- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,007
- Điểm
- 113
tác giả
TUYỂN TẬP 13 Sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 1,2,3,4,5 KHỐI TIỂU HỌC được soạn dưới dạng file word gồm 11 file trang. Các bạn xem và tải sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 1, sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 2, sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 3, sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 4, sáng kiến kinh nghiệm môn tiếng việt lớp 5....về ở dưới.
Như chúng ta đã biết : Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, thời kì cố gắng tiến đến mục tiêu “Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa” đất nước thì ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người. Ngôn ngữ là là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan trọng của ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết nghiên cứu sâu sắc kỹ năng đọc trong phân môn Tiếng Việt và trong hệ thống giáo dục nhà trường. Có đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh lớp 1 chỉ được công nhận khi các em biết đọc chữ .
Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng môn Tiếng Việt ở tiểu học rèn luyện cho học sinh cả bốn kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết song mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt ở lớp một là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết đúng. Ngoài ra còn làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho các em sự ham thích thơ văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt ở các lớp trên .
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc rèn đọc cho học sinh lớp Một ( vì lớp Một là lớp nền tảng để các em học tốt các lớp và các cấp bậc tiếp theo) tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm đã tích lũy được qua quá trình rèn luyện học sinh đọc. Hi vọng sẽ mang đến cho các đồng nghiệp những kinh nghiệm cần thiết trong quá trình rèn luyện đọc cho học sinh.
Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học .
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo .. từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 ”.
II/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến việc rèn đọc cho học sinh lớp Một.
III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài này được áp dụng trong các giờ Tiếng Việt lớp Một.
IV/PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Phương pháp điều tra
2.Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
3.Phương pháp thực hiện khoa học giáo dục
4.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
V/TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Các giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1.
Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa lớp 1.
Phần mềm dạy học Tiếng Việt 1.
Các loại sách tham khảo, bổ trợ Tiếng Việt lớp 1 . . .
PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận
- Học sinh Tiểu học ở độ tuổi 6 – 12 tuổi là giai đoạn phát triển mới của tư duy. Ở lứa tuổi này trẻ em có những đặc điểm riêng, đó là tri giác của các em còn mang tính trực quan cụ thể vì kinh nghiệm sống của các em còn hạn chế. Trẻ em nặng tính hồn nhiên, ngây thơ. Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ . Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ, hoạt động vui chơi, ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang một loại hoạt động mới đó là hoạt động học tập. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Ở độ 6 -7 tuổi khả năng phân tích, tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh, từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ.
- Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc cho các em học tiếng mẹ đẻ. Hiện nay ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng đã và đang tiến hành phương pháp dạy Tập đọc đối với tất cả các môn học. Mặt khác Tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp bởi bên cạnh việc dạy đọc chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho học sinh.
CHƯƠNG II: Cơ sở thực tiễn
- Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của
kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv…
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu
còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
a/ Thuận lợi:
+ Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Sinh hoạt tổ chuyên môn 1 tuần/ 1 lần. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học … cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều
kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn.
+ Học sinh:
- Ở độ 6 - 7 tuổi của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời,
nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng ….
- Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh
có ý thức trách nhiệm cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
b/ Khó khăn:
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau:
+ Học sinh:
Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Các em còn nhỏ nên khả năng tập trung chưa cao.
- Một số học sinh còn quên sách vở, đồ dùng học tập.
- Một số phụ huynh chưa thật quan tâm đến con em mình.
c/Thực trạng
Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát
tìm hiểu.
Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học .
Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên.
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là vạn năng , giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học :
1. Phương pháp trực quan
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật,tranh ảnh tự nhiên , hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu .
Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l , giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được .
2. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….)
- Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ - anh-
chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu.
3. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn.Còn đối với học sinh chậm tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng chăm chỉ luyện đọc”. Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc chậm lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô. Giáo viên cùng đọc bài với các em trong các tiết hướng dẫn học. Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như thước kẻ, cây bút đẹp, quyển vở, tẩy, quyển truyện … để các em thích thú và cố gắng hơn.
4.Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát , phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chậm, em đọc tốt ngồi gần em đọc chậm để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh đọc chậm được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để học sinh đọc chậm theo học sinh đọc tốt ,và học sinh đọc chậm cũng được luyện tập nhiều hơn .
5. Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD: Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi chọn học sinh đọc chậm để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đúng
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh đọc tốt) đọc cho hai học sinh chậm chỉ vào âm, vần , tiếng , từ do bạn đọc.
Tổ chức cho học sinh đọc nối tiếp câu, đoạn, dòng thơ, khổ thơ.
Thi tìm từ, nói câu có tiếng chứa vần.
6. Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh chậm để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.
VD: Bạn Thu, bạn Trinh đọc giỏi vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng chăm chỉ luyện đọc, như các bạn : đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Và tôi đã cũng đọc với các bạn học sinh chậm ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng vv…
Chương III: CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Nắm bắt thực trạng kiến thức đầu năm của học sinh
Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở mẫu giáo và kết quả
điều tra năm thu được như sau:
Tình hình học sinh:
Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
Học sinh không biết chữ cái nào : 12 em
Biết 6 – 10 chữ cái : 28 em
Nhận biết hết bảng chữ cái : 21 em
Nhận biết âm hai chữ cái : 4 em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, tập trung còn hạn chế, chưa cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau :
Biệp pháp 2: Tác động giáo dục
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề
nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy
học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc .
- Xây dựng đôi bạn cùng tiến.
- Giáo viên có thể cho học sinh đọc chậm để ngồi gần với một học sinh đọc tốt. Bạn đọc tốt sẽ giúp bạn đọc chậm khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức. Đối với các học sinh chậm, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản trong các tiết hướng dẫn học.
THẦY CÔ TẢI NHÉ!
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết : Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, thời kì cố gắng tiến đến mục tiêu “Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa” đất nước thì ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của loài người. Ngôn ngữ là là phương tiện biểu hiện tâm trạng, tình cảm. Chức năng quan trọng của ngôn ngữ đã quy định sự cần thiết nghiên cứu sâu sắc kỹ năng đọc trong phân môn Tiếng Việt và trong hệ thống giáo dục nhà trường. Có đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh lớp 1 chỉ được công nhận khi các em biết đọc chữ .
Chúng ta đều nhận thức sâu sắc rằng môn Tiếng Việt ở tiểu học rèn luyện cho học sinh cả bốn kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết song mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt ở lớp một là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết đúng. Ngoài ra còn làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho các em sự ham thích thơ văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt ở các lớp trên .
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc rèn đọc cho học sinh lớp Một ( vì lớp Một là lớp nền tảng để các em học tốt các lớp và các cấp bậc tiếp theo) tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm đã tích lũy được qua quá trình rèn luyện học sinh đọc. Hi vọng sẽ mang đến cho các đồng nghiệp những kinh nghiệm cần thiết trong quá trình rèn luyện đọc cho học sinh.
Kỹ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học .
Cùng với kỹ năng viết, kỹ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo .. từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình.
Ở lớp Một các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kỹ năng đọc rất quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác ở lớp Một các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 ”.
II/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến việc rèn đọc cho học sinh lớp Một.
III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài này được áp dụng trong các giờ Tiếng Việt lớp Một.
IV/PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Phương pháp điều tra
2.Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
3.Phương pháp thực hiện khoa học giáo dục
4.Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
V/TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Các giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1.
Các tài liệu liên quan: Sách Giáo Viên, Sách Giáo Khoa lớp 1.
Phần mềm dạy học Tiếng Việt 1.
Các loại sách tham khảo, bổ trợ Tiếng Việt lớp 1 . . .
PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lí luận
- Học sinh Tiểu học ở độ tuổi 6 – 12 tuổi là giai đoạn phát triển mới của tư duy. Ở lứa tuổi này trẻ em có những đặc điểm riêng, đó là tri giác của các em còn mang tính trực quan cụ thể vì kinh nghiệm sống của các em còn hạn chế. Trẻ em nặng tính hồn nhiên, ngây thơ. Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ . Từ đây hoạt động chủ đạo của trẻ, hoạt động vui chơi, ở giai đoạn mẫu giáo chuyển sang một loại hoạt động mới đó là hoạt động học tập. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này có tác động lớn đến tâm lý của trẻ. Những hiểu biết về về tâm sinh lý của trẻ lớp 1 đã hình thành khả năng tư duy bằng tín hiệu, là những tín hiệu thay thế ngữ âm. Ở độ 6 -7 tuổi khả năng phân tích, tổng hợp ở trẻ khá hoàn chỉnh, từ đây các em có khả năng tập tách từ thành tiếng, thành âm và chữ.
- Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ và rèn đọc cho các em học tiếng mẹ đẻ. Hiện nay ngành Giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng đã và đang tiến hành phương pháp dạy Tập đọc đối với tất cả các môn học. Mặt khác Tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp bởi bên cạnh việc dạy đọc chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng Việt, kiến thức về văn học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho học sinh.
CHƯƠNG II: Cơ sở thực tiễn
- Kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của
kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một bài thơ ngắn vv…
- Học sinh đã nhận được mặt chữ, biết ghép vần, ghép tiếng, ghép từ, đọc câu
còn yêu cầu các em phải đọc đúng, đọc chuẩn, đọc chính xác. Vì nếu các em phát âm chuẩn đọc đúng các em sẽ viết đúng, bài chính tả sai ít lỗi, và các em sẽ hiểu được ý của tiếng, từ, câu, bài mà các em viết.
a/ Thuận lợi:
+ Giáo viên:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo tốt của các cấp lãnh đạo về chuyên môn. Sinh hoạt tổ chuyên môn 1 tuần/ 1 lần. Tổ chức bồi dưỡng giáo viên, tổ chức những buổi học chuẩn kiến thức kỹ năng cho học sinh tiểu học … cung cấp đủ tài liệu, phương tiện để nghiên cứu, học hỏi, giảng dạy.
- Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên trường có tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều
kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên và sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn.
+ Học sinh:
- Ở độ 6 - 7 tuổi của học sinh lớp 1.Các em đa số còn rất ngoan, dễ vâng lời,
nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng ….
- Có được sự quan tâm về việc học tập của con em mình của một số phụ huynh
có ý thức trách nhiệm cùng với giáo viên trong việc học tập của con em mình như: Chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà.
b/ Khó khăn:
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi trên, bản thân tôi vẫn còn gặp một số khó khăn sau:
+ Học sinh:
Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Các em còn nhỏ nên khả năng tập trung chưa cao.
- Một số học sinh còn quên sách vở, đồ dùng học tập.
- Một số phụ huynh chưa thật quan tâm đến con em mình.
c/Thực trạng
Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát
tìm hiểu.
Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học .
Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên.
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhắm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là vạn năng , giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh của mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học :
1. Phương pháp trực quan
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật,tranh ảnh tự nhiên , hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu .
Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l , giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được .
2. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….)
- Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ - anh-
chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu.
3. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài . Đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn.Còn đối với học sinh chậm tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng chăm chỉ luyện đọc”. Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc chậm lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô. Giáo viên cùng đọc bài với các em trong các tiết hướng dẫn học. Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như thước kẻ, cây bút đẹp, quyển vở, tẩy, quyển truyện … để các em thích thú và cố gắng hơn.
4.Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát , phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chậm, em đọc tốt ngồi gần em đọc chậm để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh đọc chậm được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để học sinh đọc chậm theo học sinh đọc tốt ,và học sinh đọc chậm cũng được luyện tập nhiều hơn .
5. Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD: Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi chọn học sinh đọc chậm để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đúng
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh đọc tốt) đọc cho hai học sinh chậm chỉ vào âm, vần , tiếng , từ do bạn đọc.
Tổ chức cho học sinh đọc nối tiếp câu, đoạn, dòng thơ, khổ thơ.
Thi tìm từ, nói câu có tiếng chứa vần.
6. Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh chậm để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp.
VD: Bạn Thu, bạn Trinh đọc giỏi vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi như các bạn ấy nếu có cố gắng chăm chỉ luyện đọc, như các bạn : đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Và tôi đã cũng đọc với các bạn học sinh chậm ấy, nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng vv…
Chương III: CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để giúp học sinh rèn luyện và phát triển kỹ năng đọc tôi đã áp dụng những biện pháp sau:
Biện pháp 1: Nắm bắt thực trạng kiến thức đầu năm của học sinh
Kiểm tra sự nắm bắt, nhận diện chữ cái các em đã học ở mẫu giáo và kết quả
điều tra năm thu được như sau:
Tình hình học sinh:
Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
Học sinh không biết chữ cái nào : 12 em
Biết 6 – 10 chữ cái : 28 em
Nhận biết hết bảng chữ cái : 21 em
Nhận biết âm hai chữ cái : 4 em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện một cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái còn thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa cao.
Một trong những lý do dễ thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác, tập trung còn hạn chế, chưa cố gắng trong học tập. Vì vậy giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những biện pháp cụ thể sau :
Biệp pháp 2: Tác động giáo dục
- Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học: Đề
nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
- Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc học bài đọc của con em mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, các phát âm chữ cái, cách đánh vần vần, đánh vần tiếng …để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên kèm cặp con em mình.
- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy
học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình vật thật để tiết dạy vui, sinh động. Đồng thời tăng cường vận dụng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, qua những hình ảnh động cũng góp phần gây hứng thú giúp các em hưng phấn trong luyện đọc .
- Xây dựng đôi bạn cùng tiến.
- Giáo viên có thể cho học sinh đọc chậm để ngồi gần với một học sinh đọc tốt. Bạn đọc tốt sẽ giúp bạn đọc chậm khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
- Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu năm
giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức. Đối với các học sinh chậm, các em chưa nhìn được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản trong các tiết hướng dẫn học.
THẦY CÔ TẢI NHÉ!