- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,007
- Điểm
- 113
tác giả
TUYỂN TẬP 40 Sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên dạy giỏi, chủ nhiệm giỏi CÁC KHỐI LINK DRIVE được soạn dưới dạng file word gồm 38 FILE trang. Các bạn xem và tải sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên dạy giỏi, sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên dạy giỏi tiểu học, sáng kiến kinh nghiệm thi giáo viên chủ nhiệm giỏi,...về ở dưới.
1.1.Lí do chọn đề tài.
Nhân loại đang bước vào thế kỉ XXI, là thế kỉ có nhiều biến đổi to lớn về khoa học- công nghệ, bước tiến nhảy vọt về kinh tế. Tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Phát huy trí tuệ, sức mạnh của người Việt Nam: coi phát triển GD-ĐT và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đáp ứng yêu cầu quốc sách của Đảng, ngành GD đã thực sự đổi mới trên mọi mặt, đặc biệt đổi mới về phương pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Đất nước ta đang bước vào kĩ nguyên mới: “Kĩ nguyên hội nhập kinh tế quốc tế” đầu tư vào chất xám sẽ là đầu tư có hiệu quả nhất, đòi hỏi con người phải năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động. Những năm gần đây, Bộ GD-ĐT đã và đang thực hiện phong trào: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà chúng ta rất cần những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra. Vậy làm thế nào để có được những con người lao động “hiện đại” này ? Chắc hẳn chỉ có giáo dục đào tạo mới trả lời được điều này. Vì vậy, Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã xác định vai trò giáo dục đào tạo là “Quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội”.Tuy nhiên, để đạt được điều đó nền giáo dục Việt Nam phải có một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh và một cơ sở vững chắc là bậc giáo dục Tiểu học.
Bậc tiểu học là bậc học đặc biệt quan trọng - bậc học đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên xã hội, phát triển các năng lực nhận thức. Trong chương trình môn học ở tiểu học, môn toán là môn học đóng vai trò quan trọng.Toán học là môn thể thao của trí tuệ, giúp ta trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, rèn luyện tính thông minh, sáng tạo.... điều này thể hiện rõ nét qua qua việc giải toán.
Giải toán là thước đo của việc nắm lý thuyết , trình độ tư duy, tính linh hoạt sáng tạo của học sinh. Giải toán có lời văn giúp học sinh tư duy một cách tích cực, linh hoạt để huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình huống khác nhau, cũng có trường hợp yêu cầu học sinh phải biết phát hiện những dự kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong một chừng mực nào đó phải biết suy nghĩ sáng tạo. Vì thế có thể coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ học sinh, tiếp tục giúp các em phát triển tư duy, rèn tính cẩn thận chính xác, kiên trì vượt khó chủ động sáng tạo để thực hiện tốt 3 nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Kĩ năng giải toán có lời văn đã được các em làm quen ngay từ khi mới vào lớp một, từ đó hình thành khả năng tính toán cơ bản cho các lớp sau. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy. Rèn luyện phương pháp suy luận, kỹ năng tính toán và những phẩm chất của người lao động mới. Vì khi giải bài tập toán là một hoạt động bao gồm những thao tác mà không thể thiếu đó là: xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái cần tìm, thực hiện phân tích thích hợp, rút ra những kết luận và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Giải quyết được một vấn đề đặt ra của một bài toán đòi hỏi tư duy phải huy động tÝch cực. Bởi hình thành kỹ năng giải toán khó h¬n nhiều so với kỹ năng tính, vì bài toán là kết hợp nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu giải rồi áp dụng mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng, tính nhanh, khuyến khích những học sinh có cách giải khoa học, ngắn gọn, chính xác. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp rồi rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định.
Ở lớp 3, ngoài kiến thức tiếp nối các dạng toán đã học ở lớp 1, lớp 2. Các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp có từ hai phép tính trở lên. Mỗi bước tính thể hiện một tình huống nêu lên mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Kết quả phép tính ở bước thứ nhất sẽ là một thành phần của phép tính ở bước giải thứ hai. Học sinh phải biết lựa chọn phép tính thích hợp với lời giải đặc biệt các phép tính có lời giải còn ẩn.
Qua thực tế khi dạy giải toán có lời văn ở lớp tôi một số em vẫn còn hạn chế. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn, trăn trở muốn tìm ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong phần giải toán có lời văn nhằm nâng cao trình độ nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển Giáo dục trong giai đoạn hiện nay của ngành và của nhà trường.
Từ những lí do thực tế trên, tôi mạnh dạn chọn đi sâu nghiên cứu đề tài kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3”.
1.2 Điểm mới của đề tài.
Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3” là một đề tài đã được rất nhiều tài liệu nói đến nhưng riêng ở Trường TH tôi đang công tác thì đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để viết thành đề tài kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi đã mạnh dạn chọn trình bày đề tài nghiên cứu này.
Điểm mới trong đề tài là tôi đã thực hiện vận dụng điểm mới của mô hình lớp học VNEN về đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thay đổi không gian lớp học, xây dựng nhóm học tập thân thiện, tạo cơ hội cho học sinh có sự trao đổi, tự tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trên cơ sở giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành.
1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Vì điều kiện thời gian và sự phân công công tác nên phạm vi của đề tài chỉ nghiên cứu trong lớp học tôi đang chủ nhiệm (lớp 3D).
2.1. Thực trạng của chất lượng giải toán có lời văn lớp 3D.
Qua khảo sát vào đầu năm học, ở lớp 3 với giai đoạn này các em đang tiếp nối kiến thức đã học từ lớp 1, lớp 2. Các bài tập thực hành là các bài toán đơn chỉ có một lời giải, một phép tính và đáp số.Với các dạng toán giải: Bài toán về nhiều hơn; bài toán về ít hơn. Tuy vậy, cũng đề toán dùng từ “nhiều hơn” nhưng phải thực hiện phép tính trừ; với đề toán dùng từ “ít hơn” lại thực hiện bằng phép tính cộng. Đối với các dạng toán như vậy các em nắm chưa thành thạo, tìm phép tính chưa phù hợp với lời giải, thiếu chính xác. Sang cuối đợt một, các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp. Đây là dạng toán có hai phép tính trở lên, câu hỏi của bài toán thường là phần gợi ý của lời giải thứ hai còn lời giải thứ nhất đòi hỏi các em phải tư duy để tìm. Vì vậy nếu lời giải thứ nhất sai dẫn đến cả bài giải đều sai. Tôi tiếp tục khảo sát chất lượng môn toán với 23 học sinh của lớp 3D, qua một số đề toán với kiến thức tổng hợp. Kết quả điểm của bài kiểm tra đều đạt theo yêu cầu song điều làm tôi băn khoăn, lo lắng là phần bài tập giải toán có lời văn tỉ lệ các học sinh làm được bài rất thấp. Trong các tiết học Toán trên lớp đến phần “ giải toán có lời văn” đa số các em đều hoạt động cá nhân nên kĩ năng phân tích đề còn hạn chế, nhiều em còn lúng túng trong việc tìm vấn đề bài toán cho biết gì và yêu cầu cần giải quyết gì để tìm các bước giải.Vì vậy mà khiến các em luôn né tránh mỗi khi đến phần học và làm bài tập giải toán. Giáo viên giảng dạy cũng đã đổi mới phương pháp nhưng hiệu quả đem lại chưa cao. Bên cạnh đó, nhận thức một số phụ huynh còn hạn chế, chưa quan tâm đến việc học tập của con cái, giao phó tất cả cho giáo viên. Trình độ học vấn của đa số phụ huynh về phần giải toán chưa cao nên gặp khó khăn trong việc dạy con học ở nhà, nhất là môn toán nói chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng.
Sau đó, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải toán có lời văn của lớp cụ thể là:
Qua thực tế khảo sát, kết quả điều tra:
Nhìn vào bảng thống kê kết quả khảo sát cho thấy: Tỉ lệ học sinh nắm và giải được bài toán còn thấp, tỉ lệ học sinh phân tích bài toán và chưa giải đúng còn nhiều. Trong quá trình dạy học trên lớp tôi nhận thấy những hạn chế của học sinh trong qua trình học và làm bài là: Ngôn ngữ toán học còn hạn chế. Khả năng nhận dạng các dạng toán của học sinh còn lúng túng, chưa tìm đúng lời giải thứ nhất, dẫn tới làm sai bài. Chưa chịu khó học tập, chưa mạnh dạn nêu ra những thắc mắc với thầy cô giáo. Luôn có thái độ che dấu những điều chưa biết của mình. Ý thức học tập chưa cao, tinh thần trao đổi với bạn bè, thầy cô còn hạn chế.
Xuất phát từ thực trạng đó, là một giáo viên đứng lớp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và tìm một số biện pháp nhằm “Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi dạy giải toán có lời văn lớp 3”.
2.2. Các biện pháp.
2.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng nhóm học tập thân thiện.
Hình thức tổ chức dạy học này có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả học sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết được những vấn đề khó và tìm ra cái mới trong bài học. Tạo thái độ học tập tích cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách làm việc hợp tác, đề xuất với giáo viên những vấn đề vướng mắc cần giải đáp.
Giáo viên lập các nhóm học tập dựa vào năng lực học của từng học sinh, sao cho mỗi nhóm đều có học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu tham gia số lượng từ 4 - 6 em. Hình thức hoạt động: Lần đầu giáo viên tổ chức, hướng dẫn các em cách thức sinh hoạt, cách thức phân tích bài toán, cách thức kiểm tra các thành viên trong nhóm để nhóm tự kiểm tra, thảo luận, giúp nhau trong việc giải toán như: phân tích bài toán; tìm Các bước giải; lựa chọn phép tính phù hợp; sửa chữa sai sót cho nhau trong quá trình giải toán. Giáo viên“Tập huấn” cho trưởng nhóm về cách điều khiển các hoạt động của nhóm (như một giáo viên). Nhóm trưởng biết cách phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao cho các bạn đều được tham gia, đều phải thể hiện. Biết thay đổi linh hoạt vai trò của các thành viên trong nhóm: là thư kí; là đại diện báo cáo kết quả. Biết động viên khích lệ bạn còn chưa thực nhanh tay, nhanh mắt trong nhóm, tạo tính mạnh dạn cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán “Một cửa hàng buổi sáng bán được 62 kg gạo, buổi sáng bán được nhiều hơn buổi chiều là 18 kg gạo. Hỏi cả hai buổi cửa hàng đó bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”.
Bạn trưởng nhóm điều khiển nhóm mình như giáo viên đã hướng dẫn.
+ Cho các bạn đọc đề toán, nêu dự kiện của bài toán: bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?.
+ Tóm tắt bài toán: các bạn tự trao đổi để tìm xem tóm tắt bằng hình thức nào cho phù hợp( sơ đồ hay ngôn ngữ...)
+ Thảo luận lập kế hoạch giải, cuối cùng là thống nhất cách thực hiện quá trình giải. Các thành viên trong nhóm tự đưa ra câu hỏi và trả lời cho thích hợp.
Như vậy, tất cả các bạn trong nhóm đều phải thực hiện tất cả các bước theo trình tự. Từ đó nhắc nhở các bạn trong bài toán đã có dùng từ “nhiều hơn” nhưng không phải hễ cứ thấy “nhiều hơn” là làm tính cộng, tránh quan niệm sai lầm đó. Tiếp theo bạn nhóm trưởng yêu cầu các bạn tự giải bài vào vở. Huy động kết quả ở trong nhóm bằng việc lần lượt các bạn đọc bài giải của mình để cả nhóm đối chiếu, các bạn khác được nhiều lần kiểm tra lại câu lời giải, phép tính và kết quả, khuyến khích các bạn có cách giải hay hơn ( lời giải khác), sau đó báo cáo với giáo viên về kết quả sinh hoạt nhóm, đề xuất ý kiến cần thiết.
Việc học nhóm đã giúp các em tự tin hơn bởi vì : “Học thầy không tày học bạn”. Qua học nhóm đã giúp các em không bị gò bó, nâng cao kỹ năng giải toán hơn - tạo cho các em có niềmvui trong học toán. Ích lợi của biện pháp này là giáo viên đỡ tốn thời gian mà vẫn phát hiện những mặt hạn chế của học sinh để kịp thời uốn nắn, sữa chữa cho các em. Học sinh gắn bó với nhau hơn, mạnh dạn trong giao tiếp, hình thành thói quen và kỹ năng phân tích, kỹ năng giải toán, điều quan trọng là tạo cơ hội để các em tự nói lên những suy nghĩ của mình tạo tính tích cực, mạnh dạn cho các em, từ đó các em có niềm say mê, hứng thú khi học toán hơn.
2.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường, không gian lớp học.
Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẫm mĩ, sư phạm, các em sẽ tự giác tích cực hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Học sinh tiểu học với tâm lý lứa tuổi hiếu động, thích sự thay đổi nên thường có cảm giác bị áp lực học tập trong một môi trường: Thầy giảng trò nghe; thầy đọc trò chép. Trong những năm học gần đây, tất cả các trường đang thi đua xây dựng mô hình : “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Hình thành môi trường bạn hữu thân thiện, học sinh biết giúp đỡ nhau, yêu quý trường lớp, giữ gìn môi trường xanh-sạch-đẹp.
Lớp học là nơi các em học tập cũng là nơi các em tự do thể hiện sự sáng tạo của mình qua việc sắp xếp các dụng cụ học tập, sản phẩm do chính bàn tay các em cũng như cha mẹ hay thầy, cô giáo tạo ra. Từ đó giúp các em hào hứng hơn trong mỗi hoạt động học đường. Các em sẽ tự giác và tích cực học tập hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Đổi mới không gian lớp học, xây dựng không gian lớp học thân thiện bằng cách xây dựng các góc học tập, góc thư viện, góc môi trường, góc hỗ trợ các hoạt động giáo dục.......phù hợp với khoảng không gian lớp học, thuận tiện trong sử dụng. Đối với môn toán, góc học tập là nơi trưng bày trang thiết bị đồ dùng dạy học, các sản phẩm học tập của học sinh. Trong góc đó là những đồ vật, thiết bị gần gũi với các em như êke, compa, những mô hình, những vật thật và cả những thiết bị, đồ dùng do các em tự làm...… Chính những đồ vật đó đã giúp học sinh lĩnh hội được những kiến thức trừu tượng trong hoạt động học tập. Khi nhìn những đồ dùng học tập đó, học sinh thấy tái hiện lại quá trình sử dụng đồ dùng học tập, thấy chúng trở nên thân thiện thú vị hơn vì đấy chính là những đồ vật đã đồng hành trong việc giúp các em học tập.
Thay đổi không gian lớp học ở đây còn thể hiện ở việc thay đổi tư thế ngồi học. Lớp học bây giờ được thay thế bằng các nhóm học tập. Bàn ghế được sắp xếp theo hình chữ U, các nhóm hoặc các học sinh trong nhóm được ngồi đối diện nhau để thuận tiện trong việc học nhóm, tạo hứng khởi cho các em trong học tập. Vị trí ngồi trong nhóm cũng được thay đổi thường xuyên theo từng tiết học, buổi học. Không gian này có thể thay đổi từng tuần tùy theo đặc trưng của từng môn học và để đảm bảo cho học sinh được thay đổi vị trí, tránh trường hợp ngồi lệch so với bảng trong thời gian dài.
2.2.3. Biện pháp 3: Đổi mới phương pháp dạy học.
Trong dạy học “Không có phương pháp nào là vạn năng” song người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng tiết học giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tạo nên tiết học sinh động, giải quyết được vấn đề một cách hợp lý, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Có thể cùng một bài toán nhưng có thầy dạy thì học sinh dễ hiểu, nắm được mạch bài, nhưng có thầy dạy thì học sinh hiểu rất ít, đó chính là khác nhau giữa phương pháp dạy học giữa hai người thầy. Để nâng cao hiệu quả dạy học, người thầy phải tìm tòi, lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh mình.
Thông thường khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán giáo viên cho học sinh đọc đề, phân tích bài toán và gợi ý cách giải, sau đó cho học sinh giải bài vào vở.
Để học sinh chủ động trong việc tìm cách giải bài toán, giáo viên cho học sinh đọc đề toán sau đó giao việc cho học sinh thảo luận theo nhóm để phân tích bài toán, tìm cách giải bài toán và trình bày ý kiến trước lớp, giáo viên cho các nhóm bổ sung và thống nhất cách giải.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán: “Thùng thứ nhất đựng 18l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”.
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo luận phân tích bài toán, học sinh trình bày ý kiến phân tích của nhóm theo hình thức đàm thoại:
- Bài toán cho biết gì? (thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn 6 lít dầu).
- Bài toán hỏi gì? (cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu).
- Các nhóm tự thảo luận tách bài toán đã cho thành hai bài toán đơn bằng cách:
+ Đặt câu hỏi phụ để lập bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
+ Sau đó lập bài toán đơn thứ hai bằng cách sử dụng kết quả của phép tính ở bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
Dựa vào phân tích bài toán như trên học sinh tiếp tục trình bày cách giải bài toán:
Sau khi học sinh trình bày, giáo viên cho các nhóm nhận xét cách trình
bày lời giải trong mỗi phép tính để chọn lời văn chính xác cho mỗi phép tính của bài giải.
Giáo viên có thể cho học sinh trình bày nhiều lời giải khác và chú ý lời
văn trong mỗi cách nêu lời giải để hình thành kỹ năng diễn đạt các bài toán có lời văn.
Đối với những bài toán khó giáo viên cần giành thời gian nhiều hơn hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ bài toán. Gợi mở để học sinh hiểu đề bài và gợi ý cho học sinh khá giỏi làm không nên bắt buộc học sinh yếu làm.
Để giúp học sinh học tốt nâng cao chất lượng giải toán có lời văn, giáo viên không nên tự xem vốn kiến thức của mình là thoả mãn, giáo viên phải phát huy vai trò tự học, tự rèn học những phương pháp giải toán, thường xuyên giải bài toán khó, đọc tạp chí tiểu học, các chuyên đề bồi dưỡng học sinh lớp 3 nhằm trang bị cho mình những kiến thức toán học bổ ích. Tham gia các lớp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh giáo viên đưa ra những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học với nhiều loại câu hỏi khác nhau. Đó là những câu hỏi về hiện tượng, sự kiện, câu hỏi đòi hỏi nhớ lại, đòi hỏi nhận thức cao hơn và biết sắp xếp chúng từ dễ đến khó đặc biệt là trong các tiết luyện tập thực hành.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán
“Một hình vuông có chu vi 2m 4dm. Hỏi hình vuông đó có diện tích bằng bao nhiêu xăng – ti – mét – vuông?”
- Đề toán này nhằm nâng cao một bước năng lực của học sinh trong hoạt động giải toán.
- Bằng hệ thống câu hỏi phát vấn dẫn dắt học sinh đến với đề toán.
Bài toán cho biết gì? (Câu hỏi tìm dữ kiện).
Bài toán yêu cầu ta phải làm gì? (Tìm ẩn số).
Học sinh muốn giải bài toán này cần phải chuyển hai đơn vị đo về một đơn vị đo nhỏ hơn, giáo viên phải đặt câu hỏi:
Hai đơn vị đo liền nhau hơn kém nhau bao nhiêu lần? (Đòi hỏi học sinh nhớ lại).
Muốn tính chu vi hình vuông ta làm thế nào? (Câu hỏi đòi hỏi học sinh suy luận).
Giáo viên cần chọn những bài toán có nội dung thực tế để giúp học sinh nắm vững kiến thức và tăng cường khả năng vận dụng kiến thức cho học sinh.
2.2.4 Biện pháp 4: Dạy học theo hướng phân hóa.
Trong một lớp học thường có tất cả 4 đối tương (giỏi, khá, trung bình, yếu) vì vậy đòi hỏi người giáo viên hết sức linh hoạt, sáng tạo để thiết kế bài dạy phù hợp với các đối tượng, tránh học sinh giỏi cảm thấy nhàm chán khi bài quá dễ, còn học sinh yếu lại thấy mệt mỏi, chán học khi bài quá khó, không thể làm được. Trong một tiết học chúng ta phải tạo cho tất cả các em hoạt động dù học sinh yếu hay giỏi bằng nhiều cách để lôi cuốn các em vào hoạt động học.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán:
Hình chữ nhật có chiều dài 12cm,chiều rộng 6cm. Hình vuông có cạnh là 9cm.
a. Tính chu vi mỗi hình. So sánh chu vi hai hình đó.
b. Tính diện tích mỗi hình. So sánh diện tích hai hình đó.
Trước hết tôi cũng hướng dẫn các em phân tích bài toán theo các bước. Các nhóm đi vào thảo luận để tìm các bước giải. Phần giải bài toán tôi yêu cầu các em trung bình, yếu dựa vào các quy tắc để giải được ý thứ nhất của câu a và b, còn học sinh khá, giỏi giải bài toán hoàn chỉnh. Với cách giao việc như trên nhằm giúp tất cả học sinh đều có thời gian làm bài bằng nhau, học sinh khá, giỏi đủ thơi gian kèm cặp kiểm tra bạn yếu.
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho các em các phong trào thi đua học tập như: “ Xóa điểm yếu”; Phong trào “Đôi bạn cùng tiến”; Phong trào “ Hoa điểm mười”. hướng dẫn các em thực hiện phong trào “Đi truy về xào” để các em giúp nhau củng cố bài học.
2.2.5 Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi kết quả học tập của học sinh.
Bất kể hoạt động nào cũng cần kiểm tra đánh giá, đây là công việc cần thiết trong công tác giảng dạy của giáo viên. Các em ở lứa tuổi này còn ham chơi, nếu giáo viên không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở thì các em sẽ lơ là trong học tập. Bởi vậy giáo viên cần kiểm tra để động viên khuyến khích kịp thời, tạo động lực học tập cho các em. Đồng thời rèn các em có tính siêng năng, biết phấn đấu vươn lên trong học tập, thấy được những thiếu sót của mình để sữa chữa, khắc phục.
Ví dụ như ngoài những bài tập trong chương trình giáo viên có thể ra thêm một vài bài toán có nhiều cách giải yêu cầu các em tìm ra nhiều cách giải hay nhằm phát huy tính sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú thêm cho các em.
Ví dụ: có bài toán “Một cửa hàng có 950kg gạo. Ngày thứ nhất bán 116kg gạo, ngày thứ hai bán gấp 3 lần ngày thứ nhất. Hỏi sau hai ngày bán, cửa hàng còn bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”.
Với bài toán như vậy giáo viên hướng dẫn các em hướng dẫn giải rồi yêu cầu các em tìm nhiều cách giải khác nhau.
* Hướng dẫn các em:
- Đọc kĩ bài toán: Đọc đề bài xem bài toán cho biết gì? hỏi gì?
- Lập kế hoạch giải:
+ Tìm số ki-lô-gam gạo của ngày thứ hai.
+ Tìm số ki-lô-gam gạo của hai ngày bán.
+ Tìm số ki-lô-gam gạo còn lại sau hai ngày bán.
- Sau khi hướng dẫn xong, yêu cầu các em về nhà giải bằng nhiều cách. Giáo viên kiểm tra kết quả sau.
Cách giải 1: Bài giải
Số ki-lô-gam gạo ngày thứ hai bán được:
116 x 3 = 348 (kg)
Số ki-lô-gam gạo cả hai ngày bán được:
Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại:
Cách giải 2: Bài giải
Ngày thứ hai bán được số ki-lô=gam gạo:
950 – ( 116 + 348 ) = 486 ( kg)
Với bài toán trên, đối với những em tiếp thu nhanh thì có thể tìm ra nhiều cách giải, Nhưng đối với những em tiếp thu bài còn non, các em giải được bài toán quả là khó lắm rồi. Vì vậy giáo viên phải thường kiểm tra, theo dõi để hướng dẫn thêm cho các em, kịp thời động viên các em tiến bộ, gần gũi, yêu thương các em, tạo cho các em niềm tin để vươn lên trong học tập.
Thường đối với những em tiếp thu chậm khi giải đúng được một bài toán các em rất phấn khởi, nếu các em được động viên kịp thời sẽ phấn khởi và tiến bộ rất nhanh.
2.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng mối quan hệ thầy trò bền chặt.
Tạo sự gắn kết, tin tưởng của học sinh đối với giáo viên. Tạo cho học sinh lòng kính trọng, say mê học tập.
Để làm được vấn đề này giáo viên cần gương mẫu, xử sự công bằng yêu thương, tôn trọng với các em. Giáo viên chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp. Bằng những giờ dạy nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn dễ lôi cuốn các em tích cực tham gia vào hoạt động học tập. Sẵn sàng chia sẽ những giải đáp, thắc mắc với các em. Xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học một cách hợp lý. Biết động viên khích lệ HS bằng những lời khen ngợi khi các em có sự tiến bộ dù là rất nhỏ để học sinh có được tự tin mà phấn đấu vươn lên.
Giáo viên phải nắm chắc được mặt yếu, mặt mạnh của từng học sinh, tạo cho học sinh có điều kiện để giao lưu với bạn bè, với thầy cô. Khi học sinh bị hỏng kiến thức ở đâu giáo viên không nóng vội mà cần có kế hoạch ôn tập bổ sung ở đó. Tôi luôn thực hiện phương châm “Mưa dầm thấm lâu” đối với những đối tượng học sinh chậm tiến bộ. Cho nên không chỉ cho các em kết quả bài toán mà chủ yếu cho các em con đường để tìm ra kết quả - hay nói cách khác, dạy cách học, cách suy luận cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán:
Để ốp thêm một mảng tường người ta dùng hết 9 viên gạch men, mỗi viên gạch hình vuông cạnh 10cm. Hỏi tính diện tích mảng tường được ốp thêm là bao nhiêu xăng-ti-mét vuông?
* Từ ví dụ trên thầy - trò cùng thảo luận đưa ra một cách giải chung cho dạng toán tương tự như vậy. Đây là một dạng toán khó trong chương trình Toán 3. Đa số học sinh nắm bài non, hoặc yếu rất lúng túng. Vì vậy giáo viên phải dẫn dắt học sinh đi vào tìm từng bước giải một. Trong khi học sinh luyện tập, tôi luôn theo dõi sát sao và giúp đỡ kịp thời, chấm bài, chữa ngay tại lớp và khen ngợi động viên, đặc biệt là các em thiếu mạnh dạn. Một khi mối quan hệ bền chặt thì niềm tin học sinh sẽ được nâng cao, ý thức tự học sẽ ngày càng được củng cố, các em sẽ chăm học, trao đổi mạnh dạn với thầy cô giáo về bài tập mà mình chưa hiểu từ đó thầy mới biết mình cần làm gì để giúp các em giải toán tốt hơn.
2.2.7. Biện pháp 7: Công tác phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh học sinh.
- Để nâng cao chất lượng, giáo viên chủ động gặp gỡ và trao đổi tình hình học tập của con em đến tận từng phụ huynh, giúp họ biết được tình hình học tập của con em mình để cùng hợp tác khắc phục. Có thể giới thiệu với phụ huynh phương pháp giáo dục, cách hướng dẫn các em cách học ở nhà, tránh tình trạng bắt các em học quá tải, hoặc xỉ mắng khi các em chưa làm được bài tập gây tổn thương tinh thần cho các em, làm các em thiếu tự tin trong học tập
- Tế nhị với phụ huynh, tránh những lời chỉ trích con em họ.
- Cuối học kì, cuối năm học cần có đánh giá tổng kết, thông báo kết quả tiến bộ của con em họ giúp học sinh cũng có nguồn động viên từ phía gia đình.
- Các em được thầy cô khen, cha mẹ động viên, khuyến khích thì sẽ có niềm tin, sẽ có hứng thú hơn. Có như vậy kết quả dạy và học sẽ cao hơn.
Ngoài ra giáo viên phải chủ động, tích cực phối kết hợp để nhận được sự hợp tác, ủng hộ của ban lãnh đạo, của tổ, khối chuyên môn. Phải tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên môn để bàn về biện pháp khắc phục cách giải toán. Kết hợp với Hội khuyến học địa phương để làm tốt công tác kiểm tra đôn đốc việc học bài ở nhà. Kết hợp với Hội phụ nữ để tuyên truyền cho các bà mẹ thấy được tầm quan trọng của việc học để họ quan tâm hơn việc học của con em mình. Có như vậy mới phát huy toàn diện tính tích cực của học sinh trong học tập và mọi hoạt động.
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thông qua giải toán có lời văn lớp 3D.Tôi nhận thấy các em nắm được yêu cầu bài toán, biết dùng câu hỏi để ghi tóm tắt bài toán. Biết phân tích tổng hợp để tìm ra các bước giải bài toán, từ đó chất lượng giải toán đã được nâng lên rõ rệt. Qua vận dụng các giải pháp trên, tại thời điểm khảo sát kĩ năng giải toán của lớp tôi như sau.
ĐÂY LÀ SKKN ĐƯỢC TẢI TRÊN MẠNG VỀ, CÁC THẦY CÔ CHỈ THAM KHẢO KHÔNG NÊN DÙNG VÀO VIỆC THI GVG HAY CÔNG NHẬN CSTĐ VÌ BÂY GIỜ CÁC CẤP ĐỀU DÙNG PHẦN MỀM QUÉT TRÙNG LẶP SÁNG KIẾN. MỌI VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN SKKN-BIỆN PHÁP THI GVG THẦY CÔ LIÊN HỆ VỚI THẦY NGUYỄN VĂN HÙNG - PHÓ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU HỌC KIÊN THÀNH - LỤC NGẠN - BẮC GIANG - SĐT: 0982.882.505 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN VÀ HÔ TRỢ MIỄN PHÍ VỀ CÁCH VIẾT VÀ TRÌNH BÀY SÁNG KIẾN.
Kết quả :
Kết quả khảo sát thấy các em tiến bộ rất nhiều. Các em nắm được ba yếu tố của bài toán. Biết giải các bài toán có lời văn.
3.1 Ý nghĩa.
3.1.1. Ý nghĩa: Qua thực hiện đề tài đưa ra các giải pháp đã làm cho giáo viên nắm chắc hơn phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tư duy tổng hợp cho học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã phát huy được tính độc lập sáng tạo, khả năng phân tích nhanh chóng, sử dụng đúng những tri thức, kỹ năng và vận dụng linh hoạt các phương pháp. Từ đó có những kinh nghiệm trong chuyên môn và công tác giảng dạy.
Về phương pháp dạy học thực sự đổi mới cho học sinh hoạt động học tập đã tổ chức cho học sinh tự làm việc cá nhân và kiểm soát quá trình làm bài. Tích cực hoá việc học tập của học sinh.
Gây hứng thú trong học tập, phát huy lòng say mê học tập cho các em để các em học tốt môn toán, học tốt các môn khác.
3.2 Kiến nghị, đề xuất.
Dạy học là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Chính vì vậy, trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không được gây ức chế cho học sinh. Mỗi giáo viên phải có ý thức chăm lo bồi dưỡng về mọi mặt nhằm có đủ trình độ năng lực nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Việc phát huy tư duy phân tích tổng hợp qua việc giải toán có lời văn lớp 3 là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong tiết dạy giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, có hiệu quả, làm cho lớp học sôi nổi giờ học sinh động. Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục dạy chữ dạy người, dạy nghề nhằm tiến tới một bậc học tốt nhất bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Có nhiệm vụ xây dựng tình cảm, đạo đức trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, hình thành cơ sở ban đầu về sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục, một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn ở Tiểu học được sử dụng có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau:
*Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải xây dựng cho học sinh lòng yêu thích học toán, làm cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn để phát huy hơn nữa năng lực tư duy sáng tạo của học sinh.
- Người giáo viên phải kiên trì dạy, không nôn nóng, không nóng vội, không đòi hỏi quá cao ở học sinh mà phải bám vào chuẩn kiến thức của từng lớp.
- Bồi dưỡng cho các em phương pháp học toán và tổ chức tự học ở gia đình, phối kết hợp với gia đình trong việc học bài và làm bài ở nhà.
- Tạo hứng thú, niềm say mê, tính tích cực học tập của học sinh cũng là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả học tập trong nhà trường. Tập cho các em có thói quen tóm tắt bài trước khi giải. Đây là yếu tố giúp học sinh có kỹ năng tìm hiểu đề toán.
- Không nên cho học sinh “học vẹt” các bài giải mẫu mà cần cho học sinh nắm chắc chắn phương pháp, cách giải của từng dạng toán.
- Cần có biện pháp khen thưởng, trách phạt kịp thời để các em có thái độ và phương pháp đúng đắn khi học toán. Nhằm khơi gợi được tinh thần, lòng ham thích học toán ở các em. Đồng thời có sự điều chỉnh kịp thời những sai sót, vướng mắc khi học toán.
* Đối với nhà trường:
- Nhà trường thường xuyên tổ chức các đợt hội thảo, chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học để giúp phát huy hơn nữa tính tích cực của học sinh trong học tập
- Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, mua sắm đồ dùng nhằm phục vụ cho việc dạy học của giáo viên được tốt hơn
- Cung cấp các tài liệu liên quan để giáo viên có điều kiện nghiên cứu, trau dồi và nâng cao kiến thức của mình.
Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp học nâng cao trình độ.
Trên đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3 ở trường Tiểu học mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để đề tài được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THAN UYÊN
TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ MƯỜNG MÍT
BÁO CÁO BIỆN PHÁP
GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC GIẢNG DẠY
Tên chuyên đề: Biện pháp dạy học kiểu bài miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5.
Tác giả: Đỗ Huy Thông
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trường Tiểu học xã Mường Mít.
1. Tên chuyên đề
Biện pháp dạy học kiểu bài miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5.
2. Tác giả
Họ và tên: Đỗ Huy Thông; Năm sinh: 24/04/1977
Năm vào ngành: 1995
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học xã Mường Mít,
3. Lĩnh vực áp dụng chuyên đề
Môn học: Tập làm văn, lớp áp dụng 5A2, năm học 2019 - 2020
II. NỘI DUNG
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện chuyên đề:
Năm học 2019 - 2020, lớp 5A2 trường Tiểu học xã Mường Mít có 28 học sinh. Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên dạy định mức, hỗ trợ tại lớp có kiến thức, trình độ chuyên môn tốt. Học sinh trong lớp được học đầy đủ nội dung chương trình các môn học. Giáo viên đã giảng dạy đảm bảo cho học sinh đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học. Phương pháp dạy học tích cực theo hướng phát triển năng lực học sinh. Học sinh lớp 5A2 cơ bản nắm được kiến thức chương trình các môn học.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về kiến thức, kĩ năng của chương trình lớp 5 nói chung thì các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng viết văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn. Chất lượng các bài kiểm tra ở dạng bài miêu tả cây cối, tôi thấy các em còn hạn chế về cách viết văn miêu tả đó là:
- Khi học sinh miêu tả cây cối, bài viết của các em mới chỉ diễn đạt được nội dung theo hướng liệt kê kể từng bộ phận của cây.
- Câu văn chưa có tính nghệ thuật như hình ảnh miêu tả chưa sinh động, chưa có cảm xúc, mang tính miêu tả về hình dáng là nhiều, chưa có miêu tả về hoạt động xung quanh. Học sinh còn nhầm miêu tả sang kể chuyện.
- Bố cục bài viết giữa các phần còn lủng củng, chưa liên kết về nội dung.
- Nội dung bài viết thường viết theo những kiểu bài văn mẫu giáo viên đã hướng dẫn. Các bài giống nhau từ cách mở bài, cách tả, cách kết bài.
Ở kiểu bài miêu tả cây cối, trước khi dạy, tôi đã khảo sát thực tế bài viết của học sinh như sau:
Với kết quả khảo sát trên, tôi thấy học sinh học tập chưa đảm bảo (còn 8 học sinh chưa đạt). Chất lượng học tập làm văn ở chương trình lớp 4 chưa thật sự đảm bảo, học sinh còn hạn chế ở một số lĩnh vực kiến thức, kĩ năng.
Vì vậy, với mong muốn ở chương trình lớp 5, bài làm văn miêu tả về cây cối của các em được hay hơn, có cảm xúc hơn, tôi xin đề xuất một số biện pháp dạy học tập làm văn kiểu bài miêu tả cây cối như sau.
2. Phạm vi triển khai thực hiện chuyên đề
Chuyên đề thực hiện ở phân môn Tập làm văn tại lớp 5A2, năm học 2019-2020
3. Mô tả biện pháp biện pháp dạy học kiểu bài miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5.
3.1. lập dàn ý thông qua sử dụng trực quan trong dạy văn miêu tả.
a) Nội dung biện pháp
- Dạy miêu tả sự vật nào thì có trực quan cho sự vật đó (bằng quan sát cây cối thật hoặc qua tranh ảnh). Qua đó học sinh lập dàn ý trực tiếp thông qua trực quan.
- Sử dụng trực quan là các đoạn văn hoặc bài văn mẫu để học sinh tìm dàn ý của bài.
- Chỉnh sửa các câu văn ở mỗi phần theo cách cảm nhận của các em.
- Biện pháp này hướng dẫn học sinh trong suốt quá trình học.
b) Các bước thực hiện
Để tả bất kì một cây nào, đầu tiên giáo viên cần phải cho học sinh lập dàn ý cho bài định tả. Vậy để lập dàn ý phù hợp với khả năng của học sinh dân tộc thì cần thực hiện như sau:
Bước 1. Xác định dạng đề định tả; chuẩn bị trực quan phù hợp
- Trực quan là cây thật, tranh ảnh. Nếu định cho học sinh lập dàn ý tả về cây cối, giáo viên sẽ cho học sinh quan sát cây cối thật hoặc chuẩn bị tranh ảnh, về cây hoặc hoa quả phù hợp để học sinh quan sát, cảm nhận và lựa chọn sự vật cần miêu tả phù hợp để lập dàn ý.
Ví dụ, để tả một cây hoa mà em thích, ngoài việc cho học sinh quan sát thực tế ở vườn trường thì cần có các tranh ảnh như tranh hoa đào, hoa hồng... cần phải có tranh để học sinh quan sát.
- Trực quan là đoạn văn, bài văn mẫu bằng tài liệu in hoặc trình chiếu.
+ Bài văn mẫu giúp cho học sinh đọc để các em mở rộng vốn từ, biết một số từ ngữ miêu tả. Qua đó các em biết sử dụng từ ngữ tạo câu phù hợp.
Ví dụ cách mở bài của một bài văn hoặc câu văn hay có sử dụng biện pháp nghệ thuật cần có câu mẫu, đoạn văn mẫu để học sinh biết cách sử dụng từ ngữ.
Bước 2. Lập dàn ý với cây cối
- Giáo viên đưa ra đạng đề mở cho học sinh lựa chọn để lập dàn ý
Ví dụ: Hãy tả một cây có bóng mát mà em thích hoặc Hãy tả một cây xanh có hoa mà em biết...
- Học sinh lập dàn ý theo cách riêng dựa trên trực quan và bài mẫu.
Bước 3. Giáo viên củng cố cách lập dàn ý miêu tả.
- Phần mở bài (gợi ý theo cách gián tiếp), giới thiệu về cây định tả, khoảng 3, 4 câu.
+ Tên loài cây định tả là gì?
+ Cây đó em thấy ở đâu, ai trồng?
+ Cây đó gắn bó với em hoặc con người từ bao giờ ?
- Phần thân bài, cần lựa chọn một trong các cách tả dưới đây khoảng 10 câu trở lên:
+ Tả bao quát cây đến chi tiết từng bộ phận của cây (Tả từ xa đến gần)
+ Tả theo trình tự thời gian, không gian (quá trình trưởng thành của cây, tả lần lượt theo mùa)
+ Tả kết hợp ngoại hình, màu sắc với các yếu tố ngoại cảnh xung quang cây như hoạt động của con người, con vật, thời tiết.
- Phần kết bài (viết theo cách mở rộng) khoảng 3,4 câu:
+ Nêu ích lợi của cây trong tự nhiên hoặc đối với con người, con vật.
+ Ấn tượng của cây đối với mọi người.
+ Tình cảm của em đối với cây hoặc của con người với cây đó như thế nào?
Lưu ý: mỗi kiểu bài tả cụ thể như tả cây xanh có bóng mát, cây xanh có hoa, tả loài hoa, tả một vườn cây hay tả một loại quả ... thì học sinh sẽ dựa trên dàn ý mẫu để phát triển theo cách viết, cách cảm nhận của các em.
c) Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp
Để thực hiện biện pháp này có hiệu quả, đối với giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh quan sát vườn trường, cây cối thật; có có đồ dùng trực quan như tranh ảnh, phim tư liệu, máy chiếu. giáo viên hiểu ngôn ngữ của học sinh dân tộc.
Đối với học sinh, các em phải có các kĩ năng quan sát về tự nhiên- xã hội xung quanh; tự tin, biết diễn đạt; có kiến thức- kĩ nănh về Tiếng Việt; chăm chỉ luyện tập miêu tả.
3.2. Cảm thụ văn học thông qua các bài văn mẫu.
a) Nội dung biện pháp
Học sinh được miêu tả dạng bài tả cây (tả hoa, tả vườn cây...) nào thì giáo viên sử dụng các bài văn mẫu ở dạng đó phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh dân tộc của lớp.
Thông qua bài mẫu, học sinh được cảm thụ về cách miêu tả của tác giả. Rút ra nhận xét về bố cục, cách miêu tả, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật từ bài văn mẫu đó để lập dàn ý, tìm ý tạo câu, xây dựng đoạn văn, bài văn của riêng mình không theo bố cục bắt buộc.
b) Các bước thực hiện
Bước 1. Tìm chọn bài văn mẫu liên quan
- Khi dạy dạng bài miêu tả nào thì giáo viên chọn lựa một số bài văn mẫu liên quan cho học sinh đọc tham khảo.
Ví dụ, miêu tả về cây xanh có bóng mát giáo viên sẽ cho học sinh đọc một số bài văn mẫu về cây xanh có bóng mát như cây bàng, cây phượng ở sân trường, cây hoa ban ở đầu bản...
Bước 2. Hướng dẫn cách cảm thụ
- Cho học sinh đọc các bài văn mẫu, lựa chọn bài mình thích nhất.
- Nêu các ý chính ở từng phần (lập lại dàn ý) từ bài văn mẫu.
- Tìm hiểu cách miêu tả của tác giả, các biện pháp nghệ thuật như so sánh hoặc nhân hóa hoặc ẩn dụ mà tác giả đã sử dụng.
- Cách sử dụng từ để đặt câu, cách liên kết câu, liên kết đoạn văn tạo bài văn.
Ví dụ cho học sinh đọc đoạn văn tả cây bàng, giáo viên hỏi học sinh về cách tả cây bàng như thế nào, hình ảnh lá bàng được so sánh với đồ vật gì, thân cây sờ vào thế nào, gió thổi vào tán lá âm thanh phát ra như thế nào...?
Bước 3. Thực hành lập dàn ý, xây dựng đoạn văn
- Cho học sinh lập dàn ý theo bố cục từng phần theo cách viết, cách cảm nhận của các em.
- Xây dựng thành một đoạn văn.
- Nhận xét, chữa lại đoạn văn vừa viết cho hoàn chỉnh hơn.
c) Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp
Giáo viên phải sưu tầm các bài văn mẫu; giáo viên đọc hiểu bài văn mẫu để lựa chọn sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh, đặc điểm địa phương.
Học sinh cần phải đọc thêm ở nhiều thời điểm khác nhau, trong đó chú trọng đọc trước ở nhà và học buổi hai. Luyện tập miêu tả theo gợi ý để có được những câu văn, đoạn văn hay.
Giáo viên phải sát sao với từng học sinh trong cách hướng dẫn viết bài, chữa bài. Học sinh phải yêu thích viết văn.
3.3. Luyện tập dưới nhiều dạng đề khác nhau
a) Nội dung biện pháp
- Giáo viên dạy miêu tả dạng bài nào thì nghiên cứu ra đề dưới dạng đề mở, có sự lựa chọn để học sinh viết theo khả năng và sự gần gũi của các em với sự vật đó.
- Học sinh trong quá trình luyện tập miêu tả gặp khó khăn được giáo viên hỗ trợ bằng các gợi ý, bằng trực quan để miêu tả.
- Bài viết của các em được giáo viên chữa bài chi tiết, có nhận xét cụ thể trên bài làm của học sinh.
b) Các bước thực hiện
Bước 1. Xây dựng ngân hàng đề bài
- Ngân hàng đề miêu tả cây cối, ví dụ:
+ Tả một cây xanh có bóng mát ở sân trường (ở đầu bản...)
+ Tả một cây xanh có hoa ở sân trường (ở đầu bản, ở nhà em...)
+ Tả một cây ăn quả mà em biết.
+ Tả một cây rau ở vườn nhà em (ở vườn trường em ...)
+ Tả một loài hoa mà em yêu thích.
+ Tả một loại quả mà em thích ăn ...
Bước 2. Tổ chức, hướng dẫn học sinh miêu tả
Học sinh luyện tập miêu tả: lập dàn ý; viết câu miêu tả; viết đoạn văn; viết bài văn hoàn chỉnh.
Quá trình luyện tập, giáo viên xem xét hỗ trợ các học sinh gặp khó khăn, thiếu tự tin; giáo viên đưa ra các mẫu hoặc hỗ trợ bằng trực quan để học sinh quan sát và miêu tả theo cách của các em.
Bước 3. Chấm, nhận xét, chữa lỗi
Giáo viên tiến hành đọc, chấm, trả bài, nhận xét, chữa các lỗi (các nội dung cần chữa: chọn đối tượng miêu tả theo yêu cầu đề bài; cách đặt câu, liên kết câu, liên kết đoạn văn thành bài văn; sử dụng các biện pháp nghệ thuật có phù hợp không; cách miêu tả có chân thực, gần gũi không; lỗi chính tả, trình bày bài...) tiếp theo hướng dẫn học sinh tự chữa lỗi và kiểm tra lại việc học sinh chữa lỗi.
c) Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp
Giáo viên cần phải nghiên cứu lựa chọn đề miêu tả phù hợp với đa số học sinh, phù hợp với địa phương, với những gì đang có.
Giáo viên và học sinh chuẩn bị về hình ảnh của đối tượng cần miêu tả.
Học sinh được học tập thành tiết học cụ thể, đặc biệt là tiết thực hành viết và tiết trả bài.
4. Hiệu quả của chuyên đề mang lại
Việc áp dụng biện pháp dạy học tập làm văn miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5 đã mang lại hiệu quả đó là:
- Học sinh đã biết viết đúng bố cục theo thể loại tả cây cối. Các câu văn miêu tả giàu cảm xúc, có nhiều hình ảnh nghệ thuật. Các bài viết đạt yêu cầu cao.
- Giờ học, các em học tập nhẹ nhàng ít áp lực; các em được cảm thấy thoải mái, vui vẻ, thích diễn đạt trước đám đông về cảm nhận của mình trước các sự vật được quan sát. Thông qua các tiết học miêu tả cây cối, học sinh yêu quý con người, yêu thiên nhiên, biết giữ gìn và bảo vệ vệ cây xanh hơn.
- Giáo viên đã sử dụng nhiều phương pháp, hình thức học tập có tính trải nghiệm, thực hành và phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập đối với học sinh. Sau quá trình áp dụng biện pháp mới về dạy học miêu tả cây cối tại lớp 5A2, năm học 2019 -2020, tôi đã thu được kết quả như sau:
5. Kết luận
Biện pháp nêu trên mà cá nhân tôi đã thực hiện ở lớp 5A2 trong năm học 2019-2020 là phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 đang hướng đến.
Hình thức, phương pháp dạy học mà cá nhân tôi đã và đang áp dụng được các đồng chí giáo viên trong nhà trường tham khảo và vận dụng về cách soạn bài và tổ chức cho học sinh học tập. Đặc biệt là dạy- học làm văn miêu tả về cây cối cho học sinh.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chuyên đề và viết báo cáo, tôi cũng còn gặp nhiều hạn chế, kính mong hội đồng ban giám khảo Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp và các thầy cô góp ý chân thàn để cá nhân tôi hoàn thành tốt công tác giảng dạy.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn.
THẦY CÔ DOWNLOAD FILE TẠI ĐÂY.
PASS GIẢI NÉN: yopovn.Com
THẦY CÔ DOWNLOAD FILE THEO LINKS.
I. phÇn MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.
Nhân loại đang bước vào thế kỉ XXI, là thế kỉ có nhiều biến đổi to lớn về khoa học- công nghệ, bước tiến nhảy vọt về kinh tế. Tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Phát huy trí tuệ, sức mạnh của người Việt Nam: coi phát triển GD-ĐT và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Đáp ứng yêu cầu quốc sách của Đảng, ngành GD đã thực sự đổi mới trên mọi mặt, đặc biệt đổi mới về phương pháp phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS.
Đất nước ta đang bước vào kĩ nguyên mới: “Kĩ nguyên hội nhập kinh tế quốc tế” đầu tư vào chất xám sẽ là đầu tư có hiệu quả nhất, đòi hỏi con người phải năng động, sáng tạo trong mọi hoạt động. Những năm gần đây, Bộ GD-ĐT đã và đang thực hiện phong trào: Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà chúng ta rất cần những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề do thực tiễn đặt ra. Vậy làm thế nào để có được những con người lao động “hiện đại” này ? Chắc hẳn chỉ có giáo dục đào tạo mới trả lời được điều này. Vì vậy, Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã xác định vai trò giáo dục đào tạo là “Quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội”.Tuy nhiên, để đạt được điều đó nền giáo dục Việt Nam phải có một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh và một cơ sở vững chắc là bậc giáo dục Tiểu học.
Bậc tiểu học là bậc học đặc biệt quan trọng - bậc học đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về tự nhiên xã hội, phát triển các năng lực nhận thức. Trong chương trình môn học ở tiểu học, môn toán là môn học đóng vai trò quan trọng.Toán học là môn thể thao của trí tuệ, giúp ta trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, rèn luyện tính thông minh, sáng tạo.... điều này thể hiện rõ nét qua qua việc giải toán.
Giải toán là thước đo của việc nắm lý thuyết , trình độ tư duy, tính linh hoạt sáng tạo của học sinh. Giải toán có lời văn giúp học sinh tư duy một cách tích cực, linh hoạt để huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình huống khác nhau, cũng có trường hợp yêu cầu học sinh phải biết phát hiện những dự kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong một chừng mực nào đó phải biết suy nghĩ sáng tạo. Vì thế có thể coi giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ học sinh, tiếp tục giúp các em phát triển tư duy, rèn tính cẩn thận chính xác, kiên trì vượt khó chủ động sáng tạo để thực hiện tốt 3 nhiệm vụ: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
Kĩ năng giải toán có lời văn đã được các em làm quen ngay từ khi mới vào lớp một, từ đó hình thành khả năng tính toán cơ bản cho các lớp sau. Nhờ giải toán, học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy. Rèn luyện phương pháp suy luận, kỹ năng tính toán và những phẩm chất của người lao động mới. Vì khi giải bài tập toán là một hoạt động bao gồm những thao tác mà không thể thiếu đó là: xác lập mối quan hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái cần tìm, thực hiện phân tích thích hợp, rút ra những kết luận và trả lời đúng câu hỏi của bài toán. Giải quyết được một vấn đề đặt ra của một bài toán đòi hỏi tư duy phải huy động tÝch cực. Bởi hình thành kỹ năng giải toán khó h¬n nhiều so với kỹ năng tính, vì bài toán là kết hợp nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán không chỉ là nhớ mẫu giải rồi áp dụng mà đòi hỏi phải nắm chắc khái niệm quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa các phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh, đòi hỏi biết tính đúng, tính nhanh, khuyến khích những học sinh có cách giải khoa học, ngắn gọn, chính xác. Dạy học giải toán giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự nhận xét, so sánh, phân tích, tổng hợp rồi rút ra quy tắc ở dạng khái quát nhất định.
Ở lớp 3, ngoài kiến thức tiếp nối các dạng toán đã học ở lớp 1, lớp 2. Các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp có từ hai phép tính trở lên. Mỗi bước tính thể hiện một tình huống nêu lên mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Kết quả phép tính ở bước thứ nhất sẽ là một thành phần của phép tính ở bước giải thứ hai. Học sinh phải biết lựa chọn phép tính thích hợp với lời giải đặc biệt các phép tính có lời giải còn ẩn.
Qua thực tế khi dạy giải toán có lời văn ở lớp tôi một số em vẫn còn hạn chế. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn, trăn trở muốn tìm ra một số biện pháp nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong phần giải toán có lời văn nhằm nâng cao trình độ nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển Giáo dục trong giai đoạn hiện nay của ngành và của nhà trường.
Từ những lí do thực tế trên, tôi mạnh dạn chọn đi sâu nghiên cứu đề tài kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3”.
1.2 Điểm mới của đề tài.
Đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3” là một đề tài đã được rất nhiều tài liệu nói đến nhưng riêng ở Trường TH tôi đang công tác thì đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để viết thành đề tài kinh nghiệm. Bởi vậy, tôi đã mạnh dạn chọn trình bày đề tài nghiên cứu này.
Điểm mới trong đề tài là tôi đã thực hiện vận dụng điểm mới của mô hình lớp học VNEN về đổi mới phương pháp dạy học thông qua việc thay đổi không gian lớp học, xây dựng nhóm học tập thân thiện, tạo cơ hội cho học sinh có sự trao đổi, tự tìm tòi và lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trên cơ sở giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, điều hành.
1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Vì điều kiện thời gian và sự phân công công tác nên phạm vi của đề tài chỉ nghiên cứu trong lớp học tôi đang chủ nhiệm (lớp 3D).
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của chất lượng giải toán có lời văn lớp 3D.
Qua khảo sát vào đầu năm học, ở lớp 3 với giai đoạn này các em đang tiếp nối kiến thức đã học từ lớp 1, lớp 2. Các bài tập thực hành là các bài toán đơn chỉ có một lời giải, một phép tính và đáp số.Với các dạng toán giải: Bài toán về nhiều hơn; bài toán về ít hơn. Tuy vậy, cũng đề toán dùng từ “nhiều hơn” nhưng phải thực hiện phép tính trừ; với đề toán dùng từ “ít hơn” lại thực hiện bằng phép tính cộng. Đối với các dạng toán như vậy các em nắm chưa thành thạo, tìm phép tính chưa phù hợp với lời giải, thiếu chính xác. Sang cuối đợt một, các em bắt đầu làm quen với các dạng toán hợp. Đây là dạng toán có hai phép tính trở lên, câu hỏi của bài toán thường là phần gợi ý của lời giải thứ hai còn lời giải thứ nhất đòi hỏi các em phải tư duy để tìm. Vì vậy nếu lời giải thứ nhất sai dẫn đến cả bài giải đều sai. Tôi tiếp tục khảo sát chất lượng môn toán với 23 học sinh của lớp 3D, qua một số đề toán với kiến thức tổng hợp. Kết quả điểm của bài kiểm tra đều đạt theo yêu cầu song điều làm tôi băn khoăn, lo lắng là phần bài tập giải toán có lời văn tỉ lệ các học sinh làm được bài rất thấp. Trong các tiết học Toán trên lớp đến phần “ giải toán có lời văn” đa số các em đều hoạt động cá nhân nên kĩ năng phân tích đề còn hạn chế, nhiều em còn lúng túng trong việc tìm vấn đề bài toán cho biết gì và yêu cầu cần giải quyết gì để tìm các bước giải.Vì vậy mà khiến các em luôn né tránh mỗi khi đến phần học và làm bài tập giải toán. Giáo viên giảng dạy cũng đã đổi mới phương pháp nhưng hiệu quả đem lại chưa cao. Bên cạnh đó, nhận thức một số phụ huynh còn hạn chế, chưa quan tâm đến việc học tập của con cái, giao phó tất cả cho giáo viên. Trình độ học vấn của đa số phụ huynh về phần giải toán chưa cao nên gặp khó khăn trong việc dạy con học ở nhà, nhất là môn toán nói chung và kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng.
Sau đó, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng giải toán có lời văn của lớp cụ thể là:
Qua thực tế khảo sát, kết quả điều tra:
Lớp | Chất lượng | Tóm tắt bài toán | Phân tích bài toán | Giải bài toán | |||
Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | ||
3D | Giỏi | 2 | 8.7 | 2 | 8,7 | 2 | 8,7 |
Khá | 8 | 34,8 | 6 | 26,1 | 6 | 26,1 | |
T.bình | 7 | 30,4 | 10 | 43,5 | 10 | 43,5 | |
Chưa đạt | 6 | 26,1 | 5 | 21,7 | 5 | 21,7 |
Xuất phát từ thực trạng đó, là một giáo viên đứng lớp tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và tìm một số biện pháp nhằm “Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi dạy giải toán có lời văn lớp 3”.
2.2. Các biện pháp.
2.2.1. Biện pháp 1: Xây dựng nhóm học tập thân thiện.
Hình thức tổ chức dạy học này có ý nghĩa và tác dụng tích cực. Tất cả học sinh đều được làm việc và thực hành luyện tập, biết giúp đỡ lẫn nhau, giải quyết được những vấn đề khó và tìm ra cái mới trong bài học. Tạo thái độ học tập tích cực, đặc biệt bước đầu giúp các em làm quen với phong cách làm việc hợp tác, đề xuất với giáo viên những vấn đề vướng mắc cần giải đáp.
Giáo viên lập các nhóm học tập dựa vào năng lực học của từng học sinh, sao cho mỗi nhóm đều có học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu tham gia số lượng từ 4 - 6 em. Hình thức hoạt động: Lần đầu giáo viên tổ chức, hướng dẫn các em cách thức sinh hoạt, cách thức phân tích bài toán, cách thức kiểm tra các thành viên trong nhóm để nhóm tự kiểm tra, thảo luận, giúp nhau trong việc giải toán như: phân tích bài toán; tìm Các bước giải; lựa chọn phép tính phù hợp; sửa chữa sai sót cho nhau trong quá trình giải toán. Giáo viên“Tập huấn” cho trưởng nhóm về cách điều khiển các hoạt động của nhóm (như một giáo viên). Nhóm trưởng biết cách phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao cho các bạn đều được tham gia, đều phải thể hiện. Biết thay đổi linh hoạt vai trò của các thành viên trong nhóm: là thư kí; là đại diện báo cáo kết quả. Biết động viên khích lệ bạn còn chưa thực nhanh tay, nhanh mắt trong nhóm, tạo tính mạnh dạn cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán “Một cửa hàng buổi sáng bán được 62 kg gạo, buổi sáng bán được nhiều hơn buổi chiều là 18 kg gạo. Hỏi cả hai buổi cửa hàng đó bán được bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”.
Bạn trưởng nhóm điều khiển nhóm mình như giáo viên đã hướng dẫn.
+ Cho các bạn đọc đề toán, nêu dự kiện của bài toán: bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?.
+ Tóm tắt bài toán: các bạn tự trao đổi để tìm xem tóm tắt bằng hình thức nào cho phù hợp( sơ đồ hay ngôn ngữ...)
+ Thảo luận lập kế hoạch giải, cuối cùng là thống nhất cách thực hiện quá trình giải. Các thành viên trong nhóm tự đưa ra câu hỏi và trả lời cho thích hợp.
Như vậy, tất cả các bạn trong nhóm đều phải thực hiện tất cả các bước theo trình tự. Từ đó nhắc nhở các bạn trong bài toán đã có dùng từ “nhiều hơn” nhưng không phải hễ cứ thấy “nhiều hơn” là làm tính cộng, tránh quan niệm sai lầm đó. Tiếp theo bạn nhóm trưởng yêu cầu các bạn tự giải bài vào vở. Huy động kết quả ở trong nhóm bằng việc lần lượt các bạn đọc bài giải của mình để cả nhóm đối chiếu, các bạn khác được nhiều lần kiểm tra lại câu lời giải, phép tính và kết quả, khuyến khích các bạn có cách giải hay hơn ( lời giải khác), sau đó báo cáo với giáo viên về kết quả sinh hoạt nhóm, đề xuất ý kiến cần thiết.
Việc học nhóm đã giúp các em tự tin hơn bởi vì : “Học thầy không tày học bạn”. Qua học nhóm đã giúp các em không bị gò bó, nâng cao kỹ năng giải toán hơn - tạo cho các em có niềmvui trong học toán. Ích lợi của biện pháp này là giáo viên đỡ tốn thời gian mà vẫn phát hiện những mặt hạn chế của học sinh để kịp thời uốn nắn, sữa chữa cho các em. Học sinh gắn bó với nhau hơn, mạnh dạn trong giao tiếp, hình thành thói quen và kỹ năng phân tích, kỹ năng giải toán, điều quan trọng là tạo cơ hội để các em tự nói lên những suy nghĩ của mình tạo tính tích cực, mạnh dạn cho các em, từ đó các em có niềm say mê, hứng thú khi học toán hơn.
2.2.2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường, không gian lớp học.
Xây dựng phòng học và tổ chức không gian lớp học mang tính thẫm mĩ, sư phạm, các em sẽ tự giác tích cực hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Học sinh tiểu học với tâm lý lứa tuổi hiếu động, thích sự thay đổi nên thường có cảm giác bị áp lực học tập trong một môi trường: Thầy giảng trò nghe; thầy đọc trò chép. Trong những năm học gần đây, tất cả các trường đang thi đua xây dựng mô hình : “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Hình thành môi trường bạn hữu thân thiện, học sinh biết giúp đỡ nhau, yêu quý trường lớp, giữ gìn môi trường xanh-sạch-đẹp.
Lớp học là nơi các em học tập cũng là nơi các em tự do thể hiện sự sáng tạo của mình qua việc sắp xếp các dụng cụ học tập, sản phẩm do chính bàn tay các em cũng như cha mẹ hay thầy, cô giáo tạo ra. Từ đó giúp các em hào hứng hơn trong mỗi hoạt động học đường. Các em sẽ tự giác và tích cực học tập hơn khi được sống trong môi trường thân thiện. Đổi mới không gian lớp học, xây dựng không gian lớp học thân thiện bằng cách xây dựng các góc học tập, góc thư viện, góc môi trường, góc hỗ trợ các hoạt động giáo dục.......phù hợp với khoảng không gian lớp học, thuận tiện trong sử dụng. Đối với môn toán, góc học tập là nơi trưng bày trang thiết bị đồ dùng dạy học, các sản phẩm học tập của học sinh. Trong góc đó là những đồ vật, thiết bị gần gũi với các em như êke, compa, những mô hình, những vật thật và cả những thiết bị, đồ dùng do các em tự làm...… Chính những đồ vật đó đã giúp học sinh lĩnh hội được những kiến thức trừu tượng trong hoạt động học tập. Khi nhìn những đồ dùng học tập đó, học sinh thấy tái hiện lại quá trình sử dụng đồ dùng học tập, thấy chúng trở nên thân thiện thú vị hơn vì đấy chính là những đồ vật đã đồng hành trong việc giúp các em học tập.
Thay đổi không gian lớp học ở đây còn thể hiện ở việc thay đổi tư thế ngồi học. Lớp học bây giờ được thay thế bằng các nhóm học tập. Bàn ghế được sắp xếp theo hình chữ U, các nhóm hoặc các học sinh trong nhóm được ngồi đối diện nhau để thuận tiện trong việc học nhóm, tạo hứng khởi cho các em trong học tập. Vị trí ngồi trong nhóm cũng được thay đổi thường xuyên theo từng tiết học, buổi học. Không gian này có thể thay đổi từng tuần tùy theo đặc trưng của từng môn học và để đảm bảo cho học sinh được thay đổi vị trí, tránh trường hợp ngồi lệch so với bảng trong thời gian dài.
2.2.3. Biện pháp 3: Đổi mới phương pháp dạy học.
Trong dạy học “Không có phương pháp nào là vạn năng” song người giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp thích hợp cho từng tiết học giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tạo nên tiết học sinh động, giải quyết được vấn đề một cách hợp lý, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Có thể cùng một bài toán nhưng có thầy dạy thì học sinh dễ hiểu, nắm được mạch bài, nhưng có thầy dạy thì học sinh hiểu rất ít, đó chính là khác nhau giữa phương pháp dạy học giữa hai người thầy. Để nâng cao hiệu quả dạy học, người thầy phải tìm tòi, lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh mình.
Thông thường khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán giáo viên cho học sinh đọc đề, phân tích bài toán và gợi ý cách giải, sau đó cho học sinh giải bài vào vở.
Để học sinh chủ động trong việc tìm cách giải bài toán, giáo viên cho học sinh đọc đề toán sau đó giao việc cho học sinh thảo luận theo nhóm để phân tích bài toán, tìm cách giải bài toán và trình bày ý kiến trước lớp, giáo viên cho các nhóm bổ sung và thống nhất cách giải.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán: “Thùng thứ nhất đựng 18l dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6l dầu. Hỏi cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu?”.
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ đề bài, giao nhiệm vụ cho các nhóm thảo luận phân tích bài toán, học sinh trình bày ý kiến phân tích của nhóm theo hình thức đàm thoại:
- Bài toán cho biết gì? (thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn 6 lít dầu).
- Bài toán hỏi gì? (cả hai thùng đựng bao nhiêu lít dầu).
- Các nhóm tự thảo luận tách bài toán đã cho thành hai bài toán đơn bằng cách:
+ Đặt câu hỏi phụ để lập bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
+ Sau đó lập bài toán đơn thứ hai bằng cách sử dụng kết quả của phép tính ở bài toán đơn thứ nhất rồi chọn phép tính và thực hiện phép tính đó.
Dựa vào phân tích bài toán như trên học sinh tiếp tục trình bày cách giải bài toán:
Bài giải:
Thùng thứ hai đựng được :
18 + 6 = 24 ( l).
Cả hai thùng đựng được :
18 + 24 = 42 ( l).
Đáp số: 42l dầu.
Thùng thứ hai đựng được :
18 + 6 = 24 ( l).
Cả hai thùng đựng được :
18 + 24 = 42 ( l).
Đáp số: 42l dầu.
Sau khi học sinh trình bày, giáo viên cho các nhóm nhận xét cách trình
bày lời giải trong mỗi phép tính để chọn lời văn chính xác cho mỗi phép tính của bài giải.
Giáo viên có thể cho học sinh trình bày nhiều lời giải khác và chú ý lời
văn trong mỗi cách nêu lời giải để hình thành kỹ năng diễn đạt các bài toán có lời văn.
Đối với những bài toán khó giáo viên cần giành thời gian nhiều hơn hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ bài toán. Gợi mở để học sinh hiểu đề bài và gợi ý cho học sinh khá giỏi làm không nên bắt buộc học sinh yếu làm.
Để giúp học sinh học tốt nâng cao chất lượng giải toán có lời văn, giáo viên không nên tự xem vốn kiến thức của mình là thoả mãn, giáo viên phải phát huy vai trò tự học, tự rèn học những phương pháp giải toán, thường xuyên giải bài toán khó, đọc tạp chí tiểu học, các chuyên đề bồi dưỡng học sinh lớp 3 nhằm trang bị cho mình những kiến thức toán học bổ ích. Tham gia các lớp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của người giáo viên trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình tổ chức điều khiển quá trình học tập của học sinh giáo viên đưa ra những câu hỏi liên quan đến nội dung bài học với nhiều loại câu hỏi khác nhau. Đó là những câu hỏi về hiện tượng, sự kiện, câu hỏi đòi hỏi nhớ lại, đòi hỏi nhận thức cao hơn và biết sắp xếp chúng từ dễ đến khó đặc biệt là trong các tiết luyện tập thực hành.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán
“Một hình vuông có chu vi 2m 4dm. Hỏi hình vuông đó có diện tích bằng bao nhiêu xăng – ti – mét – vuông?”
- Đề toán này nhằm nâng cao một bước năng lực của học sinh trong hoạt động giải toán.
- Bằng hệ thống câu hỏi phát vấn dẫn dắt học sinh đến với đề toán.
Bài toán cho biết gì? (Câu hỏi tìm dữ kiện).
Bài toán yêu cầu ta phải làm gì? (Tìm ẩn số).
Học sinh muốn giải bài toán này cần phải chuyển hai đơn vị đo về một đơn vị đo nhỏ hơn, giáo viên phải đặt câu hỏi:
Hai đơn vị đo liền nhau hơn kém nhau bao nhiêu lần? (Đòi hỏi học sinh nhớ lại).
Muốn tính chu vi hình vuông ta làm thế nào? (Câu hỏi đòi hỏi học sinh suy luận).
Giáo viên cần chọn những bài toán có nội dung thực tế để giúp học sinh nắm vững kiến thức và tăng cường khả năng vận dụng kiến thức cho học sinh.
2.2.4 Biện pháp 4: Dạy học theo hướng phân hóa.
Trong một lớp học thường có tất cả 4 đối tương (giỏi, khá, trung bình, yếu) vì vậy đòi hỏi người giáo viên hết sức linh hoạt, sáng tạo để thiết kế bài dạy phù hợp với các đối tượng, tránh học sinh giỏi cảm thấy nhàm chán khi bài quá dễ, còn học sinh yếu lại thấy mệt mỏi, chán học khi bài quá khó, không thể làm được. Trong một tiết học chúng ta phải tạo cho tất cả các em hoạt động dù học sinh yếu hay giỏi bằng nhiều cách để lôi cuốn các em vào hoạt động học.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải bài toán:
Hình chữ nhật có chiều dài 12cm,chiều rộng 6cm. Hình vuông có cạnh là 9cm.
a. Tính chu vi mỗi hình. So sánh chu vi hai hình đó.
b. Tính diện tích mỗi hình. So sánh diện tích hai hình đó.
Trước hết tôi cũng hướng dẫn các em phân tích bài toán theo các bước. Các nhóm đi vào thảo luận để tìm các bước giải. Phần giải bài toán tôi yêu cầu các em trung bình, yếu dựa vào các quy tắc để giải được ý thứ nhất của câu a và b, còn học sinh khá, giỏi giải bài toán hoàn chỉnh. Với cách giao việc như trên nhằm giúp tất cả học sinh đều có thời gian làm bài bằng nhau, học sinh khá, giỏi đủ thơi gian kèm cặp kiểm tra bạn yếu.
Bên cạnh đó tôi còn tổ chức cho các em các phong trào thi đua học tập như: “ Xóa điểm yếu”; Phong trào “Đôi bạn cùng tiến”; Phong trào “ Hoa điểm mười”. hướng dẫn các em thực hiện phong trào “Đi truy về xào” để các em giúp nhau củng cố bài học.
2.2.5 Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi kết quả học tập của học sinh.
Bất kể hoạt động nào cũng cần kiểm tra đánh giá, đây là công việc cần thiết trong công tác giảng dạy của giáo viên. Các em ở lứa tuổi này còn ham chơi, nếu giáo viên không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở thì các em sẽ lơ là trong học tập. Bởi vậy giáo viên cần kiểm tra để động viên khuyến khích kịp thời, tạo động lực học tập cho các em. Đồng thời rèn các em có tính siêng năng, biết phấn đấu vươn lên trong học tập, thấy được những thiếu sót của mình để sữa chữa, khắc phục.
Ví dụ như ngoài những bài tập trong chương trình giáo viên có thể ra thêm một vài bài toán có nhiều cách giải yêu cầu các em tìm ra nhiều cách giải hay nhằm phát huy tính sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú thêm cho các em.
Ví dụ: có bài toán “Một cửa hàng có 950kg gạo. Ngày thứ nhất bán 116kg gạo, ngày thứ hai bán gấp 3 lần ngày thứ nhất. Hỏi sau hai ngày bán, cửa hàng còn bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”.
Với bài toán như vậy giáo viên hướng dẫn các em hướng dẫn giải rồi yêu cầu các em tìm nhiều cách giải khác nhau.
* Hướng dẫn các em:
- Đọc kĩ bài toán: Đọc đề bài xem bài toán cho biết gì? hỏi gì?
- Lập kế hoạch giải:
+ Tìm số ki-lô-gam gạo của ngày thứ hai.
+ Tìm số ki-lô-gam gạo của hai ngày bán.
+ Tìm số ki-lô-gam gạo còn lại sau hai ngày bán.
- Sau khi hướng dẫn xong, yêu cầu các em về nhà giải bằng nhiều cách. Giáo viên kiểm tra kết quả sau.
Cách giải 1: Bài giải
Số ki-lô-gam gạo ngày thứ hai bán được:
116 x 3 = 348 (kg)
Số ki-lô-gam gạo cả hai ngày bán được:
116+ 348 = 464(kg)
Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại:
950 - 464 = 486(kg)
Đáp số: 486 kg gạo
Đáp số: 486 kg gạo
Cách giải 2: Bài giải
Ngày thứ hai bán được số ki-lô=gam gạo:
116 x 3 = 348 (kg)
Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại số ki-lô-gam gạo:
Sau hai ngày bán cửa hàng còn lại số ki-lô-gam gạo:
950 – ( 116 + 348 ) = 486 ( kg)
Đáp số: 486 kg gạo
Với bài toán trên, đối với những em tiếp thu nhanh thì có thể tìm ra nhiều cách giải, Nhưng đối với những em tiếp thu bài còn non, các em giải được bài toán quả là khó lắm rồi. Vì vậy giáo viên phải thường kiểm tra, theo dõi để hướng dẫn thêm cho các em, kịp thời động viên các em tiến bộ, gần gũi, yêu thương các em, tạo cho các em niềm tin để vươn lên trong học tập.
Thường đối với những em tiếp thu chậm khi giải đúng được một bài toán các em rất phấn khởi, nếu các em được động viên kịp thời sẽ phấn khởi và tiến bộ rất nhanh.
2.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng mối quan hệ thầy trò bền chặt.
Tạo sự gắn kết, tin tưởng của học sinh đối với giáo viên. Tạo cho học sinh lòng kính trọng, say mê học tập.
Để làm được vấn đề này giáo viên cần gương mẫu, xử sự công bằng yêu thương, tôn trọng với các em. Giáo viên chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp. Bằng những giờ dạy nhẹ nhàng, sinh động, hấp dẫn dễ lôi cuốn các em tích cực tham gia vào hoạt động học tập. Sẵn sàng chia sẽ những giải đáp, thắc mắc với các em. Xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học một cách hợp lý. Biết động viên khích lệ HS bằng những lời khen ngợi khi các em có sự tiến bộ dù là rất nhỏ để học sinh có được tự tin mà phấn đấu vươn lên.
Giáo viên phải nắm chắc được mặt yếu, mặt mạnh của từng học sinh, tạo cho học sinh có điều kiện để giao lưu với bạn bè, với thầy cô. Khi học sinh bị hỏng kiến thức ở đâu giáo viên không nóng vội mà cần có kế hoạch ôn tập bổ sung ở đó. Tôi luôn thực hiện phương châm “Mưa dầm thấm lâu” đối với những đối tượng học sinh chậm tiến bộ. Cho nên không chỉ cho các em kết quả bài toán mà chủ yếu cho các em con đường để tìm ra kết quả - hay nói cách khác, dạy cách học, cách suy luận cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán:
Để ốp thêm một mảng tường người ta dùng hết 9 viên gạch men, mỗi viên gạch hình vuông cạnh 10cm. Hỏi tính diện tích mảng tường được ốp thêm là bao nhiêu xăng-ti-mét vuông?
* Từ ví dụ trên thầy - trò cùng thảo luận đưa ra một cách giải chung cho dạng toán tương tự như vậy. Đây là một dạng toán khó trong chương trình Toán 3. Đa số học sinh nắm bài non, hoặc yếu rất lúng túng. Vì vậy giáo viên phải dẫn dắt học sinh đi vào tìm từng bước giải một. Trong khi học sinh luyện tập, tôi luôn theo dõi sát sao và giúp đỡ kịp thời, chấm bài, chữa ngay tại lớp và khen ngợi động viên, đặc biệt là các em thiếu mạnh dạn. Một khi mối quan hệ bền chặt thì niềm tin học sinh sẽ được nâng cao, ý thức tự học sẽ ngày càng được củng cố, các em sẽ chăm học, trao đổi mạnh dạn với thầy cô giáo về bài tập mà mình chưa hiểu từ đó thầy mới biết mình cần làm gì để giúp các em giải toán tốt hơn.
2.2.7. Biện pháp 7: Công tác phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh học sinh.
- Để nâng cao chất lượng, giáo viên chủ động gặp gỡ và trao đổi tình hình học tập của con em đến tận từng phụ huynh, giúp họ biết được tình hình học tập của con em mình để cùng hợp tác khắc phục. Có thể giới thiệu với phụ huynh phương pháp giáo dục, cách hướng dẫn các em cách học ở nhà, tránh tình trạng bắt các em học quá tải, hoặc xỉ mắng khi các em chưa làm được bài tập gây tổn thương tinh thần cho các em, làm các em thiếu tự tin trong học tập
- Tế nhị với phụ huynh, tránh những lời chỉ trích con em họ.
- Cuối học kì, cuối năm học cần có đánh giá tổng kết, thông báo kết quả tiến bộ của con em họ giúp học sinh cũng có nguồn động viên từ phía gia đình.
- Các em được thầy cô khen, cha mẹ động viên, khuyến khích thì sẽ có niềm tin, sẽ có hứng thú hơn. Có như vậy kết quả dạy và học sẽ cao hơn.
Ngoài ra giáo viên phải chủ động, tích cực phối kết hợp để nhận được sự hợp tác, ủng hộ của ban lãnh đạo, của tổ, khối chuyên môn. Phải tổ chức những buổi sinh hoạt chuyên môn để bàn về biện pháp khắc phục cách giải toán. Kết hợp với Hội khuyến học địa phương để làm tốt công tác kiểm tra đôn đốc việc học bài ở nhà. Kết hợp với Hội phụ nữ để tuyên truyền cho các bà mẹ thấy được tầm quan trọng của việc học để họ quan tâm hơn việc học của con em mình. Có như vậy mới phát huy toàn diện tính tích cực của học sinh trong học tập và mọi hoạt động.
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thông qua giải toán có lời văn lớp 3D.Tôi nhận thấy các em nắm được yêu cầu bài toán, biết dùng câu hỏi để ghi tóm tắt bài toán. Biết phân tích tổng hợp để tìm ra các bước giải bài toán, từ đó chất lượng giải toán đã được nâng lên rõ rệt. Qua vận dụng các giải pháp trên, tại thời điểm khảo sát kĩ năng giải toán của lớp tôi như sau.
ĐÂY LÀ SKKN ĐƯỢC TẢI TRÊN MẠNG VỀ, CÁC THẦY CÔ CHỈ THAM KHẢO KHÔNG NÊN DÙNG VÀO VIỆC THI GVG HAY CÔNG NHẬN CSTĐ VÌ BÂY GIỜ CÁC CẤP ĐỀU DÙNG PHẦN MỀM QUÉT TRÙNG LẶP SÁNG KIẾN. MỌI VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN SKKN-BIỆN PHÁP THI GVG THẦY CÔ LIÊN HỆ VỚI THẦY NGUYỄN VĂN HÙNG - PHÓ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TIỂU HỌC KIÊN THÀNH - LỤC NGẠN - BẮC GIANG - SĐT: 0982.882.505 ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN VÀ HÔ TRỢ MIỄN PHÍ VỀ CÁCH VIẾT VÀ TRÌNH BÀY SÁNG KIẾN.
Kết quả :
Lớp | Chất lượng | Tóm tắt bài toán | Phân tích bài toán | Giải bài toán | |||
Số lượng | % | Số lượng | % | Số lượng | % | ||
3D | Giỏi | 8 | 34,8 | 7 | 30,4 | 7 | 30,4 |
Khá | 9 | 39,1 | 11 | 47,9 | 11 | 47,9 | |
T.bình | 6 | 26,1 | 5 | 21,7 | 5 | 21,7 | |
Chưa đạt | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1 Ý nghĩa.
3.1.1. Ý nghĩa: Qua thực hiện đề tài đưa ra các giải pháp đã làm cho giáo viên nắm chắc hơn phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tư duy tổng hợp cho học sinh.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã phát huy được tính độc lập sáng tạo, khả năng phân tích nhanh chóng, sử dụng đúng những tri thức, kỹ năng và vận dụng linh hoạt các phương pháp. Từ đó có những kinh nghiệm trong chuyên môn và công tác giảng dạy.
Về phương pháp dạy học thực sự đổi mới cho học sinh hoạt động học tập đã tổ chức cho học sinh tự làm việc cá nhân và kiểm soát quá trình làm bài. Tích cực hoá việc học tập của học sinh.
Gây hứng thú trong học tập, phát huy lòng say mê học tập cho các em để các em học tốt môn toán, học tốt các môn khác.
3.2 Kiến nghị, đề xuất.
Dạy học là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Chính vì vậy, trong dạy học người giáo viên phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không được gây ức chế cho học sinh. Mỗi giáo viên phải có ý thức chăm lo bồi dưỡng về mọi mặt nhằm có đủ trình độ năng lực nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Việc phát huy tư duy phân tích tổng hợp qua việc giải toán có lời văn lớp 3 là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong tiết dạy giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, có hiệu quả, làm cho lớp học sôi nổi giờ học sinh động. Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục dạy chữ dạy người, dạy nghề nhằm tiến tới một bậc học tốt nhất bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Có nhiệm vụ xây dựng tình cảm, đạo đức trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, hình thành cơ sở ban đầu về sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục, một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn ở Tiểu học được sử dụng có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau:
*Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải xây dựng cho học sinh lòng yêu thích học toán, làm cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn để phát huy hơn nữa năng lực tư duy sáng tạo của học sinh.
- Người giáo viên phải kiên trì dạy, không nôn nóng, không nóng vội, không đòi hỏi quá cao ở học sinh mà phải bám vào chuẩn kiến thức của từng lớp.
- Bồi dưỡng cho các em phương pháp học toán và tổ chức tự học ở gia đình, phối kết hợp với gia đình trong việc học bài và làm bài ở nhà.
- Tạo hứng thú, niềm say mê, tính tích cực học tập của học sinh cũng là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả học tập trong nhà trường. Tập cho các em có thói quen tóm tắt bài trước khi giải. Đây là yếu tố giúp học sinh có kỹ năng tìm hiểu đề toán.
- Không nên cho học sinh “học vẹt” các bài giải mẫu mà cần cho học sinh nắm chắc chắn phương pháp, cách giải của từng dạng toán.
- Cần có biện pháp khen thưởng, trách phạt kịp thời để các em có thái độ và phương pháp đúng đắn khi học toán. Nhằm khơi gợi được tinh thần, lòng ham thích học toán ở các em. Đồng thời có sự điều chỉnh kịp thời những sai sót, vướng mắc khi học toán.
* Đối với nhà trường:
- Nhà trường thường xuyên tổ chức các đợt hội thảo, chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học để giúp phát huy hơn nữa tính tích cực của học sinh trong học tập
- Tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, mua sắm đồ dùng nhằm phục vụ cho việc dạy học của giáo viên được tốt hơn
- Cung cấp các tài liệu liên quan để giáo viên có điều kiện nghiên cứu, trau dồi và nâng cao kiến thức của mình.
Tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp học nâng cao trình độ.
Trên đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán có lời văn lớp 3 ở trường Tiểu học mà tôi đã nghiên cứu và áp dụng. Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để đề tài được đưa vào thực hiện có hiệu quả cao./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THAN UYÊN
TRƯỜNG TIỂU HỌC XÃ MƯỜNG MÍT
BÁO CÁO BIỆN PHÁP
GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC GIẢNG DẠY
Tên chuyên đề: Biện pháp dạy học kiểu bài miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5.
Tác giả: Đỗ Huy Thông
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ: Giáo viên
Nơi công tác: Trường Tiểu học xã Mường Mít.
Mường Mít, ngày 15 tháng 10 năm 2020
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Tên chuyên đề
Biện pháp dạy học kiểu bài miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5.
2. Tác giả
Họ và tên: Đỗ Huy Thông; Năm sinh: 24/04/1977
Năm vào ngành: 1995
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường Tiểu học xã Mường Mít,
3. Lĩnh vực áp dụng chuyên đề
Môn học: Tập làm văn, lớp áp dụng 5A2, năm học 2019 - 2020
II. NỘI DUNG
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện chuyên đề:
Năm học 2019 - 2020, lớp 5A2 trường Tiểu học xã Mường Mít có 28 học sinh. Giáo viên chủ nhiệm và giáo viên dạy định mức, hỗ trợ tại lớp có kiến thức, trình độ chuyên môn tốt. Học sinh trong lớp được học đầy đủ nội dung chương trình các môn học. Giáo viên đã giảng dạy đảm bảo cho học sinh đạt được chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học. Phương pháp dạy học tích cực theo hướng phát triển năng lực học sinh. Học sinh lớp 5A2 cơ bản nắm được kiến thức chương trình các môn học.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về kiến thức, kĩ năng của chương trình lớp 5 nói chung thì các em còn hạn chế nhiều về kĩ năng viết văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn. Chất lượng các bài kiểm tra ở dạng bài miêu tả cây cối, tôi thấy các em còn hạn chế về cách viết văn miêu tả đó là:
- Khi học sinh miêu tả cây cối, bài viết của các em mới chỉ diễn đạt được nội dung theo hướng liệt kê kể từng bộ phận của cây.
- Câu văn chưa có tính nghệ thuật như hình ảnh miêu tả chưa sinh động, chưa có cảm xúc, mang tính miêu tả về hình dáng là nhiều, chưa có miêu tả về hoạt động xung quanh. Học sinh còn nhầm miêu tả sang kể chuyện.
- Bố cục bài viết giữa các phần còn lủng củng, chưa liên kết về nội dung.
- Nội dung bài viết thường viết theo những kiểu bài văn mẫu giáo viên đã hướng dẫn. Các bài giống nhau từ cách mở bài, cách tả, cách kết bài.
Ở kiểu bài miêu tả cây cối, trước khi dạy, tôi đã khảo sát thực tế bài viết của học sinh như sau:
Nội dung miêu tả | Số HS tham gia | Kết quả khảo sát | Ghi chú | ||
Chưa đạt | Đạt | Khá, tốt | |||
Tả cây cối | 28 | 8/28 = 28,5% | 14/28 = 50% | 6/28 = 21,5% | |
Với kết quả khảo sát trên, tôi thấy học sinh học tập chưa đảm bảo (còn 8 học sinh chưa đạt). Chất lượng học tập làm văn ở chương trình lớp 4 chưa thật sự đảm bảo, học sinh còn hạn chế ở một số lĩnh vực kiến thức, kĩ năng.
Vì vậy, với mong muốn ở chương trình lớp 5, bài làm văn miêu tả về cây cối của các em được hay hơn, có cảm xúc hơn, tôi xin đề xuất một số biện pháp dạy học tập làm văn kiểu bài miêu tả cây cối như sau.
2. Phạm vi triển khai thực hiện chuyên đề
Chuyên đề thực hiện ở phân môn Tập làm văn tại lớp 5A2, năm học 2019-2020
3. Mô tả biện pháp biện pháp dạy học kiểu bài miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5.
3.1. lập dàn ý thông qua sử dụng trực quan trong dạy văn miêu tả.
a) Nội dung biện pháp
- Dạy miêu tả sự vật nào thì có trực quan cho sự vật đó (bằng quan sát cây cối thật hoặc qua tranh ảnh). Qua đó học sinh lập dàn ý trực tiếp thông qua trực quan.
- Sử dụng trực quan là các đoạn văn hoặc bài văn mẫu để học sinh tìm dàn ý của bài.
- Chỉnh sửa các câu văn ở mỗi phần theo cách cảm nhận của các em.
- Biện pháp này hướng dẫn học sinh trong suốt quá trình học.
b) Các bước thực hiện
Để tả bất kì một cây nào, đầu tiên giáo viên cần phải cho học sinh lập dàn ý cho bài định tả. Vậy để lập dàn ý phù hợp với khả năng của học sinh dân tộc thì cần thực hiện như sau:
Bước 1. Xác định dạng đề định tả; chuẩn bị trực quan phù hợp
- Trực quan là cây thật, tranh ảnh. Nếu định cho học sinh lập dàn ý tả về cây cối, giáo viên sẽ cho học sinh quan sát cây cối thật hoặc chuẩn bị tranh ảnh, về cây hoặc hoa quả phù hợp để học sinh quan sát, cảm nhận và lựa chọn sự vật cần miêu tả phù hợp để lập dàn ý.
Ví dụ, để tả một cây hoa mà em thích, ngoài việc cho học sinh quan sát thực tế ở vườn trường thì cần có các tranh ảnh như tranh hoa đào, hoa hồng... cần phải có tranh để học sinh quan sát.
- Trực quan là đoạn văn, bài văn mẫu bằng tài liệu in hoặc trình chiếu.
+ Bài văn mẫu giúp cho học sinh đọc để các em mở rộng vốn từ, biết một số từ ngữ miêu tả. Qua đó các em biết sử dụng từ ngữ tạo câu phù hợp.
Ví dụ cách mở bài của một bài văn hoặc câu văn hay có sử dụng biện pháp nghệ thuật cần có câu mẫu, đoạn văn mẫu để học sinh biết cách sử dụng từ ngữ.
Bước 2. Lập dàn ý với cây cối
- Giáo viên đưa ra đạng đề mở cho học sinh lựa chọn để lập dàn ý
Ví dụ: Hãy tả một cây có bóng mát mà em thích hoặc Hãy tả một cây xanh có hoa mà em biết...
- Học sinh lập dàn ý theo cách riêng dựa trên trực quan và bài mẫu.
Bước 3. Giáo viên củng cố cách lập dàn ý miêu tả.
- Phần mở bài (gợi ý theo cách gián tiếp), giới thiệu về cây định tả, khoảng 3, 4 câu.
+ Tên loài cây định tả là gì?
+ Cây đó em thấy ở đâu, ai trồng?
+ Cây đó gắn bó với em hoặc con người từ bao giờ ?
- Phần thân bài, cần lựa chọn một trong các cách tả dưới đây khoảng 10 câu trở lên:
+ Tả bao quát cây đến chi tiết từng bộ phận của cây (Tả từ xa đến gần)
+ Tả theo trình tự thời gian, không gian (quá trình trưởng thành của cây, tả lần lượt theo mùa)
+ Tả kết hợp ngoại hình, màu sắc với các yếu tố ngoại cảnh xung quang cây như hoạt động của con người, con vật, thời tiết.
- Phần kết bài (viết theo cách mở rộng) khoảng 3,4 câu:
+ Nêu ích lợi của cây trong tự nhiên hoặc đối với con người, con vật.
+ Ấn tượng của cây đối với mọi người.
+ Tình cảm của em đối với cây hoặc của con người với cây đó như thế nào?
Lưu ý: mỗi kiểu bài tả cụ thể như tả cây xanh có bóng mát, cây xanh có hoa, tả loài hoa, tả một vườn cây hay tả một loại quả ... thì học sinh sẽ dựa trên dàn ý mẫu để phát triển theo cách viết, cách cảm nhận của các em.
c) Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp
Để thực hiện biện pháp này có hiệu quả, đối với giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh quan sát vườn trường, cây cối thật; có có đồ dùng trực quan như tranh ảnh, phim tư liệu, máy chiếu. giáo viên hiểu ngôn ngữ của học sinh dân tộc.
Đối với học sinh, các em phải có các kĩ năng quan sát về tự nhiên- xã hội xung quanh; tự tin, biết diễn đạt; có kiến thức- kĩ nănh về Tiếng Việt; chăm chỉ luyện tập miêu tả.
3.2. Cảm thụ văn học thông qua các bài văn mẫu.
a) Nội dung biện pháp
Học sinh được miêu tả dạng bài tả cây (tả hoa, tả vườn cây...) nào thì giáo viên sử dụng các bài văn mẫu ở dạng đó phù hợp với năng lực nhận thức của học sinh dân tộc của lớp.
Thông qua bài mẫu, học sinh được cảm thụ về cách miêu tả của tác giả. Rút ra nhận xét về bố cục, cách miêu tả, cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật từ bài văn mẫu đó để lập dàn ý, tìm ý tạo câu, xây dựng đoạn văn, bài văn của riêng mình không theo bố cục bắt buộc.
b) Các bước thực hiện
Bước 1. Tìm chọn bài văn mẫu liên quan
- Khi dạy dạng bài miêu tả nào thì giáo viên chọn lựa một số bài văn mẫu liên quan cho học sinh đọc tham khảo.
Ví dụ, miêu tả về cây xanh có bóng mát giáo viên sẽ cho học sinh đọc một số bài văn mẫu về cây xanh có bóng mát như cây bàng, cây phượng ở sân trường, cây hoa ban ở đầu bản...
Bước 2. Hướng dẫn cách cảm thụ
- Cho học sinh đọc các bài văn mẫu, lựa chọn bài mình thích nhất.
- Nêu các ý chính ở từng phần (lập lại dàn ý) từ bài văn mẫu.
- Tìm hiểu cách miêu tả của tác giả, các biện pháp nghệ thuật như so sánh hoặc nhân hóa hoặc ẩn dụ mà tác giả đã sử dụng.
- Cách sử dụng từ để đặt câu, cách liên kết câu, liên kết đoạn văn tạo bài văn.
Ví dụ cho học sinh đọc đoạn văn tả cây bàng, giáo viên hỏi học sinh về cách tả cây bàng như thế nào, hình ảnh lá bàng được so sánh với đồ vật gì, thân cây sờ vào thế nào, gió thổi vào tán lá âm thanh phát ra như thế nào...?
Bước 3. Thực hành lập dàn ý, xây dựng đoạn văn
- Cho học sinh lập dàn ý theo bố cục từng phần theo cách viết, cách cảm nhận của các em.
- Xây dựng thành một đoạn văn.
- Nhận xét, chữa lại đoạn văn vừa viết cho hoàn chỉnh hơn.
c) Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp
Giáo viên phải sưu tầm các bài văn mẫu; giáo viên đọc hiểu bài văn mẫu để lựa chọn sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh, đặc điểm địa phương.
Học sinh cần phải đọc thêm ở nhiều thời điểm khác nhau, trong đó chú trọng đọc trước ở nhà và học buổi hai. Luyện tập miêu tả theo gợi ý để có được những câu văn, đoạn văn hay.
Giáo viên phải sát sao với từng học sinh trong cách hướng dẫn viết bài, chữa bài. Học sinh phải yêu thích viết văn.
3.3. Luyện tập dưới nhiều dạng đề khác nhau
a) Nội dung biện pháp
- Giáo viên dạy miêu tả dạng bài nào thì nghiên cứu ra đề dưới dạng đề mở, có sự lựa chọn để học sinh viết theo khả năng và sự gần gũi của các em với sự vật đó.
- Học sinh trong quá trình luyện tập miêu tả gặp khó khăn được giáo viên hỗ trợ bằng các gợi ý, bằng trực quan để miêu tả.
- Bài viết của các em được giáo viên chữa bài chi tiết, có nhận xét cụ thể trên bài làm của học sinh.
b) Các bước thực hiện
Bước 1. Xây dựng ngân hàng đề bài
- Ngân hàng đề miêu tả cây cối, ví dụ:
+ Tả một cây xanh có bóng mát ở sân trường (ở đầu bản...)
+ Tả một cây xanh có hoa ở sân trường (ở đầu bản, ở nhà em...)
+ Tả một cây ăn quả mà em biết.
+ Tả một cây rau ở vườn nhà em (ở vườn trường em ...)
+ Tả một loài hoa mà em yêu thích.
+ Tả một loại quả mà em thích ăn ...
Bước 2. Tổ chức, hướng dẫn học sinh miêu tả
Học sinh luyện tập miêu tả: lập dàn ý; viết câu miêu tả; viết đoạn văn; viết bài văn hoàn chỉnh.
Quá trình luyện tập, giáo viên xem xét hỗ trợ các học sinh gặp khó khăn, thiếu tự tin; giáo viên đưa ra các mẫu hoặc hỗ trợ bằng trực quan để học sinh quan sát và miêu tả theo cách của các em.
Bước 3. Chấm, nhận xét, chữa lỗi
Giáo viên tiến hành đọc, chấm, trả bài, nhận xét, chữa các lỗi (các nội dung cần chữa: chọn đối tượng miêu tả theo yêu cầu đề bài; cách đặt câu, liên kết câu, liên kết đoạn văn thành bài văn; sử dụng các biện pháp nghệ thuật có phù hợp không; cách miêu tả có chân thực, gần gũi không; lỗi chính tả, trình bày bài...) tiếp theo hướng dẫn học sinh tự chữa lỗi và kiểm tra lại việc học sinh chữa lỗi.
c) Các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp
Giáo viên cần phải nghiên cứu lựa chọn đề miêu tả phù hợp với đa số học sinh, phù hợp với địa phương, với những gì đang có.
Giáo viên và học sinh chuẩn bị về hình ảnh của đối tượng cần miêu tả.
Học sinh được học tập thành tiết học cụ thể, đặc biệt là tiết thực hành viết và tiết trả bài.
4. Hiệu quả của chuyên đề mang lại
Việc áp dụng biện pháp dạy học tập làm văn miêu tả cây cối đối với học sinh lớp 5 đã mang lại hiệu quả đó là:
- Học sinh đã biết viết đúng bố cục theo thể loại tả cây cối. Các câu văn miêu tả giàu cảm xúc, có nhiều hình ảnh nghệ thuật. Các bài viết đạt yêu cầu cao.
- Giờ học, các em học tập nhẹ nhàng ít áp lực; các em được cảm thấy thoải mái, vui vẻ, thích diễn đạt trước đám đông về cảm nhận của mình trước các sự vật được quan sát. Thông qua các tiết học miêu tả cây cối, học sinh yêu quý con người, yêu thiên nhiên, biết giữ gìn và bảo vệ vệ cây xanh hơn.
- Giáo viên đã sử dụng nhiều phương pháp, hình thức học tập có tính trải nghiệm, thực hành và phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập đối với học sinh. Sau quá trình áp dụng biện pháp mới về dạy học miêu tả cây cối tại lớp 5A2, năm học 2019 -2020, tôi đã thu được kết quả như sau:
Thời điểm | Số HS tham gia | Kết quả khảo sát | Ghi chú | ||
Chưa đạt | Đạt | Khá, tốt | |||
Trước khi áp dụng | 28 | 8/28 = 28,5% | 14/28 = 50% | 6/28 = 21,5% | |
Sau khi áp dụng | 28 | 0 | 11/28 = 39,2% | 17/28 = 60,8% | |
5. Kết luận
Biện pháp nêu trên mà cá nhân tôi đã thực hiện ở lớp 5A2 trong năm học 2019-2020 là phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 đang hướng đến.
Hình thức, phương pháp dạy học mà cá nhân tôi đã và đang áp dụng được các đồng chí giáo viên trong nhà trường tham khảo và vận dụng về cách soạn bài và tổ chức cho học sinh học tập. Đặc biệt là dạy- học làm văn miêu tả về cây cối cho học sinh.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chuyên đề và viết báo cáo, tôi cũng còn gặp nhiều hạn chế, kính mong hội đồng ban giám khảo Hội thi giáo viên dạy giỏi các cấp và các thầy cô góp ý chân thàn để cá nhân tôi hoàn thành tốt công tác giảng dạy.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA BGH TRƯỜNG TH XÃ MƯỜNG MÍT | Mường Mít, ngày 15 tháng 10 năm 2020 TÁC GIẢ CHUYÊN ĐỀ Đỗ Huy Thông |
THẦY CÔ DOWNLOAD FILE TẠI ĐÂY.
PASS GIẢI NÉN: yopovn.Com
THẦY CÔ DOWNLOAD FILE THEO LINKS.