 (từ đầu đến “Không ai chối cãi được”) : Nêu nguyên lí chung
- Người đã trích dẫn bản hai bản “Tuyên ngôn độc lập” (1776) của Mỹ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (1791) của Pháp. Hai bản Tuyên ngôn này khẳng định quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi con người ở mọi dân tộc.
- Tác giả dùng chính lí lẽ của đối phương đáp trả lại đối phương, nhắc nhở đối phương đang đi ngược lại những gì mà tổ tiên họ để lại.
- Đặt ba cuộc cách mạng của nhân loại ngang bằng nhau, trong đó cách mạng Việt Nam cùng một lúc thực hiện nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng Mĩ, Pháp. Sánh vai các nước bé nhỏ với các cường quốc năm châu.
- Từ quyền con người Bác mở rộng thành quyền của dân tộc. Đây là một suy luận hết sức quan trọng vì đối với những nước thuộc địa như nước ta lúc bấy giờ thì trước khi nói đến quyền của con người phải đòi lấy quyền của dân tộc. Dân tộc có độc lập, nhân dân mới có tự do, hạnh phúc. Đó là đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.
- Lập luận vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản TN.
3.2. Phần 2 (từ “Thế mà… phải được độc lập”) : Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khảng định thực tế lịch sử là nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
a. Bản tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, những bằng chứng không ai có thể chối cãi để bác bỏ những luận điệu của thực dân Pháp muốn "hợp pháp hóa" việc chiếm lại nước ta :
+ Pháp kể công "khai hóa", bản Tuyên ngôn kể tội áp bức bóc lột tàn bạo và tội diệt chủng của chúng. Tội nặng nhất là gây ra nạn đói năm giết chết hơn hai triệu đồng bào ta từ Bắc Kì đến Quảng Trị (dẫn chứng)
+ Pháp kể công "bảo hộ", bản tuyên ngôn kể tội hai lần chúng dâng Đông Dương cho Nhật (dẫn chứng)
+ Pháp nhân danh Đồng minh đã chiến thắng phát xít, giành lại Đông Dương, bản tuyên ngôn kể tội chúng phản bội đồng minh: đầu hàng Nhật, khủng bố Cách mạng Việt Nam đánh Nhật cứu nước. Bản tuyên ngôn nói rõ: Dân tộc Việt Nam giành lại độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp.
Bằng giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục, đoạn văn đã tố cáo hùng hồn và đanh thép tội ác của thùc dân Pháp. Bằng phương pháp liệt kê, tác giả đã nêu lên hàng loạt tội ác của thực dân Pháp trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục và ngoại giao.
b. Từ những cứ liệu lịch sử hiển nhiên đó, bản Tuyên ngôn nhấn mạnh đến những thông điệp quan trọng:
+ Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước VN.
+ Kêu gọi toàn dân Việt Nam đoàn kết chống lại âm mưu của thực dân Pháp
+ Kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập, tự do của dân tộc VN.
3.3. Phần 3 (còn lại): Lời tuyên ngôn và tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc
- Tuyên bố về quyền độc lập của dân tộc
- Tuyên bố về sự thật là nước Việt Nam đã giành được độc lập.
- Tuyên bố về ý chí, quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc bằng mọi giá.
Những lời tuyên ngôn này được trình bày lôgic, chặt chẽ, cái trước là tiền đề của cái sau.
4. Nghệ thuật
- Kết cấu chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, lập luận giàu sức thuyết phục
- Ngôn ngữ chính xác, trong sáng, gợi cảm.
- Giọng điệu linh hoạt.
5. Chủ đề
Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới quyền được tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam, nền độc lập, tự do mà nhân dân ta vừa giành được và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của toàn dân tộc.
BÀI 2. TÂY TIẾN (Quang Dũng)
I. Tác giả
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
- Một hồn thơ lãng mạn, tài hoa: nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, thơ giàu chất nhạc, họa...
- Các tác phẩm chính: Rừng về xuôi; Mây đầu ô....
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh ra đời bài thơ
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)
2. Cảm xúc chủ đạo của bài thơ
Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.
3. Nội dung
3.1. Đoạn 1: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
.....
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.
*Đoạn mở đầu bằng những dòng thơ chan chưa nối nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.
- Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.
* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng.
- Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
- Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút, sương lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn.
- Nhớ những những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy biến thung lũng thành ‘xa khơi”.
- Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ người mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội. Nơi đây thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
-> Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên.
* Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:
- Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.
- Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh gục bên súng mũ bỏ quên đời”.
- Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc “Nhớ ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới. Nhớ ôi!- nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.
Nhận xét: Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nối nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.
3.2. Đoạn 2: :
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
.....
.....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
a. Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm màu sắc lãng mạn, trữ tình
- Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:
+ Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân (hội đuốc hoa)
+ Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.
+ Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.
Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc,tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến
b. Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc
- Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.
- Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các cô gái Thái trên con thuyền độc mộc.
- Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.
- Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.
3. 3. Đoạn 3: Bức tượng người lính Tây Tiến bất tử với thời gian
Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.
- Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:
+ Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá
+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu lá, dữ oai hùm
+ Trong gian khổ nhưng:
~ vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên giới” - mộng chiến công, khao khát lập công;
~ “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” - mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.
Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính - những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.
- Vẻ đẹp bi tráng:
+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.
+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.
+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.
+ Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
=> Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.
3.4. Đoạn 4: đoạn thơ còn lại
- Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử:
+ Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.
+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.
- Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến.
è Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.
4. Nghệ thuật
+ Cảm hứng lãng mạn, bi tráng
+ Sử dụng ngôn từ đặc sắc: từ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt
+ Kết hợp chất nhạc và họa.
5. Chủ đề: Qua bài thơ, Quang Dũng đó ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ và trữ tình, dữ dội mà mĩ lệ của thiên nhiên núi rừng miền Tây Bắc của Tổ quốc, đặc biệt khắc vào thời gian một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh dũng, hào hoa.
BÀI 3. VIỆT BẮC (TỐ HỮU)
I.Hoàn cảnh sáng tác
- Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp
- Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Tháng 10 năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
II.Nội dung văn bản.
1.Kết cấu của bài thơ
+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai.
+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.
+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.
+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
2.Phân tích văn bản.
2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa kẻ ở người đi.
- Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại.
+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung của mình.
+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên day dứt khôn nguôi.
+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.
- Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi
+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn, cùng với cử chỉ ‘cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.
+ Lời hỏi của người ở lại đã khéo nhưng câu trả lời còn khéo léo hơn thế. Không phải là câu trả lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.
+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc. Rất có thể đó là hình ảnh thực, nhưng cũng có thể là hình ảnh trong tưởng tượng của người cán bộ kháng chiến để rồi mỗi lần hình ảnh áo chàm bay về trong tâm trí của người cán bộ là mỗi lần bao nỗi nhớ thân thương lại dội về.
è khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.
2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:
- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người VB:
+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”
+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối thù nặng vai.
+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.
+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.
+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa.
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp câu thơ lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ nhàng, khoan thai.
- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc, nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai… Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối sống ân nghĩa thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc nương náu trong những trang thơ lục bát của Tố Hữu.
- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
2.3.Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình.
Nhớ gì như nhớ người yêu
……
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
……
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.
- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.
- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.
- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:
+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.
+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao … núi đèo
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa
=>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.
2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc.
Ta về mình có nhớ ta
.....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
.....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” + Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại
+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả
+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.
2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
a. Từ câu 53-> 74
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống TDP xâm lược. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.
+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc.
+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…
+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.
+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc.
~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.
~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.
+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…
+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập.
+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.
b.Từ câu 75- câu 83.
Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.
3. Đặc sắc nghệ thuật
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.
- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình
+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ)
+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc
4. Chủ đề
Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đỗi với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung
BÀI 4. ĐẤT NƯỚC
(trích Trường ca Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)
(trích Trường ca Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)
I. Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng chiến chống Mỹ
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia chiến đấu.
II. Đoạn trích “Đất Nước”
1.Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
“Đất Nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng – tác phẩm được hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
2. Nội dung
2.1.Phần 1: Cảm nhận về Đất Nước
- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo...
- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.
- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận.
- Về không gian địa lý :
+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi em tắm).
+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ “Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại…”).
- Về thời gian lịch sử : Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).
+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất Nước”)
+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất Nước đi xa. Đến những tháng ngày mơ mộng”).
- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi người :
+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.
+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thuộc về Đất nước.
+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.
2.2.Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích
- Về địa lý : nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác, chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, biến chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :
+ những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;
+ cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;
+ người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;
+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
- Về lịch sử : khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến “lớp lớp” những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.
- Về văn hóa : khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý trọng tình nghĩa và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.
3. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do.
- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi
- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt
- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
4. Chủ đề
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
BÀI 5. SÓNG (XUÂN QUỲNH)
I. Tác giả
- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đìnhvà tình mẫu tử
- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.
II. Bài thơ “Sóng”
1. Hoàn cảnh sáng tác
Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
2. Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ
- ¢m ®iÖu cña bµi th¬ Sãng lµ ©m ®iÖu, cña nh÷ng con sãng ngoµi biÓn kh¬i, lóc µo ¹t, d÷ déi lóc nhÑ nhµng, khoan thai. ¢m ®iÖu ®ã ®îc t¹o nªn bëi: ThÓ ngò ng«n víi nh÷ng c©u th¬ ®îc ng¾t nhÞp linh ho¹t.
- Bµi th¬ cã hai h×nh tîng lµ “sãng” vµ “em” - lóc ph©n t¸ch, soi chiÕu vµo nhau, lóc nhËp hßa lµm mét trong mét c¸i t«i tr÷ t×nh duy nhÊt lµ Xu©n Quúnh.
3. Nội dung
- Khổ 1 :
+ Sóng hiện ra với những đối cực Dữ dội >< Dịu êm; ồn ào>< lặng lẽ như những cung bậc tâm trạng của người phụ nữ khi yêu.
+ Sóng khát khao thoát khỏi giới hạn chật hẹp (sông) để tìm ra “bể” như người phụ nữ khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu.
- Khổ 2 :
+ Từ ngàn, triệu năm qua, con sóng vẫn thế như từ ngàn, triệu năm qua, tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.
+ Đó cũng là khát vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
- Khổ 3, 4 :
+ Không thể truy nguyên nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu của con người. Đó mãi mãi là bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.
+ Người phụ nữ, nhân vật em trong bài thơ cũng không thể cắt nghĩa được tình yêu. Một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi nhận thức mãnh liệt.
- Khổ 5 :
+ Con sóng, dù ở trạng thái nào (trong lòng sâu, trên mặt nước, ngày hay đêm), đều thao thức một nỗi niềm “nhớ bờ”. Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian.
+ Tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ cũng vậy. Hạt nhân của nó là nỗi nhớ, một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nỗi nhớ chiếm cả tầng sâu, chiều rộng và trải dài theo thời gian, lúc hiện hữu, khi lắng sâu, lúc ý thức, khi nằm ngoài sự kiểm soát của ý thức.
Khổ 6, 7
+ Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang.
+ Sự thuỷ chung của sóng với bờ hay cũng chính là sự chung thuỷ của em với anh. Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ.
- Hai khổ cuối :
+ Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô thuỷ, vô chung, vô cùng, vô tận của thiên nhiên, vũ trụ. Trước cái vĩnh hằng của tạo hoá, trước dòng chảy vô hồi, vô hạn của cuộc đời, tình yêu của con người mãi mãi chỉ là “bóng câu qua cửa sổ”. Đó là cảm thức về thời gian. Dường như càng yêu mãnh liệt, càng khát khao gắn bó, con người càng hay nghĩ về thời gian ! Người phụ nữ đang cháy bóng khát khao yêu và được yêu trong Sóng cũng không phải là ngoại lệ.
+ Vậy, chỉ có một cách duy nhất để tình yêu trường tồn với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi. Đó là “Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hoá tình yêu, được hoà tình yêu của mình vào khối tình chung của nhân loại, như con sóng hoà vào đại dương mênh mông, bất tận.
4. Nghệ thuật
- Nhịp điệu độc đáo, giàu sức liên tưởng: thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp, gieo vần, nối khổ linh hoạt
- Giọng điệu tha thiết chân thành, ít nhiều có sự phấp phỏng lo âu.
- Xây dựng hình tượng sóng như một ẩn dụ nghệ thụât về tình yêu của người phụ nữ.
-Kết cấu song hành: sóng và em
5. Chủ đề
Sóng là bài thơ tình đặc sắc. Bài thơ là sự khám phá những khát vọng tình yêu của trái tim người phụ nữ chân thành, giàu khao khát nhưng cũng rất tự nhiên.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh sáng tác, âm điệu, nhịp điệu của bài thơ.
Xem mục II.1,2
Câu 3. (5 điểm): Hình tượng sóng và em trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
Xem mục II.3,4,5………….VÀ CÁC ĐỀ KHÁC
BÀI 6. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)
1.Hoàn cảnh sáng tác
+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Sông Đà gồm 15 thiên tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được thử lửa” ở tâm hồn những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.
2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà
* Vẻ hung bạo, dữ dằn :
- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại như cái yết hầu.
- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…
- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào lọt vào.
- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau
- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, lập nhiều phòng tuyến… sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.
* Vẻ trữ tình, thơ mộng :
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều.
- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đó phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.
- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.
3.Hình tượng người lái đò
- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp
+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy luật của thần sông thần đá”.
+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
- Là người trí dũng tuyệt vời:Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm:
+ Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát bờ trái và huy độg hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng song hung tợn “liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nhưng người lái đò bình tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng thẳng vào mình”. Ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2 này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.
- Là người tài hoa nghệ sĩ:
+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh hoạt, khéo léo, tài hoa như một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Dưới bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền như bay trong không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.
+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của một nghệ sĩ “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.
è Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông chỉ huy cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn. Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm được nhân vật mới cho mình, những con người đáng trân trọng, đáng ngợi ca, không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình thường xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan niệm : người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò một lần nữa cho thấy sự uyên bác, lịch lãm của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống động của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…
4. Nghệ thuật
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.
- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn tả vẻ đẹp trữ tình rất nên thơ của con sông.
5. Chủ đề:
Qua hình tượng sông Đà và người lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu mến thiết tha với thiên nhiên đất nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng mười của cuộc sống.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP:
Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh sáng tác bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà(Nguyễn Tuân)
Xem mục 1
Câu 2. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong bài tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân)
Xem mục 2
Câu 3. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lái đò trong bài tùy bút “Người lái đò sông Đà”(Nguyễn Tuân)
Xem mục 3
BÀI 7. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Sinh năm 1937 tại t.p Huế
- Là một người con của xứ Huế.
- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
- Văn phong: “Nét đặc sắc … tài hoa” (tr197)
- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên
- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần
+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn
+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.
II. Phân tích:
1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả về với hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ làn nước thơm tho mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá lịch sử.
- Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.
2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau :
Mở bài: - Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc Tường
-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sác thiên nhiên của song Hương
Thân bài:
* Từ thượng nguồn:
- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
- Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.
* Về châu thổ:
- Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau (dẫn chứng...). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
- Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ... > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hoà lẫn vào nhau.
+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
- Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:
- Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.
- Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.
Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:
- Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
- Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
- Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
Tiểu kết:
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của sông Hương, vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.
* Sông Hương với lịch sử hào hùng:
- Là 1 dòng sông anh hùng:
•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
•Thời trung đại:bảo vệ biên giới phiá nam của tổ quốc
•Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa
•Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
•Thời chống Mĩ:
- Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu kết:
- Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của dân tộc.
Kết bài:
- Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế, con người Huế.
-Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
- Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.
3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Chất trí tuệ:
Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình.
“ Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”
cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.
Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế.
Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.
Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.
Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
* Chất thơ:
- Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.
“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và “ giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Hay “ Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP: Câu 1. (2 điểm): Nêu những nét cơ bản về tác giả Hoàn Phủ Ngọc Tường và bút kí Ai dã đặt tên cho dòng sông. Xem mục I Câu 2. (5 điểm): Phân tích những vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau. Xem mục 2 Câu 3. (2 điểm): Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Xem mục 3 |
BÀI 8. VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI)
1. Xuất xứ - Hoàn cảnh ra đời
- Vợ chồng A Phủ (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập Truyện Tây Bắc.
- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.
- Vợ chồng A Phủ gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.
2. Tóm tắt truyện
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử - con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối.
A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
3. Nhân vật Mị
3.1.Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện
+ Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác : “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.
+ Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”.
à Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Sự tương phản ấy báo hiệu một cuộc đời không bằng phẳng, một số phận nhiều ẩn ức và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.
3.2. Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị
a. Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẽ có thể sống một cuộc sống hạnh phúc:
+ Một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.
+ Một cô gái chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.
+ Một cô gái yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.
+ Một người con hiếu thảo.
à Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị, toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục.
b. Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra :
- “Con dâu gạt nợ” :
Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ : nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao động). Nhưng Mị lại là con dâu, bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý. Linh hồn Mị đã bị con “ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Đây chính là bi kịch trong cuộc đời Mị.
- Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết. Ở đó :
+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu sống lẫn tinh thần phản kháng.
+ Mị chỉ là một công cụ lao động.
+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.
+ Mị âm thầm như một cái bóng.
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã mất tri giác về cuộc sống.
à Nhà văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật thật đau xót : dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời, từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Một sự hủy diệt ý thức sống của con người thật đáng sợ !
c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt (đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài)
- Những tác động của ngoại cảnh :
+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.
+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”.
+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.
à Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.
- Diễn biến tâm lý, hành động
+ Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.
+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”.
+ Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+ Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại : “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển hóa thành hành động thực tế và hành động này dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn được.
à Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một trận gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị, của mỗi cá nhân.
d. Sức phản kháng táo bạo (hành động cởi dây trói cho A Phủ)
Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài :
+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng.
+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và thương người.
+ Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.
+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài.
à Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
4. Nhân vật A Phủ
4.1. Một số phận éo le
- Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).
- Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.
4.2. Một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc
- Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.
- Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm.
- Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.
- Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
4.3. Một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo
- Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.
- Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.
à Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.
5. Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
5.1. Giá trị hiện thực
+ Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (dẫn chứng Mị, A Phủ).
+ Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi ( dẫn chứng cha con thống lí Pá Tra)
+ Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ)
5.1. Giá trị nhân đạo.
+ Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi ( dẫn chứng nhân vật Mị, A Phủ)
+ Phê phán quyết liệt những thế lực chà đạp con người (cường quyền và thần quyền).
+ Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (Dẫn chứng nhân vật Mị- trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)
+ Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình ( dẫn chứng hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).
6. Đặc sắc nghệ thuật
a. Nghệ thuật kể chuyện
- Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.
- Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ.
b) Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật
Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật.
c) Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc
+ Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài).
+ Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).
7. Chủ đề
Tác phẩm đặt ra vấn đề số phận con người- những con người dưới đáy xã hội- những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. (2 điểm): Nêu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).
Xem mục 1
Câu 2. (2 điểm): Suy nghĩ của anh (chị) về hành động Mị cởi trói cho A Phủ rồi cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài.
Xem mục 3.2.d
Câu 3. (5 điểm): Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài?
Xem mục 3.2.c
BÀI 9: VỢ NHẶT (KIM LÂN)
1. Xuất xứ
Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
2.Tóm tắt
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng - một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
3. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
- “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
4.Tình huống truyện
- Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
- Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
- Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
5. Nhân vật
5.1 Tràng
- Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
+ Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
+ Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà rẹo rọ trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
à Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.
+ Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:
~ Lần gặp thứ nhất: Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
~ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
- Niềm hạnh phúc khi có vợ :
+ Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư: tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.
+ Tràng khi đưa vợ về đến nhà: Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
+ Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau:
~ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
~ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
~ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
~ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm- đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
~ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
~ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm ấm, hoà hợp.
- Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
5.2 Thị (người “vợ nhặt”)
- Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
- Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh... cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc... ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
- Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cung có những người phụ nữ không đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
- Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương
- Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đánh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.
- Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chính gây ra đã cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
5.3 Bà cụ Tứ :
- Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày hôm sau.
- Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằn con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
- Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
- Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
- Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai tươi sang phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán- cháo cám nhưng không khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
- Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con, nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
6. Giá trị hiện thực, nhân đạo
6.1. Giá trị hiện thực:
- Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
- Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.
- Tuy nhiễn, còn có một hiện thực được phán ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
6.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
7. Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
- Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
- Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
- Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.
8. Chủ đề
Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn
BÀI 10. RỪNG XÀ NU (NGUYỄN TRUNG THÀNH)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai - Quảng Ngãi. Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2.Tóm tắt
Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Cau chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
3. Nhan đề
-Nhan đề là một sang tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
- Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
- Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
4.Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.
* Nghĩa thực: Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng:
- Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.
- Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.
- Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây
+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
5. Hình tượng nhân vật Tnú
- Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.
- Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.
- Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
- Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ ...
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
- Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
6. Cụ Mết, Dít, bé Heng
- Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
- Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.
- Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.
7. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng…
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
8. Đặc sắc nghệ thuật
+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật)
+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)
+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.
+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.
9. Chủ đề
Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách mạng
Câu 6. (5 điểm): Phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 4
Câu 7. (5 điểm): Suy nghĩ của anh (chị) về câu nói của cụ Mết “Chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo!”. Làm sáng tỏ điều đó qua cuộc đời của Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành).
Xem mục 5
BÀI 11. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Đầu năm 1950, ông gia nhập quân đội- Từ năm 1952 đến 1958 ông công tác và chiến đấu tại sư đoàn 320.- Năm 1962 ông về phòng văn nghệ quân đốị sau chuyển sang tạp chí văn nghệ quân đội.
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường, Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách
- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay. Năm 2000, ông được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật
* Tác phẩm chính : Dấu chân người lính, miền cháy, chiếc thuyền ngoài xa.
2. Xuất xứ văn bản
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra.
Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
3.Tóm tắt văn bản
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.
4. Nhan đề văn bản
- Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
- Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
- Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống.
- Nhan đề là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật !
5. Tình huống truyện
- Tình huống: một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời cho” - đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.
- Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của đời thường.
- Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài.Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.
II. PHÂN TÍCH
1. Hai phát hiện của Phùng.
a) Phát hiện thứ nhất: phát hiện vẻ đẹp nghệ thuật
- Vị thế của Phùng: nghệ sĩ nhiếp ảnh.
- Mục đích của chuyến đi: chụp bổ sung một bức ảnh buổi sáng có sương mù theo yêu cầu của trưởng phòng (để xuất bản bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển).
- Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.
- Sự hình thành tác phẩm nghệ thuật:
+ Bắt đầu từ cảnh “trời cho”.
+ Tuy nhiên để có được tác phẩm, cần một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế nhanh nhạy nắm bắt khoảnh khắc xuất thần của nghệ thuật:
o Mô tả khung cảnh lãng mạn, thơ mộng.
o Trạng thái, hành động:
o Bối rối, trong tim tưởng như có cái gì bóp thắt lại => cơn “đau đẻ”, khoảnh khắc xung động cực điểm để tác phẩm hoài thai.
+ Không phải lựa chọn gì nữa, bấm một hồi “liên thanh” => dường như thiên nhiên đã bày sẵn tuyệt tác, người nghệ sĩ chỉ việc ghi lại một cách dễ dàng.
- Cảm hứng triết lí về nghệ thuật:
+ Vẻ đẹp của “cái đẹp tuyệt đỉnh”: “bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ; một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. => nghệ thuật là sự giản dị, tự nhiên.
+ “Cái đẹp là đạo đức” => khoảnh khắc phát hiện ra một tác phẩm độc đáo là sự “khám phá chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” => cái đẹp “thanh lọc” tâm hồn, để tâm hồn con người cao khiết, không gợn đục, thánh thiện.
Nhận xét:
Sự phát hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi là kết hợp của rung động và duyên may. Nhìn ở góc độ này, nó là thứ dẫu sao còn tương đối dễ phát hiện, dễ thấy.
b) Phát hiện thứ hai: Phát hiện về hiện thực cuộc sống.
- Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ trước tôi đứng => gần, trực diện, rõ nét.
- Hình ảnh:
+ Người đàn bà: cao lớn, với những đường nét thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi(…) tái ngắt và dường như đang buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới.
+ Người đàn ông: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, đi chân chữ bát, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ.
=> Hình ảnh xấu xí, sù sì, trần trụi, thô mộc, gai góc của đời sống, đối lập với vẻ lãng mạn của khung cảnh thiên nhiên trong bức ảnh nghệ thuật.
- Hành động:
+ Người chồng: hùng hổ, rút chiếc thắt lưng, “chẳng nói chẳng rằng” quật tới tấp vào lưng người đàn bà => hành động hung bạo, dã man, lạnh lùng, như một con thú dữ.
+ Người vợ: cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.
+ Đứa con: giằng thắt lưng, quật lại bố để bảo vệ mẹ.
=> Giống như một vở kịch câm, không lời chú giải, đầy nghịch lí khiến câu hỏi về hiện thực trong Phùng muốn vỡ ra.
Nhận xét:
Phát hiện về một hiện thực gồ ghề, gai góc, ngang trái, phức tạp, không dễ lí giải, khác xa, thậm chí đối lập với vẻ đẹp bình yên của tác phẩm nhiếp ảnh.
* Mối quan hệ giữa hai phát hiện (mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nhà văn và cuộc đời)
- Phát hiện nghệ thuật, ở một chừng mực nhất định dễ thấy hơn phát hiện về hiện thực.
- Đời sống con người vốn bề bộn, phức tạp. Hiện thực không đơn chiều, giản đơn, toàn màu hồn mà đa chiều, phân tranh nhiều mảng sáng tối chưa dễ lí giải. Nhà văn nếu đứng ở ngoài xa để quan sát sẽ chỉ thấy một hiện thực mờ ảo - chiếc thuyền thấp thoáng biển khơi. Từ đó đòi hỏi nhà văn phải có cái nhìn sâu sắc, suy tư hơn nữa.
2. Người đàn bà làng chài và câu chuyện đời tự kể.
- Hình dáng: thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ.
- Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:
+ Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .
+ Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu mời.
+ Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” => kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá.=> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng => một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn) => Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với người chồng hung bạo kia?
- Câu chuyện cuộc đời:
+ Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe.
- Nội dung câu chuyện:
+ Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài
+ Đám đàn bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.
+ Bất kể lúc nào khổ quá, chồng lại lôi ra đánh, ngay trên tàu, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.
+ Lí lẽ để “đừng bắt tôi bỏ nó”:
+ Giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.
+ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển động => vì cần một trụ cột.
+ Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ.
+ Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.
=> Nhận xét:
Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, thấy được:
- Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh đập.
- Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu, am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.
- Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.
3.Một số nhân vật khác
- Chánh án Đẩu :
+ Là người đại diện cho công lý, luật pháp; có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lý.
+ Nhưng Đẩu mới nhìn cuộc đời của người đàn bà vùng biển ở một phía, anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân.
- Nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài
+ Vốn là một “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”
+ Một gã đàn ông vũ phu, tàn nhẫn, ích kỉ.
+ Một nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
- Thằng bé Phác
+ Một cậu bé giàu tình cảm yêu thương đối với mẹ.
+ Nhưng cũng giống như Đẩu, Phùng, nó mới chỉ nhìn thấy ở cha nó ở khía cạnh độc ác, tàn nhẫn mà chưa hiểu được “lẽ đời” bên trong.
+ Hình ảnh tiêu biểu của những đứa trẻ trong những gia đình có nạn bạo hành.
4. Tấm ảnh trong “bộ lịch năm ấy”.
- Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời).
-Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.
5. Một số đặc sắc về nghệ thuật.
- Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa.
+ Con thuyền có thật.
+ Con thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
- Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.
- Ngôn ngữ:
• Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật).
• Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình, dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)
6. Chủ đề
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật : nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.
III. CỦNG CỐ KIẾN THỨC
Đề 1: Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 2: Phân tích tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”
Đề 3: Phân tích những phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 4: Tính luận đề trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 5: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 6: Phân tích “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy cái nhìn thấu hiểu trĩu nặng tình thương và nỗi lo cho con người.
Đề 7: Phân tích các nhân vật trong “Chiếc thuyền ngoài xa” để làm nổi bật tư tưởng của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Gợi ý giải đề
Đề 1: Ý nghĩa nhan đề.
+ Xuất xứ tác phẩm:
+ Ý nghĩa nhan đề:
- Con thuyền có thật trong cuộc đời
- Con thuyền biểu tượng cho nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
- Cái đẹp nghệ thuật dễ tìm hơn cái đẹp đích thực của con người
- Nghệ thuật phải quan tâm đến đời sống và phải quan tâm đến con người.
Đề 2: Tình huống truyện.
+ Giới thuyết:
+ Phân tích:
- Nhận diện
- Mô tả
- Ý nghĩa:
- Giúp nhà văn khám phá tính cách, vẻ đẹp nhân vật người đàn bà.
- Thể hiện rõ nét tư tưởng
+ Đánh giá
- Tình huống bất ngờ và kì lạ
- Khơi gợi tư duy và cảm hứng người đọc.
- Tình huống có “sức xoáy”
Đề 3: Những phát hiện của nghệ sĩ Phùng
+ 2 phát hiện
+ Phân tích dựa vào phần Kiến thức cơ bản.
Đề 4: Những đổi mới trong cách nhìn hiện thực cuộc sống
+ Hiện thực cuộc sống: bề bộn, nhiều chiều, phức tạp, không nhất phiến, lí tưởng mà đầy ngang trái.
+ Vẻ đẹp của con người vì thế cũng khó phát hiện hơn, đòi hỏi phải có một góc nhìn khác.
Đề 5: Phân tích các nhân vật để làm nổi bật tư tưởng
Dựa vào kiến thức cơ bản để làm bài.
BÀI 12. HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(LƯU QUANG VŨ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tác giả:
Lưu Quang Vũ (1948- 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một gia đìng trí thức.
+ Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ đội và được biết đến với tư cách một nhà thơ tài năng đầy hứa hẹn.
+ Từ 1970 đến 1978: ônng xuất ngũ, làm nhiều nghề để mưu sinh.
+ Từ 1978 đến 1988: biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch và trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 với những vở đặc sắc như: Sống mãI tuổi 17, Hẹn ngày trở lại, Lời thề thứ 9, khoảnh khắc và vô tận, Bệnh sĩ, TôI và chúng ta, Hai ngàn ngày oan tráI, Hồn Trương Ba, da hàng thịt,
+ Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận, nhưng thành công nhất là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại
Lưu Quang Vũ được tặng giảI thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
2. Hoàn cảnh sáng tác
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch gây được nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch được viết năm 1981, nhưng đến năm 1984 mới lần đầu ra mắt công chúng.
3. Tóm tắt đoạn trích
+ Cảm thấy không thể sống như thế này mãi, hồn Trương Ba muốn thoát ra khỏi thân xác anh hàng thịt thô lỗ, phàm tục.
+ Cuộc đối thoại giữa hồn và xác. Hồn Trương Ba đành bần thần nhập lại thân xác anh hàng thịt.
+ Những người thân trong gia đình (vợ, cháu gái, con dâu) đều thấy Trương Ba đã khác xưa, đã lệch lạc nhiều lắm. Đau đớn cực độ, Trương Ba lập cập đến bên cột nhà, đốt hương để gặp Đế Thích.
+ Đế Thích thuyết phục Trương Ba chấp nhận cuộc sống hiện tại hoặc nhập vào thân xác cu Tị để bảo toàn sự sống. Trương Ba suy nghĩ, cân nhắc và đưa ra quyết định dứt khoát : chấm dứt sự hiện diện của một tồn tại trớ trêu có tên gọi là "hồn Trương Ba, da hàng thịt".
+ Hồn Trương Ba vẫn còn mãi giữa màu xanh cây vườn, trong những điều tốt lành của cuộc đời và trong kí ức yêu thương của những người thân.
II. PHÂN TÍCH
1. Nhân vật Trương Ba
a. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
Hồn Trương Ba: Cho rằng : “Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác "không có tiếng nói", "không có tư tưởng, không có cảm xúc", "chỉ là xác thịt âm u đui mù", "chỉ là cái vỏ bên ngoài".
Xác hàng thịt: khẳng định "ông không tách khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác". “Lí lẽ” mà xác đưa ra là : “Hai ta đã hoà với nhau làm một rồi”…
“Hồn Trương Ba: Hồn phủ nhận những “dẫn chứng” xác nêu ra không phải là hành động xuất phát từ ý thức của mình : “Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày…”.
Xác hàng thịt: Xác “chứng minh” ảnh hưởng “sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết” Hồn Trương Ba: Hồn cho rằng đó là những lí lẽ “ti tiện” không thể chấp nhận được.
Xác hàng thịt: Xác “tìm kiếm giải pháp” cho sự tồn tại “hoà bình” mang tên "hồn Trương Ba, da hàng thịt" bằng “trò chơi tâm hồn”. “Luật chơi” là hồn cứ việc nghĩ mình cao khiết thánh thiện, làm điều gì xấu thì cứ đổ tội cho xác để được thanh thản. Bù lại hồn sẽ làm đủ mọi việc để thoả mãn những khát thèm của xác.
Nhận xét chung:
- Hồn Trương Ba trở thành người “đuối lí” trong cuộc đối thoại này:
+ Từ chỗ cao giọng phủ nhận : “Vô lí, mày không thể biết nói !”, "Mày không có tiếng nói" đến chỗ chấp nhận xác có tiếng nói, nhưng đó là “tiếng gọi nơi hoang dã” của bản năng thấp kém, tầm thường.
+ Từ chỗ phủ định quyết liệt, lớn giọng khi xác đưa ra những bằng chứng “hai năm rõ mười” về sức mạnh sai khiến của nó, đến chỗ “không dám trả lời”, lúng túng trong câu nói đứt quãng “Ta… ta… đã bảo mày im đi”, “Nhưng… nhưng…”.
+ Từ chỗ hăng hái đấu lí, đáp lại tất cả những lí lẽ xác đưa ra, đến chỗ “bịt tai lại” “Ta không muốn nghe mày nữa”.
+ Từ cách xưng hô “mày” – “ta” vào đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra khi cuộc đối thoại ở vào hồi kết : “Ấy đấy, ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đấy !”.
+ Từ mạnh mẽ, đầy khí thế đấu tranh, đến tiếng kêu “trời” tuyệt vọng và dáng dấp bần thần tội nghiệp nhập lại thân xác anh hàng thịt cho người đọc cảm giác dường như hồn đã bị dồn vào con đường cụt không lối thoát, đành phải chấp nhận sự an bài, “hoà thuận” “hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
- Trong cuộc đối thoại, xác hàng thịt mỗi lúc một lấn lướt, dồn đuổi hồn Trương Ba:
+ Xác chủ động “tuyên chiến” khi hồn khao khát được tồn tại độc lập riêng mình.
+ Xác thách thức, giễu cợt mỉa mai hồn : “có đấy”, “có tiếng nói đấy”, “có thật thế không”.
+ Xác cao giọng khoái chí đòi hồn phải “thành thật trả lời”.
+ Xác biết rõ người ta nghĩ gì về mình, đồng thời cũng tỏ ra hiểu thấu từ điệu bộ lúng túng bên ngoài đến những biện luận bên trong tìm kiếm sự thanh thản và vô tội của hồn.
+ Xác “lợi khẩu” khi đưa ra lí lẽ. Xác “mềm dẻo” trong thuyết phục, tranh luận. Khi thì sử dụng lí lẽ, lúc đưa ra bằng chứng. Khi thì cao giọng thách thức, lúc buồn rầu thanh minh. Khi thì đắc ý, tinh quái, lúc lại vuốt ve xoa dịu, an ủi mà mỉa mai. Vừa dụ dỗ, mua chuộc vừa trắng trợn phỉ báng. Xác đã chứng tỏ được ưu thế của nó, uy quyền của nó, sự chi phối khủng khiếp của nó bằng kết cục màn đối thoại là “cái hồn ương bướng” lại tìm về với chỗ trú thân là xác anh hàng thịt.
® Cuộc đối thoại cũng cho thấy sự ngộ nhận của hồn về chính mình. Sau bấy nhiêu chuyện đã xảy ra với gia đình và bản thân, hồn vẫn cho rằng mình nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, mọi tội lỗi đều là do xác gây nên. Cho nên không phải ngẫu nhiên xác khẳng định “tác giả” của “trò chơi tâm hồn” không ai khác ngoài “những điều ông vẫn tự nói với mình và với người khác đấy chứ”, xác chỉ làm nhiệm vụ “tổng kết” và phát biểu “luật chơi” cho rõ ràng, cụ thể mà thôi. Mâu thuẫn kịch tạm thời chùng xuống để chờ đợi một cao trào bùng nổ mới, chỉ xảy ra khi nào điều ngộ nhận trên được “vỡ lẽ” hoàn toàn.
Hàm ý của cuộc đối thoại : Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần “người” và phần “con” trong mỗi con người.
b. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và những người thân
- Trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba đã không còn là mình. Tất cả những người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng hoàng.
- Người vợ yêu thương rưng rưng trong dòng nước mắt tủi thân tủi phận, chua chát, dằn dỗi.
- Đứa cháu gái vỡ oà tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao ông nội thân yêu gần gũi lại trở thành một người “xấu lắm, ác lắm”.
- Chị con dâu bàng hoàng dòng nước mắt sẻ chia và bế tắc, muốn thương, muốn níu giữ hình ảnh của thầy mà không biết phải làm thế nào.
- Trương Ba “thẫn thờ”, ông ôm đầu bế tắc, để rồi nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ vừa bàng hoàng vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát: thắp hương, châm lửa để gọi Đế Thích.
- Ý nghĩa:
→ Cả nhà đau khổ chán ngán tình cảnh hồn Trương Ba sống trong xác anh hang thịt. Đấy là động lực để đi đến quyết định cuối cùng của hồn Trương Ba: Thắp hương mời Đế Thích xuống.
c. Đối thoại giữa Trương Ba - Đế Thích
* Trương Ba
+ Sự khập khiễng của “hồn Trương Ba, da hàng thịt” và giá mà nó phải trả khi cố gắng duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn bao giờ hết cái khát vọng : “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”. “Là tôi trọn vẹn”, cái điều tưởng chừng đơn giản nhưng lại chẳng dễ chút nào. Thói quen “sống nhờ, sống gửi” đã khiến con người ta có lúc quên đi cái tôi của bản thân mình. Thói quen “áp đặt” của Đế Thích cho người đời đôi khi cũng làm cho mong muốn giản dị “là tôi trọn vẹn” nghịch lí thay, lại trở thành khát vọng.
+ “Là tôi trọn vẹn”- dám là mình, dám chịu trách nhiệm về mình. Sống thực cho ra con người thật chẳng dễ chút nào. Sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là mình trọn vẹn, đó là sống với bất cứ giá nào - kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô cùng. Ham sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi con người. Nhưng… Nếu cái giá phải trả đắt quá. Thì nhất định không thể sống như vậy được !
+ Hồn Trương Ba trước khi bước vào thế giới vình hằng còn qua một phép thử nữa, phép thử có tên “cu Tị”. Trương Ba hình dung trước cảnh một ông già 60 ngụ trong thân xác của một cậu bé 10 tuổi thì cũng đầy bi kịch. Trương Ba không chấp nhận.
+ Lựa chọn của Trương Ba là tất yếu. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái chết, chấp nhận sự hư vô để được "là tôi trọn vẹn". Đó là lẽ tất yếu bởi Trương Ba đã thấm thía cái bi kịch đau đớn của cảnh không được là mình. Tất yếu bởi Trương Ba đã “ngộ” ra nhận thức về lẽ sống. Tất yếu bởi đó là kết quả của sự đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh.
* Đế Thích
- Quan niệm về sự sống rất đơn giản, sống chỉ là sự tồn tại
- Ích kỉ, muốn Trương Ba sống chỉ là để thoả mãn thú hơi cờ của mình.
- Ý nghĩa:
→Vẻ đẹp tâm hồn của con người sẽ thắng trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn hợp với lẽ tự nhiên cùng sự toàn thiện nhân cách. Đây là chất thơ trong kịch của Lưu Quang Vũ.
2. Đặc sắc nghệ thuật
- Sáng tạo cốt truyện dân gian.
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách góp phần phát triển tình huống truyện.
- Những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm về lẽ sống đúng đắn.
3. Chủ đề
Qua đoạn trích và cả vở kịch, tác giả muốn khẳng định: được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn còn quý giá hơn. Con người phải luôn đấu tranh với nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung tục để hoàn thiện nhân cách.
HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. (2 điểm): Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt có ý nghĩa gì?
Câu 2. (2 điểm): Chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm của Trương Ba và Đế Thích về ý nghĩa sự sống?
Câu 3. (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật Trương Ba trong đoạn trích?...
MỘT SỐ MỞ BÀI THAM KHẢO
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học dân tộc Việt Nam. Người đã viết thành công trên nhiều thể loại văn chính luận, truyện ký, thơ ca và ở thể loại nào cũng có những tác phẩm xuất sắc mẫu mực. Riêng ở thể loại văn chính luận Hồ Chí Minh đã chứng tỏ mình là một cây bút xuất sắc, mẫu mực mà dẫn chứng hùng hồn là tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” 1945. “Tuyên ngôn độc lập” là một bản tuyên bố lịch sử được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Bản “Tuyên ngôn độc lập” vừa tuyên bố nền độc lập của dân tộc vừa bác bỏ luận điểm xâm lược của kẻ thù. “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận vừa có giá trị pháp lí, giá trị lịch sử, giá trị nhân văn và giá trị nghệ thuật cao. Cái tạo nên giá trị nghệ thuật cao chính là ở bút pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn, văn phong xúc tích trong sáng.
MB 1 :
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thoả niềm khát khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên và ở tâm hồn của người lao động. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội hoặc những cảnh thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm là những trang văn miêu tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất trữ tình và lãng mạn.
MB 2 :Đề bài: Cảm nhận của em về hình tượng người lái đò trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của núi rừng Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười trong những con người đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng quê hương. Chất vàng mười i ấy chính là vẻ đẹp người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ vĩ đại của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông ghi dấu các sự kiện, các dấu mốc của lịch sử quan trọng ở nước ta suốt hơn nửa thế kỉ. Việt Bắc là một trong số những bài thơ tiêu biểu. Tác phẩm ghi lại sự kiện Đảng và Nhà nước chuẩn bị rời Việt Bắc về Hà Nội sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Trong bài thơ của mình, Tố Hữu đã thể hiện những tình cảm tha thiết của người đi – kẻ ờ, thể hiện những cảm nhận sâu sắc của tác giả về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ nét qua đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta,
….Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
MB1 . Dùng cho nhân vật T Nú :
Rừng xà nu là bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu anh hùng của đồng bào Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Tái hiện chân thực cuộc chiến đâu kiên cường của nhân dân Tây Nguyên trong những ngày đánh Mỹ, nhà văn tập trung miêu tả hình thành của một thê hệ tiếp nối, phát huy truyền thống anh hùng của cha ông, và qua đó nhà văn cũng phản ánh sự trưởng thành của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh một mất một còn với kẻ thù mới là đế quốc Mỹ. Tiêu biểu cho thế hệ thanh niên đó là Tnú.
MB 2 : Dùng cho đề bài : cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn sau :
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối….Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
Bài làm:
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quốc Mỹ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Tác phẩm rất thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh rừng xà nu- một loài cây hùng vĩ, cao thượng, man dại, trong sáng cũng là hình ảnh ẩn dụ cho người dân Tây Nguyên nói riêng, con người Việt Nam nói chung. Ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ, để lại ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Mở bài khác :
Mỗi nhà văn dường như đều gắn bó với một vùng quê nhất định . Nếu như Nguyên Hồng tha thiết với Hải Phòng –thành phố hoa phượng đỏ, Nam Cao gắn bó cả cuộc đời với làng Vũ Đại qua những trang văn sắc lạnh mà thấm đẫm nước mắt, thì Nguyễn Trung Thành dường như có một niềm yêu thiết tha và mối giao cảm kì lạ với Tây Nguyên. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chính mảnh đất và con người nơi đây là nguồn cảm hứng lớn lao cho sáng tác của ông, làm nên tác phẩm “Rừng xà nu”- một bản anh hùng ca thời hiện đại. Đến với “Rừng xà nu”, ngay ở đoạn văn mở đầu truyện, ta bắt gặp hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ, để lại ất tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Có ai đó đã từng nhận xét: suy cho cùng thì ý nghĩa thực sự của văn học là góp phần nhân đạo hoá con người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó. Vì vậy tác phẩm văn học chỉ thực sự cóđ giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ con người. Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một tác phẩm như thế.
2. Đề bài :
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn văn trích sau đây trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài:
“Ngày Tết, MỊ cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng MỊ thì đang sống về ngày trước…..
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai làng đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi, Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.”
BÀI LÀM
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc. Đoạn vân trên thể hiện rất rõ tài năng của Tô Hoài trong việc mô tả và khắc họạ tâm trạng nhân vật Mị, một nhân vật trung tâm của thiên truyện Vợ chồng A Phủ.
MỘT SỐ ĐỀ DẠNG KIỂU LIÊN HỆ
Đề 1: Anh (chị) hãy phân tích biểu tượng hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.Từ đó, liên hệ hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam ) để nhận xét về giá trị của các biểu tượng nghệ thuật trên.
Gợi ý làm bài:
1. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là nhà văn khoác áo lính, tiên phong mở đường cho sự đổi mới văn học Việt Nam hiện đại.
- Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông thuộc sáng thời thời kì sau 1975 là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Nêu vấn đề cần nghị luận
2. Thân bài
a. Khái quát truyện
- Chiếc thuyền ngoài xa (1983) rút ra từ tập truyện ngắn cùng tên (in 1987). Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu mang đậm phong cách tự sự - triết lí của nhà văn.
-Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời.
b. Cảm nhận ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa
* Về nội dung:
- Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Hình ảnh đó mang một “vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích” – vẻ đẹp của “một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ”. Tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó “được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
- Hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục…và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác “trở nên bối rối”, cảm thấy “trái tim như có cái gì bóp thắt vào” và “khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”…như cái cảm giác mà “tôi” đã từng có.
- Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được:Đó là những con nguời, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn cuồng nộ của anh chồng với “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình… Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi “chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!
- Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc – thuyền – ngoài – xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
- Vậy nên, có thể nói hình tượng “Chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật. Con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
* Về nghệ thuật:
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
-Tình huống truyện: tình huống nhận thức
c. Liên hệ hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam ) để nhận xét sự gặp gỡ về giá trị hiện thực từ các biểu tượng nghệ thuật trên.
- Về hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ (Thạch Lam )
+ Nêu đôi nét về nhà văn Thạch Lam và truyện Hai đứa trẻ;
+ Phân tích ý nghĩa hình ảnh chuyến tàu đêm:
++Con tàu mang đến một thế giới khác: Nó như con thoi ánh sáng xuyên thủng màn đêm phố huyện, đem lại ánh sáng xa lạ, rực rỡ chốn thị thành, át đi ánh sáng mờ ảo, yếu ớt của phố huyện. Âm thanh của còi tàu, bánh xe rít trên đường ray và tiếng ồn ào của hành khách át đi buồn tẻ, đơn điệu phố huyện. Nó là thói quen, là niềm vui, là sự chờ đợi, trở thành nhu cầu thiết yếu như cơm ăn, nước uống hàng ngày cho đời sống tinh thần người dân phố huyện;
++ Với hai đứa trẻ, đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.
++Ngòi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới tương lai.
- Nhận xét sự gặp gỡ về giá trị hiện thực từ các biểu tượng nghệ thuật:
+ Hình ảnh chuyến tàu đêm trong truyện Hai đứa trẻ và biểu tượng Chiếc thuyền ngoài xa đều là những hình ảnh có thực trong cuộc sống. Hình ảnh đó đã được các nhà văn lựa chọn để đưa vào tác phẩm với nhiều tầng nghĩa sâu sắc. Họ gặp gỡ nhau trong việc phản ánh hiện thực đời sống. Với Thạch Lam, hiện thực đó là một phố huyện nghèo nàn, buồn tẻ và đơn điệu, cùng với cuộc sống của cả một lớp người, sống không có hi vọng vào ngày mai, nếu có chăng là nhìn thấy thoáng qua sự ồn ào, vẻ sang trọng của người khác. Khi đoàn tàu đã đi xa, phố huyện “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, chỉ còn “vợ chồng bác xẩm ngủ gục manh chiếu tự bao giờ”, và “hình ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong đôi mắt” của Liên. Với Nguyễn Minh Châu, hiện thực đó là cuộc sống bấp bênh, cơ cực vì khổ quá mà sinh ra bạo hành gia đình của người dân hàng chài. Hình ảnh người đàn bà bước ra từ tấm ảnh sau mỗi lần nhân vật Phùng nhìn lâu hơn là biểu tượng cho cuộc đời lam lũ của con người thời hậu chiến mà nhà văn phải có trách nhiệm phát hiện và phản ánh bằng cái nhìn đa chiều, đa diện.
+ Sự gặp gỡ trong giá trị hiện thực từ các biểu tượng nghệ thuật của 2 nhà văn ở 2 thời kì lịch sử khác nhau đã làm sáng tỏ một trong quy luật của văn học, đó là văn học gắn liền với hiện thực. Đồng thời, các nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này, đúng như Nguyễn Minh Châu đã nói “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”.
3. Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 hình ảnh đa nghĩa trong 2 truyện. Cảm nghĩ của bản thân về giá trị hiện thực của văn học.
VỢ CHỒNG A PHỦ- CHÍ PHÈO
Đề 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tinh thần phản kháng của nhân vật Mị trong cảnh Mị cởi trói A Phủ ( truyện Vợ chồng A Phủ- Tô Hoài). Liên hệ hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí Phèo trong truyện Chí Phèo ( Nam Cao) để bình luận ngắn gon sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của mỗi nhà văn khi viết tác phẩm của mình.
Gợi ý:
I. Mở bài:
-Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người.
- Trong truyện, kết thúc phần 1, Tô Hoài ca ngợi vẻ đẹp tinh thần phản kháng của nhân vật Mị trong cảnh Mị cởi trói A Phủ . So với kết thúc truyện Chí Phèo của Nam Cao, người đọc nhận thức được sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của mỗi nhà văn khi viết tác phẩm của mình.
II. Thân bài:
1. Khái quát về truyện, nhân vật:
- “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” lấy bối cảnh ở miền núi Tây Bắc và câu chuyện xoay quanh 2 nhân vật Mị và A Phủ.
- Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và giải phóng Tây Bắc.
- “Vợ chồng A Phủ” In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
- Tóm tắt diễn biến: Vợ chồng A Phủ xoay quanh về nỗi khổ của Mị và A Phủ - những đứa con của núi rừng Tây Bắc, dưới ách thống trị của chúa đất và thực dân. Phần đầu kể về cuộc sống nô lệ tủi nhục của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra. Phần sau kể về quá trình giác ngộ tư tưởng Cách mạng và nên duyên của đôi vợ chồng. Từ đó, phản ánh sự vận động trong nhận thức của tuổi trẻ vùng cao về con đường đấu tranh tư tưởng giải phóng cuộc đời mình. Đặc biệt, hành động cởi trói của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ được xem là nút thắt cuối cùng trong diễn biến của câu chuyện, đẩy cuộc đời Mị và A phủ sang một trang mới, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp tinh thần phản kháng của Mị trước những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về vẻ đẹp tinh thần phản kháng của nhân vật Mị trong cảnh Mị cởi trói A Phủ
* Về nội dung:
- Tình huống để Mị bộc lộ tinh thần phản kháng của mình: Hoàn cảnh Mị gặp A Phủ:
+ A Phủ đánh A Sử (A Sử gây sự trước) nên bị bắt phạt ra ở đợ. A Phủ để con hổ ăn thịt nửa con bò nên bị Thống lí Pá Tra (A Phủ đã xin đi bắt con hổ lấy công chuộc tội nhưng không được cho phép) trói vào cây cọc bằng sợi dây mây. Những hình phạt được đưa ra đều không phù hợp, thậm chí có phần vô lí, bắt bớ, lạm quyền.
+Mị gặp đã gặp A Phủ trong hoàn cảnh bị trói nhờ ánh lửa. Mấy đêm liền thấy A Phủ bị trói như thế nhưng Mị vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Ở trong cái khổ, Mị đã quen với cái khổ nên tỏ ra thờ ơ, vô cảm tê liệt tinh phần phản kháng.
- Quá trình thức tỉnh, từ sự đồng cảm đến ý chí đấu tranh, từ nạn nhân trở thành ân nhân của Mị. Vẻ đẹp đầu tiên của sự phản kháng là cứu người.
+Trong đêm hôm ấy, lúc cả nhà đã ngủ yên, Mị cũng trở dậy thổi lửa như mọi ngày. “Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xám đen lại”. Chính những giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức cảm nhận của Mị.
++ Sự hồi tưởng của Mị: “Mị nhớ đêm năm trước A Sử trói Mị”, “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.”. Từ đó dẫn đến sự đồng cảm. Vì đã ở lâu trong cái khổ nên Mị là người cảm nhận được cái khổ sâu sắc nhất, thương mình mà nghĩ đến người.
++Quá trình nhận thức, lên án, tố cáo việc làm của nhà thống lí nói riêng và kẻ thù giai cấp nói chung: “nó bắt trói đứng người ta đến chết”, ‘nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”, “chúng nó thât độc ác”.
++ Mị ý thức được sự sống của A Phủ chỉ còn rất mong manh, nếu không cứ chỉ chừng đêm mai là hết, “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”.
++ Mị chấp nhận số phận của mình “nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi” nhưng vẫn cho rằng việc A phủ chết tại đây là một điều vô lí “người kia việc gì mà phải chết”. Dù bị đối xử tệ bạc nhưng bản chất trong sáng, hiền lành của Mị vẫn không bị mất đi, phản ánh tâm hồn cao đẹp của Mị, hiểu và xót xa trước nỗi đau của người cùng cảnh ngộ.
++ Giả thiết về hậu quả của việc cởi trói cho A Phủ: “bố con Pá Tra sẽ bảo Mị đã cởi trói” “Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Đó có thể là hậu quả và kết thúc của Mị nếu bị phát giác. Thế nhưng “ trong tình cảnh này làm sau Mị cũng không thấy sợ”. Mị đã suy nghĩ đến việc cứu A Phủ.
+ Từ suy nghĩ đúng, Mị hành động đúng:
++ Tâm trạng thể hiện qua bước đi: “rón rén”; qua thái độ: “hốt hoảng”, qua lời nói; “thì thào” 1 tiếng “ĐI NGAY” . Mị vẫn còn lo sợ nhưng vẫn mạnh mẽ và dứt khoát.
++ Mị cắt đứt dây mây, xiềng xích nô lệ của cuộc đời, để cứu A Phủ được tự do. Hành động cứu người của Mị là một hành cộng chứng minh cho quy luật “tức nước vỡ bờ”, ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh. Mị dùng sự đồng cảm và căm hờn của chính mình để làm động lực và sức mạnh để cứu lấy A Phủ, chứng minh cho tình thần mạnh mẽ, và ý chí phản kháng âm ỉ của Mị. Chính khát khao được tự do và sự thấu hiểu của Mị là sức mạnh chiến thắng tâm lí sợ hãi, đi đến hành động đầu tiên là chống đối và cứu giúp những người cùng hoàn cảnh với mình.
- Quá trình tự giải thoát chính mình của Mị, đỉnh cao của sự phản kháng là cứu thoát chính mình. Vẻ đẹp thứ hai của sự phản kháng là cứu mình.
+ Mị đứng lặng trong bóng tối. Những tưởng đây là kết thúc của cuộc đời Mị. Vì ngay cả trong khi cứu A Phủ, Mị cũng không hề có ý định tự cứu thoát chính mình. Tại thời điểm đó, Mị tưởng chừng đã chấp nhận, đầu hàng trước số phận. Nô lệ và tự do. Bóng tối và ánh sáng. Bất hạnh và hạnh phúc. Mị đang phân vân.
+ Mị chạy theo A Phủ. Đây chính là hành động trung tâm bộc lộ vẻ đẹp của tinh thần phản kháng. Mị tự ý thức được mình không đáng phải chịu tình cảnh phải làm con dâu gạt nợ như thế. Chính tại thời điểm đó, khát vọng sống, tự do, hạnh phúc chính thức được đánh thức. Mị đã chiến thắng nỗi sợ hãi, do dự, chần chừ.
+ Mị tự cứu thoát cho chính mình. Và chọn đi vào một con đường khác, tự mình bước ra ánh sáng và cứu rỗi chính mình khỏi những ngày tháng tối tăm. “Người đàn bà chê chồng đó vừa tự cứu chính mình”.
* Về Nghệ thuật:
- Miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế, phù hợp với quy luật phát triên tâm lí, hành động của nhân vật;
- Ngôn từ sáng tạo, câu văn giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đậm chất thơ
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
2. Liên hệ tới kết thúc truyện Chí Phèo để nhận xét sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của mỗi nhà văn khi viết tác phẩm của mình.
a. Về kết thúc truyện Chí Phèo
+ Chí Phèo của Nam Cao là tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Nam Cao luôn đau đáu về số phận bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, về số phận hẩm hiu của những người nông dân bị đẩy vào con đường bần cùng tha hóa.
+ TP Chí Phèo kết thúc với hành động Chí Phèo giết bá Kiến và tự sát.
Cách kết thúc gợi nhiều suy nghĩ về số phận con người trong xh cũ
Chí Phèo chết. Đó là kết cục tất yếu khi con người ( đã thức tỉnh ) bị dồn đẩy đến bước đường cùng, buộc phải lựa chọn giữa cái chết (chết để giữ nhân cách vừa sống lại) và sống (sống cuộc đời lưu manh, tha hóa).
Cái chết của CP là tiếng kêu cứu của Nam Cao: hãy cứu lấy con người
b. Nhận xét:
+ Giống nhau: Qua kết thúc truyện Chí Phèo và phần 1 truyện Vợ chồng A Phủ, cả 2 nhà văn đều để nhân vật thức tỉnh nhằm đòi quyền sống, thoát ra khỏi bị kịch của kiếp người bị áp bức dưới chế độ thực dân phong kiến bạo tàn.
+ Khác nhau:
++ Sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của nhà văn Nam Cao khi viết phần kết thúc tác phẩm nói riêng, cả truyện Chí Phèo nói chung: Cách kết thúc thể hiện cái nhìn bi quan, bế tắc trước hiện thực. Nhà văn chưa tìm ra được lối thoát cho số phận những người dân nghèo. Truyện ngắn ra đời năm 1941, sáng tác theo trào lưu hiện thực nên Nam Cao bị tác động không nhỏ từ hoàn cảnh lịch sử xã hội.Nhà văn chưa tiếp nhận sâu sắc tư tưởng cách mạng nên chưa tìm ra lối thoát tích cực hơn cho nhân vật của mình
++ Sự tác động của bối cảnh lịch sử đối với tư tưởng của nhà văn Tô Hoài khi viết phần kết thúc phần 1 nói riêng, cả truyện Vợ chồng A Phủ nói chung: Cách kết thúc của “Vợ chồng A Phủ”: Hai người thành vợ chồng và trốn sang Phiềng Sa. A Phủ kết nghĩa với A Châu, cán bộ cách mạng, rồi A Phủ trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội bảo vệ quê hương. Hai nhân vật làm lại từ đầu bằng một thân phận và một vai trò mới, gạt quá khứ tăm tối ra sau và dùng nó để làm động lực sống cuộc đời mới. Cách kết thúc thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả. Nhân dân đã có một lối đi, lối thoát khỏi những lầm than.Truyện “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952, sau tám tháng nhà văn cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc. Truyện sáng tác theo trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa nên Tô Hoài có cái nhìn biện chứng, thấy được quy luật vận động tất yếu của lịch sử.
+ Nguyên nhân khác nhau:
Do yếu tố thời đại nên cách nhìn hiện thực và cách giải quyết hiện thực của 2 tác giả khác nhau ( 2 tác phẩm thuộc 2 thời kì văn học khác nhau: Trước và sau cách mạng tháng Tám...). Từ đó, người đọc cảm nhận được vai trò của CMT8, vai trò của đường lối chính sách đúng đắn. Nếu trước đây Chí Phèo phải thốt lên “Ai cho tao lương thiện” và tự kết liễu cuộc đời mình để được giữ tâm hồn lương thiện thì đối với Mị và A Phủ, những băn khoăn bất lực được gỡ bỏ, gửi gắm niềm tin vào sự đổi đời của con người.
III.Kết bài
- Kết luận chung về vẻ đẹp của sự phản kháng: Là sự hi sinh, thức tỉnh, đồng cảm, đi đến hạnh động cứu người và cứu lấy chình mình.
- Nêu ý nghĩa của sự phản kháng: Sức sống mạnh mẽ và tinh thần phản kháng tiềm tàng Mị chính là sức sống và tinh thần phản kháng của giai cấp nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, nó sẽ biến thành một sức mạnh quật khởi, thành cơn thác lũ cách mạng khi có ánh sáng của Đảng rọi vào.
- Cảm nhận chung về kết thúc của 2 tác phẩm.
Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về phát hiện của nghệ sĩ Phùng trên bờ biển trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa ” của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Từ đó, liên hệ đến khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài ” của Nguyễn Huy Tưởng để nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Gợi ý:
I. Mở bài
- Nguyễn Minh Châu, nhà văn của những người lính, đã rất thành công với nhiều tác phẩm mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trước 1975, lại tiếp tục sáng tác với nhiều trăn trở về cách khám phá hiện thực cũng như phương thức thể hiện. Nhờ những nỗ lực không ngừng của một người lao động nghệ thuật dũng cảm và đầy bản lĩnh, Nguyễn Minh Châu đã có mặt trong hàng ngũ những nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Thành công nổi bật trong sáng tác của ôn thời kì sau 1975 là truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật nghệ sĩ Phùng để lại ấn tượng sâu sắc qua những phát hiện của anh trên bờ biển. Đồng thời, qua khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài ” , ta thấy cả 2 tác giả đều đặt ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
II.Thân bài
1. Khái quát về truyện ngắn, nhân vật:
- Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX. Truyện ngắn là thành công mới trong phong cách tự sự triết lý.
-Với ngôn từ dung dị, đời thường, truyện kể lại chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc của người nghệ sĩ đó về nghệ thuật - cuộc đời.
2. Cảm nhận phát hiện nghệ thuật và sự trưởng thành trong nhận thức của nghệ sĩ Phùng:
* Về nội dung:
- Phát hiện lần thứ nhất: Bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng
+ Sau những ngày phục kích săn ảnh, trước mắt anh là một cảnh tượng trời cho. Hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng sương mù trắng như sữa có pha đôi chủt màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu tròi mù sương... Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra được một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh và có những bức ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.
+ Cảm giác vui sướng trước khoảnh khắc trong ngần của cảm xúc mà trong suốt cả cuộc đời làm nghệ thuật của anh không dễ gì có được...
- Phát hiện lần thứ hai: Bức tranh hiện thực đời sống đầy nhọc nhằn, cay đắng.
+ Trong con mắt Phùng, phát hiện thứ hai là xấu xí, tồi tệ. Anh ta không thể ngờ một vùng bờ phá đẹp, bình yên mà anh ta vừa thu vào chiếc máy ảnh Pra- ti-ca nay lại tối sầm lại trong nạn bạo lực gia đình, không còn màn sương mai, ánh mặt trời mà thay vào đó là bão táp, là giông tố của biển khơi. Nó được đẩy lên đến cao trào khi người đàn ông rút chiếc thắt lưng và đánh tới tấp vào lưng người đàn bà. Lão như một con mãnh thú gầm thét lao vào con mồi, còn người đàn bà thì cam chịu, nhẫn nhục. Mụ “không kêu lên một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy”... Rõ ràng đối với Phùng cảnh này là không thể tưởng tượng được đến “há hốc mồm ra mà nhìn”. Anh ta không hình dung được trong đầu mình cuộc sống lai có những sắc màu, vết cứa như vậy. Anh ta nghĩ rằng, vùng bờ phá này chỉ có sự thanh bình, khoáng đạt nhưng ý nghĩ và nhận thức đó là đơn điệu, sai lầm. Bởi vì bản chất của cuộc sống là bức tranh đa màu sắc, ngoài vẻ đẹp nó còn cả sự tăm tối, xấu xí.
+ Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà án huyện, với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ bến đối với những đứa con. Phùng căy đắng nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là bao ngang trái, éo le của đời thường mà anh chưa hiểu hết.
+Tình huống được tạo nên ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là sự tương phản giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật thì đẹp nhưng cuộc đời sao đầy rẫy bao ngang trái.
+ Nếu như so sánh với phát hiện thứ nhất, thì phát hiện thứ hai này tuy không có giá trị về vật chất nhưng lại trở nên vô giá đối với một con người. Bởi vì, trước khi làm nghệ sĩ, Phùng phải sống như một con người, phải có nhận thức đầy đủ và ứng xử với mọi thứ xung quanh. Cho nên, sự can thiệp của anh ta với nạn bạo lực gia đình là điều đáng khích lệ trong tư duy người nghệ sĩ.
+ Chính sự đối lập trong hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm đến người đọc một vấn đề nhân sinh rất mới mẻ. Đó chính là cuộc sống đầy đau khổ, bạo lực, tàn nhẫn mà con người phải chịu đựng. Chiến tranh đã đi qua nhưng những đau thương mà nó để lại vẫn còn đó. Cuộc chiến với đói nghèo, với những bất cập thời hậu chiến vẫn còn đó, vẫn ngang nhiên thách thức với con người. Và đó mới chính là mối lo thực sự ẩn sau những áng mây hồng hồng đầy thơ mộng. Phùng những tưởng anh đã chạm đến cảnh giới cao nhất của nghệ thuật, nhìn thấy vẻ đẹp được coi là “đạo đức” của cuộc đời.Nhưng Nguyễn Minh Châu đã làm trọn vẹn thiên mệnh của người nghệ sĩ đã khai sáng cho Phùng và cho cả chúng ta nữa về đời sống nhân sinh. Chiến tranh kết thúc không chỉ có nụ cười hoa nở mà còn có cả những dòng nước mắt (gia đình hàng chài chính là nạn nhân của thời hậu chiến - nền kinh tế lạc hậu, thất học). Hiện thực cuộc sống còn nhiều bất hạnh, mà con người phải đối mặt. Viết tác phẩm năm 1987, Nguyễn Minh Châu đã anh dũng dám nói đến phần hiện thực gai góc, sẫm màu của xã hội.
+Những nhận thức tiến bộ, tích cực của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng giúp anh tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm nghệ thuật: Trưởng phòng rất hài lòng về tấm ảnh. Mãi về sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ thuật. Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trâo dâng. Anh luôn luôn nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà lam lũ với tấm lưng áo bạc phếch, nửa thân người ướt sũng đi ra từ bức ảnh đó. Chất sống của hiện thực đã giúp tác phẩm nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng bất tử trước thời gian.
* Về nghệ thuật:
- Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.
- Ngôn ngữ người kể chuyện thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
3. Liên hệ đến khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài ” của Nguyễn Huy Tưởng để nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
a. Về khát vọng của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng đài ” của Nguyễn Huy Tưởng
+ Nguyễn Huy Tưởng là một nghệ sĩ lớn của văn học Việt Nam hiện đại với những thành công xuất sắc ở hai thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa sâu sắc, thâm trầm. Sinh thời, ông luôn khao khát viết được những tác phẩm có qui mô lớn, nói được những vấn đề có tầm triết lí sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật.
+Vũ Như Tô là một trong những thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của Nguyễn Huy Tưởng nói riêng, của thể loại kịch nói hiện đại Việt Nam nói chung. Từ một sự kiện lịch sử xảy ra ở Thăng Long vào khoảng đầu thế kỉ XVI, dưới triều vua Lê Tương Dực, Nguyễn Huy Tưởng đã hư cấu và sáng tạo nên Vũ Như Tô, đặt ra những vấn đề lớn lao, sâu sắc về cuộc sống và nghệ thuật.
+ Vũ Như Tô được biết đến trong tác phẩm là một kiến trúc sư thiên tài, một nghệ sĩ có nhân cách và có khát vọng nghệ thuật cao cả, lớn lao. Ồng luôn khao khát xây dựng được những công trình vĩ đại trở thành niềm tự hào cho con cháu muôn đời sau. Bắt tay vào xây dựng Cửu Trùng Đài - một công trình mĩ thuật thế kỷ dưới sự chỉ đạo của hôn quân Lê Tương Dực, ông đã gặp phải sự cản trở rất lớn của quần chúng nhân dân.. .và dẫn đến bi kịch Vũ Như Tô.
+Cửu Trùng Đài là một công trình kiến trúc tuyệt tác, được xây bằng tài hoa tuyệt đỉnh và tâm huyết của Vũ Như Tô. Thế nhưng với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài là phần tâm hồn, là sinh mệnh còn với nhân dân, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu cần bởi nó hiện thân cho cái đẹp xa hoa, đi ngược lại với lợi ích của người lao động.
+ Vũ Như Tô rơi vào bi kịch bị vỡ mộng. Cho đến phút cuối cùng, Vũ Như Tô vẫn không thể hiểu và không thể tin rằng việc mình làm là trái với quyền lợi của nhân dân. Ồng vẫn một mực khẳng định rằng mình không có tội và không thể hiểu vì sao dân chúng lại nổi lên phá Cửu Trùng Đài, không hiểu vì sao xây dựng Cửu Trùng Đài lại là việc làm hại nước, hại dân. Điều bi thương nhất của Vũ Như Tô là sự lạc lõng của ông giữa những kẻ nông nổi và tàn ác, là sự cô đơn đến đáng thuơng trước lòng hận thù của nhân dân
+ Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của nhân dân.
b. Nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống
- Giống nhau: Cả hai tác phẩm này đều dựng lên một nhân vật người nghệ sĩ hết lòng đam mê nghệ thuật, nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà để lại những trăn trở rất lớn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống:
+ Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, phục vụ cuộc sống. Nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp.
+ Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật đích thực phải gắn với quyền lợi của con người. Nghệ thuật xa rời cuộc sổng chỉ là nghệ thuật suông và khi nghệ thuật không vì đời sống thì chính đời sống sẽ hủy hoại nó.
+Trước yêu cầu khắt khe trên, đòi hỏi người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính phải là thứ nghệ thuật vị nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vị nghệ thuật.
Khác nhau:
+ Nhà kiến trúc thiên tài Vũ Như Tô do quá bàng quan, mù quáng trong khát vọng nghệ thuật cao siêu của bản thân mà xa rời hiện thực đã phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình.
+ Nghệ sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai. Bằng hành động tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn thiện. Đây cũng chính là khát vọng kết nối Chân - Thiện - Mĩ mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm kiếm.
Nguyên nhân sự khác biệt :
+ Hai tác phẩm được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại khác nhau
+ Phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau,
III. Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật về 2 nghệ sĩ Phùng và Vũ Như Tô. Cảm nghĩ của bản thân về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống..
Đề 4: Cảm nhận vẻ đẹp sử thi của hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu ( Nguyễn Trung Thành).Liên hệ sự lặp lại hình ảnh rừng xà nu và cái lò gạch cũ trong đoạn mở đầu và kết thúc Rừng xà nu - Chí Phèo ( Nam Cao) để nhận xét về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn
Gợi ý:
I.Mở bài:
- Tây Nguyên là mảnh đất của văn hóa cồng chiêng và những pho sử thi đồ sộ. Chính mảnh đất này đã thổi hồn vào những trang viết của Nguyễn Trung Thành và để lại nhiều dấu ấn qua “Rừng Xà Nu”, “Đất nước đứng lên”… Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc bởi hình tượng cây xà nu- tiêu biểu cho thiên nhiên và con người Tây Nguyên kiêu hùng, bất khuất.
– Nêu vấn đề cần nghị luận
II.Thân bài:
1. Khái quát về truyện ngắn, hình tượng cây xà nu:
- Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965, in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, được viết trong bối cảnh khi đế quốc mĩ bắt đầu bổ bộ ào ạt vào miền Nam. Đây là câu chuyện kể về cụộc nổi dậy của dân làng Xô - Man.
- Trong tác phẩm, hình tượng cây xà nu – rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn, được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng, bút pháp lãng mạn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.
2. Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng rừng xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu
a. Vẻ đẹp của hình tượng rừng xà nu
- Cây xà nu hiện ra trong ko gian câu chuyện với vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng.
Đó là vẻ đẹp của sự đông đảo, rộng lớn, hùng vĩ. Mở đầu câu chuyện là 1 cánh rừng xà nu hàng vạn cây điệp trùng bất tận trải dài đến hết tầm mắt con người. Hình ảnh ấy cũng được lặp lại ở cuối tác phẩm. Sự lặp lại theo thủ pháp đầu cuối tương ứng ấy khiến người đọc có cảm tưởng cây xà nu chiếm lĩnh cả mảnh đất và bầu trời Tây Nguyên
Ko chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên, man dại cây xà nu còn mang vẻ đẹp của 1 sức sống kiên cường, bất khuất, bất diệt
Nằm trong tầm đại bác của đồn giặc, cả rừng xà nu hàng vạn cây ko có cây nào ko bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như 1 trận bão. Có cây vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi
Nhưng dù bị thương tích đầy mình, cả rừng xà nu vẫn hiên ngang tồn sinh trong bom đạn. Cạnh 1 cây ngã gục đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Có những cây vết thương chóng lành như trên 1 thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã. Ở rừng xà nu dường như tiềm tàng 1 sức sống mãnh liệt mà bom đạn kẻ thù ko thể nào hủy diệt được
Và với sức sống mãnh liệt như vậy nên “ cứ thế, hai, ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lướn ra che chở cho buôn làng”
Bên cạnh sức sống mạnh mẽ, quật cường rừng xà nu còn có 1 vẻ đẹp khác “ trong rừng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế”.
Hàng vạn cây xà nu ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Chúng tiếp lấy thứ ánh sáng từ trên cao rọi xuống rồi nở cành xòe lá, tung ra những hạt bụi vàng từ nhựa cây thơm mỡ màng. Với ánh sáng mặt trời rừng cây xà nu dường như phơi bày hết sức sống, sắc màu, hương thơm của nó tạo nên 1 vẻ đẹp quyến rũ.
Điều đặc biệt vẻ đẹp của xà nu ko chỉ gợi đến chất man dại, hoang dã của núi rừng Tây Nguyên mà hơn thế vẻ đẹp của cây xà nu gợi liên tưởng đến sức sống và phẩm chất của dân làng Xô Man:
+ Hình ảnh rừng xà nu hùng vĩ chiếm lĩnh cả mảnh đất Tây Nguyên gợi cho người đọc liên tưởng đến khối đoàn kết toàn dân trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Những cụ Mết, bà Nhan, anh Xút, T nú, Mai, Dít, bé Heng... và đằng sau họ là đông đảo dân làng đã đoàn kết, gắn bó với nhau, muôn người như 1
+ Còn hình ảnh rừng xà nu hàng vạn cây ko có cây nào ko bị thương gợi liên tưởng đến những đau thương mà dân làng Xô Man phải chịu đựng trong trận chiến. Lịch sử làng Xô Man qua lời kể của cụ Mết cũng ko khác gì cánh rừng xà nu nơi đầu truyện. Nhiều quần chúng bị giặc giết vì nuôi cán bộ. Rồi anh Quyết hi sinh, Mai ngã xuống, T nú bị giặc tẩm nhựa xà nu đốt cháy 2 bàn tay
+ Thương tích đầy mình, mất mát, hi sinh ko thể kể hết. Nhưng cũng như xà nu dân làng Xô Man cũng tiềm ẩn 1 sức sống kiên cường, bất khuất. Trong đau thương, cả buôn làng đã đứng lên làm cách mạng, lớp sau nối tiếp lớp trước, chưa bào giờ khuất phục trước kẻ thù. Bà Nhan, anh Xút bị giết vì nuôi cán bộ đã có Tnu và Mai tiếp nối. Mai ngã xuống đã có Dít đứng lên. Sau Dít là bé Heng....Các thế hệ gắn bó với nhau như những cánh rừng xà nu tít tắp đến chân trời. Cụ Mết đã khẳng định: “ ko có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”
+ Hình ảnh cây xà nu ham ánh sáng mặt trời gợi nhớ đến những con người Tây Nguyên tha thiết yêu tự do, luôn hướng về cách mạng. Cụ Mết, bà Nhan, anh Xút rồi Tnu, Mai, Dít, bé Heng và biết bao dân làng Xô Man đã nuôi giấu cán bộ, bảo vệ cán bộ bất chấp sự khủng bố của kẻ thù. Họ hướng về cách mạng như cây xà xu hướng về ánh sáng mặt trời
* Nghệ thuật:
- Viết về rừng xà nu NTT đã thành công trong việc tạo ra 1 hình tượng nghệ thuật độc đáo. Miêu tả về rừng xà nu nhà văn đã sử dụng hàng loạt động từ, tính từ gây cảm giác mạnh: ào ào, ưỡn, tràn trề, ngào ngạt, long lanh, sinh sôi, ngã gục, mọc lên, lao thẳng, phóng lên..... kết hợp với những động, tính từ ấy là biện pháp so sánh, ẩn dụ được vận dụng 1 cách hiệu quả. Tất cả những biện pháp nghệ thuật ấy đã làm hiện lên 1 cách ấn tượng sức sống mãnh liệt của cây xà nu
- Đặc biệt nhà văn NTT còn sử dụng cái nhìn của điện ảnh để miêu tả rừng xà nu. Ống kính của nhà nghệ sĩ có lúc lùi ra xa để ghi lấy toàn cảnh rừng xà nu, có khi lại quay về cận cảnh để rà soát, soi kĩ từng dáng cây xà nu. Vì thế cả đau thương lẫn sức sống của xà nu đều hiện lên 1 cách sống động. Và với thủ pháp miêu tả điện ảnh rừng xà nu trở nên có đường nét, hình khối bởi vậy có sức ám ảnh người đọc
c. Liên hệ sự lặp lại hình ảnh rừng xà nu và cái lò gạch cũ trong đoạn mở đầu và kết thúc Rừng xà nu - Chí Phèo để nhận xét về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn.
- Cách mở đầu và kết thúc bằng hình ảnh cây xà nu trong tp “Rừng xà nu” gợi cho người đọc nhớ đến cách mở đầu và kết thúc trong truyện Chí Phèo- Nam Cao. Hai Tp có kết cấu mở đầu tương ứng nhưng lại khác nhau ở tư tưởng
- Về sự lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ trong đoạn mở đầu và kết thúc truyện Chí Phèo ( Nam Cao)
+Ý nghĩa nội dung: “Cái lò gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống lương thiện của người nông dân. Kết thúc ấy thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.
+Ý nghĩa nghệ thuật
* Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
* Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.
- Nhận xét về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn:
+ Giống nhau: cả 2 nhà văn trong 2 truyện ngắn đều sử dụng hình ảnh mở đầu và kết thúc tác phẩm bằng sự lặp lại theo kết cấu vòng tròn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc về tư tưởng và nghệ thuật.
+ Khác nhau:
- Tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn Nam Cao thể hiện qua sự lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ là kết cấu khép kín như một vòng tròn vây quanh cuộc đời không lối thoát của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo, xót xa, yêu thương con người nhưng chưa nhìn thấy sự đổi đời của họ. Nghệ thuật của Nam Cao là ảnh hưởng trào lưu hiện thực ( hiện thực phê phán).
- Tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Trung Thành thể hiện qua sự lặp lại hình ảnh rừng xà nu cũng là kết cấu một vòng tròn nhưng theo hướng mở và phát triển đi lên như mở đầu là đồi xà nu, kết thúc là rừng xà nu báo hiệu sự đổi đời của người dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại. Qua mưa bom lửa đạn, rừng xà nu vẫn tráng lệ, hiên ngang. Người dân Tây Nguyên từ trong bi kịch đẫm máu và nước mắt đã cầm vũ khí đứng lên đồng khởi long trời lở đất để tiêu diệt kẻ thù, giành lại màu xanh cho rừng xà nu, đem lại cuộc sống tự do. Nhà văn thể hiện tư tưởng nhân đạo, xót xa, yêu thương con người và gửi niềm tin vào sức mạnh của tinh thần đoàn kết, niềm tin vào Đàng, Bác Hồ và cách mạng. Nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành là sáng tác theo trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa.
* Do ảnh hưởng trào lưu sáng tác khác nhau
* Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong tư tưởng và nghệ thuật mỗi nhà văn.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng cây xà nu. Cảm nghĩ của bản thân về tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn qua hình tượng.
Đề 5: Cảm nhận đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc ( Tố Hữu) :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Từ đó, liên hệ với bài thơ Từ ấy để thấy được chất trữ tình trong thơ Tố Hữu .
Gợi ý:
I.Mở bài:
-Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản,là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam
- Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ Ấy , Việt Bắc. Gió Lộng,... Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca cách mạng chống Pháp nói chung. Bài thơ là khúc hùng ca và khúc tình ca cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.
- Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại . Và đoạn thơ:
“ Mình về mình có nhớ ta
.........................................
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.”
là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ân nghĩa thủy chung đó. Kết hợp với đoạn thơ mở đầu trong bài thơ Từ ấy, ta thấy càng về sau chất trữ tình trong thơ Tố Hữu càng đậm nét.
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ
- Bài thơ được làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này.
- Đoạn thơ gồm 8 câu thuộc phần đầu của bài thơ, diễn tả khung cảnh chia tay và tâm trạng kẻ ở, người đi.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về đoạn thơ
* Về nội dung:
-Bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau, kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết.
- Bốn câu đầu:
Dường như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay, người ở lại lên tiếng trước, căn dặn người ra đi về tấm lòng chung thuỷ:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
…Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn “
Nghĩa tình giữa ta và mình bắt nguồn từ những lý lẽ hiển nhiên giống như đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc vậy. Liệu mình có giữ được tấm lòng chung thuỷ trước những cám dỗ mới của cuộc đời không? Đó cũng chính là tâm trạng, là nỗi lòng băn khoăn của “người ở lại”, của “ta”. Cách liên tưởng so sánh trên không chỉ mở rộng không gian của nỗi nhớ, mà còn làm cho kỷ niệm cứ như tuôn trào tầng tầng lớp lớp.
Các cặp hình ảnh “cây - núi”; “sông - nguồn” cũng vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa ảo.Nó không chỉ gợi ra không gian núi rừng Việt Bắc với những nét riêng, đặc thù. Mà nó còn nói lên tình cảm chung thuỷ trong mối quan hệ cội nguồn : Cán bộ từ dân mà ra. Nhớ về nhân dân, như nhớ về cội nguồn. Các từ “mình”, “ta”, câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ …” được láy lại 2 lần làm cho nỗi nhớ, niềm thương cứ dâng lên mãi trong lòng của người đi và kẻ ở.
- Đáp lại sự băn khoăn của người ở lại là tiếng lòng của người ra đi:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
+ Đại từ “ai” phiếm chỉ tạo nên một cõi mơ hồ, mông lung trong nỗi nhớ ( như cách bày tỏ trong ca dao : Ai về ai có nhớ ai…). Hoá ra người đi cũng cùng một tâm trạng, cùng một tình nghĩa chung thuỷ như bạn mình: Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.
+ “Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào ? Tác giả đã sử dụng một loạt những từ láy, những từ chỉ trạng thái tình cảm của người đang yêu để giãi bày tình cảm không nói lên lời của người ra đi cũng thuỷ chung tình nghĩa như tấm lòng người ở lại vậy.
+Một thời gắn bó, một thời thủy chung, nay ta và mình chia xa :“Áo chàm đưa buổi phân li”. “Áo chàm” không đơn thuần là chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi mà nó đã được hoán dụ trở thành biểu tượng cho nhân dân Việt Bắc thuỷ chung sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Nay kẻ đi người ở, hỏi sao không bồi hồi xúc động : “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
+ Câu thơ ”Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay" đầy tính chất biểu cảm. Nó gợi ra cảnh bịn rịn luyến lưu tay trong tay mà không nói lên lời của đôi trai gái yêu nhau, để từ đó tác giả như khắc sâu thêm tình cảm gắn bó thắm thiết, thuỷ chung của người miền xuôi đối với người miền ngược.“Biết nói gì” không phải không có điều để giải bày mà chính là vì có quá nhiều điều muốn nói mà không biết phải bắt đầu từ đâu, nên nói điều gì. Ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…Trong buổi chia ly, mặc dù chưa biết nói gì với kẻ ở lại nhưng thực ra người ra đi đã nói được rất nhiều điều. Bởi im lặng cũng là một thứ ngôn ngữ của tình cảm.
+ Cách ngắt nhịp 3/3; 3/3/2 ở hai câu thơ cuối đoạn diễn tả một cách thân tình cái ngập ngừng, bịn rịn trong tâm trạng, trong cử chỉ của người đi kẻ ở. Kỷ vật trao rồi mà mà lòng vẫn quyến luyến không thể rời xa.
*Về nghệ thuật:
-Tố Hữu sử dụng thể thơ lục bát truyền thống để thể hiện những nội dung tình cảm cách mạng có gốc rễ trong truyền thống tinh thần dân tộc. Đoạn trích sử dụng cách nói mình - ta và lối đối đáp của ca dao - dân ca, tạo nên một giọng thơ ngọt ngào thương mến, qua đó thể hiện những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của dân tộc.
-Nhà thơ sử dụng những từ ngữ và lối nói quen thuộc, những so sánh ví von truyền thống nhưng lại biểu hiện được những tư tưởng mới của thời đại. Sự chuyển đổi linh hoạt về ngôn ngữ và giọng điệu cũng tạo nên hiệu quả biểu đạt cao.
-Nhạc điệu thể hiện chiều sâu của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu. Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng các từ láy, dùng vần và phối hợp các thanh điệu,... kết hợp với nhịp thơ, tạo thành nhạc điệu phong phú của các câu thơ, diễn tả nhạc điệu bên trong của tâm hồn mà ở bề sâu của nó là điệu cảm xúc và tâm hồn dân tộc. Giai điệu thơ ngọt ngào, sâu lắng khi diễn tả tình cảm gắn bó, thuỷ chung.
3. Liên hệ bài thơ Từ ấy ( Ngữ văn 11) để thấy được chất trữ tình trong thơ Tố Hữu
a. Cảm nhận về bài Từ ấy:
b.Nhận xét chất trữ tình trong thơ Tố Hữu:
+ Bài Từ ấy được sáng tác năm 1938, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu ở thời kì đầu. Nhà thơ như choáng ngợp trước ánh sáng của lí tưởng cách mạng, ý thường sử dụng các hình ảnh rực rỡ, đẹp đẽ (mặt trời, nắng hạ), bút pháp lí tưởng hóa, đôi khi là thần thánh hóa sức mạnh của lí tưởng cách mạng. Giọng điệu chủ đạo trong thơ ông là giọng ngợi ca, biết ơn với âm hưởng sôi nổi, vui tươi, tràn đầy hứng khởi.
+ Bài Việt Bắc được sáng tác sau khi kháng chiến chống Pháp đã kết thúc (1954), trải qua quá trình trải nghiệm với cuộc sống của nhân dân, thơ Tố Hữu ngày càng đằm thắm. Các hình ảnh có tính lí tưởng hóa (nắng hạ, mặt trời chân lí) với giọng điệu ngợi ca hào sảng đã được thay thế bằng giọng điệu tâm tình, nhắn nhủ của lứa đôi với các hình ảnh giản dị, đời thường (áo chàm, cầm tay nhau...). Từ sự tuyệt đối hóa sức mạnh của lí tưởng cách mạng, đến đây Tố Hữu đã ý thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó keo sơn, tình nghĩa bền chặt với nhân dân kháng chiến... Tất cả đã cho thấy sự vận động trong hồn thơ Tố Hữu: vẫn gắn bó mật thiết với những sự kiện chính trị của dân tộc nhưng các sự kiện chính trị ấy ngày càng được “trữ tình hóa” bằng một giọng thơ ngọt ngào, thương mến nên dễ đi vào lòng người hơn.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về sự vận động cái tôi trong thơ Tố Hữu từ Từ ấy đến Việt Bắc.
Đề 6: Cảm nhận về vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến ( Quang Dũng) trong đoạn thơ:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Ảo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Ảo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Từ đó, liên hệ vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy ( Tố hữu) để rút ra nhận xét về cách xây dựng hình tượng về người chiến sĩ trong thơ ca kháng chiến chống Pháp
Gợi ý:
I.Mở bài
- Quang Dũng (1921 - 1988) là một nghệ sĩ đa tài; làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn... nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn.
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung nét đặc sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Nêu vấn đề cần nghị luận
II.Thân bài
1. Khái quát về bài thơ, vị trí đoạn thơ trong Tây Tiến:
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc của Tổ quốc. Địa bàn hoạt động của đơn vị Tây Tiến chủ yếu là vùng rừng núi hiểm trở. Đó cũng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc Mường, Thái với những nét văn hoá đặc sắc. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Họ sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, gian khổ nhưng vẫn rất lạc quan và dũng cảm.
- Quang Dũng là một người lính trong đoàn quân Tây Tiến. Cuối năm 1948, ông chuyển sang đơn vị khác. Một năm sau ngày chia tay đoàn quân Tây Tiến, nhớ về đơn vị cũ ông viết bài thơ Tây Tiến tại làng Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội). Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô”(1986)
- Đoạn thơ thuộc đoạn thứ 3 của bài thơ, thể hiện cảm hứng nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến;
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về hình tượng người lính trong đoạn thơ
a. Về nội dung:
- 4 câu đầu: Cuộc sống gian khổ, khó khăn và vẻ đẹp tâm hồn người lính
+ 2 câu đầu là bức chân dung người lính hiện lên với những nét vẽ chân thực qua hình ảnh so sánh, tương phản:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm. .
++ Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sông gian khổ mà người lính phải chịu đựng: Hình ảnh không mọc tóc, quân xanh màu lá là hậu quả những trận sốt rét rừng, của thiếu lương thực, thiếu thuốc men... Tất cả làm mái tóc xanh của các chàng trai trẻ không còn nữa, da xanh như tàu lá.
++ Tuy vậy, cái vẻ xanh xao vì đói rét, bệnh tật ấy của người lính Tây Tiến, qua cái nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ oai phong, dũng mãnh như những con hổ nơi rừng thiêng: dữ oai hùm. Bút pháp lãng mạn đã tạo ra cái nhìn xoáy vào bên trong khiến hình tượng người lính hiện lên ốm mà không yếu, khắc khổ mà không tiều tụy.
++ Hai chữ đoàn binh âm Hán Việt đã gợi ra một khí nghiêm trang, hùng dũng kết hợp với các thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến ", "mọc tóc" khiến âm hưởng của câu thơ vút lên mạnh mẽ, làm vợi đi ấn tượng xót xa về cuộc sống khó khăn, thiếu thốn.
+ 2 câu sau là vẻ đẹp tâm hồn đậm chất hào hoa, lãng mạn của các chàng trai Tây Tiến
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
++ Hình ảnh mắt trừng thể hiện ý chí quyết tâm của người lính Tây Tiến trong nhiệm vụ bảo vệ biên cương, thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình.
++ Hình ảnh Đêm mơ Hà Hội dáng kiều thơm lại là phút giây mơ mộng của tâm hồn trở về mái trường góc phố. Bên trong cái dữ dội, oai hùng của người lính là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu thương. Họ là những chàng trai ra đi khi mới mười tám, đôi mươi, chắc hẳn ai cũng ôm ấp trong tim một bóng hình. Ba chữ dáng kiều thơm gợi vẻ đẹp yêu kiều thanh lịch của các thiếu nữ Hà thành.
Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
+4 câu sau: Những hi sinh mất mát và ý chí quyết tâm của người lính
++ Quang Dũng một lần nữa nhìn thẳng vào những mất mát hi sinh mà người lính phải trải qua: Rải rác biên cương mồ viễn xứ
+++ Từ láy tượng hình rải rác diễn tả hình ảnh những nấm mồ hoang lạnh trải khắp một vùng biên cương Tổ quốc. Nếu tách riêng câu thơ ra khỏi đoạn ta dễ có cảm giác đang đượe chứng kiến một bức tranh với màu sắc xám lạnh, u uất như vọng về từ thời chinh phu tráng sĩ;
+++ Tuy nhiên, cái bi như vơi bớt đi khi tác giả sử dụng ba từ Hán Việt liên tiếp: biên cương - mồ - viễn xứ gợi không khí thiêng liêng, trang trọng, làm nhòe đi nét nghĩa đau thương mà vang về âm thanh hào hùng. Những nấm mồ hoang lạnh nơi rừng sâu biên giới bỗng trở thành những mộ chí tôn nghiêm vĩnh hằng.
+ Câu thơ tiếp theo vang lên như một lời thề Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Đó cũng chính là lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những chàng trai đô thành này.
+ Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất”.
++ Hình ảnh áo bào thay chiếu thực chất là hiện thực thiếu thốn, gian khổ: tiễn đưa người lính về nơi vĩnh hằng không có cả một chiếc quan tài, thậm chí không cả manh chiếu che thân. Câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ, gợi hình ảnh tấm áo choàng màu đỏ của các dũng tướng ra trận thuở xưa.
++ Nghệ thuật nói giảm, nói tránh anh về đất gợi tư thế ung dung, thanh thản, nhẹ nhõm của người lính khi đón nhận cái chết.
+ Đoạn thơ kết thúc bằng hình ảnh dòng sông Mã gầm lên khúc độc hành. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến còn lay động đến cả đất trời, khiến dòng sông Mã gầm lên đau đớn, tiếc thương. Trong âm hưởng hào hùng và dữ dội của thiên nhiên, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Tây Tiến xứng đáng được xem là một tượng đài kỉ niệm bằng thi ca về đoàn quân Tây Tiến nói riêng về con người Việt Nam nói chung của một thời đại đầy gian lao mà anh dũng.
* Về nghệ thuật:
- Kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn.
- Ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, sáng tạo khi kết hợp từ Hán Việt và thuần Việt
- Nhiều biện pháp nghệ thuật: nói giảm, đối lập…
3. Liên hệ vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy (Tố Hữu) để rút ra nhận xét về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ.
- Về vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy (Tố Hữu)
+ Nêu đôi nét về Tố Hữu và bài thơ Từ ấy;
+ Phân tích vẻ đẹp lí tưởng của người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy:
++Người chiến sĩ cộng sản có tình yêu, niềm say mê mãnh liệt với lí tưởng cộng sản. Lí tưởng chính là ánh nắng hạ rực lửa, là mặt trời chói sáng, soi rọi giúp cho nhà thơ nhận ra con đường đi đến với chân lí, lẽ phải, công bằng, niềm tin, hi vọng. Lí tưởng còn hồi sinh, chỉ đường, đem đến cảm xúc mới, sức sống mới cho nghệ thuật thơ ca của người chiến sĩ.
++ Đó là người chiến sĩ có lẽ sống nhân đạo cao đẹp. Con người ấy từ khi được giác ngộ lí tưởng, ý thức rằng cuộc sống và nghệ thuật thơ ca của mình không thuộc về cá nhân mình nữa mà thuộc về quần chúng cần lao và cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Con người đã tự nguyện đem cái “tôi” nhỏ bé của mình gắn kết với cuộc đời để tạo nên sức mạnh đoàn kết, tranh đấu. Người chiến sĩ cũng ý thức rằng mình sẽ là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình cách mạng của những người lao khổ, bị áp bức, chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp.
- Nhận xét về cách xây dựng hình tượng chung người chiến sĩ.
+ Cả 2 nhà thơ Tố Hữu và Quang Dũng đều xây dựng hình tượng chung người chiến sĩ cách mạng với vẻ đẹp lí tưởng sáng ngời, cùng sử dụng bút pháp lãng mạng cách mạng để thể hiện;
+ Tuy nhiên, mỗi nhà thơ đều sáng tạo hình tượng người chiến sĩ cách mạng với vẻ đẹp độc đáo riêng. Người chiến sĩ cộng sản trong Từ ấy say mê lí tưởng Đảng, cất lên tiếng hát của một tâm hồn trẻ trong buổi đầu giác ngộ cách mạng. Tất cả đều thể hiện phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Người chiến sĩ trong Tây Tiến là đoàn binh hùng mạnh, can trường, tài hoa và lãng mạn khi còn sống và khi đã hi sinh. Tất cả đều thể hiện phong cách thơ trữ hồn hậu, phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình tượng người chiến sĩ
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình tượng người chiến sĩ của mỗi tác giả.
III.Kết bài:
Kết luận về vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ trong thơ Quang Dũng và Tố Hữu. Cảm nghĩ của bản thân về hình tượng.
ĐỀ 6: Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp đoạn văn sau trích trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.
Từ đó, liên hệ với đoạn thơ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)
để nhận xét cái tôi của mỗi tác giả.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
Dẫn ý giới thiệu tác giả, đoạn trích và vấn đề cần liên hệ:
- HPNT là 1 ngòi bút xuất sắc của thể bút kí, các tác phẩm của ông là thành quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giọng văn nghị luận đầy sắc bén với lối tư duy đa chiều, súc tích, tài hoa.
- Thiên nhiên là nguồn thi liệu bất tận, phong phú trong văn học, là nơi các thi văn nhân hòa mình vào đó, thoải mái dùng ngòi bút mà họa nên mọi tâm tư, tình cảm với cảnh cùng người. Thế nhưng, từ cái nguồn chung đó, thiên nhiên của mỗi tác giả lại rất khác nhau. Cùng là mảnh đất Huế mộng Huế mơ, ấy mà Huế trong bút kí “AĐĐTCDS” của HPNT với điểm nhìn là dòng sông Hương, trở nên thật nhẹ nhàng, đằm thắm, còn Huế trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của thi sĩ Hàn Mặc Tử lại rất đỗi bình dị, gần gũi và lãng mạn. Cái tôi rất riêng của mỗi tác giả từ đây cũng được bộc lộ.
- Qua “AĐĐTCDS”, người đọc được chiêm ngưỡng con sông Hương đặc trưng của xứ Huế trong mối tương quan toàn diện với lịch sử, văn hóa và con người nơi đây. Đặc biệt là vẻ đẹp yêu kiều, duyên dáng của dòng sông vắt ngang thành phố qua trích đoạn: “….”
II.Thân bài:
1. Khái quát về bút kí, đoạn trích
+“AĐĐTCDS” là 1 tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
+Ra đời năm 1981 in trong tập sách cùng tên, gồm 3 phần, đoạn trích thuộc phần thứ nhất, nói về thủy trình Hương giang và mối lien hệ giữa sông Hương với lịch sử, văn hóa Huế. Đoạn văn bản trên miêu tả dòng sông khi vào thành phố Huế thơ mộng.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp của sông Hương trong trích đoạn
* Về nội dung: Sông Hương khi vào thành phố Huế:
+ Đoạn văn được cảm nhận dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn, hội họa và âm nhạc:
++Nhân hóa: “Sông Hương vui tươi hẳn lên” vì “nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời”. Nhà văn thể hiện tâm trạng vui tươi khi trở lại là chính mính.
++So sánh: “như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”, thể hiện một tình yêu kín đáo.
++“phía đó, nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.” gợi vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và chiếc cầu trong thành phố.
++Dòng sông còn được liên tưởng để so sánh với các dòng sông trên thế giới:
• Sông Xen chảy vào thành phố Paris.
• Sông Đa-nuýp chảy vào thành phố Budapet.
Giống với dòng sông Hương nằm trong thành phố yêu quý của mình. Điều này thể hiện niềm tự hào của tác giả và vẻ đẹp riêng của sông Hương giữa đô thị cổ Huế.
+ Bức hoạ dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét chấm phá về những vườn cau Vĩ Dạ với nắng hàng cau trong trẻo tinh khôi, với lá trúc che ngang e ấp, dịu dàng, với màn sương khỏi huyền ảo gợi nhớ thi sĩ họ Hàn tài hoa mà bất hạnh... Với niềm hoài cổ của một nhà văn hoá, Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng cái nhìn trầm tư và mơ mộng tới những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, tới ánh lửa thuyền chài lập loè trong đêm sương- những hình ảnh khiến dòng sông vừa gần gũi với cuộc sống đời thường, vừa xa xăm trong cõi miên viễn của cổ thi…
+ Nhận xét chung: Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa, so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.
* Về nghệ thuật:
-Đoạn trích viết dưới dạng bút kí;
-Ngôn từ trau truốt;
-Sử dụng những hình ảnh đặc sắc, mang giá trị biểu cảm cao, giàu chất nhạc;
-Vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,..
- Thể hiện cái tôi mê đắm và tài hoa.
3. Liên hệ với đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để nhận xét cái tôi của mỗi tác giả
- Về đoạn thơ thứ hai trong bài Đây thôn Vĩ Dạ
+Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào Thơ mới. Cuộc đời ông ngắn ngủi, đầy bi thương nhưng lại là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ, để lại chặng đường thơ sáng ngời và nhiều bài thơ bất hủ cho hậu thế, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là một thi phẩm xuất sắc của Thơ mới và đồng thời tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử.
+ Cảnh sông nước đêm trăng ở sông Hương của thôn Vĩ đẹp vẻ thơ mộng, lãng mạn:
++Hai câu đầu gợi đặc điểm rất riêng của xứ Huế: sự nhẹ nhàng, khoan thai, hiện thực mà huyền ảo (gió thổi nhẹ, mây trôi chậm, dòng nước lững lờ và hoa bắp đôi bờ cũng chỉ khẽ lay).Cảnh đượm buồn: Dường như tất cả đều trôi chảy, xa dần (gió thổi, mây trôi, dòng nước cũng lững lờ trôi); dòng sông như một sinh thể có hồn mang nỗi niềm tâm trạng của nhân vật trữ tình (buôn thiu); gió mây chia lìa đôi ngả; hoa bắp khẽ lay đọng lại nỗi buồn cho câu thơ.
++ Hai câu sau: Tâm trạng hoài vọng mà phấp phỏng âu lo của thi nhân:
*Cảnh sông nước đêm trăng hiện thực mà huyển ảo: Dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Con thuyền vốn có thực trên sông trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng đê’ chở trăng về với thi nhân.
*Với Hàn Mặc Tử, trăng là người bạn tri âm tri kỉ. Trong hoàn cành bị cách biệt với thế giới bên ngoài, giường bệnh trở thành một sa mạc cô đơn, nhà thơ chỉ còn lại “trăng” đề trò chuyện, vui buồn. Nhà thơ trông trăng, hoài trăng là điều tất yếu.
*Chữ kịp cho thấy tâm trạng âu lo, phấp phỏng của Hàn Mặc Tử. Trong hoàn cảnh mắc bệnh hiểm nghèo, quĩ đời của thi nhân cứ vơi dần từng giây, từng phút. Cuộc ra đi chia lìa vĩnh viền có thể đến bất cứ lúc nào. Vậy nên, thuyền không chở trăng về kịp tối nay thì biết đâu thi sĩ sẽ ra đi trong vĩnh viễn đau buồn.
+ Nhận xét chung: Bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng vẫn đẹp nhưng buồn. Đồng thời, bức tranh phong cảnh này cũng là bức tranh tâm cảnh – chứa đựng nỗi buồn về dự cảm hạnh phúc chia xa nhưng vẫn thấy ở đó niềm khao khát giao cảm với đời, khao khát yêu, khao khát hạnh phúc của thi nhân vào những năm tháng cuối đời.
-Nhận xét cái tôi của mỗi tác giả
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Một cái tôi hoài vọng phấp phỏng lo âu vì mặc cảm chia lìa. Cái tôi đó thể hiện qua hình ảnh thiên nhiên xứ Huế tuy đẹp nhưng nặng trĩu nỗi buồn đau.Chọn điểm nhìn cảm xúc ở một không gian hẹp, thu nhỏ, đồng thời đó là cái nhìn được gợi cảm hứng từ bức ảnh, là cái nhìn của kí ức nên Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật vẻ đẹp của xứ Huế qua những nét lãng mạn, dung dị, bình thường mà vô cùng đặc biệt: đó là thiên nhiên gần gũi, là cảnh sông nước hữu tình nhưng chất chứa nỗi đau thương.
+Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Cái tôi của nhà văn trong đoạn trích đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Tác giả chọn điểm nhìn là sông Hương. Đặt trong một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường có cái nhìn bao quát, trải dài từ quá khứ cho đến hiện tại, từ đời sông cho đến văn hóa xứ Huế. Vì thế, vẻ đẹp của xứ mộng mơ này hiện lên toàn diện hơn, hiện thực hơn bởi sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa, mang những nét đẹp thuần túy chưa hề phai mờ trong kí ức của những người yêu xứ Huế.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện cái tôi trong sáng tác;
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn cái tôi của mỗi tác giả.
III. Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng thiên nhiên, nhất là vẻ đẹp dòng sông trong 2 tác phẩm.
Cảm nghĩ của bản thân về cái tôi của các nhà thơ. Liên hệ bản thân ( nếu có)
ĐỀ 7: Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Cảm nhận vẻ đẹp đoạn thơ trên trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Từ đó, liên hệ với đoạn thơ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm,
cho dã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng – Xuân Diệu)
để nhận xét về khát vọng của mỗi nhà thơ.
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Cảm nhận vẻ đẹp đoạn thơ trên trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Từ đó, liên hệ với đoạn thơ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm,
cho dã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng – Xuân Diệu)
để nhận xét về khát vọng của mỗi nhà thơ.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
* Dẫn dắt , giới thiệu sơ lược về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ “Sóng”
- Xuân Quỳnh được mệnh danh là một trong những thi sĩ viết thơ tình hay nhất của dân tộc. Dù có mộc cuộc đời bất hạnh nhưng thơ chị luôn đằm thắm dịu dàng, khát khao hạnh phúc và mong gắn bó hết mình với cuộc sống.
- Nhắc đến Xuân Quỳnh, không thể không kể đến “Sóng”, một bài thơ mang trọn môt tình yêu vừa nồng nhiệt, táo bạo lại thiết tha, say đắm. Và đặc biệt, nơi đoạn thơ
“ Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
..................................
Để ngàn năm còn vỗ”
tình yêu của thi nhân hiện lên không chỉ mang xúc cảm mà còn xen lẫn nhiều suy tư và triết lí.
* Nêu ý phụ:
- Nếu bài thơ ‘Sóng” mang vẹn khát vọng yêu đương của Xuân Quỳnh, thì “Vội vàng” là tác phẩm gói trọn khát khao hạnh phúc của Xuân Diệu. Hai tác phẩm là hai khát khao, ước vọng của hai hồn thơ tuy rất riêng nhưng cùng làm nên vẻ đẹp của tình yêu trong thơ ca.
II.Thân bài:
1. Khái quát sơ lược về tác phẩm và đoạn thơ cần cảm nhận
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ Sóng sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm Điền và được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968) .
- Bài thơ gồm 9 khổ, qua việc miêu tả sóng biển thể hiện diễn biến tâm trạng và khát khao hạnh phúc của tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
- Đoạn thơ trên là hai khổ cuối của tác phẩm, thể hiện những suy tư trăn trở của 1 trái tim nhạy cảm trước sự trôi chảy của thời gian và khát khao được sống hết mình trong tình yêu vĩnh viễn.
2. Cảm nhận vẻ đẹp đoạn thơ
* Vẻ đẹp nội dung
- Khổ 1
+ Cảm nhận về cuộc đời: “Cuộc đời tuy dài thế”, nhưng vui buồn hạnh phúc cũng theo năm tháng mà qua đi “Như biển kia dẫu rộng” vẫn có giới hạn là bờ. Mây tuy bé hơn biển nhưng vẫn vượt biển để “bay về xa” . Đó là tâm hồn đang khát khao yêu đương của người phụ nữ, thấm thía nỗi lo âu trước sự ngắn ngủi của cuộc đời.
+Sự sống, tình yêu ở thời đại nào cũng luôn hữu hạn trong tương quan với cái vô cùng vô tận của thiên nhiên. Trước cái vĩnh hằng của tạo hóa, trước qui luật “sinh - lão - bệnh - tử” của kiếp người, cảm thức về thời gian càng làm cho tình yêu thêm mãnh liệt. Càng nghĩ về thời gian con người càng khát khao yêu và được yêu, được gắn bó mãi với tình yêu, với cuộc đời.
- Khổ 2
+Lời giãi bày về khát vọng tình yêu sẽ mãi trường tồn “ Làm sao được tan ra ....”. Đó là khát vọng được vĩnh cửu hóa tình yêu, hòa tình yêu của chính mình vào khối tình chung của nhân loại như con sóng hòa vào đại dương bất tận;
+ Chỉ khi để tình yêu hòa “tan” vào biển lớn, gắn tình yêu đôi lứa với tình yêu tổ quốc, tình yêu mới được sống mãi và hóa nên bất tử như khát khao của con người.
* Vẻ đẹp nghệ thuật
- Đoạn thơ sử dụng thể thơ 5 chữ truyền thống kết hợp với cách ngắt nhịp, gieo vần độc đáo tạo nên chất thơ rất riêng, làm nên tình yêu rất riêng của thi nhân;
- Giọng thơ thiết tha, chân thành thể hiện một tâm hồn đa cảm, một tình yêu thủy chung, mãnh liệt;
- Nhịp thơ như nhịp sóng biển, cũng là sóng tình yêu trong trái tim người phụ nữ.
3. Liên hệ, so sánh để bàn luận mở rộng
- Nếu Xuân Diệu là “ông hoàng” thì Xuân Quỳnh là “nữ hoàng” của thơ tình Việt. Cả hai cùng mang nỗi lo trước sự trôi chảy của thời gian và cùng khát vọng cháy bỏng được sống, được yêu để rồi cùng gửi gắm hết những nỗi lòng ấy vào thơ ca
- Tuy cả hai cùng đi về một khát vọng yêu đương mãnh liệt, nhưng khát vọng nơi hồn thơ của Xuân Quỳnh và Xuân Diệu có nét độc đáo riêng:
+Ở “Vội vàng”, Xuân Diệu bộc bạch một khát vọng sống mãnh liệt, một niềm ham sống vô biên, khát khao vô cùng, “muốn ôm”, “muốn riết”, “muốn say”, “muốn thâu” để được sống, được yêu, được giao cảm trọn vẹn với cuộc đời. Khát vọng của Xuân Diêu cũng mang tên là tình yêu, nhưng nó vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, đó là tình yêu sự sống.
+Ở “Sóng”, Xuân Quỳnh mang một khát khao của người phụ nữ vừa truyền thống vừa hiện đại, dù lo âu trước cái vô tận của thời gian, vẫn vững tin vào sức mạnh tình yêu, vẫn khao khát yêu và được yêu, đươc “tan ra” hòa trong khối tình chung bất tận vô biên của nhân loại để gắn bó mãi với tình yêu cùng cuộc đời.
Trước cuộc đời, trong tình yêu, Xuân Quỳnh, Xuân Diệu mang những khát vọng rất riêng, rất thơ, tạo nên sự đa dạng trong văn học và cùng làm đẹp thêm khối tình thơ của dân tộc.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện về khát vọng của mỗi nhà thơ.
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh để thể hiện khát vọng của mỗi nhà thơ.
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về vẻ đẹp khát vọng sống và yêu.
ĐỀ: Cảm nhận vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến ( Quang Dũng). Từ đó, liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 11), nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
– Giới thiệu Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
+ Là nghệ sĩ đa tài : làm thơ , viết văn , vẽ tranh , soạn nhạc.
+ Là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
+Hồn thơ : phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài ( Sơn Tây ) .
+Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng.
– Nêu vấn đề cần nghị luận.
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ và nêu nhận định chung
-Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
- Chất lãng mạn và bi tráng đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của bài thơ, tập trung ở hình tượng người lính
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến
- Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng( đoạn 1), cái nền mĩ lệ, thơ mộng của thiên nhiên và cuộc sống Tây Bắc( đoạn 2), người lính xuất hiện với tư thế thật oai phong, dữ dội.
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :
+Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Tuy nhiên, họ ốm mà không yếu. Trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng;…
+Ẩn giấu sau cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
- Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
Nói về người lính cùng cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến nhà thơ nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
+Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
+Sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã – dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. Hình ảnh những người lính Tây Tiến thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa.
- Về nghệ thuật
+Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
+Thể thơ 7 chữ chắc khỏe mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.
+Thủ pháp đối lập, khắc họa hình tượng nhân vật
+ Dùng nhiều từ Hán Việt….
3. Liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
- Về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù Nam bộ, sống gắn bó với nhân dân miền Nam. Ông là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
+ Bài văn tế được viết trong thời kì lịch sử “khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc đêm 16.12.1861.
+Nét độc đáo của hình tượng người nông dân nghĩa sĩ:
++Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là người nông dân thuần phác, giản dị, quanh năm chỉ biết “ Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Họ tự nguyện đứng lên đánh giặc cứu nước. Trang bị vũ khí vô cùng thô sơ, kinh nghiệm trận mạc ít ỏi nhưng họ chiến đấu với tinh thần quả cảm và đã hi sinh anh dũng.
++Nghệ thuật khắc họa: Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc: giọng điệu trang trọng, bi thương, câu văn biền ngẫu có kết cấu đăng đối, ngôn ngữ giàu hình ảnh và sức biểu cảm với hệ thống các hình ảnh so sánh ví von, chi tiết chọn lọc đặc sắc…
- Hình tượng người lính Tây Tiến:
+ Hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến là những thanh niên, học sinh Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp rất hào hùng mà cũng rất hào hoa.
+Được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng…
-Nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm
+Điểm giống:
++ Đề tài: Hai tác phẩm cùng viết về những con người đã dám xả thân hi sinh vì đất nước
++Hình tượng các nhân vật mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
++Cảm hứng: trân trọng, ngợi ca
+Điểm khác:
++ Cùng viết về người lính nhưng với tài năng nghệ thuật riêng các nhà thơ, nhà văn đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính trong văn học và cho người đọc một bài học về sự sáng tạo.
++Với bài “ Văn tế…”, lần đầu tiên người nông dân áo vải bước vào văn học với tư cách là người lính, cùng với những tác phẩm khác cùng đề tài tạo nên vẻ đẹp của người lính trong văn học Trung đại. “ Tây tiến” chính là sự kế thừa và sáng tạo từ hình ảnh này.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình ảnh người lính;
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh hình ảnh người lính của mỗi tác giả.
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng người lính trong 2 tác phẩm. Cảm nghĩ của bản thân về hình tượng.
ĐỀ: Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. "Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gõ vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi. Cả đêm Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ. Mị bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết. Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến, vợ chết rồi. Mị sợ quá, Mị cựa quậy. Xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau dứt từng mảnh thịt.
( Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài)
Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đoạn văn trên. Từ đó, liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm ( Truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11) để bình luận về khát vọng sống của con người.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm :
+Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. "Vợ chồng A Phủ" là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953.
+Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Đoạn trích diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân. Cũng như Mị, nhân vật Liên trong đêm đợi tàu đã thể hiện khát vọng sống cao cả của con người
II.Thân bài:
1. Cảm nhận sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tối khi bị trói thể hiện qua đoạn trích:
* Về nội dung:
- Sơ lược về cảnh ngộ của Mị trước khi bị trói trong đêm tình mùa xuân:
+ Mị là 1 cô gái trẻ đẹp, yêu đời, chăm chỉ lao động, nhà nghèo và rất hiếu thảo;
- Do món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải làm dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, sống cuộc đời trâu ngựa khổ đau;
+ Nhưng tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói tia lửa sống, chỉ chờ dịp là bùng lên mạnh mẽ. Dịp ấy đã đến trong 1 đêm tình mùa xuân phơi phới mà tiếng sáo gọi bạn đầu làng đã làm xao động lòng người phụ nữ trẻ;
+ Khi mùa xuân về, như quy luật vạn vật hồi sinh, sức trẻ trong Mị bừng trỗi dậy. Mị khêu đèn lên cho bừng sáng căn buồng của mình, lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát. Mị bồi hồi nghe tiếng sáo, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.
+Trông thấy Mị, A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa...
- Diễn tả tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tối khi bị A Sử trói không cho đi chơi xuân:
+Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói.
+Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi... Mị vùng bước đi."Như không đang biết mình đang sợ bị trói... Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi", quên mọi đau đớn về thể xác, "Mị đã vùng dậy bước đi". Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào...
+Nhưng tay chân đau không cử động được. Khi ấy, Mị mới biết mình đang bị trói, đang ở trong căn nhà tù ngục này. Lòng Mị đau đớn, thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
+Cả đêm Mị lúc mê lúc tỉnh.
+Bị trói đứng suốt đêm, Mị bàng hoàng tỉnh giấc
+Mị thấy thương cho những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan
+Mị nhớ đến người đàn bà bị trói đến chết trong nhà thống lí. Mị sợ chết. Chính bóng ma thần chết ở ngôi nhà thống lí đã làm Mị sợ. Đồng thời, Mị nhận ra một điều chết lúc này là oan uổng. Tiếng sáo, khát vọng tự do đã làm cho Mị khao khát sống;
+Mị sợ hãi cựa quậy khi xem mình còn sống không thì sợi dây đay đã siết vào da thịt Mị. Đau đớn đến tận cùng…
* Về nghệ thuật:
-Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế
-Cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên
-Giọng trần thuật của tác giả hòa vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ nửa trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể truyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
3. Liên hệ nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm ( Truyện Hai đứa trẻ, Thạch Lam, Ngữ văn 11) để bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người.
- Về nhận vật Liên trong cảnh chờ chuyến tàu đêm:
+ Thạch Lam là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Truyện của ông thường không có cốt truyện như một bài thơ đượm buồn. Tác phẩm “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”(1938). Truyện đã miêu tả diễn biến nội tâm của hai đứa trẻ trước chiều muộn về đêm. Qua cảm xúc, tâm trạng của Liên và An, tác giả đã thể hiện được bức tranh nơi phố huyện nghèo, niềm hy vọng mỏng manh mơ hồ của những con người nơi phố huyện. Trong đó, nhân vật Liên khi đợi tàu về đêm đã thể hiện được khát vọng sống của con người.
+Tương tự như Mị, nhân vật Liên là một cô bé sống trong đói khổ nhưng vẫn có một tâm hồn hướng tới cuộc sống tơi đẹp hơn.
+ Nếu như tâm hồn Mị theo tiếng sáo gọi bạn tình thì tâm hồn của Liên cũng luôn khao khát, hướng về ánh sáng. Trong màn đêm, Liên luôn tìm một ánh sáng từ một nơi xa. Liên cố thức đợi chuyến tàu không phải để bán hàng mà là để được nhìn thấy một cuộc sống náo động, một nguồn sáng rực rỡ của con tàu như mang đến một cuộc sống khác, một thế giới khác.
- Bình luận về vẻ đẹp khát vọng sống của con người:
+Hai nhân vật Liên và Mị đã khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp khát vọng sống của con người.Tâm hồn của họ luôn hướng về ánh sáng, về âm thanh cuộc sống cũng chính là niềm khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc. Họ đều hi vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm. Nhưng cuối cùng, cuộc đời Liên vẫn mãi chìm trong “bóng tối”, còn Mị đã được đổi đời nhờ có tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác;
+ Qua khát vọng sống của 2 nhân vật, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Tô Hoài. Các nhà văn có cùng niềm cảm thông với nỗi khổ của những người phụ nữ bất hạnh dưới chế độ thực dân phong kiến; ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân; đặc biệt ca ngợi khát vọng sống cao đẹp của họ. Đó cũng chính là niềm tin vào con người của các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật nhân vật Mị qua đoạn trích. Cảm nghĩ của bản thân về khát vọng sống của nhân vật Mị và Liên.
ĐỀ: Cảm nhận vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2017).Từ đó, liên hệ với nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao (Ngữ văn 11, tập một, NXB Giáo dục, 2017) để thấy điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật này.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt;
– Nêu vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị; điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật thị và thị Nở.
II.Thân bài
1. Khái quát về truyện Vợ nhặt, nhân vật thị
(về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, cốt truyện, nhận định chung về nhân vật thị…)
2. Cảm nhận vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
* Về nội dung:
- Thị nạn nhân của nạn đói, cái đói không chỉ để lại hậu quả ở ngoại hình, xuất thân (không tên tuổi, quê quán, xấu xí, gầy đói) mà còn ở cả tính cách của cô: chao chát, chỏng lỏn, sưng sỉa, cong cớn, sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc không nói năng gì,… là những từ ngữ hoạt họa một con người vô duyên và quên sĩ diện...
- Tuy nhiên, sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ ấy là niềm khát khao hạnh phúc gia đình.
+ Trên đường theo Tràng về nhà, thị chân nọ bước díu cả vào chân kia đầy vẻ ngượng ngịu, âu lo. Trong lúc chờ đợi mẹ chồng về, thị chọn ngồi ở mép giường, dáng ngồi và cách vân vê tà áo đã rách bợt gợi bao nhiêu nỗi niềm tủi hổ. Biểu hiện sự thay đổi của thị rõ nhất là vào buổi sáng hôm sau. Hành động dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ Tràng cho thấy cô cũng có lòng tự trọng của riêng mình, không phải là người ăn bám, nhác lười. Và qua con mắt của Tràng thì thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.
+ Thị biết san sẻ, vun đắp mái ấm gia đình: Thị đã cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, xây dựng tổ ấm cùng mẹ con Tràng. Trong bữa ăn ngày đói, khi nhận từ tay mẹ chồng bát cháo cám đắng chát, thị vẫn vui vẻ bằng lòng. Rõ là thị cũng đã có ý thức chia sẻ khó khăn cùng gia đình mà không hề ca thán.
+ Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên sự ấm áp. Thị mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối bên bờ cái chết.
*Nghệ thuật thể hiện:
- Tác giả đặt nhân vật thị vào tình huống truyện độc đáo để bộc lộ phẩm chất, tính cách.
- Cách kể chuyện tự nhiên, dựng cảnh sinh động...
- Đối thoại hấp dẫn, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị...
3. Liên hệ với nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao để thấy điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người của nhà văn Kim Lân và Nam Cao qua hai nhân vật này.
- Thị Nở, một người phụ nữ với vẻ ngoài xấu ma chê quỷ hờn, tính tình dở hơi, ba mươi tuổi vẫn trong tình trạng ế chồng.
- Nhưng từ khi gặp gỡ và sống chung với Chí Phèo, những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật bắt đầu ngời sáng. Khác với những con người ở làng Vũ Đại, thị Nở đến với Chí Phèo tự nhiên mà không một chút định kiến. Bằng tình thương vô tư của mình, thị Nở đã chăm sóc Chí Phèo, thức tỉnh Chí Phèo, đưa Chí Phèo trở về con đường lương thiện.
+ Tình thương: đối tượng của tình thương là Chí Phèo - một người ốm và cô đơn - "ốm mà nằm còng queo một mình". Biểu hiện của lòng thương là nấu cháo hành để giải cảm - cách chăm sóc người ốm đơn giản nhất; mang cháo sang cho Chí với thái độ ân cần, chân thành. Giá trị của tình thương ấy rất lớn: vừa giải cảm, giải độc cho Chí Phèo để Chí rũ bỏ cái vỏ quỷ dữ mà trở lại với bản tính người vốn có vừa khiến cho chính thị Nở cũng trở nên có giá trị hơn khi trong mắt Chí, thị có duyên, đáng yêu và đúng là người, khác hẳn với bà ba bá Kiến là con quỷ cái dâm đãng khiến Chí khinh bỉ và ghê sợ.
+ Tình nghĩa: ý thức trách nhiệm trong mối quan hệ với Chí khiến thị không bỏ mặc Chí khi Chí ốm đau, khiến thị tự nguyện chăm sóc Chí một cách ân cần.
+ Khát khao hạnh phúc: thích cuộc sống gia đình có vợ, có chồng và nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí (cảm giác "ngường ngượng mà thinh thích", hành động về xin phép bà cô, sự tức giận khi bị bà cô từ chối,...).
- Về hai nhân vật thị và thị Nở của hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao có nhiều điểm gặp gỡ, tương đồng: cả hai nhân vật đều mang vẻ ngoài xấu xí với hoàn cảnh tính cách chẳng mấy tốt đẹp. Nhưng khi được sống trong tình yêu thương, họ lại toát lên vẻ đẹp phẩm chất, có thể đại diện cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người và người phụ nữ nói riêng.
- Cả hai nhà văn đều có điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ đẹp con người. Con người đẹp nhất là vẻ đẹp tâm hồn, khao khát yêu và được yêu, khao khát hạnh phúc và mái ấm gia đình. Đó cũng là vẻ đẹp của tinh thần nhân đạo mà các nhà văn đã gửi gắm qua các nhân vật.
III.Kết bài:
Kết luận về vẻ đẹp phẩm hạnh của nhân vật thị và thị Nở. Nêu cảm nghĩ của bản thân về vấn đề đã nghị luận.
ĐỀ:
XÁC HÀNG THỊT: (lắc đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khổn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác.
HỒN TRƯƠNG BA: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lý, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u, đui mù…
XÁC HÀNG THỊT: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!
HỒN TRƯƠNG BA: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc !
XÁC HÀNG THỊT: Có thật thế không?
HỒN TRƯƠNG BA: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…
XÁC HÀNG THỊT: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: khi ông ở bên nhà tôi… khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại...Đêm hôm đó, suýt nữa thì…
HỒN TRƯƠNG BA: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày…
XÁC HÀNG THỊT: Thì tôi có ghen đâu! Ai lại ghen với chính thân thể mình nhỉ! Tôi chỉ trách là sao đêm ấy ông lại tự dưng bỏ chạy, hoài của !...Này, nhưng ta nên thành thật với nhau một chút: chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao? Để thỏa mãn tôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào, hãy thành thật trả lời!
HỒN TRƯƠNG BA: Ta… ta… đã bảo mày im đi!
XÁC HÀNG THỊT: Rõ là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tớ được! Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!
HỒN TRƯƠNG BA: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…
XÁC HÀNG THỊT: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
HỒN TRƯƠNG BA: (bịt tai lại) Ta không muốn nghe mày nữa!
( Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt-Lưu Quang Vũ)
Cảm nhận bị kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, liên hệ với bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo ( truyện Chí Phèo, Nam Cao), bình luận quan niệm nghệ thuật về con người mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
GỢI Ý:
I.Mở bài:
– Giới thiệu Lưu Quang Vũ và vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
– Nêu vấn đề cần nghị luận ( bị kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba; bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo ( truyện Chí Phèo, Nam Cao), quan niệm nghệ thuật về con người mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.)
II.Thân bài:
1. Khái quát về vở kịch, vị trí đoạn trích:
-Hồn Tương Ba, da hàng thịt ( 1981) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian, nhà văn xây dựng một vở kịch hiện đại chứa đựng những vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và giá trị triết lí nhân sinh sâu sắc.
- Tóm tắt sơ lược vở kịch
- Đoạn trích thuộc phần đầu cảnh VII, diễn tả cuộc đối thoại giữa Hồn và xác.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về bị kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba:
- Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!” . Hồn Trương Ba đang sống với tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.
- Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "suýt nữa thì…". Đó là cảm giác "xao xuyến" trước những món ăn mà trước đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi,… Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…". Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
- Nghệ thuật thể hiện:
+ Tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu tượng. Đó là xung đột giã cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người.
+ Xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong.
+ Lời thoại 13 lời hồn, 13 lời xác, ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân vật.
3. Liên hệ với bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo ( truyện Chí Phèo, Nam Cao), bình luận quan niệm nghệ thuật về con người mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
- Giải thích: Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Thông qua quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn, ta có thể hình dung đầy đủ tư tưởng nghệ thuật cũng như dấu ấn sáng tạo của nhà văn ấy.
-Phân tích, chứng minh quan niệm nghệ thuật về con người qua bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo và bi kịch tha hoá của Trương Ba:
+ Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao qua bi kịch bị tha hoá của nhân vật Chí Phèo:
++Vì cơn ghen vô cớ, bá Kiến đầy Chí vào tù, trở về làng sau 7, 8 năm ở nhà tù thực dân, Chí biến đổi hoàn toàn từ nhân tình đến nhân tính. Ngoại hình dữ dằn: cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn… một ông tướng cầm chùy. Tính cách hung hăng, liều lĩnh: say khướt, cứ sau là hắn chửi bới, đến nhà Bá Kiến đánh nhau với lí Cường, rạch mặt ăn vạ, la làng. Chí mang dáng hình, tính cách của một thằng lưu manh.
++ Sau khi ra tù, Chí Phèo ý thức được kẻ thù của mình và tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng lại bị Bá Kiến dụ dỗ. Chí Phèo bị Bá Kiến lừa gạt trở thành tay sai cho Bá Kiến để đi đòi nợ Đội Tảo. Hắn triền miên trong cơn say và gây tội ác cho dân làng Vũ Đại. Chí Phèo trở thành con quỷ dữ trong mắt người dân làng Vũ Đại.
++Qua bi kịch bị tha hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn ở làng quê Việt Nam trước Cách mạng: hiện tượng người nông dân lương thiện bị tha hóa, bị chà đạp về tinh thần và thể xác, bị xã hội phi nhân tính cướp đi cả hình hài lẫn tính người. Ông gióng lên tiếng chuông cảnh báo hiện tượng một bộ phận người nông dân từ lương thiện trở thành lưu manh, từ lưu manh trở thành quỷ dữ, đồng thời kêu gọi để thức tỉnh con người: đừng bao giờ làm tay sai cho kẻ thù.
+ Quan niệm nghệ thuật về con người của Lưu Quang Vũ qua bi kịch tha hoá của nhân vật Trương Ba:
++ Vì sực tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu và sửa sai không đúng của Đế Thích mà Trương Ba phải sống trong cảnh Hồn này, Xác nọ. Để rồi từ đó, Hồn Trương Ba đã bị xác hàng thịt điều khiển, lấn át, dụ dỗ, mỉa mai, cười cợt…
++ Qua cuộc đối thoại, thực chất là độc thoại nội tâm, nhà biên kịch khẳng định: trong một con người, thể xác và linh hồn cùng tồn tại. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi.
++Qua bi kịch tha hóa của Trương Ba, tác giả có lời cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì sớm hay muộn những phẩm chất tốt đẹp cũng sẽ bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá. Vì thế phải đấu tranh để loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
- Bình luận quan niệm nghệ thuật về con người của 2 nhà văn
+ Con người sẽ đau khổ nếu rơi vào bi kịch bị tha hoá hoặc tha hoá. Tất cả đều do những kẻ thống trị, có quyền, có chức gây ra;
+ Tuy sống và sáng tác ở 2 thời kì lịch sử khác nhau, lựa chọn thể loại khác nhau… nhưng cả hai nhà văn đều có cái nhìn hiện thực về con người và triết lí nhân sinh sâu gắc: hãy cứu con người và đấu tranh triệt để nhằm chống lại cái ác, cái xấu trong bất cứ hoàn cảnh xã hội nào.
III.Kết bài:
Kết luận về bi kịch của 2 nhân vật trong 2 tác phẩm. Cảm nghĩ của bản thân về vấn đề đã nghị luận.
ĐỀ:
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Ðiêu ! Người thế mà điêu !
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Ðây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở! (Tiền nhiều lắm, tiếng Pháp phát âm theo lối nói bồi).
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo thế này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một cái:
- Chậc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...
( Trích Vợ nhặt, Kim Lân)
Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bốn bát bánh đúc trong đoạn trích trên. Từ đó liện hệ với chi tiết bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giao dục Việt: Nam, 2016) để bình luận ngắn gọn về giá trị của tình thương trong cuộc sống
GỢI Ý:
I.Mở bài:
- Kim Lân ( 1920-2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài nông thôn và nông dân. Sáng tác của Kim Lân phản ánh chân thực, xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông hiểu biết sâu sắc về cảnh ngộ và tâm lí của họ. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn hay nhất của nhà văn Kim Lân và của văn xuôi hiện đại Việt Nam sau 1945.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: chi tiết bốn bát bánh đúc trong đoạn trích cùng chi tiết bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao) đã minh chứng quan niệm của M. Gorki: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn.
II. Thân bài:
1. Khái quát truyện Vợ nhặt
– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần của cốt truyện cũ để viết tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm được đưa vào tập “Con chó xấu xí” (Xuất bản 1962).
-Nội dung chính: Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó, người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật chi tiết bốn bát bánh đúc trong đoạn trích
- Về nội dung:
+ Hoàn cảnh, tình huống xuất hiện chi tiết: Tràng là một anh nông dân nghèo sống ở xóm ngự cư. Trong nạn đói, anh làm thuê, kéo xe bò thóc cho liên đoàn lên tỉnh.Tràng gặp thị ở chợ tỉnh, cũng đang trong nạn đói. Lần thứ hai gặp lại, Tràng thấy thị “gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Sau những câu nói tầm phơ tầm phào, Tràng đã mời thị ăn. Tràng vỗ vỗ vào Túi: Rích bố cu. Thế là thị sà xuống ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng…”
+ Chi tiết bốn bát bánh đúc thể hiện số phận thảm thương, khốn cùng của nhân vật trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đặc biệt, nhân vật người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đó đó
++Vì cái đói, cái nghèo nên khi được Tràng mời ăn giầu, thị đã nói “Ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Thị đã “gợi ý” để được ăn. Lúc này cái đói, cái nghèo đang bám riết lấy thị nên cái điều đơn giản nhất và cũng lớn lao nhất với thị là có được miếng ăn.
++ Vì miếng ăn mà thị đánh mất sĩ diện của người con gái . Hành động“sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc” với động từ “sà” cho ta thấy thị thật đáng thương, tội nghiệp. Khi ranh giới giữa sự sống và cái chết trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 chỉ còn bằng sợi tóc thì sĩ diện đành phải gạt qua một bên.
++Thị theo không Tràng về làm vợ cũng chỉ vì cái đói, muốn chạy trốn cái đói và khao khát hạnh phúc.
+Hình ảnh bát bánh đúc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân:
++Vì sự sinh tồn nên thị “ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì”, ăn để sống ( chứ không phải sống để ăn).
++Hình ảnh bát bánh đúc thể hiện thể hiện vẻ đẹp của tình người ở nhân vật Tràng. Tràng tuy nghèo nhưng có một gia tài rất giàu- đó là trái tim nhân hậu, biết cưu mang đồng loại. Tràng đã giành giật sự sống cho người đàn bà nghèo khổ từ tay thần Chết;
++Bánh đúc nên duyên vợ chồng. Từ bát bát bánh đúc ấy mà thị thành vợ Tràng và sau này thị trở nên hiền thục, nữ tính sau khi làm vợ Tràng. Từ đó Tràng cũng có được hạnh phúc bất ngờ, sung sướng khi có vợ. Sau này tâm tính Tràng thay đổi, thấy mình nên người gắn bó, trưởng thành và có trách nhiệm với gia đình.
+ Đánh giá ý nghĩa tư tưởng của chi tiết:
++Qua chi tiết bát bánh đúc, nhà văn đã phản ánh hiện thực về nạn đói năm 1945, trong đó con người bị coi như cọng rơm cái rác, giá trị người phụ nữ trở nên rẻ mạt. Nhà văn gián tiếp tố cáo tội ác do bọn thực dân phát xít và phong kiến gây ra;
++ Qua chi tiết bát bánh đúc, tác giả thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: trong tận cùng của cái đói, cái chết, người nông dân Việt Nam vẫn thương yêu, cưu mang nhau, có niềm tin vào tương lai và sự sống bất diệt.
- Về nghệ thuật:
+Là chi tiết nhỏ nhưng quan trọng, góp phần thúc đẩy cốt truyện, nhất là tình huống truyện, khắc họa số phận, phẩm chất, tính cách của nhân vật.
+ Thể hiện được nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Kim Lân. Nhà văn thường viết về cuộc sống giản dị của người nông dân với tâm lí rất đời thường. Ông sử dụng ngôn ngữ nôm na, gần gũi trong cuộc sống hằng ngày.
3. Liên hệ với chi tiết bát cháo hành (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giao dục Việt: Nam, 2016) để bình luận ngắn gọn về tình thương
+ Cả hai chi tiết đã phản ảnh vẻ đẹp tình người cao quý ở người nông dân
++ Chi tiết bát cháo hành của Thị Nở rất đơn sơ, giản dị, đời thường nhưng thể hiện sự chăm sóc ân cần, tình thương vô tư của thị khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi. Nó là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Nó còn là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí, gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến Chí ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống con người. Như vậy, bát cháo hành không những giúp Chí Phèo tỉnh rượu mà còn tỉnh ngộ, từ thế giới của con quỷ trở lại con người lương thiện.
++ Chi tiết bát bánh đúc mà nhân vật Tràng đã người đàn bà xa lạ cũng rất đơn sơ, bình thường về vật chất nhưng cao quý ở tấm lòng.
+ Cả 2 chi tiết đã làm nên 2 nhà văn lớn: Nam Cao và Kim Lân
++ Nam Cao là nhà văn lớn về tư tưởng và nghệ thuật. Bát cháo hành là biểu tượng của tình thương và tình yêu mà thị Nở dành cho Chí Phèo. Nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng, bị cự tuyệt quyền làm người. Qua đó, người đọc nhận ra tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn: cảm thông với số phận con người khi bị lưu manh hoá, yêu thương, ca ngợi vẻ đẹp lương thiện, khát vọng được làm người, yêu và được yêu của họ nhưng cuối cùng đã rơi vào bế tắc, tuyệt vọng. Giọng văn của ông lạnh lùng nhưng chan chứa yêu thương. Ông đã khai thác được diễn biến tâm lí nhân vật phức tạp mà sâu sắc; ngôn ngữ đậm chất nông dân, giàu chất triết lí.
++ Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nông thôn Việt Nam trong văn học hiện đại. Bát bánh đúc của nhân vật Tràng là biểu tượng của tình nghĩa con người. Trong hoàn cảnh hết sức bi đát, họ vẫn yêu thương, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau, khao khát sống và có niềm tin vào tương lai tươi sáng, hướng về cách mạng sau này. Như vậy, ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật dưới sự lãnh đạo của Đảng.
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật của 2 chi tiết trong 2 truyện. Cảm nghĩ của bản thân về 2 nhà văn.
Đề: Cảm nhận vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến ( Quang Dũng). Từ đó, liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu, Ngữ văn 11), nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
Mở bài
– Giới thiệu Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
+ Là nghệ sĩ đa tài : làm thơ , viết văn , vẽ tranh , soạn nhạc.
+ Là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
+Hồn thơ : phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt khi viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài ( Sơn Tây ) .
+Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng.
– Nêu vấn đề cần nghị luận.
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ và nêu nhận định chung:
-Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh, sinh viên.
- Chất lãng mạn và bi tráng đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của bài thơ, tập trung ở hình tượng người lính
2. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật về vẻ đẹp độc đáo, mới lạ của hình tượng người lính trong bài thơ Tây tiến
- Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng( đoạn 1), cái nền mĩ lệ, thơ mộng của thiên nhiên và cuộc sống Tây Bắc( đoạn 2), người lính xuất hiện với tư thế thật oai phong, dữ dội.
- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :
+Hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc, kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính xanh xao, sốt rét làm họ trụi cả tóc. Tuy nhiên, họ ốm mà không yếu. Trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, toát lên cái oai phong của những con hổ nơi rừng thiêng;…
+Ẩn giấu sau cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).
- Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
Nói về người lính cùng cái chết, sự hi sinh nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến nhà thơ nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mĩ tạo nên cái đẹp mang chất bi hùng:
+Hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
+Sự thật bi thảm những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã – dòng sông Mã đã trân trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng. Hình ảnh những người lính Tây Tiến thấm đẫm tính chất bi tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở xưa.
- Về nghệ thuật
+Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực và cảm hứng lãng mạn.
+Thể thơ 7 chữ chắc khỏe mang giọng điệu hào hùng như một khúc quân hành.
+Thủ pháp đối lập, khắc họa hình tượng nhân vật
+ Dùng nhiều từ Hán Việt….
3. Liên hệ với hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm.
- Về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù Nam bộ, sống gắn bó với nhân dân miền Nam. Ông là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX
+ Bài văn tế được viết trong thời kì lịch sử “khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh đồn Cần Giuộc đêm 16.12.1861.
+Nét độc đáo của hình tượng người nông dân nghĩa sĩ:
++Những người nghĩa sĩ Cần Giuộc vốn là người nông dân thuần phác, giản dị, quanh năm chỉ biết “ Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” nhưng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Họ tự nguyện đứng lên đánh giặc cứu nước. Trang bị vũ khí vô cùng thô sơ, kinh nghiệm trận mạc ít ỏi nhưng họ chiến đấu với tinh thần quả cảm và đã hi sinh anh dũng.
++Nghệ thuật khắc họa: Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc: giọng điệu trang trọng, bi thương, câu văn biền ngẫu có kết cấu đăng đối, ngôn ngữ giàu hình ảnh và sức biểu cảm với hệ thống các hình ảnh so sánh ví von, chi tiết chọn lọc đặc sắc…
- Hình tượng người lính Tây Tiến:
+ Hình ảnh người lính trong bài thơ Tây Tiến là những thanh niên, học sinh Hà Nội xếp bút nghiên lên đường cứu nước. Cuộc sống gian khổ, thiếu thốn nhưng họ vẫn giữ được vẻ đẹp rất hào hùng mà cũng rất hào hoa.
+Được khắc họa bằng bút pháp lãng mạn mang đậm chất bi tráng…
-Nhận xét bức tượng đài nghệ thuật về người lính mà các tác giả đã gửi gắm qua tác phẩm
+Điểm giống:
++ Đề tài: Hai tác phẩm cùng viết về những con người đã dám xả thân hi sinh vì đất nước
++Hình tượng các nhân vật mang vẻ đẹp đậm chất bi tráng.
++Cảm hứng: trân trọng, ngợi ca
+Điểm khác:
++ Cùng viết về người lính nhưng với tài năng nghệ thuật riêng các nhà thơ, nhà văn đã góp phần làm phong phú thêm vẻ đẹp của người lính trong văn học và cho người đọc một bài học về sự sáng tạo.
++Với bài “ Văn tế…”, lần đầu tiên người nông dân áo vải bước vào văn học với tư cách là người lính, cùng với những tác phẩm khác cùng đề tài tạo nên vẻ đẹp của người lính trong văn học Trung đại. “ Tây tiến” chính là sự kế thừa và sáng tạo từ hình ảnh này.
+ Nguyên nhân sự khác biệt :
++ Mỗi tác giả đều mang một cảm xúc riêng khi thể hiện hình ảnh người lính;
++Hoàn cảnh sáng tác: cảnh ngộ riêng và hoàn cảnh thời đại để lại dấu ấn trong cảm xúc và hình ảnh hình ảnh người lính của mỗi tác giả
III.Kết bài
Kết luận về nội dung, nghệ thuật hình tượng người lính trong 2 tác phẩm. Cảm nghĩ của bản thân về hình tượng.
ĐỀ:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Cảm nhận vẻ đẹp đoạn thơ trên trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Từ đó, liên hệ với đoạn thơ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)
để nhận xét cái nhìn về thiên nhiên của mỗi nhà thơ.
Mở bài:
– Giới thiệu Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
– Nêu vấn đề cần nghị luận ( chép đầy đủ, chính xác đoạn thơ)
II.Thân bài:
1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ
-Bài thơ được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Khi đó, nhà thơ vừa rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại đơn vị khác đã nhớ và viết lên bài thơ này.
- Đoạn thơ thuộc phần hai khổ thứ hai của bài thơ với cảm hứng là nỗi nhớ về buổi chiều chia tay đi Châu Mộc
2. Cảm nhận vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến
*Về nội dung:
Nếu ở những câu thơ trước, Quang Dũng cho ta bước vào cảnh đêm liên hoan rực rỡ, vui tươi, thì đến với những câu thơ tiếp theo, tác giả lại cho ta thả tâm hồn mình vào cái mờ ảo, mênh mang của cảnh sông nước miền Tây:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
-Hình ảnh dòng sông lúc chiều xuống giăng mắc màn sương mờ ảo cho ta thấy nét đặc trưng của núi rừng nơi đây, tạo cảm giác bâng khuâng, man mác trong lòng người đọc.
- Không gian hoang vắng, tĩnh lặng có chút gì đó mơ hồ, phảng phất chút tâm linh của rừng núi. Điều này được thể hiện qua hình ảnh “hồn lau”. Những cây lau vô tri vô giác bỗng chốc trở nên có linh hồn. Những triền lau xám bạc phất phơ theo chiều gió đưa đẩy, qua cảm nhận của người ra đi có chất chứa nỗi lòng thật quyến luyến, như có hồn phảng phất trong gió trong cây.
Giữa thiên nhiên hoang vu, tĩnh lặng của núi rừng Tây Bắc chợt xuất hiện hình ảnh của con người với vẻ đẹp khỏe khoắn, rắn rỏi:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Độc mộc là một con thuyền làm bằng cây gỗ to khoét trũng dùng để vượt thác leo ghềnh. Chính vì hình ảnh đó, đã làm cho “dáng người” lại càng mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, cứng cáp. Dáng người ấy có thể là hình ảnh của những cô gái Thái Mèo đã từng đưa các chiến sĩ vượt sông. Hình ảnh ấy đã để lại cho tâm hồn nhạy cảm của những người lính một ấn tượng khó phai nhòa;
-Hòa vào khung cảnh nên thơ ấy là hình ảnh những cánh hoa rừng đong đưa trên dòng nước lũ, gợi cảm giác mềm mại, nhẹ nhàng làm cho lòng người thêm say đắm bâng khuâng.
- Đoạn thơ là một bức tranh hòa hợp giữa thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đồng thời, ta cũng có thể cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả và hơn cả là của những người lính Tây Tiến, dù chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời, tận hưởng từng khoảnh khắc đẹp của cuộc sống.
* Về nghệ thuật:
-Bút pháp lãng mạn, trữ tình
-Nghệ thuật miêu tả hết sức độc đáo
-Đoạn thơ có sự kết hợp giữa chất thơ, chất họa, chất nhạc.
3. Liên hệ đến đoạn thơ của Hàn Mạc Tử để nhận xét cái nhìn về thiên nhiên của mỗi nhà thơ
- Về đoạn thơ của Hàn Mạc Tử trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
+Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt và có sức sáng tạo đặc biệt nhưng luôn quằn quại đau đớn vì một căn bệnh hiểm nghèo. Ông cũng có những bài thơ thật tuyệt mĩ và trong trẻo lạ thường viết về thiên nhiên, đất nước và con người … Đây thôn Vĩ Dạ được in trong tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được ông viết khi nhận được bức ảnh chụp về phong cảnh Huế kèm theo mấy lời thăm hỏi của người bạn gái có tên là Hoàng Cúc. Những kỉ niệm về vùng đất và con người xứ Huế được sống lại trong bài thơ. Lúc này, ở Quy Nhơn ông đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Vì vậy bài thơ là một bức tranh đẹp về thiên nhiên xứ Huế nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn da diết, bâng khuâng, nhất là khổ thơ thứ hai.
+Hai câu đầu là một bức tranh phong cảnh với đủ cả gió mây sông nước. Câu thơ đầu Gió theo lối gió, mây đường mây không chỉ tả cảnh, từ hình ảnh đến giọng điệu thơ còn gợi lên một cảm giác buồn bã và hiu hắt. Nhịp ngắt 4/3 với những chữ gió, chữ mây riêng rẽ ở từng vế câu đã tạo ra cảm giác có một sự ngăn cách, chia lìa thật quyết liệt. Từ sự phi lí về hiện tượng tự nhiên, Hàn Mặc Tử đã thể hiện những hợp lí của tâm trạng trong cảnh ngộ của một con người gắn bó tha thiết với đời lại vĩnh viễn phải xa cách cuộc đời! Thiên nhiên đã nhuốm sắc màu của tâm trạng con người, hay đúng hơn, thiên nhiên chỉ là những hình ảnh được nhà thơ nhắc đến để gửi gắm tâm trạng và thể hiện cảnh ngộ của chính bản thân mình. Câu thơ thứ 2 miêu tả dòng sông Hương và hoa bắp ven bờ: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay. Phép nhân hoá trong hình ảnh dòng nước buồn thiu vừa làm hiện lên một dòng sông phẳng lặng như ngưng trệ, không trôi chảy, vừa gợi tả nỗi buồn. Hai câu thơ vẽ nên một không gian hoang vắng, chia lìa trong một thời gian như ngưng trệ, cảnh vật hờ hững, lạnh lẽo với con người. Bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm cảnh, thiên nhiên như đã không còn là đối tượng miêu tả mà trở thành phương tiện biểu hiện cõi lòng u ám, buồn bã khi con người trở về với cõi thực của bi kịch riêng mình trong hiện tại.
+ Hai câu sau: cảnh tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhoà, lạnh lẽo, như thực, như mơ... Trong thế giới của cõi mộng, trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, bến trở thành bến trăng, thuyền thành thuyền chở trăng và cả bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, nhoà mờ trong trăng... Hình ảnh sông trăng có thể hiểu là ánh trăng chan chứa trên dòng sông; cũng có thể hiểu là ánh trăng từ trên trời cao tuôn chảy thành dòng sông trăng lai láng khắp thế gian... Dù hiểu theo cách nào thì dòng sông Hương thực của xứ Huế cũng đã từ cõi thực chảy trôi vào cõi mộng. Hai câu thơ đựng trong đó ít nhất hai câu hỏi da diết, đau đáu về một cõi mơ đẹp huyền ảo, ngập tràn sắc trăng cứu rỗi vốn luôn xuất hiện trong thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử. Thi sĩ khao khát sống, khao khát yêu đời lại phải chia lìa, cách biệt với cuộc đời trong một thực tại nghiệt ngã nên ông chỉ còn cách miên man dõi theo bóng ai trong ánh trăng huyền ảo, bám víu vào cõi mộng để hình dung như được trở lại với đời. Cách diễn đạt phiếm chỉ trong câu hỏi thứ nhất “thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác thật tội nghiệp: dường như nhà thơ đang bị vây bọc trong một thế giới tăm tối, lạnh lẽo, chới với vọng hỏi một ai đó ở thế giới bên ngoài.
-Nhận xét cái nhìn về thiên nhiên của mỗi nhà thơ:
+ Nét giống nhau của cả 2 đoạn thơ là đều nói về những nét đẹp của thiên nhiên. Phong cảnh thiên nhiên được chính tâm hồn lãng mạn của các nhà thơ thể hiện nên rất sinh động, giàu sức gợi hình, gợi cảm.
+Nhưng với mỗi cảm xúc riêng, hoàn cảnh riêng của mỗi tác giả, nét đẹp thiên nhiên lại được thể hiện khác nhau:
++ Đối với Hàn Mặc Tử, cái nhìn thiên nhiên gợi cảm giác man mác buồn; cảnh vật tuy đẹp nhưng vẫn gợi sự u sầu, đau đớn. Bởi lẽ vì chính tâm trạng lúc này của Hàn Mạc Tử, khi đang phải chịu đựng những con đau của căn bệnh quái ác và hơn cả là phải đối diện với cái chết, nhà thơ của chúng ta lại trở nên đa sầu trước mọi cái nhìn cảnh vật.
++ Đối với nhà thơ Quang Dũng, cái nhìn thiên nhiên được thể hiện một cách đầy thơ mộng, trữ tình với một hồn thơ đầy tinh tế, nhạy cảm; tạo cho người đọc một cảm giác bâng khuâng, nao lòng trước cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Bằng chính cái tôi lãng mạn hào hoa của mình, nhà thơ muốn thể hiện sự quyến luyến, nhớ nhung khi phải chia tay thiên nhiên và con người Tây Bắc.
III.Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp thiên nhiên ở 2 đoạn thơ. Cảm nghĩ của bản thân về tình yêu thiên nhiên của các nhà thơ.
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Bản lĩnh là khi bạn dám nghĩ, dám làm và có thái độ sống tốt. Muốn có bản lĩnh bạn cũng phải kiên trì luyện tập. Chúng ta thường yêu thích những người có bản lĩnh sống. Bản lĩnh đúng nghĩa chỉ có được khi bạn biết đặt ra mục tiêu và phương pháp để đạt được mục tiêu đó. Nếu không có phương pháp thì cũng giống như bạn đang nhắm mắt chạy trên con đường có nhiều ổ gà. Cách thức ở đây cũng rất đơn giản. Đầu tiên, bạn phải xác định được hoàn cảnh và môi trường để bản lĩnh được thể hiện đúng lúc, đúng nơi, không tùy tiện. Thứ hai bạn phải chuẩn bị cho mình những tài sản bổ trợ như sự tự tin, ý chí, nghị lực, quyết tâm ... Điều thứ ba vô cùng quan trọng chính là khả năng của bạn. Đó là những kỹ năng đã được trau dồi cùng với vốn tri thức, trải nghiệm. Một người mạnh hay yếu quan trọng là tùy thuộc vào yếu tố này.
Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh. Khi xây dựng được bản lĩnh, bạn không chỉ thể hiện được bản thân mình mà còn được nhiều người thừa nhận và yêu mến hơn.”
(Tuoitre.vn - Xây dựng bản lĩnh cá nhân)
Câu 1 (0,5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2 (0,5 điểm): Theo tác giả, thế nào là người bản lĩnh?
Câu 3 (1,0 điểm): Tại sao tác giả cho rằng “Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh”.
Câu 4 (1,0 điểm): Theo anh/chị, một người có bản lĩnh sống phải là người như thế nào?
II. LÀM VĂN: (7 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý kiến được gợi ra từ phần Đọc hiểu: Tuổi trẻ cần sống có bản lĩnh để dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách.
Câu 2 (5,0 điểm): Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong đoạn trích “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm:
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 121)
--------------Hết---------------
ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM
ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 3,0 | |
1 | - Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận | 0,5 | |
2 | - Theo tác giả, người có bản lĩnh là người dám nghĩ, dám làm và có thái độ sống tốt. | 0,5 | |
3 | - Sở dĩ tác giả cho rằng bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh bởi vì: khi một cá nhân có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ cá nhân mình, không quan tâm đến những người xung quanh, thậm chí làm phương hại đến xã hội thì không ai thừa nhận anh ta là người có bản lĩnh ... | 1,0 | |
4 | Học sinh bày tỏ những ý kiến riêng, sau đây là một số gợi ý: - Phải biết trau dồi tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng - Phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm - Phải có ý chí, quyết tâm, nghị lực - Phải có chính kiến riêng trong mọi vấn đề. Người bản lĩnh dám đương đầu với mọi thử thách để đạt điều mong muốn. | 1,0 | |
II | LÀM VĂN | ||
1 | Trình bày suy nghĩ về: Tuổi trẻ cần sống có bản lĩnh để dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách. | 2,0 | |
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng phân hợp, móc xích hoặc song hành. | 0,25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận Tuổi trẻ cần sống có bản lĩnh để dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách | 0,25 | ||
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận Học sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ sự cần thiết của bản lĩnh sống đối với tuổi trẻ. Có thể theo hướng sau : - Bản lĩnh là sự tự khẳng định mình, bày tỏ những quan điểm cá nhân và có chính kiến riêng trong mọi vấn đề. Người bản lĩnh dám đương đầu với mọi thử thách để đạt điều mong muốn. - Ý nghĩa của việc sống bản lĩnh + Sống bản lĩnh giúp cho bản thân có được sự tự tin trong cuộc sống, từ đó đề ra những mục tiêu và dám thực hiện chúng. + Bên cạnh đó, người bản lĩnh cũng dễ dàng thừa nhận những sai sót, khuyết điểm của mình và tiếp thu những cái hay, cái mới. + Trước những cám dỗ của cuộc sống, người bản lĩnh hoàn toàn có thể tự vệ và tự ý thức được điều cần phải làm. - Phê phán những người sống không có bản lĩnh, hèn nhát, yếu đuối, ... - Không phải ai sinh ra cũng có được bản lĩnh. Bản lĩnh của mỗi người được tôi luyện qua nhiều gian lao, thử thách. ... | 1,0 | ||
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt | 0,25 | ||
e. Sáng tạo Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận | 0,25 | ||
2 | Cảm nhận đoạn thơ trong bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm | 5,0 | |
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận Trình bày đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề nghị luận; Thân bài triển khai đượcvấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề. | 0,25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân | 0,5 | ||
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận: Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. | | ||
* Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích | 0,5 | ||
* Cảm nhận đoạn thơ - Về nội dung: (1,75 điểm) Khẳng định đất nước của nhân dân vì chính nhân dân đã làm ra Đất Nước + Nhân dân là những người bình thường, vô danh nhưng họ đã thầm lặng xây dựng, mở mang, khai phá, kiến tạo nên đất nước (Không ai nhớ mặt đặt tên/Nhưng họ đã làm ra Đất Nước; Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân…). + Nhân dân là những người đã sáng tạo, gìn giữ và lưu truyền những giá trị vật chất, văn hóa tinh thần cho đời sau (Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng; chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi; truyền giọng điệu mình cho con tập nói). + Nhân dân là những người không tiếc máu xương, sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước trước những biến động lịch sử và hiểm họa xâm lăng (Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm/ Có nội thù thì vùng lên đánh bại). + Từ những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ mà gần gũi về Đất Nước, về vai trò to lớn của nhân dân, tác giả khẳng định tư tưởng chủ đạo: Đất Nước của Nhân Dân - Về nghệ thuật (0,75 điểm) + Thể thơ tự do; ngôn từ, hình ảnh vừa gần gũi quen thuộc vừa mang tính khái quát; các biện pháp tu từ được sử dụng một cách linh hoạt. + Cảm xúc thơ chân thành, tha thiết; giọng điệu tâm tình, có sự hòa quyện giữa chất trữ tình và chính luận. | 2,5 | ||
* Đánh giá chung – Đoạn thơ là những suy nghĩ, phát hiện mới mẻ về vai trò của nhân dân trong lịch sử; khẳng định một tư tưởng mang tính thời đại: Đất Nước Nhân dân. – Đất Nước không chỉ thể hiện tình cảm yêu nước sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm mà còn khơi dậy niềm tự hào về quê hương, tổ quốc trong lòng mỗi người. | 0,5 | ||
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt | 0,25 | ||
e. Sáng tạo Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận | 0,5 |
-----------------Hết----------------
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“Có một loại lực vô cùng mạnh mẽ, loại lực mà tới tận bây giờ khoa học cũng chưa thể tìm ra định nghĩa chính xác nào cho nó. Lực này bao gồm và chi phối mọi loại lực khác, thậm chí còn đứng sau vô vàn hiện tượng do vũ trụ vận hành mà chúng ta vẫn chưa thể lý giải. Đó chính là TÌNH YÊU.
Khi các nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ qua lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này. Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỷ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng chính là tình yêu.
Loại lực này giải thích mọi điều và thổi ý nghĩa vào cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ là do chúng ta vẫn duy trì nỗi sợ trước một thứ con người không thể nào hiểu và kiểm soát được.
Để giúp khái niệm tình yêu trở nên dễ hình dung hơn, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể tạo ra từ tình yêu nhân với tốc độ ánh sáng bình phương. Chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng: tình yêu chính là năng lượng bất khả chiến bại, bởi nó là vô hạn.
Sau những thất bại liên tiếp của nhân loại trong nỗ lực điều khiển các nguồn lực của vũ trụ, đã đến lúc chúng ta phải nuôi dưỡng mình bằng một loại năng lượng khác…
Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.
Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.”
(Trích Thư của nhà Bác học Vật lí người Đức Albert Einstein gửi con gái)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2. Chỉ ra hai biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn:
“Tình yêu là ánh sáng soi chiếu tâm hồn những người biết trao và nhận nó. Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta cuốn hút lẫn nhau. Tình yêu là sức mạnh, bởi nó phát triển bản tính tốt đẹp nhất trong ta, giúp nhân loại không bị che mắt bởi sự ích kỷ mù quáng. Tình yêu hé lộ và gợi mở. Tình yêu có thể khiến chúng ta sống và chết. Tình yêu là Chúa và Chúa cũng chính là tình yêu.”
Câu 3. Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến “Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.”
Câu 4. Đoạn trích trên gửi tới anh/chị thông điệp gì ?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Nếu loài người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những giống loài khác, tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.”
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
(Trích Đất Nước-Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12-tập một, trang 119, 120 NXB GD)
…………………………………. Hết …………………………….
HƯỚNG DẪN CHẤM:
HƯỚNG DẪN CHẤM:
Giám khảo cần nắm vững yêu cầu của Hướng dẫn chấm và Đáp án – Biểu điểm để đánh giá tổng quát bài làm của học sinh. Do đặc trưng bộ môn nên giám khảo cần linh hoạt trong quá trình chấm, khuyến khích những bài viết sáng tạo.
Bài thi được chấm theo thang điểm 10, lấy đến 0,25; không làm tròn điểm.
PHẦN | Câu | Nội dung | Điểm |
Đọc hiểu (3 điểm) | 1 | Phương thức biểu đạt chính: nghị luận | 0,5 |
| 2 | - Hai biện pháp tu từ: liệt kê và lặp cấu trúc. - Hiệu quả: giúp người đọc cảm nhận được vai trò, ý nghĩa của tình yêu đối với cuộc sống con người. | 0.5 |
| 3 | Về ý kiến “Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để tạo ra một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Dù vậy, mỗi con người vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.” Cần cảm nhận được: + “quả bom tình yêu” -> tình yêu có sức công phá mạnh mẽ, toàn diện để phá hủy “sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam”. + “chiếc máy phát tình yêu” -> công cụ tạo ra tình yêu. => Ý kiến khẳng định mỗi con người luôn mang trong mình một “năng lượng” mạnh mẽ là tình yêu và tình yêu của con người có thể bộc lộ, biểu hiện bất cứ lúc nào đem đến cho mỗi người cuộc sống tốt đẹp. | 1,00 |
| 4 | Đoạn trích trên gửi tới thông điệp: tình yêu có sức mạnh to lớn trong cuộc sống + Hướng con người tới cuộc sống ý nghĩa. + Phá tan sự ích kỉ, tham lam của con người. | 1,00 |
Làm văn (7 điểm) | Câu 1 (2,0 điểm) | Thí sinh viết đoạn văn nghị luận cần đảm bảo các yêu cầu dưới đây | |
| | Về hình thức: Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận. | 0,25 |
| | Về nội dung: - Tình yêu giúp con người tồn tại và tìm ra ý nghĩa của sự sống - Tình yêu bảo vệ thế giới - Bài học nhận thức và hành động: Mỗi cá nhận cần nhận thức đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của tình yêu | 1,25 |
| | Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu | 0.25 |
| | Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, cảm nhận sâu sắc về vấn đề nghị luận, văn viết có cảm xúc. | 0.25 |
| Câu2 ( 5 điểm) | * Yêu cầu chung - Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng để viết bài văn nghị luận văn học. - Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng, lập luận thuyết phục, diễn đạt mạch lạc; khong mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. - Thí sinh có thể cảm nhận và phân tích theo nhiều cách khác nhâu nhưng phải bám sát tác phẩm; kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận | |
| | * Yêu cầu cụ thể 1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: - Điểm 0,5: Trình bày đủ 3 phần Mở- Thân- Kết bài. Phần MB dẫn dắt hợp lý, nêu được vấn đề; phần TB biết tổ chức thành nhiều đoạn văn, có liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần KB khái quát được ấn tượng, cảm xúc của cá nhân. - Điểm 0,25 điểm: Trình bày được đầy đủ 3 phần nhưng chưa thực hiện được các yêu cầu trên, thân bài chỉ có 1 đoạn văn hoặc cả bài chỉ có một đoạn văn. - Điểm 0: Thiếu Mở bài hoặc Kết luận, Thân bài chỉ có một đoạn văn hoặc cả bài chỉ có một đoạn văn. | 0,5 |
| | 2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận - Điểm 0,5: Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: đoạn thơ thuộc phần cuối của đoạn trích: Trách nhiệm của mọi người đối với đất nước. - Điểm 0,25: Xác định chưa rõ vấn đề nghị luận, chỉ nêu chung chung. - Điểm 0: Xác định sai vấn đề cần nghị luận, trình bày lạc sang vấn đề khác. | 0,5 |
| | 3. Chia vấn đề thành các luận điểm phù hợp, các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lí, có sự liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai các luận điểm (trong đó có thao tác phân tích,); biết phân tích dẫn chứng để hiểu nội dung (3,0 điểm). * Nêu được vấn đề nghị luận ( giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn thơ) * Phân tích - Cảm nhận về đất nước một cách toàn vẹn tổng hợp từ nhiều bình diện để làm nổi bật tư tưởng, tình cảm và trách nhiệm của mình trong hiện tại: Đất nước là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng, thế hệ này với thế hệ khác. - Cảm nhận về đất nước gắn với cái nhìn hướng về tương lai với tất cả niềm tin và sự kì vọng. - Từ đó giúp chúng ta nhận thức được đất nước chính là sự sống của chính bản thân, cho nên bảo vệ sự sống của chính bản than cũng là trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng trong việc giữ gìn, bồi đắp cho đất nước bền vững muôn đời. - Nghệ thuật: Thể thơ tự do, nhịp thơ linh hoạt phù hợp với tình cảm và mạch suy nghĩ; từ Đất Nước lặp lại 6 lần, viết hoa, tăng lên sự tôn kính thiêng liêng khi nhà thơ viết về đất nước.. * Đánh giá chung vấn đề. | 3,0 |
| | 4. Chính tả, dung từ, đặt câu - Điểm 0,5: Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. - Điểm 0,25: Mắc một số lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. - Điểm 0: Chữ viết cẩu thả, mắc nhiều lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu. | 0.5 |
| | 5. Sáng tạo Có nhiều cách diễn đạt độc đáo và sáng tạo (câu, từ ngữ, hình ảnh, biểu cảm…), văn viết giàu cảm xúc, có liên hệ so sánh, có quan điểm, thái độ riêng sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực đạo đức và pháp luật. | 0.5 |
……………..Hết……………
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
I - ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
(1) Sáng nay tôi thức dậy với những lời trong một bài hát của ca sĩ Mick Jagger: “Ủy mị chẳng ích gì, chuyện trôi qua nhanh lắm”. Đúng như thế. Cuộc đời thực sự đang trôi nhanh lắm.
(2) Sao lại trì hoãn những việc có thể làm hôm nay cho những lúc rảnh rỗi trong tương lai xa xôi nào đó?Sao không đóng vai một con người vượt trội bây giờ mà lại dành điều đó vào một thời điểm khác mai sau? Sao lại chần chừ thụ hưởng những giờ phút tuyệt vời và chờ đến khi về già? Một ngày nọ tôi đọc cuốn sách về một phụ nữ trẻ suy tư về kế hoạch để dành tiền hưu. Cô nói: “Tôi muốn bảo đảm mình sẽ để dành thật nhiều tiền – như vậy tôi mới có thể vui sống vào cuối đời”. Tôi không nghĩ vậy. Tại sao phải chờ đến già mới hưởng thụ cuộc sống?
(3) Tôi không có ý nói rằng bạn nên bỏ qua tầm quan trọng của việc lên kế hoạch cho tương lai. Hãy biết nhìn xa và chuẩn bị cho suốt cuộc đời. Đó là sự quân bình. Hãy lên kế hoạch. Để dành tiền cho tuổi hưu. Hãy dự trù. Nhưng đồng thời cũng cần biết sống cho giây phút này. Sống thật đầy đủ.
(Trích Đời ngắn đừng ngủ dài – Robin Sharma, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ, 2017, tr.25 – 26)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (0.5 điểm)
Câu 2. Nêu tên một biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng trong đoạn (2). (0.5 điểm)
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về câu hỏi của tác giả: Tại sao phải chờ đến già mới hưởng thụ cuộc sống ? (1.0 điểm)
Câu 4. Theo anh/chị, việc lên kế hoạch cho tương lai có cần thiết với cuộc đời mỗi người không? Vì sao? (1.0 điểm)
II.LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1. (2.0 điểm) Từ thông điệp của đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về tác hại của thói quen trì hoãn công việc.
Câu 2. (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010, tr.88)
------ Hết ------
HƯỚNG DẪN CHẤM
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 3.0 |
1 | Nghị luận | 0.5 |
2 | Hs chỉ cần xác định và chỉ ra đúng 01 biện pháp tu từ cú pháp là cho điểm tuyệt đối. - Câu hỏi tu từ/ Lặp cú pháp: Sao lại trì hoãn những việc có thể làm hôm nay cho những lúc rảnh rỗi trong tương lai xa xôi nào đó?Sao không đóng vai một con người vượt trội bây giờ mà lại dành điều đó vào một thời điểm khác mai sau? Sao lại chần chừ thụ hưởng những giờ phút tuyệt vời và chờ đến khi về già? - Chêm xen: “Tôi muốn bảo đảm mình sẽ để dành thật nhiều tiền – như vậy tôi mới có thể vui sống vào cuối đời” | 0.5 |
3 | Câu hỏi của tác giả có nghĩa là: đừng đợi đến già mới hưởng thụ cuộc sống, hãy biết tận hưởng cuộc sống mỗi ngày. | 1.0 |
4 | Nêu rõ quan điểm của bản thân; lí giải hợp lí, thuyết phục về sự cần thiết của việc lên kế hoạch cho tương lai. Có thể theo hướng sau: - Giúp con người có mục tiêu, phương hướng hành động - Giúp con người chủ động tìm các giải pháp; tránh được các rủi ro... | 1.0 |
II | LÀM VĂN | 7.0 |
Câu 1 | Trình bày suy nghĩ về tác hại của thói quen trì hoãn công việc. | 2.0 |
| a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn | 0.25 |
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Tác hại của thói quen trì hoãn công việc | 0.25 | |
c. Triển khai vấn đề nghị luận Hs lựa chọn các thao tác phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận. Hs có thể trình bày theo nhiều cách, đảm bảo các ý sau: - Trì hoãn công việc có thể khiến ta không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn; thậm chí bỏ lỡ những cơ hội. - Thói quen trì hoãn công việc sẽ dẫn đến việc bê trễ, thiếu kĩ luật, vô trách nhiệm… - Mỗi người cần nhận thức được tác hại của thói quen trì hoãn công việc; rèn luyện thói quen học tập theo kế hoạch một cách hợp lí, khoa học. | 1.0 | |
d. Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt | 0.25 | |
e. Sáng tạo: có cách diễn đạt mới mẻ, cảm nhận sâu sắc về vấn đề cần nghị luận | 0.25 | |
Câu 2 | Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến | 5.0 |
| a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triền khai được vấn đề gồm nhiều ý, đoạn văn. Kết bài kết luận được vấn đề. | 0.5 |
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn thơ | 0.5 | |
c. Triển khai vấn đề nghị luận: Bài làm cần đáp ứng các yêu cầu sau. | | |
| * Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích, vấn đề cần nghị luận. * Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính Tây Tiến trong đoạn thơ. - Về nội dung + Bức tranh thiên nhiên: hùng vĩ, dữ dội, đầy bí hiểm nhưng cùng thấp thoáng nét thơ mộng, trữ tình. + Hình ảnh người lính Tây Tiến: được khắc họa trên chặng đường hành quân với những gian khổ, hi sinh mà vẫn ngang tàng, tâm hồn vẫn trẻ trung lãng mạn. - Về nghệ thuật: + Bút pháp lãng mạn, cách sử dụng ngôn từ đặc sắc với các từ chỉ địa danh, từ tượng hình. + Kết hợp chất nhạc với chất họa... * Đánh giá đoạn thơ khắc họa được vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến, tiêu biểu cho phong cách thơ tài hoa của Quang Dũng. | 3.0 |
| d. Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu | 0.5 |
| e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, cảm nhận sâu sắc về vấn đề nghị luận | 0.5 |
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai chỉ nguyên là một hạt cát, một hạt bụi biển xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai. Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước dãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đâu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình (và vì trai chết nên cái bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy hạt đau, hạt xót. Tới một thời gian nào đó, hạt cát, khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai, đã trở thành lõi sáng của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.
(Trích Tờ hoa - Nguyễn Tuân)
Câu 1. Xác định nội dung của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Đặt tiêu đề cho đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 3. Từ “lẻn” trong câu “Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai” sử dụng biện pháp tu từ gì? Nêu tác dụng của việc sử dụng biện pháp tu từ đó? (1,0 điểm)
Câu 4. Từ đoạn văn trên, Anh/chị rút ra bài học gì trong cuộc sống? (1,0 điểm)
II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm) Từ ngữ liệu phần Đọc hiểu trên, Anh/ chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa quá trình khổ luyện của con người để thành công.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận của Anh/chị về đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Sách Giáo khoa Ngữ văn 12, tập Một).
………………………….HẾT……………………………
Học sinh không được sử dụng tài liệu.
ĐÁP ÁN
Câu | Nội dung | Điểm |
Đọc hiểu | Câu 1. Nội dung của đoạn trích: Trình bày quá trình khổ đau, nặng nhọc đèo bòng của loài trai để cho viên ngọc quý. | 0,5 |
Câu 2. Đặt tiêu đề cho đoạn trích - HS đặt tiêu đề phù hợp với nội dung của đoạn trích, có thể đặt các tiêu đề sau: Quá trình hình thành ngọc trai/ Từ hạt cát đến ngọc trai/Ngọc trai/ Trai đau đớn để tỏa sáng… | 0,5 | |
Câu 3. Từ “lẻn” trong câu “Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai” sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa - Nêu tác dụng: phép tu từ nhân hóa “lẻn” làm cho câu văn trở nên sinh động, hạt cát biết tính toán thời cơ, biết hành động rất nhanh “lẻn”vào trong lòng loài trai trú ẩn. | 0,5 0,5 | |
Câu 4. HS nêu được một trong những bài học sau: - Trong cuộc sống có muôn vàn những công việc khó khăn, gian khổ, con người chỉ có thể thành công nếu bền bỉ, nhẫn nại khổ luyện. - Có những điều để đạt được nó con người phải trải qua những đau đớn, mất mát như quá trình đau khổ của trai làm ra ngọc quý cho đời. - Quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ, chấp nhận và vượt lên gian nan trong công việc của mỗi người sẽ đem lại những giá trị nhất định… * Lưu ý: HS có thể có những phát hiện khác, diễn đạt khác mà phù hợp và có sức thuyết phục thì vẫn cho điểm tối đa. | 1,0 | |
Làm Văn | Câu 1. a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn - Độ dài: khoảng 200 chữ - Có thể trình bày đoạn văn theo nhiều cách: diễn dịch, quy nạp, móc xích, song hành… | 0,25 |
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: suy nghĩ về ý nghĩa quá trình khổ luyện của con người để thành công; triển khai vấn đề đó trong suốt đoạn văn. | 0,25 | |
c. Triển khai vấn đề nghị luận: - HS lựa chọn các thao tác nghị luận phù hợp như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận để triển khai vấn đề cần nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ ý nghĩa của quá trình khổ luyện của con người để thành công. - HS có thể làm theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý sau: + Giới thiệu vấn đề nghị luận. + Giải thích “quá trình khổ luyện” là quá trình rèn luyện với tính kỷ luật cao trong thời gian dài của con người với nhiều khó nhọc, gian nan thậm chí đau đớn. + Biểu hiện: rèn luyện thể thao đỉnh cao, ôn luyện lao tâm khổ trí trong các cuộc thi Quốc tế, người khuyết tật khổ luyện để khẳng định bản thân…. + Ý nghĩa: khổ luyện rèn luyện con người tính kỷ luật, sức chịu đựng, bền bỉ, dẻo dai, sự chấp nhận khó khăn; con người trở nên bản lĩnh, nghị lực, cứng cáp và dày dặn kinh nghiệm để vượt qua mọi trở ngại, gian nan; khổ luyện sẽ đưa con người đến thành công, tỏa sáng trong nghề nghiệp, đưa vinh quang về cho đất nước. + Bình luận: Khổ luyện có ý nghĩa lớn là điều kiện để thành công; cần khổ luyện vươn tới mục đích tốt đẹp, tỏa sáng tài năng, khẳng định bản thân; khổ luyện khác với hành xác, tự đày đọa mình; phê phán những người ngại rèn luyện, khổ luyện… + Bài học nhận thức và hành động: thấy được giá trị của khổ luyện đúng hướng; bản thân cần rèn luyện mình để có nhiều phẩm chất tốt, để thành công. | 0,25 0,5 0,25 | |
d. Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. | 0,25 | |
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, có dấu ấn riêng trong lập luận, diễn đạt, hiểu sâu sắc về vấn đề nghị luận. | 0,25 | |
Câu 2. a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề nghị luận, thân bài triển khai được vấn đề gồm nhiều ý, đoạn văn, các đoạn được liên kết chặt chẽ với nhau; kết bài khái quát được vấn đề nghị luận và liên hệ thực tiễn. | 0,5 | |
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận đoạn thơ thứ 3 trong bài thơ Tây Tiến | 0,5 | |
c. Triển khai vấn đề nghị luận - HS lựa chọn các thao tác nghị luận phù hợp như phân tích, chứng minh, bình luận (trong đó phân tích là chủ yếu) để cảm nhận đoạn thơ theo nhiều cách khác nhau nhưng cần làm rõ các ý cơ bản sau đây: - Giới thiệu vấn đề cần nghị luận | 0,5 | |
- Cảm nhận đoạn thơ: + Về nội dung: ++ Chân dung đoàn binh Tây Tiến hiện lên qua nỗi nhớ của Quang Dũng mang vẻ đẹp bi tráng với ngoại hình khác lạ, dữ dằn nhưng đầy oai phong; khí phách hiên ngang, lẫm liệt; tâm hồn mơ mộng, lãng mạn, hào hoa; lí tưởng cống hiến, xả thân vô tư vì Đất nước; sự hy sinh bi tráng, nhẹ nhàng. ++ Đoạn thơ đã khắc họa bức tượng đài tập thể đoàn binh Tây Tiến độc đáo, ấn tượng trong thời đại anh hùng, tiêu biểu cho lòng yêu nước của người lính vệ quốc những năm đầu kháng chiến chống Pháp. | 1,25 | |
+ Về nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn, cảm hứng lãng mạn, âm hưởng thơ vừa hào hùng vừa bi tráng, sử dụng từ Hán Việt cổ kính, trang trọng, nghệ thuật nói giảm… | 0,75 | |
- Đánh giá về giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ, liên hệ thực tiễn . | 0,5 | |
d. Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. | 0,5 | |
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, có dấu ấn riêng trong lập luận, diễn đạt, hiểu sâu sắc về đoạn thơ cần nghị luận. | 0,5 |
....................Hết....................
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm): Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:
TỰ SỰ
Dù đục, dù trong con sông vẫn chảy
Dù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh
Dù người phàm tục hay kẻ tu hành
Đều phải sống từ những điều rất nhỏ.
Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó
Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?
Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng
Nếu tất cả đường đời đều trơn láng
Chắc gì ta đã nhận ra ta
Ai trong đời cũng có thể tiến xa
Nếu có khả năng tự mình đứng dậy.
Hạnh phúc cũng như bầu trời này vậy
Đâu chỉ dành cho một riêng ai.
(Lưu Quang Vũ)
Câu 1 ( 0,5 điểm): Xác định hai phương thức biểu đạt được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 2 (1,0 điểm): Chỉ ra hai biện pháp tu từ được sử dụng trong bốn câu thơ đầu và nêu tác dụng của chúng.
Câu 3 (0,5 điểm): Theo anh (chị) vì sao tác giả cho rằng:
" Nếu tất cả đường đời đều trơn láng
Chắc gì ta đã nhận ra ta”
Câu 4 (1,0 điểm): Anh (chị) hiểu thế nào về ý nghĩa hai câu thơ sau (trả lời trong khoảng 5 – 7 dòng):
" Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm
Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm):
Câu 1 (2 điểm): Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý thơ nêu trong phần đọc – hiểu: “Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó - Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?”
Câu 2 (5 điểm): Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
(Trích Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12 tập 1, NXB Giáo dục, 2010)
------- HẾT ------
ĐÁP ÁN
Môn: Ngữ văn – Lớp 12
ĐÁP ÁN
Môn: Ngữ văn – Lớp 12
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC HIỂU | 3,0 | |
1 | Hai phương thức biểu đạt: Nghị luận và biểu cảm. | 0,5 | |
2 | * Hai biện pháp tu từ: hs xác định hai trong các biện pháp sau - Điệp từ : dù, vẫn. - Điệp cấu trúc câu : Dù … vẫn … - Đối lập : đục – trong, cao – thấp, người phàm tục – kẻ tu hành - Liệt kê : ba hiện tượng trong đời sống với ba đối tượng : con sông, cây lá, con người. * Tác dụng : Nhấn mạnh điều mang tính qui luật : như con sông luôn chảy dù trong hay đục, cây lá vẫn xanh dù cao hay thấp, con người dù là ai, địa vị gì trong xã hội thì cũng phải bắt đầu từ những điều rất nhỏ. Biết nâng niu, trân trọng những cái nhỏ bé trong cuộc sống mới đạt được hạnh phúc lớn lao. | 0, 5 0,5 | |
3 | Tác giả nói: " Nếu tất cả đường đời đều trơn láng Chắc gì ta đã nhận ra ta” bởi vì: "Đường đời đều trơn láng" tức là cuộc sống quá bằng phẳng, yên ổn, không có trở ngại, khó khăn. Con người không được đặt vào hoàn cảnh có vấn đề, có thách thức; không phải nỗ lực hết mình để vượt qua trở ngại, để chinh phục thử thách mới đến được đích. Khi đó con người không có cơ hội để thể hiện mình nên cũng không khám phá và khẳng định được hết những gì mình có; không đánh giá hết ưu điểm cũng như nhược điểm của bản thân. Con người có trải qua thử thách mới hiểu rõ chính mình và trưởng thành hơn. | 1,0 | |
4 | Cảm nhận ý nghĩa hai câu thơ: " Đất ấp ôm cho muôn hạt nảy mầm Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”. - Đảm bảo dung lượng 5- 7 dòng với các nội dung: + Đất cung cấp nguồn dinh dưỡng, nguồn sống, che chở để hạt nảy mầm nhưng những chồi non phải tự vươn lên tìm nguồn dinh dưỡng mới. + Con người cũng vậy, dù có được cha mẹ, người thân bảo bọc, tạo những điều kiện thuận lợi nhất vẫn phải tự mình suy nghĩ, hành động, nỗ lực vươn lên xây dựng cuộc sống thì mới cảm nhận được ý nghĩa cuộc đời. | 0,5 0,5 | |
II | LÀM VĂN | ||
1 | Viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý thơ nêu trong phần đọc – hiểu: “Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó - Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?” | 2.0 | |
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn nghị luận 200 chữ, thí sinh có thể trình bày theo các diễn dịch, quy nạp, tổng –phân –hợp, móc xích hoặc song hành. | 0.25 | ||
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: ý nghĩa ý thơ “Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó - Sao ta không tròn ngay tự trong tâm?” | 0.25 | ||
c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận. Thí sinh có thể viết theo nhiều cách, đảm bảo được các ý sau: - Giải thích ý thơ: + “Cuộc đời méo mó”: cuộc đời ẩn chứa những khó khăn, ngang trái, bất lợi. + “tròn ngay tự trong tâm”: tự nỗ lực hoàn thiện mình, lạc quan - Ý nghĩa của lời nhắn nhủ: tác giả khuyên con người không nên chỉ biết oán trách cuộc đời xấu xa, tồi tệ mà nên chú trọng đến việc tạo cho mình một tinh thần lạc quan, một khả năng để vươn lên, vượt qua khó khăn, trở ngại. - Phân tích, chứng minh: hs đưa ra lí do chúng minh ý kiến đúng, ý tham khảo: + Khi mãi chê bai, oán hận, chúng ta sẽ mất đi ý chí, sự tỉnh táo để để đương đầu và vượt qua khó khắn, trở ngại, thậm chí bị suy sụp, thậm chí bị suy sụp + Thái độ “tròn ngay tự trong tâm” là một thái độ tích cực, chủ động trước hoàn cảnh. Nó giúp cho con người thêm nghị lực, không ngục ngã trước khó khăn, trước sự phi lí, bất công (có thể lấy dẫn chứng những tấm gương vượt khó) - Phê phán những con người cứ mãi chê bai, oán thán, thậm chí cay cú khi cuộc sống không được như mong muốn. - Bài học bản thân. | 0.25 0.5 0.25 | ||
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. | 0.25 | ||
e. Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. | 0.25 | ||
2 | Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” | 5,0 | |
a- Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau và làm rõ được vấn đề; kết bài khái quát, đánh giá được vấn đề. | 0,5 | ||
b- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ | 0,5 | ||
c- Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm phù hợp, các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lí, biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ các luận điểm: | | ||
* Giới thiệu: tác giả, tác phẩm, đoạn thơ, đoàn quân Tây Tiến. | 0,5 | ||
* Phân tích, chứng minh: - Nội dung: hs làm nổi bật được các ý + Cảm xúc chung: nỗi nhớ bao trùm không gian, gợi nhắc một vùng kỉ niệm. + Địa bàn hoạt động của rộng lớn, xa xôi, heo hút, hiểm trở. + Thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng, trữ tình. - Nghệ thuật: từ láy, phép đối, điệp ngữ, hình ảnh thơ vừa thực vừa lãng mạn… * Bình luận: hs đưa ra sự đánh giá về đoạn thơ, bài thơ, ý tham khảo - Đoạn thơ đã khắc họa rõ nét hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc với những nét rất riêng: hùng vĩ đến khắc nghiệt nhưng cũng thơ mộng đến say lòng. Ẩn sau đó là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng và hào hoa. Hào hùng với ý chí kiên cường, vượt qua những chặng đường gian khổ để thực hiện nhiệm vụ cứu nước, lãng mạn trong tâm hồn khi ngắm nhìn cảnh đẹp và cách nói tinh nghịch, đậm chất lính tráng “súng ngửi trời” - Đoạn thơ trên đã giúp người đọc hiểu rõ hơn về một vùng đất xa xôi của Tổ quốc, về những người lính cụ Hồ, về một chặng đường lịch sử đầy gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc. | 1,25 0,75 0,5 | ||
d- Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện cảm nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận. | 0,5 | ||
e- Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo qui tắc chính tả, dùng từ, đặt câu. | 0,5 |
ĐỀ ÔN TẬP THI QUỐC GIA
Môn: Ngữ văn 12
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
Thời gian: 120 phút (không kể thời gian phát đề)
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
“Không còn là cảnh báo, các chứng bệnh có liên quan đến việc sử dụng mạng xã hội đang ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Sự lệ thuộc quá nhiều vào Facebook, Youtube, Instagram hay Twitter đã khiến không ít cư dân mạng, trong đó phần lớn là những người trẻ quay cuồng trong "thế giới ảo" mà quên rằng cuộc sống thực tại mới chính là cuộc sống đúng nghĩa của mình.
Nhập viện vì "nghiện Facebook" đã trở thành một căn bệnh được các bác sĩ tại nhiều bệnh viện lớn trên cả nước xác nhận trong thời gian qua. Ðặc điểm chung của phần lớn người bệnh là thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên, ngại giao tiếp; biểu hiện cáu gắt khi không được tiếp xúc với Facebook; sức khỏe suy giảm…
Trước khi bị coi là "một chất gây nghiện", Facebook đã là môi trường cho nhiều phát ngôn, hành động bộc phát, không cẩn trọng, thiếu kiểm soát, thậm chí là hành vi phạm tội của một bộ phận thanh thiếu niên… Những thí dụ về tác hại xấu của Facebook với người dùng trẻ tuổi tại Việt Nam không hề hiếm. Gần đây, có thể kể đến sự việc 10 thanh niên tại tỉnh Phú Thọ mang hung khí chặn xe ô-tô đang lưu hành trên đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai để cướp tiền ngày 29-12-2017. Trong quá trình gây án, nhóm này không quên thực hiện video livestream (truyền trực tiếp) trên Facebook khoe "chiến tích". Với số tiền chiếm đoạt chỉ hơn 400.000 đồng cho thấy, dường như mục đích livestream của họ chỉ là thói háo danh trên mạng xã hội. Song bản án dành cho những thanh niên có tuổi đời chưa quá 20 nhận lại vì những phút giây bốc đồng của mình có thể sẽ không hề nhẹ... "Câu like" (lượt yêu thích) trên Facebook cũng được cho là nguyên nhân chính khiến một cô bé 13 tuổi tại Khánh Hòa đốt ngôi trường THCS mà mình đang học tập vào năm 2016...
Từ một dịch vụ liên lạc, nhưng vì lợi nhuận không ít trang mạng xã hội đã không ngần ngại biến khách hàng nhất là giới trẻ... trở thành những con nghiện mạng xã hội cùng những căn bệnh thần kinh khác, đồng thời trở thành mục tiêu của giới tội phạm và các tổ chức khủng bố. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rõ rằng, mạng xã hội hoàn toàn không xấu, mà còn có nhiều mặt tích cực. Vấn đề là sử dụng mạng xã hội sao cho hiệu quả, có mục đích rõ ràng nhằm phục vụ công việc hoặc cuộc sống phong phú của chính mình chứ không phải trở nên lệ thuộc, bị thế giới "ảo" dắt mũi. Vì vậy, trước khi tính đến trách nhiệm của những dịch vụ truyền thông như Facebook hay Youtube, cư dân mạng, nhất là thế hệ trẻ phải biết tự bảo vệ mình trước những cám dỗ từ mạng xã hội.”
(Trích Tự bảo vệ trước cám dỗ từ mạng xã hội – Hải Bằng; Nguồn từ
Báo Nhân dân - Điện tử, Thứ ba, 13/2/2018)
Báo Nhân dân - Điện tử, Thứ ba, 13/2/2018)
Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính trong văn bản? (0,5 đ)
Câu 2: Theo tác giả, những người mắc căn bệnh “nghiện Facebook” có đặc điểm chung như thế nào? (0,5 đ)
Câu 3: Vì sao nói Facebook cũng bị coi là “một chất gây nghiện”? (1,0 đ)
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với câu nói: “…dường như mục đích livestream của họ chỉ là thói háo danh trên mạng xã hội.” ? (1,0 đ)
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
Từ nội dung của văn bản phần đọc - hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân trước hiện tượng một phần không nhỏ giới trẻ hiện nay “quay cuồng trong thế giới ảo”.
Câu 2: (5,0 điểm)
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Aó bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
----------------------Hết--------------------------
HƯỚNG DẪN CHẤM
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần | Câu | Nội dung | Điểm |
I | ĐỌC-HIỂU | 3,0 | |
1 | Phương thức biểu đạt chính:Nghị luận | 0,5 | |
2 | Đặc điểm chung của những người mắc căn bệnh “nghiện Facebook” là: ngại giao tiếp; biểu hiện cáu gắt khi không được tiếp xúc với Facebook; sức khỏe suy giảm… | 0,5 | |
3 | Facebok cũng bị coi là “một chất gây nghiện”, vì: - Facebook tạo ra một “thế giới ảo” với nhiều ứng dụng có sức hấp dẫn, lôi cuốn. - Là nơi người dùng có thể tự thể hiện mình, tự do phát ngôn, chia sẻ, …và có thể “sống ảo”. - Người dùng mất lí trí để kiểm soát độ đúng/sai của nội dung trên Facebook. | 1,0 | |
4 | Nêu rõ quan điểm đồng tình hay không đồng tình, lí giải hợp lí, thuyết phục về tình trạng nhiều thanh thiếu niên có cái nhìn lệch lạc về cuộc sống từ những thông tin không lành mạnh trên Facebook. | 1,0 | |
II | LÀM VĂN | 7,0 | |
1 | Trình bày suy nghĩ của bản thân trước hiện tượng một phần không nhỏ giới trẻ hiện nay “quay cuồng trong thế giới ảo” | 2,0 | |
a) Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo kiểu diễn dịch, qui nạp, tổng-phân-hợp, móc xích hoặc song hành b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: trách nhiệm của bản thân trước hiện tượng một phần không nhỏ giới trẻ hiện nay “quay cuồng trong thế giới ảo” c) Triển khai vấn đề nghị luận Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng cần làm rõ trách nhiệm của bản thân trước hiện tượng một phần không nhỏ giới trẻ hiện nay “quay cuồng trong thế giới ảo”. Có thể theo hướng sau: - Mạng xã hội có mặt tốt nhưng là “thế giới ảo” - môi trường thuận lợi để cái xấu lan tràn. - Phần lớn giới trẻ hiện nay đều sử dụng Facebook và một bộ phận không nhỏ “quay cuồng trong thế giới ảo đó. Những suy nghĩ, hành vi lệch lạc của họ trên mạng đã gây ra những cú sốc trong dư luận và tác động xấu đến cuộc sống của bản thân và mọi người. - Nêu cao trách nhiệm khi sử dụng mạng xã hội: khai thác mặt tích cực; biết chọn lọc thông tin lành mạnh, có ích, tỉnh táo tránh mọi cám dỗ từ nó d) Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. e) Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận | 0,25 0,25 1,0 0,25 0,25 | ||
2 | Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Aó bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” | 5,0 | |
a) Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận Mở bài: Giới thiệu được vấn đề; Thân bài: Triển khai được vấn đề; Kết bài: Khái quát được vấn đề | 0,5 | ||
b) Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Nội dung đoạn thơ (Vẻ đẹp oai hung lãng mạn và vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến trong nỗi nhớ của nhà thơ). | 0,5 | ||
c) Triển khai vấn đề nghị luận: Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. - Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ và vấn đề nghị luận. - Đoạn thơ khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến thông qua nỗi nhớ của nhà thơ: + Ngoại hình: kì lạ, khác thường + Khí phách: oai hùng, mạnh mẽ + Tâm hồn: lãng mạn, hào hoa + Lí tưởng: quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. + Sự hi sinh: hình ảnh người lính về với đất mẹ thật hào hùng, đậm chất bi tráng. - Nghệ thuật: Bút pháp tả thực, âm hưởng trang trọng ngợi ca ngưỡng mộ, nhiều biện pháp tu từ, dùng nhiều từ Hán Việt, cách sử dụng nhiều thanh trắc, … tác giả vẽ nên bức tượng đài về người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp bi tráng, hiên ngang, dũng cảm lãng mạn với lí tưởng sống cao đẹp quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. - Khẳng định lại vấn đề nghị luận. | 0,5 1,5 0,5 0,5 | ||
d) Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. | 0,5 | ||
e) Sáng tạo: Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện sâu sắc về vấn đề nghị luận | 0,5 |
------------HẾT------------
DUYỆT BAN GIÁM HIỆU