- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,008
- Điểm
- 113
tác giả
Đề cương ôn tập văn thpt quốc gia NĂM 2022 MỚI NHẤT
YOPOVN xin gửi đến quý thầy cô, các em Đề cương ôn tập văn thpt quốc gia NĂM 2022 MỚI NHẤT. Đây là bộ Đề cương ôn tập văn thpt quốc gia.
Download tài liệu ôn thi đại học môn văn
Tài liệu ôn Văn thi THPT Quốc gia 2021
Tài liệu on thi THPT Quốc gia môn Văn
Tài liệu ôn Văn thi THPT Quốc gia 2022
FULL tài liệu văn 12
Bộ đề ôn thi THPT Quốc gia môn Văn 2021
Download tài liệu văn học 12
Bộ de ôn thi THPT Quốc gia môn Văn 2020
1.Tác giả:
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
- Một hồn thơ giàu chất lãng mạn, tinh tế, tài hoa: nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ giàu chất nhạc,chất họa.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: In trong tập Mây đầu ô (1986)
b. Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ Tây Tiến:
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Phápở thượng Lào cũng như ở miền tâ Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt độngcủa đoàn quân Tây Tiến khá rộng: Thượng Lào & Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh sinh viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về hòa bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rờixa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên là Tây Tiến.
- Cảm hứng chính: cảm hứng lãng mạn.
- Tình thần chung: tinh thần bi tráng.
c. Nghệ thuật:
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt…
- Kết hợp chất nhạc và chất hoạ.
d. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta.
( Học thuộc bài thơ)
LUYỆN ĐỀ:
Đề 1: Phân tích đoạn thơ: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
.....................................................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
1.Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích đoạn thơ.
2. Thân bài: Giới thiệu sơ lược nội dung đoạn thơ
a. Cảm xúc bao trùm là nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Sông Mã: Là hiện thân của thiên nhiên Tây Bắc, gắn bó với đoàn quân Tây Tiến trong suốt cuộc trường chinh.
+ Xa rồi: mang âm hưởng ngậm ngùi, nuối tiếc.
+ Tây Tiến ơi : thổ lộ tâm sự, gợi nhắc. Cách nói như Tây Tiến đang còn bên cạnh.
+ Điệp từ nhớ : Khắc sâu, nhấn mạnh, bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ.
+ Từ láy chơi vơi: Cách dùng từ sáng tạo, vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ.
-> Câu cảm thán, âm ơi nằm ở cuối câu thơ kéo dài ra da diết -> Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng không kìm nén nổi đã bật lên thành lời, thành tiếng gọi thiết tha.
b.Nỗi nhớ được khắc sâu qua nhiều kỉ niệm:
* Kỉ niệm với Sài Khao, Mường Lát:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Sài Khao, Mường Lát gắn với nhiều địa danh khác...
-> Gợi lên nhiều phạm vi không gian, nhiều địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến.
- Hình ảnh "Sương lấp đoàn quân mỏi"
+ Tả thực: Sương mù vùng cao như che lấp, nuốt chửng đoàn quân mỏi.
+ Bút pháp lãng mạn: gợi không gian huyền ảo: cảnh vật về khuya phủ đầy hơi sương lạnh giá.
- Hình ảnh "Hoa về trong đêm hơi":
+ Ngàn hoa của núi rừng Tây Bắc.
+ Hình ảnh của những bông hoa lửa bập bùng trên đầu ngọn đuốc trong đêm đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát.
=> Vừa lãng mạn vừa hào hùng của một thời Tây Tiến.
* Kỉ niệm về những chặng đường hành quân (Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc)
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
-Điệp từ “Dốc” : Dốc tiếp dốc gần như không có điểm dừng diễn tả độ cao ngất trời của núi đèo và độ sau hun hút của vực thẳm.
-Từ láy “Khúc khuỷu” giàu giá trị tạo hình, miêu tả sự hiểm trở, lắt léo, quanh co, gập ghềnh.
-Từ láy “heo hút”, nghệ thuật đảo cấu trúc câu gợi tả sự xa xôi, hoang vắng.
-Hình ảnh “Súng ngửi trời” -> Nghệ thuật nhân hóa -> Một cách nói vui , dí dỏm về độ cao của Tây Bắc.
- Điệp từ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản -> câu thơ như bị bẻ đôi ra diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”-> câu thơ toàn thanh bằng, mở ra một không gian thoáng đãng, một chốn bình yên nơi bản làng, có sự giăng mắc của sương rừng, mưa núi.
=> Sự kết hợp thanh bằng trắc một cách khéo léo làm cho những câu thơ giàu chất nhạc.
=> Một không gian vừa cao sâu vừa xa rộng, rất hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng của núi rừng Tây Bắc làm nổi bật lên tầm vóc của người lính Tây Tiến.
* Hồi ức về sự hi sinh
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Anh bạn: cách gọi thân thiết, trìu mến.
- Không bước nữa: Nghệ thuật nói giảm nhằm chỉ sự sinh nhưng nó giảm bớt đau thương.
- Gục lên súng mũ: Tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm.
-> Chân thực, không giấu giếm sự vất vả của những chặng đường hành quân, nhưng chắc chắn là họ không gục ngã. Bởi hòa cùng với sự oai linh của thiên nhiên là sự oai hùng của họ được tô đậm ở phần cuối bài thơ.
* Hồi ức về cuộc sống ở Tây Bắc
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi, Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
- Chiều chiều, đêm đêm: chỉ phạm trù thời gian, sự lặp lại hằng ngày.
- Âm thanh: “thác gầm thét”, “cọp trêu người” được đặt trong những khoảng thời gian “chiều chiều, đêm đêm”
-> Tô đậm sự hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật, luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người.
- Nhớ ôi: Nhớ đến da diết, nhớ đến nao lòng.
- Hình ảnh “Cơm lên khói” “thơm nếp xôi”
-> Tạo cảm giác êm dịu, ấm áp. Chứa đựng một nỗi nhớ da diết của người lính về một Tây Bắc đằm thắm ân tình.
=> Vừa hoang sơ, dữ dội, vừa đầm thắm ân tình.
* Nghệ thuật
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt…
- Kết hợp chất nhạc và chất hoạ.
3. Kết bài:
Đề 3: Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ sau đây:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Dàn bài
1. Mở bài : tham khảo đề 1
2. Thân bài: Tượng đài người lính Tây Tiến bất tử trước thời gian:
a. Ngoại hình:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá...
Mắt trừng...
- Tây Tiến: Nhan đề bài thơ, là tên của đoàn quân, được lặp đi lặp lại để giữ nhịp cho bài thơ.
- Đoàn binh: Gợi lên một tập thể đông đảo, hùng hậu.
- Không mọc tóc:
+ Quyết tâm chiến đấu đến cùng (cạo đầu trọc).
+ Dấu ấn của căn bệnh sốt rét rừng
+ Cách nói chủ động, ngang tàng (Không mọc tóc)
-Quân xanh màu lá
+ Màu xanh áo lính (Chưa chắc)
+ Màu xanh lá ngụy trang
+ Màu da – do sốt rét.
-Mắt trừng: Đôi mắt mở to với cái nhìn dữ dội. Còn gợi tả khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn, thiếu ngủ.
=> Toát lên vẻ đẹp cứng cỏi, gân guốc.
b. Vẻ oai phong lẫm liệt:
“Dữ oai hùm” (Liên hệ với Nhớ rừng- Thế Lữ).
-> Dữ dội, lẫm liệt, mang oai của loài chúa sơn lâm.
=> Lính Tây Tiến không chỉ là đối thủ xứng tầm với thiên nhiên mà còn là chúa tể của núi rừng Tây Bắc.
c. Tâm hồn hào hoa, phong nhã
“... gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- Lính Tây Tiến có tâm hồn lãng mạn, nhiều mơ mộng “gởi mộng, đêm mơ”
- Biên giới: Gợi địa bàn hoạt động xa xôi của người lính trẻ.
- Hà Nội:
+ Khung trời hoa lệ.
+ Thủ đô của nước Việt Nam.
+ Quê hương của phần đông lính Tây Tiến.
=>Tình cảm gắn bó với đất nước, với quê hương của người lính Tây Tiến.
- Dáng kiều thơm
+ Hình ảnh ước lệ, gợi hình ảnh người con gái đẹp.
+ Hình ảnh người thiếu nữ Hà Nội.
=>Trong tâm hồn người lính Tây Tiến luôn có một bóng hồng. Đó chính là nét đẹp đa tình, lãng mạn, hào hoa của người lính trẻ.
(Liên hệ: Anh bộ đội trong Đồng chí nhớ "giếng nước, gốc đa, trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ
" Mái nhà gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"
Người lính TT mơ về "Dáng kiều thơm".... Những giấc mơ ít nhiều thơm tho mùi sách vở học trò).
->Bút pháp lãng mạn khi khắc họa hình ảnh người tráng sĩ, hiệp khách xưa thường thấp thoáng một bóng hình người đẹp như vậy. Trong TT dường như đoạn nào cũng vấn vương một bóng dáng thướt tha.
d. Lí tưởng khát vọng của người lính TT “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
+ Tình yêu tổ quốc mãnh liệt
+ Hào khí thời đại đã ùa vào chắp cánh cho câu thơ này
+ Nó gợi cái âm vang hào sảng của một thời "Quyết tử...."
+ Nó mang tinh thần "Nhất khứ bất phục phản" của những tráng sĩ thời xưa (Kinh Kha)...
e.Sự hi sinh của người lính:
+ Rải rác biên cương mồ viễn xứ -> Những nấm mồ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi.
+ Áo bào thay chiếu -> Sang trọng hóa sự hi sinh, ...
+ Về đất-> Nghệ thuật nói giảm.
=> Sự hi sinh càng thầm lặng càng cao cả. Viết về điều này, QD sử dụng nhiều từ Hán Việt để nói một cách trang trọng về sự hi sinh thầm lạng của đồng đội. Con người thì đau thương kính cẩn cúi đầu còn thiên nhiên thì gầm thét "Sông Mã...". Con sông Mã gắn bó với hành trình TT, chia sẻ buồn vui, đau thương nên khi nhớ về TT là nhắc về Sông Mã.
=> Bút pháp lãng mạn chủ yếu được bộc lộ qua vẻ đẹp dữ dội phi thường, hay sử dụng thủ pháp đối lập qua hình tượng người lính TT. Còn cái bi được hiện lên qua hính ảnh những nấm mồ hoang lạnh dọc đường hành quan và nơi biên giới xa xôi lạnh lẽo. Buồn đau, mất mát nhưng không ủy mị, yếu đuối. Cái tráng là lí tưởng, khát vọng cống hiến đời xanh cho tổ quốc, là âm hưởng hào hùng của thiên nhiên.
* Nghệ thuật:
- Với hồn thơ lãng mạn, một bút pháp tài hoa và độc đáo, Quang Dũng đã thể hiện thành công đoạn thơ.
- Bên cạnh đó tác giả còn bộc lộ tài năng của mình trong việc xây dựng những hình ảnh tuyệt đẹp về người lính Tây Tiến, nghệ thuật nói giảm, nói tránh, đảo ngữ...
3. Kết bài: Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính chất sử thi đặc biệt của bài thơ “Tây Tiến”. Hồn thơ Quang Dũng đã làm ngời sáng lên hình ảnh đẹp nhất của một thời: hình ảnh người lính “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
1. Nhan đề:Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của dân tộc (nơi có Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ).
2. Hoàn cảnh ra đời:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết. Hoà bình lập lại, miền Bắcnước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới được mở ra.
- Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, và trong tình cảm lưu luyến giữa kẻ ở người đi, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
3. Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên Việt Bắc (1946-1954).
4. Nghệ thuật: bài thơ đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Thể thơ lục bát, lối đối đáp, cách xưng hô mình- ta, ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi.
5. Ý nghĩa văn bản: Bản hùng ca về cuộc kháng chiến; bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.
Đề 1: Em hãy phân tích đoạn thơ sau:
“ Mình về mình có nhớ ta
……………………………………………………………………..
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
( Việt Bắc – Tố Hữu)
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Trích nguyên văn đoạn thơ.
II. Thân bài: Khung cảnh chia tay và tâm trạng của con người.
- Với kẻ ở: Thương nhớ bật lên thành lời
- Cách xưng hô: Mình- ta
+ Đậm tính dân tộc
+ Gợi mối quan hệ thân thiết, gắn bó.
- Câu hỏi: “ có nhớ ta”, “có nhớ không”
-> Tạo âm hưởng da diết, thể hiện nỗi băn khăn, trăn trở, không biết người đi có nhớ mình không.
- Thời gian “mười lăm năm”
-> Thời gian thực (tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn). Đó chính là ngọn nguồn tình nghĩa, tạo nên mối keo sơn gắn bó “thiết tha mặn nồng” giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.
- Không gian: “ Cây, núi, sông, nguồn”
-> Không gian Việt Bắc, không gian của cội nguồn cách mạng, nhắc nhớ về Việt Bắc đồng thời đánh thức những kỉ niệm ở nơi này.
=> Nỗi nhớ tràn ngập cả thời gian “ Mười lăm năm”, cả không gian “cây, núi, sông, nguồn”
- Với người đi:
+ Im lặng để lắng nghe “tiếng ai tha thiết” -> hợp với tâm lí người đi xa, cũng là sắc thái tâm lí kín đáo của anh bộ đội miền xuôi. Kẻ ở nói “ thiết tha”, người đi nghe “tha thiết” -> lắng nhận được nỗi niềm kẻ ở.
+ Tâm trạng: những từ láy “bâng khuâng”, “ bồn chồn” đứng gần nhau như những vòng sóng cảm xúc lan tỏa nhiều cung bậc -> sự lưu luyến, bịn rịn không nỡ xa rời.
. Hình ảnh “áo chàm” là một hoán dụ, màu áo xanh đặc trưng của người Việt Bắc -> tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm” – chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc nhưng sâu nặng nghĩa tình đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
. Hành động: “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” -> tính biểu cảm “biết nói gì” không phải không có gì để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Dấu chấm lửng ở cuối câu thơ như khoảng lặng để tình cảm sâu lắng, ngân dài…
- Nghệ thuật:
+ Chất dân tộc đậm đà.
+ Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
+ Xây dựng nhiều hình ảnh chọn lọc, có sức gợi cảm cao.
=> Chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu đôi lứa. Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp cuả ca dao dân ca. Thực ra chính là lời độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của nhà thơ, của chính những người tham gia kháng chiến.
III. Kết bài: (Đánh giá chung về đoạn thơ).
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau:
“Mình đi, có nhớ những ngày
...........................................
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…”
(Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)
DÀN BÀI
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn thơ.
2.Thân bài: Lời của Việt Bắc chỉ có 12 câu lục bát – câu hỏi nhưng tất cả đều xoáy vào kỉ niệm không thể nào quên của những ngày kháng chiến gian khổ mà hào hùng
* Điệp khúc “Mình về có nhớ”
- Mình: Gọi người cán bộ về xuôi.
- Có nhớ -> Gợi nhắc, gợi nhớ. Dùng kỉ niệm để lay động nỗi nhớ. Sau từ “Có nhớ” là kỉ niệm.
-> Hỏi người về xuôi, cũng là nỗi lo âu, phấp phỏng của người dân Việt Bắc.
* Những kỉ niệm được nhắc đến:
- Kỉ niệm về một thời gian nan, khổ cực nhưng vẻ vang, oanh liệt:
+ Những ngày - mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.
. Tả thực về sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên Việt Bắc.
. Tượng trưng cho những khó khăn, thử thách cơ cực mà đồng bào và cán bộ đã phải chịu đựng và vượt qua.
+ Khi kháng Nhật thuở còn Việt minh
-> Những ngày đầu kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng.
=> Gợi nhắc những tháng ngày người cán bộ kháng chiến sống, chiến đấu ở Việt Bắc.
- Kỉ niệm về không gian Việt Bắc:
+ Chiến khu: quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến.
+ Những nhà – hắt hiu lau xám
. Gợi hình ảnh mái tranh nghèo của đồng bào Việt Bắc.
. Gợi thiên nhiên Việt Bắc hoang sơ, hiu hắt nhưng vẫn thi vị, trữ tình.
+ Núi non –> Thiên nhiên hùng vĩ, trùng điệp.
+ Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào -> những địa danh đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
=>Không gian tiêu biểu, gắn liền với cuộc kháng chiến ở Việt Bắc.
Kỉ niệm về cuộc sống, con người ở Việt Bắc:
+ Khó khăn, gian khổ “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
-> Hiện tượng tiểu đối vừa gợi sự gian khổ vừa cụ thể hóa mối thù của dân tộc như đang đề nặng trên vai.
+ Giàu tình nghĩa:
. Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
->Nghệ thuật nhân hóa. Mượn hình ảnh rừng núi để nói lên nỗi nhớ của người Việt Bắc.
. Đậm đà lòng son
-> Tấm lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với Đảng.
=> Khéo léo gợi lại những kỉ niệm ở Việt Bắc, nhắc nhở người cán bộ về xuôi đừng quên Việt Bắc.
* Triết lý nhân sinh: Mình đi mình có nhớ mình
- Nhắc nhở vấn đề quên nhớ
- Cách ứng xử với quá khứ với cội nguồn.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Điệp từ “nhớ”, đại từ xưng hô “mình-ta” tạo nên âm điệu du dương cho cả đoạn thơ.
- Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết của ca dao, dân ca, của điệu thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc,
=> Vượt ra ngoài những câu hỏi, nó còn diễn tả một vấn đề mang màu sắc nhân sinh - vấn đề quên , nhớ, thái độ ứng xử của mỗi người đối với quá khứ, cội nguồn.
3. Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ.
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau đây: “Ta với mình, mình với ta… đều đều suối xa”.
DÀN BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Trích dẫn thơ.
II.Thân bài:
1. Người ra đi khẳng định lòng chung thủy của mình:
“Ta với mình, mình với ta....
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
- Mượn cách so sánh, ví von quen thuộc của ca dao để khẳng định nghĩa tình thủy chung son sắt giãi “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
2. Nỗi nhớ Việt Bắc được diễn tả cụ thể:
- Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:
+ Nghệ thuật so sánh “…như nhớ người yêu” -> Cách so sánh mới lạ, sáng tạo thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Người đọc có thể thấy tình cảm của người ra đi dào dạt biết chừng nào.
+ Hình ảnh gợi cảm, đầy thi vị, hiện lên trong những khoảng không gian và thời gian khác nhau “…bản cùng sương”, “…bếp lửa”, “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương…” “ngòi Thia”, “sông Đáy”…Mở ra một không khí thanh bình, địa danh gắn liền với Việt Bắc.
- Nhớ cuộc sống khó khăn, gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa được tác giả thể hiện bằng những hình ảnh tượng trưng “củ sắn lùi”, “bát cơm”, “chăn sui”… kết hợp với các từ gần nghĩa “chia”, “sẻ”, “cùng” cho người đọc cảm nhận được sự “chia ngọt sẻ bùi” của người dân Việt Bắc với người cán bộ về xuôi.
- Nhớ người mẹ Việt Bắc:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫybẻ từng bắp ngô”
Gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã cưu mang đùm bọc người chiến sĩ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình không thể phai nhòa trong kí ức người về xuôi.
- Khung cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:
+ Khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh quen thuộc, tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến “…lớp học i tờ”, “ Đồng khuya đuốc sáng, những giờ liên hoan”
+ Câu thơ đối ý “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn gian khổ khó khăn.
+ Âm thanh “ tiếng mõ”, “ chày đêm” đặc trưng của Việt Bắc phản ánh cuộc sống, sinh hoạt yên ả thanh bình nơi núi rừng.
- Nghệ thuật:
+ Điệp từ “ nhớ gì, nhớ từng, nhớ sao “ được lặp đi , lặp lại đã nhấn mạnh, khắc sâu nỗi nhớ trong tâm tư của người ra đi.
+ Hình ảnh, âm thanh gợi cảm được chắt lọc từ cuộc sống.
+ Giọng thơ bồi hồi, xao xuyến của một dòng hoài niệm chứa chất ân tình.
* Kết bài: (Đánh giá chung về đoạn thơ
Đề 4: Phân tích đoạn thơ sau: “Ta về mình có nhớ ta
…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
DÀn bÀi
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn thơ.
2. Thân bài : Đoạn thơ chỉ có mười câu nhưng đã thu gọn sắc màu bốn mùa, cả âm thanh, con người Việt Bắc.
a. Hai câu mở đầu thâu tóm nội dung, cảm hứng của cả đoạn
+ Câu hỏi tu từ: vừa là lời thoại, vừa là cầu nối để chuyển sang câu sau. Đây cũng chính là cái cớ để bày tỏ nỗi nhớ của mình “ nhớ hoa cùng người”.
+ Cách giới thiệu mang tính chất khái quát về hai hình ảnh không thể tách rời trong búc tranh Việt Bắc.
. Hoa: là vẻ đẹp tinh túy nhất của thiên nhiên được kết tinh từ hương đất, sắc trời. Hoa ở còn mang nghĩa ẩn dụ cho thiên nhiên Việt Bắc
. Người là con người Việt Bắc sâu nặng nghĩa tình .
b. Bức tranh bốn mùa ở Việt Bắc:
* Mùa đông:
Gam màu chủ đạo : màu xanh
+ Màu xanh lặng lẽ của rừng già.
+ Màu xanh ngằn ngặt tràn đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá.
+ Màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn – màu xanh của núi rừng “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.
-> Thâm u, trầm mặc.
- Hình ảnh những bông hoa chuối “đỏ tươi”
+ Như những bó đuốc thắp sáng, làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người, xua tan cái lạnh lẽo, hoang vu của núi rừng.
+ Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ màu sắc mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng.
- Hình ảnh con người:
+ Con người gắn với lao động.
+ Tư thế khỏe khoắn, hiên ngang đứng trên đỉnh đèo tỏa sáng cùng thiên nhiên.
-> Sự hòa sắc tài tình làm cho mùa đông Việt Bắc không lạnh lẽo, hoang vu mà vẫn tươi tắn và ấm áp.
* Mùa xuân:
- Hình ảnh “Mơ nở trắng rừng”
+ Màu trắng bạt ngàn
+ Màu trắng bung nở
+ Màu trắng trải dài, bao phủ không gian núi rừng VB.
-> Rừng chuyển từ xanh sang trắng, sắc trắng tinh khiết, sáng trong tràn đầy sức sống.
-> Cảnh đẹp lãng mạn, tươi mới.
- Hình ảnh con người gắn với lao động nhẹ nhàng ‘Đan nón chuốt từng sợi giang”
-> Cần cù, khéo léo, tỉ mỉ, tài hoa.
=> Để thương để nhớ cho người ra đi.
* Mùa hè:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thiên nhiên:
+ Âm thanh: Tiếng ve kêu -> Ấn tượng về thính giác.
+ Màu sắc: Rừng phách đổ vàng -> Ấn tượng về thị giác.
-> Sự chuyển đổi cảm giác thật thú vị.
-> Màu vàng của rừng phách hòa quyện với màu vàng của nắng hè tạo nên một không gian tươi sáng, rực rỡ.
+ Chữ “đổ”
. Gợi sự chuyển biến mau lẹ của màu sắc.
. Thể hiện chính xác khoảnh khắc hè sang.
- Con người:
+ Cách xưng gọi: Cô em gái -> Thân gần như tình ruột thịt.
+ Công việc “hái măng một mình” ->Sự cống hiến thầm lặng, biểu tượng cho hậu phương vững chắc.
=> Tươi đẹp, có âm thanh rộn rã, màu sắc tươi sáng, hài hòa.
*Mùa thu:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên vào ban đêm
+ Có ánh trăng thu tròn đầy, viên mãn, sáng vằng vặc.
+ Có cánh rừng VB tắm dưới ánh trăng thu.
+ Trăng rọi qua kẽ lá tạo nên thảm trăng lung linh, huyền ảo, đẹp mơ màng.
+ Cụm từ “Trăng rọi hòa bình” giàu sức gợi. Trăng không chỉ ban phát ánh sáng mà còn biểu tượng cho hòa bình.
Hình ảnh con người:
+ Cất cao tiếng hát “ân tình, thủy chung”
-> Con người VB son sắt, thủy chung.
+ Đại từ “ai” mở rộng đối tượng, tạo nên sự tình tứ cho câu thơ.
=> Mùa thu đẹp, thanh bình, yên ả
- Nghệ thuật:
+ Câu lục tả cảnh, câu bát tả người, thiên nhiên và con người như hòa quyện vào nhau.
+ Điệp từ “nhớ”
+ Cách xưng hô “ta-mình”.
3. Kết bài: (Đánh giá chung về đoạn thơ)
1. Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giàu chất trí tuệ.
2. Bài thơ:
a. Xuất xứ: Đất nước là phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng (được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971).
b. Nghệ thuật:
+ Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi.
+ Giọng điệu biến đổi linh hoạt.
+ Sức truyềncảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
b. Ý nghĩa văn bản: Một cách cảm nhận mới về đất nứơc, qua đó khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.
3. Luyện đề:
Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau:“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.... muôn đời”
* Mở bài:
- Giới thiệu đoạn thơ
- Trích nguyên văn đoạn thơ.
* Thân bài: Cách cảm nhận độc đáo của tác giả về quá trình hình thành, phát triển của đất nước.
a. Đất nứơc được hình thành từ những gì bé nhỏ, gần gũi, riêng tư trong cuộc sống của mỗi người.
- Đất nước có từ lâu đời:
+ Cách xưng hô: Ta
+ Lời thơ “ngày xửa ngày xưa”
+ Những từ “có trong”, “bắt đầu”, “lớn lên”Tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước.
- Đất nước được hình thành từ những truyền thống cao đẹp của dân tộc:
+ Truyền thống văn hóa, phong tục lâu đời của nhân dân: ăn trầu, bới tóc, cách gọi tên cái kèo, cái cột dân dã.
+ Truyền thống yêu nước bền bỉ, kiên cường, được gợi lại qua truyền thuyết Thánh Gióng, nhổ tre mà đánh giặc.
+ Truyền thống lao động cần cù làm ra hạt gạo
Đất nước được cảm nhận rất cụ thể trong những cái gần gũi hằng ngày, trong những gương mặt dung dị đời thường của nhân dân, trong mối qua hệ ruột thịt thân thương gần gũi.
- Đất Nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian, chiều dài của thời gian và chiều sâu của lịch sử: Mượn hình thức tâm tình với người con gái yêu thương, tác giả đã định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, cách đặc biệt của thơ.
+ Đất nước trở nên gần gũi, thân thương gắn bó. Đó là: con đường làng, mái trường anh học, dòng sông em tắm, góc phố, đình làng, cây đa, bến nước,... nơi lứa đôi hò hẹn, là câu ca dao quen thuộc “khăn thương nhớ ai...”.
+ Đất nước mênh mông, giàu đẹp:
. Những từ núi bạc, biển khơi, mang âm hưởng của thành ngữ dân gian, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp.
. Thời gian đằng đẵng: dài lâu, liên tục, bền bỉ nhân dân dựng nước và giữ nước.
. Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ : thể hiện niềm yêu thương, tự hào.
+ Đất nước có cội nguồn văn hóa, phong tục lâu đời
. Những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết: chim, rồng, Lạc Long Quân, bọc trăm trứng, cùng tụ về trong trừơng liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên tầm khái quát của ý thơ:
Dân tộc ta con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc;
Đất nước ta là nơi đất lành chim về, nước thiêng rồng ở
Dân tộc Việt là anh em một nhà.
+ Đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân:
. Ở mọi phương diện: Địa lý, lịch sử, văn hóa,..
. Đất nước còn là sự kết tinh thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ “đã khuất” đến hiện tại “bây giờ” và tương lai “sinh con đẻ cái”
. Trách nhiệm của thế hệ hôm nay “gánh vác phần người đi trước để lại, dặn dò con cháu chuyện mai sau”, “mang đất nước đi xa” -> Nặng nề mà vinh quang – mang đất nước đến chân trời hòa bình, ấm no, hạnh phúc.
. Lời nhắn nhủ “ Hằng năm... giỗ tổ” -> Nhắc nhở chúng ta phải biết nhớ về nguồn cội với tình yêu thành kính, thiêng liêng.
b. Đất Nước là sự hòa quyện không thể tách rời giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc:
- Đất Nước có trong mỗi chúng ta:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Xưng hô “anh - em” tha thiết-> nhà thơ nhắn nhủ: Đất nước không chỉ tồn tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người trở thành một phần trong tâm hồn, trí tuệ của mỗi người của anh và em.
- Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung:
+ Đất Nước có trong tình yêu đôi lứa:
“Khi hai đứa cầm tay nhau
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”
® tình yêu đôi lứa riêng tư đã tự mang trong nó vẻ đẹp hài hòa nồng thắm của tâm hồn dân tộc.
+ Đất Nước có trong tình yêu cộng đồng:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn”
® Cái riêng của tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước, mỗi chúng ta đã nối vòng tay lớn với cộng đồng tạo thành khối đại đoàn kết làm nên đất nước vẹn tròn to lớn, trường tồn, phát trưởng.
+ Trách nhiệm đối với đất nước cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân bởi
“ Đất Nước là máu xương của mình”
->Phải biết – “Gắn bó” bằng tình yêu tha thiết, “san sẻ” bằng ý thức trách nhiệm và khi cần có thể “hóa thân” bằng hành động hi sinh cho đất nước, dâng hiến trọn vẹn cho đất nước.
-> Điệp ngữ “phải biết”vừa là một mệnh lệnh vừa là tiếng nói của con tim tạo thành chất trữ tình chính luận sâu sắc của chương thơ.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi.
+ Giọng điệu biến đổi linh hoạt.
+ Sức truyềncảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
* Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ.
1.Tác giả:
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vùa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.
2.Bài thơ:
a. Xuất xứ:
Bài thơ sóng được Xuân Quỳnh sáng tác trong một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình) năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
b.Đề tài: Tình yêu
c. Chủ đề:mượn hình tượng sóngđể diễn tả tình yêu của người phụ nữ. Sóng là ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu – một hình ảnh đẹp và xác đáng.
d. Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ truyền thống; cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng.
Xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết.
e. Ý nghĩa văn bản:Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng:tình yêu tiết tha, nồng nàn, đầy khát vọngvà sắt son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
4. Luyện đề: Tự học vở ghi
1. Tác giả:
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác, độc đáo. Ông là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
=> Là nhà văn lớn, có vị trí rất quan trọng , đóng góp lớn cho VHVN hiện đại.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: Rút từ tập tùy bút Sông Đà (1960) - kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân.
b. Tóm tắt tác phẩm: Bài tuỳ bút viết về ông lái đò Lai Châu – Tây Bắc và con sông Đà. Ông lái đò là một người lão luyện, từng trải hiểu biết và giỏi giang trong nghề lái đò. Ông là người lái đò tài hoa nghệ sĩ, đã từng xuôi ngược hơn một trăm lần trên sông Đà. Ông rất gan dạ và thông minh. Trên dòng sông Đà ông như một viên tướng xung trận oai phong, linh hoạt, bình tĩnh, tỉnh táo để đối đầu với những thác ghềnh cuồng bạo của sông Đà.
Qua bài tuỳ bút này, người đọc cũng thấy được sự hùng vĩ dữ dội của con sông Đà, thế nhưng sông Đà cũng rất thơ mộng và gợi cảm, nó tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Hai bên bờ sông cảnh trí rất nên thơ, màu sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ , đặc biệt sông Đà đầy triển vọng trong cuộc sống tương lai.
c. Nghệ thuật:
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ, thú vị.
- Từ ngữ phong phú,sống động,giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu,lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình.
d.Ý nghĩa văn bản : Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc ; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam.
3. Kiến thức cơ bản:
* Hình tượng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Sông Đà nằm ở vùng Tây Bắc nước ta. Nó hiện lên trên trang văn của Nguyễn Tuân như một “nhân vật” có hai nét tính cách trái ngược nhau:
Sông Đà hung bạo, dữ dằn
* Lời đề từ:
“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”(Bronlewski)
-> Gợi nhiều liên tưởng thú vị:
+ Tiếng hát của những người lao động trên sông.
+ Tiếng của sông Đà, là tiếng sóng, tiếng gió, tiếng thác nước trên mặt dòng sông.
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về phía Đông, chỉ có sông Đà chạy về hướng Bắc).
+ Cá tính mạnh mẽ, riêng biệt của sông Đà.
+ Hé mở cho người đọc về một vẻ đẹp độc đáo của sông Đà.
* Cảnh đá bờ sông:
“Dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
+ Liên tưởng đến hai bên bờ sông là những khối đá, núi đá trùng điệp dựng đứng.
+ “vách thành” còn gợi lên sự vững chãi kiên cố.
+ “Đúng ngọ mới có mặt trời”
-> Không chỉ có vách đá cao mà nó còn lạnh lẽo, tăm tối, âm u.
-“Vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. ..
+ Động từ “chẹt” kết hợp với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”
+ Hình ảnh “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” và “Có quãng con nai, con hổ...”
-> Diễn tả một cách hình ảnh sự nhỏ hẹp đến nghẹt thở của dòng chảy.
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
+ Nghệ thuật tương phản “mùa hè - lạnh”
-> Sự lạnh lẽo, âm u đến ghê người của khúc sông này.
+ Nghệ thuật so sánh
. “Ngồi trên khoang đò” giống “ đứng ở hè một cái ngõ”
. Ngóng vọng lên vách đá bờ sông với giống ngóng vọng lên “khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”
. Cách dùng từ “cửa sổ nào”, “tầng nhà thứ mấy nào”
-> Độ sâu hun hút của quãng sông này
-> Nghệ thuật so sánh, liên tưởng đã thể hiện độ cao của vách đá, sự lạnh lẽo, âm u, tối tăm của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy.
* Quãng mặt ghềnh Hát Lóong
Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy.
+ Điêp từ, điệp cấu trúc câu.
+ Câu văn trùng điệp, móc xích đang nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến.
+ Sử dụng nhiều thanh trắc.
+ Nghệ thuật nhân hóa.
+ Âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập
-> Sự hợp sức của gió, sóng, đá khiến cả ghềnh sông cuộn chảy dữ dằn, tạo nên mối đe dọa đối với bất cứ người lái đò nào qua đây "Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra".
* Cái hút nước
- Giống như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
- Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
- Thuyền bè không dám men gần, nó hút, nó dìm, nó đánh cho tan xác.
… như ô tô sang số ấn ga …
… quay phim, thước phim…
+ Nghệ thuật so sánh và nhân hóa, kể và tả.
+ Liên tưởng và tưởng tượng
+ Vận dụng kiến thức giao thông, điện ảnh.
-> Giúp người đọc cảm nhận được tất cả sức mạnh ghê gớm và sự “độc ác” của những cái hút nước trên song Đà.
* Thác sông Đà:
- Khi ở xa “còn xa lắm mới đến cái thác dưới” đã nghe được tiếng nước thác:
+ Nghe như oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
. Nghệ thuật nhân hóa, biến con sông thành một sinh thể dữ dằn, hung hãn.
. Từ ngữ được sắp xếp theo trình tự tăng dần cả về âm lượng lẫn thái độ.
-> Khoảng cách của tác giả với sông Đà càng lúc càng gần, sự dữ dội của sông Đà càng lúc càng tăng.
+ Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”.
. Từ “rống” làm ta liên tưởng đến một con quái thú khổng lồ, hung tợn
. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy hình ảnh đàn trâu để tả tiếng của nước, thác, đá.
-> Tất cả đã tạo nên một chuỗi âm thanh hỗn loạn, xô bồ tô đậm sự cuồng nộ của Sông Đà.
- Khi đến gần:“Tới cái thác rồi”.
+ Sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá.
-> Không gian mênh mông, hùng vĩ với sóng, nước, đá.
+ Hình ảnh lũ đá:
. Hành động: mai phục, nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, bày thạch trận, dụ cái thuyền đối phương.
. Diện mạo: "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó"
. Thái độ thì “ hất hàm”, “thách thức”.
-> NT nhân hóa, bút pháp miêu tả độc đáo, sử dụng thuật ngữ của nhiều ngành, Nguyễn Tuân như thổi hồn vào từng thớ đá làm cho chúng vừa xấu xí vừa mang thói du côn của thiên nhiên man dại.
-> Góp phần tô đậm thêm sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà - kẻ thù số một của con người Tây Bắc.
=>Hình ảnh sông Đà hung bạo dữ dằn là biểu tượng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Điều đó còn dự cảm về vai trò, vị trí của nó trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
b. Sông Đà thơ mộng, trữ tình:
*Dáng vẻ:
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
- Câu văn dài, mượt mà, giàu chất thơ đã mang lại vẻ đẹp yên ả, nên thơ của dòng sông.
- Điệp từ “tuôn dài”, nghệ thuật so sánh
-> Một con sông đẹp – một vẻ đẹp trẻ trung, duyên dáng, tràn đầy sức sống.
- Con sông được đặt trong không gian núi rừng TB với mây trời, hoa, khói.
-> Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh thủy mặc làm say đắm lòng người.
*Màu nước sông Đà:
- Mùa xuân: dòng xanh ngọc bích.
- Mùa thu: nước sông Đà lại lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
-> Nhà văn nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau để không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của nó mà còn bày tỏ tình cảm yêu mến, tự hào .
* Cái gợi cảm của sông Đà:
- Là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh.
-> Gợi nhiều liên tưởng thú vị.
- Sông Đà như một cố nhân.
-> Cái nhìn nhân hóa, xem con sông như người bạn, người quen cũ thân tình, mang lại cảm giác “đằm đằm ấm ấm” rất bình yên.
- Có khi mang chất Đường thi cổ kính “yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Có khi mang vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Tản Đà “ Dải sông Đà bọt nước lênh bênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
=> Dưới cái nhìn của một nghệ sĩ tài hoa, mải mê đi tìm cái đẹp sông Đà hiện lên thật gợi cảm.
* Phong cảnh đôi bờ:
- Vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn in dấu của lịch sử cha ông: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
- Vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống : “Nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
- Vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
-> Giọng điệu êm ái, trữ tình, vừa cho thấy vẻ đẹp của đời sống hiện đại vừa đưa người đọc về những miền kí ức xa xăm.
=> Khác với vẻ hung bạo, dữ dằn, ở phương diện này, Nguyễn Tuân nhìn ra một con sông đẹp, hiền hòa và đầy chất thơ.
=> Những hình ảnh trái ngược nhau đã hợp lại dựng lên một cảnh sông Đà độc đáo vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng. Đặc biệt với cái nhìn nhân hóa, sông Đà hiện lên như có linh hồn, cá tính của một con người.
c. Nghệ thuật: bút pháp tài hoa uyên bác.
+ Sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp tu từ : so sánh, liên tưởng, nhân hóa.
+ Vận dụng kiến thức của nhiều ngành
+ Ngôn ngữ giàu chất thơ.
* Hình tượng Người lái đò sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
a. Cuộc đấu tranh với thiên nhiên và tương quan lực lượng:
- Ông lái đò vượt thác là chiến đấu với thiên nhiên:
+ Giành sự sống “giành sự sống từ tay nó về tay mình”.
+ Đó là cuộc chiến đấu gian lao.
-> Được Nguyễn Tuân miêu tả từ góc độ quân sự.
- Tương quan lực lượng:
+ Sông Đà:
. Đông đảo, hùng hậu, hiếu chiến (Sóng, thác, đá, hút nước...)
. Luôn giữ thế chủ động.
+ Ông lái đò:
. Đơn độc trên con thuyền mong manh.
. Hoàn toàn bị động.
-> Cuộc chiến không cân sức giữa con người với thiên nhiên.
b. Nghệ thuật vượt thác của ông lái đò:
*Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất:
Sông Đà:
+ Có bốn cửa tử một cửa sinh.
+ Thách thức, chủ động nghênh chiến.
+ Bủa vây tấn công từ nhiều phía.
+ Tạo không khí căng thẳng, dồn dập, quyết liệt của một trận đánh.
-> Hung hãn, hiểm ác.
- Ông đò:
+ Quyết tâm, kiên cường chiến đấu, không hề nao núng.
+ Cố vượt qua nỗi đau thể xác để tỉnh táo điều khiển con thuyền.
=> Ông đò hiện lên như một chiến binh quả cảm, gan góc, phi thường, phá xong vòng vây thứ nhất.
*Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất:
Sông Đà:Tăng thêm nhiều cửa tử
Sự xảo quyệt của thiên nhiên man dại
Ông đò:
+ Không tự mãn với chiến thắng ở vòng thứ nhất.
+ Dự đoán tình hình, có quyết định sáng suốt.
+ Sông Đà như một con thủy quái , cần có sự kiên cường để thuần phục nó.
+ Bị mai phục, chặn đánh bất ngờ, ông đò bình tĩnh chiến đấu, đưa con thuyền phóng nhanh vào cửa sinh.
=> Người lái đò hiện lên như một vị tướng tài ba điều khiển thế trận, có chiến lược, chiến thuật rõ ràng, chặt chẽ “Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền để thằng đá tướng phải tiu nghỉu cái mặt xanh lè that vọng”.
* Trùng vi thạch trận vòng thứ ba:
+ Sông Đà: “Bên phải bên trái đều là luồng chết cả”
+ Ông đò: “ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa”, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” ->. Từ chỗ “nắm lấy cái bờm sóng”, “cưỡi lên thác”, “đè sấn lên…”, xé toang hết lớp này đến lớp khác của trùng vi thạch trận mà thuần phục dòng sông… Lái đò như vậy đã đạt đến trình độ siêu phàm không phải là một người lái đò bình thường mà đã đạt đến trình độ của một nghệ sĩ tài hoa. Nổi bật tư thế chiến thắng của con người trước thiên nhiên, một thiên nhiên dữ dội và nghiệt ngã.
- Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò: sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước.
Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới: những con người đáng trân trọng, ngợi ca, không thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một thời” mà là những người lao động bình thương – chất “vàng mười của tây Bắc”. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu, mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
* Kết bài: (đánh giá chung về người lái đò).
Đề 1:
…Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới….
…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, T.186)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà qua các đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân?
Đề 2
Anh / chị hãy cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích sau:
…Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trọng nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận Sông Đà…
…Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòe sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
ĐỀ 3
Anh / chị hãy cảm nhận hình tượng sông Đà trong đoạn trích sau:
…Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven song ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hưu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà).
************************
6. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
1.Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở Quảng Trị. Là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực; chuyên về bút kí, là "một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay" (Nguyên Ngọc). Sáng tác luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận và tư duy đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa.
2.Tác phẩm:
a. Xuất xứ: Viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm ba phần, đoạn trích học trong SGK nằm ở phần thứ nhất của tác phẩm.
3. Kiến thức cơ bản
Vẻ đẹp của Sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Thủy trình của sông Hương:
a. Ở nơi khởi nguồn – Có quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: (THPT 2019)
Là "bản trường ca của rừng già” với nhiều cung bậc
Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
+ Mạnh mẽ, hùng tráng:
. Câu văn dài được chia làm nhiều vế như gợi dậy cái dư vang của trường ca.
. Thủ pháp điệp cấu trúc, với nhiều tính từ, động từ mạnh.
Con sông toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, mạnh mẽ.
+ Nên thơ, tình tứ:
“dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
->Con sông toát lên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng và đầy mê đắm.
=> Sông Hương như một bản trường ca với nhiều cung bậc vừa hung vĩ, mạnh mẽ vừa dịu dàng, mềm mại.
Là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
+ Nghệ thuật so sánh như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại tạo ấn tượng về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông.
+ Nghệ thuật nhân hóa Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sang khiến con sông hiện lên như một con người có cá tính, tâm hồn.
=> So sánh, liên tưởng thú vị và độc đáo.
Là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
“Khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
+ Sông Hương đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa Huế.
+ Nhưng “dòng sông hình như không muốn bộc lộ” cái công lao to lớn ấy. Nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến nhiều thế kỉ qua.
=> Ở nơi khởi nguồn sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống vừa mãnh liệt, hoang dại; vừa dịu dàng, say đắm, trí tuệ.
b. Đến ngoại vi thành phố Huế (Tham khảo 2021)
- Sông Hương- người gái đẹp:
+ Bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài
+ Đến với thành phố Huế như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực.
-> Gợi lại câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.
-> Hành trình đến với Huế là một hành trình gian truân, vượt qua rất nhiều thử thách.
- Sông Hương phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình:
+ Dòng chảy:
. Chuyển dòng lên tục, vòng, uốn mình, chuyển hướng, vẽ, ôm, xuôi dần,...
. Mềm như một tấm lụa kết nối những địa danh của xứ Huế
-> Lời văn giàu chất họa, sử dụng một loạt động từ, gợi lên vẻ đẹp trẻ trung, sống động với những đường cong tuyệt mĩ của người gái.
+ Màu nước:
Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím
-> Vẻ đẹp độc đáo vơi sắc màu biến ảo, đó là niềm tự hào của người dân xứ sở.
+ Cảnh vật đôi bờ
. Hai dãy đồi sừng sững như thành quách.
. Rừng thông u tịch
. Lăng tẩm đồ sộ
. Chuông chùa ngân nga
-> Vẻ đẹp trầm mặc “như triết lý, như cổ thi”.
=> Quan sát tinh tế, kiến thức sâu rộng, kết hợp tả - kể, Sông Hương hiện lên mềm mại, hữu tình, êm ả, trầm mặc, hài hòa với cảnh quan Huế.
c. Sông Hương chảy vào thành phố:
* Khi gặp được Huế:
+ Sông Hương quyến rũ đầy nữ tính, đậm nét Á Đông:
. Sông Hương vui tươi hẳn lên … kéo một nét thẳng thực yên tâm…
-> Nghệ thuật nhân hóa, sông Hương như mang tâm trạng của người đi xa tìm về, náo nức, bồi hồi giữa bờ bãi thân thuộc.
. Sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
-> So sánh lạ, dùng tiếng vâng vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng để tả hình dáng mềm mại của sông Hương.
. Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình: Huế ... Vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ,...cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền thuyền xúm xít... Lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài,...
-> Sông Hương đẹp nguyên sơ, cổ kính.
+ Sông Hương – điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế:
. Lưu tốc sông Hương “Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
. So sánh với sông Nê – va “Sông Nê-va chảy nhanh quá”
. Mượn hình ảnh Hê-ra-clít “đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”
=> Điệu chảy lặng lờ cũng chính là tình cảm của sông Hương với Huế hay đó cũng chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương.
+ Sông Hương – người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya:
“ Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
-> Cái thú vị trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế trên không gian sông nước, cho thấy sự gắn bó giữa sông Hương và văn hóa Huế
=> Sông Hương nhẹ nhàng, cổ kính, êm ả, dịu dàng giữa long thành phố Huế.
* Khi rời thành phố:
Sông Hương chếch về hướng chính bắc.
“Đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trán Bao Vinh xưa cổ”. Tác giả gọi đó là:
+ Nỗi vấn vương
+ Một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.
+ Con sông “như nàng Kiều trong đêm tình tự”, “trở lại tìm Kim Trọng của nó để nói một lời thề trước khi về biển cả”.
-> Liên tưởng bất ngờ, độc đáo và thú vị.
=> Sông Hương - người tình dịu dàng chung thủy, lưu luyến từ biệt thành phố Huế - người yêu của nó.
d. Dòng sông của lịch sử và thi ca:
- Trong lịch sử:
+ Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc.
+ Sông Hương như một công dân sẵn sàng dâng hiến cuộc đời cho đất nước.
-Trong đời thường:
+ Sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của “một người con gái dịu dàng của đất nước”
-Trong thi ca:
Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho các văn nghệ sĩ.
Sông Hương được cảm nhận như một người con gái:
Chung thủy trong tình yêu.
Anh dũng trong chiến đấu.
Tài hoa trong nghệ thuật.
Khiêm nhường, lặng lẽ trong đời thường.
- Nghệ thuật:
+ Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
+ Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu.
+ Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được sử dụng một cách hiệu quả…
Đề 1: THPTQ - Năm 2019
Anh/ chị hãy cảm nhận hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét
[…] Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà hình như dòng sông không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
Anh/ chị hãy cảm nhận hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Để 2: Đề tham khảo năm 2021
“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cánh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam của thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chú được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất chả sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đề 3
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa- nuýp của Bu- đa- pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh… Đấy là điệuslow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
“Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến rạ đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm long người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.”
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Tô Hoài
I.Tiểu dẫn:
1. Tác giả
- Tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920
- Quê : Hà Đông cũ (nay thuộc Hà Nội).
- Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau của đất nứơc.
- Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), O Chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953).2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Vợ chồng A Phủ (1952) là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), đựoc giải Nhất giải thửơng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm gồm hai phần, đoạn trích trong SGK là phần một.
b. Tóm tắt: Truyện kể về một đôi vợ chồng người Mèo ở vùng Tây Bắc: Mị và A Phủ.
Ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí. Đến khi mẹ Mị qua đời, bố Mị già yếu mà món nợ vẫn còn (mặc dù mỗi năm đã trả lãi một nương ngô). Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai nhà thống lí Pá Tra lừa bắt cóc Mị về làm vợ. Cúng trình ma xong, Mị trở thành con dâu gạt nợ ở nhà thống lí, khổ hơn con trâu, con ngựa. Mị sống lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón để tự tử. Thương cha già, Mị không đành chết, ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ừng ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. Nhưng A Sử đã trói đứng Mị bằng một thúng sợi đay. Ngày hôm sau, Mị được chị dâu cởi trói để đi lấy thuốc cho chồng.
A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Anh là người lao động giỏi, gái trong làng nhiều người mê nhưng anh không cưới được vợ vì tập tục cưới xin của làng. Tết đến, A phủ đi chơi, thấy A Sử con trai nhà thống lí Pá Tra đến phá cuộc chơi. A Phủ đã đánh A Sử, vì vậy anh bị Thống lí Pá Tra bắt, bị đánh đập và bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ phải vay nợ của thống lí và ở làm việc để trừ nợ. Ở nhà Thống lí, A Phủ lao động rất giỏi nhưng do sơ ý bị hổ bắt mất một con bò. Anh bị Thống lí trói đứng và bỏ đói đến suýt chết. Lúc đầu nhìn cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng một đêm, nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị xúc động, thương cảm, Mị đã cắt đứt dây trói cứu A Phủ, cả hai cùng trốn sang Phiềng Sa. Họ đã thành vợ chồng. Ở đây nhờ sự giác ngộ Cách mạng, cả hai trở thành du kích góp phần đánh giặc bảo vệ dân làng.
3. Nội dung:
- Nhân vật Mị:
- Cuộc sống thống khổ
- Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc.
- Sức phản kháng mạnh mẽ
- Nhân vật A Phủ
- Số phận éo le
- Phẩm chất tốt đẹp.
- Giá trị của tác phẩm :
a. Giá trị hiện thực:
+ Miêu tả chân thực số phận của người dân nghèo miền núi
+ Phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị.
b. Giá trị nhân đạo:
+ Thể hiện tình yêu thương, thông cảm, đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi.
+ Tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai cấp thống trị.
+ Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt.
+ Tin tưởng khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc,…
II. Kiến thức: Phân tích nhân vật Mị
a.Cuộc sống thống khổ:
* Trước khi bị bắt làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí:
- Mị là cô gái trẻ, đẹp, tài hoa, yêu đời
- Khát khao tự do.
- Hiếu thảo.
–> Bông hoa rực rỡ của núi rừng Tây Bắc.
* Khi bị bắt làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí:
- Ban đầu:
+ Mị đau đớn, uất ức, “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc”.
+ Phản ứng quyết liệt : trốn về nhà với nắm lá ngón hái trong rừng, lạy cha để tìm đến cái chết -> Sự tuyệt vọng, bế tắc, ý thức về giá trị của bản thân, ý thức phản kháng cuộc sống không ra sống.
- Nỗi đau thể xác:
+ Bị bóc lột sức lao động: Trong thân phận người con dâu gạt nợ, Mị chỉ là một công cụ lao động: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”
+ Bị đánh đập tàn nhẫn: Bị trói“A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỹ xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột”. Bị đạp “Mị cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp chân vào mặt Mị”. Bị đánh: Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mị ngã xuống cửa bếp”
->Mối quan hệ giữa Mị và A Sử là quan hệ giữa nô lệ và ông chủ.
Nỗi đau tinh thần:
+ Câm lặng, âm thầm, lẻ loi:
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy,…, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.(Tr4) “Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.(Tr.6)
+ Bị tê liệt cả tinh thần phản kháng, lòng yêu đời, yêu sống, tâm hồn trở nên chai sạn, vô cảm
“ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.(Tr.6)
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian
“Cái buồng Mị nằm kín mít…” (Tr.6)
+ Bị trói buộc bởi những hủ tục lạc hậu
“Cúng trình ma” (Tr.13)
-> Tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi. Người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn.
b. Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc:
* Không khí rạo rực của mùa xuân ở Hồng Ngài
- Thời tiết:
“gió và rét dữ dội”.
- Âm thanh:
“trẻ con chơi đùa, tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa”
- Màu cỏ tranh vàng ửng, màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá.
=> Thiên nhiên, đất trời thay đổi, không khí đón tết náo nức, khiến sức sống trong Mị trỗi dậy.
* Đêm tình mùa xuân:
Khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình
+ Tâm trạng của Mị:
. Ý thức về thời gian – Cảm nhận được ngày tết.
. Kỉ niệm sống dậy
“Lòng Mị đang sống về ngày trước”
“ Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi...Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”
-> Vượt ra khỏi trạng thái thờ ơ, nguội lạnh lâu nay, sống lại với những hồi ứ đẹp
. Ý thức về tuổi xuân và bừng tỉnh niềm ham sống của tuổi trẻ.
“ Mị thấy phơi phới,..vui sướng, Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ...”
-> Sự vui tươi đầy sức sống đang dâng lên mạnh mẽ.
. Ý thức về thân phận:
“A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay... Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”
-> Biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh,
những giọt nước mắt chứng tỏ tâm hồn Mị thật sự đã hồi sinh
và ý thức rất rõ về hoàn cảnh đau xót của mình.
. Mị muốn đi chơi
-> Khát khao tự do, khát khao được sống .
=> Từ một cô gái bị vùi dập, sống như một cái xác không hồn, tâm hồn Mị đã hồi sinh trong đêm tình mùa xuân với tâm trạng bồi hồi, xúc động, thức tỉnh.
+ Hành động:
. Nhẩm thầm theo bài hát của người đang thổi sáo.
-> Chứng tỏ tâm hồn đang yên ngủ, an phận của Mị đã bắt đầu hồi sinh với nhiều khát vọng.
. Uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ực từng bát”
-> Uống như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng hay chính là sự tìm quên hiện thực.
. Xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng
-> Như muốn thắp sáng, muốn thay đổi cuộc đời mình.
. Chuẩn bị đi chơi “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa”.
-> Câu văn ngắn, miêu tả những hành động dứt khoát như đang có gì thôi thúc ở bên trong.
=> Hành động khác thường, thể hiện trạng thái vùng lên mạnh mẽ.
Khi bị A Sử trói một cách dã man “…”
+ Tâm trạng:
. Khát vọng sống vẫn mãnh liệt
“Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” .
-> Tiếng sáo vẫn trỗi dậy lặp đi lặp lại như bài ca về sức sống bất diệt.
. Đau khổ
“Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”
-> Đau xót cho thân phận.
. Chập chờn giữa quá khứ với hiện tại.
“Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ”. “Mị lúc mê, lúc tỉnh”
-> Quá khứ tươi đẹp, hiện tại phũ phàng đau đớn cứ đan xen trong tâm hồn Mị.
. Mị sợ chết “Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết”
-> Lòng yêu đời, ham sống đã thực sự trỗi dậy trong Mị.
+ Hành động:
. “Mị vùng bước đi”
-> Hành động quyết liệt, mạnh mẽ .
=> Diễn biến tâm lí và hành động của Mị đã thể hiện:
- Một tâm hồn khao khát hạnh phúc,
- Một sức sống tiềm tàng mãnh liệt;
- Tình cảm nhân đạo của nhà văn.
c. Sức phản kháng mạnh mẽ: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói (Lí giải việc A Phủ bị trói)
- Mị khởi đầu trong trạng thái dửng dưng đáng sợ: “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay”
-> Phản ứng này của Mị cũng là hiển nhiên vì những cảnh trói người đến chết ở nhà thống lí Pá Tra là chuyện bình thường. Và có lẽ “Mị quen khổ rồi” nên cái khổ của người khác cũng thế thôi.
- Khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ “chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước “Mị cũng phải trói đứng thế kia”
-> Từ đồng cảm, thương thân đẩy Mị tới xúc cảm thương người.
- Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí : “Chúng nó thật độc ác”.
- Lòng thương người lấn át cả nỗi thương thân, đó là quy luật của lòng nhân hậu. Chính điều này làm Mị chiến thắng nỗi sợ , dẫn Mị đến hành động đột ngột mà tất yếu: rút dao cắt dây mây cứu A Phủ.
- Cái sợ lại ập xuống thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực của Mị: chạy theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Mị giải thích điều này thật gọn, chắc : “Ở đây thì chết mất”.
-> Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
Nghệ thuật :
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua hành động, Mị chủ yếu khắc họa tâm tư,…).
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt ; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng ; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
- Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán của người dân miền núi.
- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ,…
Đề 1:
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:
-Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:
-Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị được thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm?
Đề 2:
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đoạn văn trên. Từ đó rút ra nhận xét giá trị hiện thực và nhân dạo của tác phẩm?
Đề 3:
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị .
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà.Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường. Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu,quả pao rơi rồi...
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
***************************
Đề 4:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gáy sáng, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp.Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. trong nhà ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng MỊ tưởng A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào một tiếng “Đi ngay…”, rồi nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc…
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về giá trị nhân đạo được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích.
Kim Lân
I.Tiểu dẫn:
1. Tác giả
Kim Lân (1920-2007): Thành công về đề tài nông thôn và người nông dân; có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này.
2.Tác phẩm
a. Xuất xứ: Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí, 1962) được viết dựa trên một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
b. Bối cảnh của truyện: Nạn đói năm 1945.
c. Nhan đề: Vợ nhặt hiểu theo nghĩa đen là nhặt được vợ. Nhan đề - Tạo ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc, đó là nhặt được vợ như người ta nhặt một món đồ vật vô chủ rơi vãi.
- Nói lên cảnh ngộ, số phận của Tràng và người đàn bà xa lạ. Cái giá của con người chưa bao giờ rẻ rúng đến vậy. Đồng thời thể hiện tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945.
d. Tóm tắt: Một buổi chiều, giữa cảnh tối sầm lại vì đói khát, anh Tràng dẫn theo một người đàn bà về xóm ngụ cư. Mặt hắn có vẻ phớn phở khác thường còn người đàn bà đi sau đầu hơi cúi xuống, rón rén, e thẹn. Lũ trẻ con và người dân trong xóm ngụ cư nhìn theo, trêu chọc và cám cảnh. Trên đường về nhà, người đàn bà thì ngượng nghịu, còn Tràng thì tỏ ra thích chí và tự đắc. Thỉnh thoảng họ nói với nhau những lời vụng về, lúng túng.
Dẫn thị vào cái nhà vắng teo, đúng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, tự nhiên Tràng thấy sờ sợ. Hắn bước ra sân ngóng mẹ và nhớ lại sự việc chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận ấy thế mà thành vợ chồng. Lần trước khi kéo xe bò thóc lên dốc tỉnh, hắn hò lên một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này- Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”, cô nàng đã ton ton chạy ra đẩy xe cho hắn. Lần thứ hai, hắn gặp thị ở cổng chợ, thị rách lắm, áo quần tả tơi như tổ đỉa, hắn mời thị ăn giầu, nhưng thị ngồi xuống ăn một chặp hết bốn cái bánh đúc, rồi sau đó vin vào câu nói “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” của Tràng, thị “về thật”
Bà cụ Tứ khi trở về nhà, không tin vào mắt mình vì có một người đàn bà ngồi ở đầu giường thằng con, lại gọi mình là u. Khi hiểu ra cơ sự, bà lão “cúi đầu nín lặng”, rồi “đăm đăm nhìn người đàn bà”, từ tốn, nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: “các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nghĩ đến ông lão đã mất, đến đứa con gái, đến cuộc đời đau khổ dằng dặc của bà mà lo lắng cho tương lai của đôi trẻ. Tiếng hờ khóc trong đêm vắng đến từ những nhà có người chết đói về khuya càng rõ.
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng sào, Tràng mới trở dậy. Nhà cửa sân vườn đều được dọn dẹp. Bà cụ Tứ đang giẫy những búi cỏ mọc nham nhở ngoài vườn, chị vợ nhặt đang quét sân. Họ cùng ăn sáng với “chè khoán”. Bà cụ Tứ nói đến tương lai. Tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Người vợ nhặt ngạc nhiên khi biết ở đây vẫn phải đóng thuế. Câu nói của chị gợi lại trong Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp với lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
II. KIẾN THỨC:
1.Tình huống truyện: Tràng nhặt vợ giữa bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm các nhân vật vừa ngạc nhiên vừa lo lắng
- Ngạc nhiên: Vì Tràng nghèo, xấu trai, dân ngụ cư mà lại có được vợ - vợ theo, vợ nhặt.
- Lo lắng: Vì giữa nạn đói khủng khiếp, con người đang dở sống dở chết vậy mà Tràng có vợ.
=> Nhan đề đã gói trọn tình huống truyện. - Nhà văn để cho nhân vật tự bộc lộ tính cách và họ vẫn không mất niềm tin vào sự sống, vẫn cưu mang, đùm bọc nhau cùng xây dựng gia đình, hi vọng vào ngày mai tươi sáng.
=> KL đã xây dựng được một tình huống truyện vừa lạ vừa hết sức éo le, vừa bi thảm vừa thấm đẫm tình người. Tình huống truyện cũng tạo cho nhà văn tiếng nói riêng tố cáo thực dân phong kiến đã gây nên cái đói khủng khiếp, đã hạ phẩm giá con người thấp đến mức rẻ mạt, vợ theo, “nhặt” được vợ chỉ với vài bát bánh đúc.
2. Nhân vật Tràng:
- Là người làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già, căn nhà thì rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
- Có phẩm chất hiền lành, tốt bụng và cởi mở - hay đùa vui với lũ trẻ trong xóm ngụ cư, giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ.
- Trong hoàn cảnh khốn cùng vẫn khát khao hạnh phúc (Tóm lược việc gặp cô vợ nhặt của Tràng):
+ Câu “Nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình ở nhân vật Tràng.
+ Lúc đầu khi có ý định đưa người đàn bàn xa lạ về nhà Tràng cũng bâng khuâng do dự “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”
->Quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo khổ này và đã cụ thể hóa ý đồ nghệ thuật cùa nhà văn “khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”.
+ Trên đường dẫn vợ về nhà: Nét mặt “phớn phở, tủm tỉm cười nụ”, Khi người trong xóm ngạc nhiên, bàn tán “hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình.
->Kim Lân đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động niềm khao khát mái ấm đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đã vượt lên trên hết bất chấp cả cái đói và cái chết.
+ Trong đêm ra mắt mẹ
. Tâm trạng nôn nóng, trông chờ
. Khi được mẹ đồng ý, Tràng “thở đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi.
->Nhà văn diễn tả thật xúc động tâm trạng của Tràng.
+ Mở đầu và kết thúc truyện thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng.
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tràng nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kề lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
3. Người vợ nhặt:
* Lai lịch, ngoại hình:
- Chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp, và khi xuất hiện lúc thì được gọi bằng “thị”, là cô ả, lúc thì người đàn bà.
- Chân dung thảm thương:
+ Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới gầy yếu xanh xao.
+ Lần thứ hai gặplại, Tràng không nhận ra “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” -> Nạn nhân của nạn đói khủng khiếp.
* Tính cách:
- Khi mới gặp Tràng: Nghe anh hò một câu cho đỡ nhọc, thị đã vùng đứng dậy ton ton chạy ra đẩy xe cho Tràng.
- Gặp lần thứ hai: Sưng sỉa, cong cớn, ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc -> Những xô đẩy của hoàn cảnh đã khiến thị chao chát và chấp nhận làm vợ nhặt.
- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+ Trên đừong về nhà Tràng, thị đã thay đổi hẳn:
. Thị đi sau hắn chừng ba bốn bứơc... -> Thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là ngừơi vợ theo không.
. Có ý thức về giá trị của bản thân. Trứơc cảnh trẻ con chọc ghẹo, người lớn tò mò, thị “khó chịu lắm”, “đôi lông mày nhíu lại”, “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”.
+ Về nhà của Tràng:
. Thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường “Hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.
. Khi bà cụ Tứ về, thị chủ động chào bà bằng u. Trứơc mặt mẹ chồng, thị càng rụt rè “Khẽ nhúc nhích” “Vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ” -> Sự ý tứ, biết lễ nghĩa của cô dâu mới.
. Sáng hôm sau, thị đã trở thành ngừoi vợ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan “Tràng nom thị hôm nay khác lắm...”
=> Từ trong sâu thẳm con ngừơi này vẫn khát khao một mái ấm. Khi đựoc sống trong tình yêu thưong trong mái ấm gia đình, ngừơi đàn bà ấy đã sống đúng với bản chất tốt đẹp của mình.
+ Câu chuyện của chị kể “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang,...” đã mang lại cho Tràng nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ về sự đổi thay dù chưa ý thức thật đầy đủ.
*Vẻ đẹp khuất lấp:
- Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vửong là một lòng ham sống mãnh liệt.
- Phía sau vẻ nhếch nhác lại là một ngừoi biết điều, ý tứ.
- Bên trong vẻ chao chác, chỏng lỏn lại là một ngừơi nhân hậu, đúng mực, biết lo toan.
* Số phận:
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những ngừoi phụ nữ trong nạn đói năm 1945 nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi ngừơi dàn bà ấy đựoc sống trong tình yêu thưong thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
*Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tràng nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kề lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
Nguyễn Trung Thành
I. Tác giả:
- Tên thật Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam Đà Nẵng.
- Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành.
- Là nhà văn trửơng thành trong hai cuộc khàng chiến, gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên
- Tác phẩm tiêu biểu: Đất nước đứng lên, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ: Truyện Rừng xà nu được viết năm 1965 đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ (số 2, 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2. Ý nghĩa Nhan đề:
- Nhan đề Rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, có ý nghĩa biểu tựơng cho con người Tây Nguyên.
- Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi của truyện.
3.Tóm tắt
Rừng xà nu trong tầm đại bác của giặc, đang che chở cho dân làng.
Sau ba năm đi lực lượng, Tnú được phép về thăm làng. Đêm đó, tại nhà cụ Mết, cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời của Tnú và dân làng Xô Man trong kháng chiến.
Hồi Mĩ - Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt, Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ trong rừng.Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc bắt và tra tấn dã man nhưng anh không khai báo điều gì. Ba năm sau, anh vượt ngục trở về làng và lập gia đình với Mai.Theo lời động viên của anh Quyết trước lúc hi sinh, Tnú và dân làng chuẩn bị chiến đấu.Nghe tin, bọn giặc kéo về làng đúng lúc đứa con trai đầu lòng của Tnú ra đời. Bắt không được Tnú, bọn chúng bắt vợ con anh tra tấn tàn khốc. Chứng kiến cảnh tượng đó, bất kể lời can ngăn của cụ Mết, Tnú xông ra, nhưng không cứu được vợ con.Giặc bắt Tnú, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay.
Theo lệnh cụ Mết, dân làng nhất tề vùng lên giết bọn giặc và cứu được Tnú. Tnú ra đi, gia nhập lực lượng và chiến đấu rất dũng cảm bằng chính đôi tay tàn tật.
Sáng hôm sau, Tnú từ biệt dân làng để trở lại đơn vị. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú trước cảnh rừng xà nu nối tiếp bất tận
4. Nội dung:
Hình tượng cây xà nu
Hình tượng nhân vật Tnú
5. Tính sử thi của tác phẩm:
- Chủ đề mà tác phẩm đặt ra là vấn đề có ý nghĩa sinh tử đối với cách mạng miền Nam lúc đó: phải dùng bạo lực cách mạng để trấn át bạo lực phản cách mạng.
- Cuộc đời đầy bi tráng của nhân vật chính.
- Bức tranh thiên nhiên được miêu tả tạo nên bối cảnh hùng vĩ, hoành tráng cho câu chuyện.
- Giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng, có sức ngân vang.
II. KIẾN THỨC:
1. Hình tựơng cây xà nu:
- Cảm nhận chung: Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt được miêu tả công phu đậm nét trong toàn bộ tác phẩm (đặc biệt là mở đầu và kết thúc tác phẩm) => Rừng xà nu hùng tráng đầy chất thơ.
- Gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân làng Xôman
+ Trong những sinh hoạt hằng ngày (Tnú cầm đuốc xà nu soi cho Dít gằn gạo, lũ trẻ làng Xôman mặt lem luốc khói xà nu, Tnú và Mai đốt khói xà nu xông bảng nứa để học chữ…).
+ Trong những sự kiện trọng đại
. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu -> thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú.
. Ngọn lửa xà nu soi rõ xác những tên lính -> tham dự vào niềm vui chiến thắng của nhân dân nơi đây.
.Đuốc xà nu bùng sáng lên trong đêm đồng khởi của dân làng -> chứng kiến lòng dũng cảm và ý chí quật khởi của dân làng Xô man
=> Cây xà nu gắn bó với dân làng Xô man từ bao đời nay như một lẽ tự nhiên và khi cần “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”
- Cây xà nu là biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất cao đẹp của người Xôman:
+ Cây xà nu chịu nhiều đau thương bởi quân thù tàn bạo (hàng vạn cây xà nu không cây nào là không bị thương) cũng như dân làng Xôman nhiều người bị chúng giết hại (anh Xút , bà Nhan, anh Quyết…)
+ Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời (phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng) cũng như dân làng Xôman ham tự do).
+ Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, không gì tàn phá nổi (cạnh một cây mới ngã gục ngã có bốn năm cây con mọc lên) cũng như các thế hệ dân làng Xôman kế tiếp nhau đứng dậy chiến đấu.
+ Những cây xà nu cổ thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng cũng giống như cụ Mết chỗ dựa tinh thần vững chắc, che chở cho dân làng Xô man.
+ Cây xà nu luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Cũng như dân làng Xô man mài giáo, mài rựa sẵn sàng chiến đấu
Nghệ thuật:
- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng, khi đặc tả cận cảnh một số cây.
- Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêutả những cây xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng…
- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tường trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
- Giọng văn đầy biều cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ trữ tình.
2. Nhân vật Tnú
- Tnú gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Từ nhỏ, mặc cho giặc khủng bố ác liệt, Tnú vẫn hăng hái vào rừng nuôi cán bộ.
+ Khi làm liên lạc, vì sự an toàn của cán bộ, Tnú chọn phương án khó khăn, gian khổ nhất (Không đi theo đường mòn, vượt sông không chọn chỗ nước êm).
+ Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt luôn cái thư.
+ Bị trói chớ hành hình, trong giớ khắc ngắn ngủi giữa sự sống và cái chết, Tnú bình thản lạ thường.
+ Bị giặc đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tẩm nhựa xà nu, trước sự tàn ác của kẻ thù Tnú không kêu van “mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”.
- Tnú tuyệt đối trung thành với cách mạng, có tính kỷ luật cao:
+ Tâm niệm lời nói của cụ Mết “Cán bộ là đảng, đảng còn thì núi nứơc này còn”
+ Khi bị bắt, dù bị giặc tra tấn dã man Tnú vẫn kiên quyết không khai. Tuyệt đối giữ bí mật. Thể hiện tấm lòng thủy chung với Đảng, với cách mạng.
+ Vượt qua lòng tự ái, học chữ để sau này thay anh Quyết làm cán bộ giúp dân làng.
+ Với hai bàn tay tàn nhưng không phế Tnú tham gia quân giải phóng trực tiếp bóp chết kẻ thù bằng bàn tay đầy sức mạnh căm thù.
+ Đựơc phép về thăm làng trong một đêm, Tnú đi đúng một đêm. Luôn chấp hành đúng mệnh lệnh của cấp trên.
- Tnú có một trái tim yêu thương và sục sôi căm thù giặc.:
+ Là một người chồng, một người cha rất mực yêu thương vợ con: chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn dã man, Tnú nấp sau gốc cây vả đầu làng, anh bứt đứt hàng chục trái vả mà không biết, “ở chỗ mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, vì thương vợ con, anh đã nhảy xổ vào bọn giặc dù chỉ với hai bàn tay không.
+ Là một người con tình nghĩa với buôn làng: Khi về thăm làng nghe tiếng chày rộn rã Tnú bồi hồi xúc động, “nỗi nhớ day dứt trong lòng anh suốt 3 năm”. Về đến làng, anh nhớ rõ từng người , nhắc tên từng người Khi cụ Mết dẫn ra máng nước đầu làng Tnú xúc động để cho vòi nước giội lên khắp người như ngày trước.
+ Luôn mang trong tim ba mối thù lớn:
. Thù của bản thân : chịu đớn đau tột cùng về thể xác khi bị bọn giặc tàn ác đốt hai bàn tay.
. Thù của gia đình: Vợ con bị giặc tra tấn dã man cho đến chết.
. Thù của buôn làng: bọn giặc giết hại dân làng, giày xéo cả lên lá cây, ngọn cỏ.
-> Nhân vật Tnú tiêu biểu cho sức sống, tinh thần dũng cảm, bất khuất của dân làng Xô Man.
- Cuộc đời bi tráng và con đừơng đến với cách mạng của Tnú điển hình cho con đừơng đến với cách mạng của ngừoi dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng tỏ chân lí thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đừơng tất yếu để tự giải phóng.
- Nghệ thuật:
+ Không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở tâm lí, hành động của nhân vật.
+ Xây dựng thành công nhân vật vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát tiêu biểu.
3. Các nhân vật cụ Mết, Dít, bé Heng
Dù không phải là nhân vật trung tâm nhưng cụ Mết, Dít, bé Heng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự phát triển của cốt truyện. Và các nhân vật này được sắp xếp có chủ đích thành ba thế hệ.
* Cụ Mết: già làng, được nhân dân kính trọng , tin tưởng.
- Ngoại hình: quắc thước, rắn rỏi, dẻo dai
- Tính cách: trầm tĩnh, sáng suốt, mạnh mẽ, cứng cỏi.
- Yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng.
=> Được hình dung như một cây xà nu lớn vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao thế hệ người dân làng Xô man. Nhân vật cụ Mết được xây dựng mang dáng dấp của nhân vật sử thi. Chính cụ Mết là người định hướng cho dân làng Xô Man đi đến chân lí tất yếu “ Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” (Phải dùng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng).
* Dít: Sự hiện thân tiếp nối của Mai.
- Lúc nhỏ: gan góc, lanh lợi.
- Lớn lên: làm bí thư kiêm chính trị viên xã đội, rất gương mẫu, nhiệt tình, có trách nhiệm, nguyên tắc
- Đôi mắt:. mở to, bình thản trước quân thù.
Ráo hoảnh khi mọi ngừoi khóc Mai
Nghiêm khắc khi nhìn Tnú.
-> Đại diện cho thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ – lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến, lực lượng nối tiếp truyền thống anh hùng của dân tộc, đại diện cho sự tiêu biểu mẫu mực của hậu phương.
* Heng: đại diện cho thế hệ tương lai của dân làng Xô Man. Tuy còn nhỏ nhưng Heng có nhiều nét giống Tnú : gan dạ và sắc sảo. Đó là những phẩm chất cần có của một người chiến sĩ cách mạng. Tượng trưng cho lớp người kế tiếp đầy sinh lực, đầy nhựa sống, hứa hẹn một thế hệ Cách mạng mới vững vàng.
* Nghệ thuật:
- Không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên; ở ngôn ngữ, tâm lí, hành động của các nhân vật.
- Xây dựng thành công các nhân vật vừa có nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tình khái quát, tiêu biểu.
- Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu- một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc – tạo nên màu sắc sử thi và sự lãng mạn bay bổng cho thiên truyện
- Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm, khi tha thiết, trang nghiêm,…
*************************
I. Tác giả:
- Nguyễn Thi (1928 – 1968), Tên khai sinh: Nguyễn Hoàng Ca, Bút danh khác: Nguyễn Ngọc Tấn, Quê: tỉnh Nam Định, là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nứơc. Ông gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ và thực sự trở thành nhà văn của ngừơi nông dân Nam Bộ. Nguyễn Thi cũng là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.
- Tác phẩm tiêu biểu: Hai tập truyện ngắn: Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962), Nguyễn Ngọc Tấn-Nguyễn Thi toàn tập (1996).
II. Tác phẩm:
1.Hoàn cảnh sáng tác: Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Thi đựoc sáng tác trong những ngày chiến đấu ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nứơc.
2. Tóm tắt: Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ – ngụy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải nuôi con vừa phải đương đầu với những đe dọa hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, Chiến, thằng Út em, chú Năm và một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình và những đau thương mất mát nặng nề do tội ác của Mĩ- ngụy gây ra đối với gia đình Việt đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình.
Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là cậu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị, đặc biệt là với tiểu đội trưởng Tánh, như tình ruột thịt. Ở anh luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, quyết lập được nhiều chiến công để cùng chị Chiến trả thù cho ba má.
Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh,..
Lần thứ tư, Việt tỉnh lại... cảnh chiến trường và tiếng súng, anh nhớ tới ngày cùng chị Chiến giành nhau đi bộ đội. Chú Năm cho phép cả hai lên đường và ghi vào cuốn sổ gia đình sự kiện này. Hai chị em tính toán thu xếp việc nhà, khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm rồi ra trận.
Sau đó anh Tánh và đồng đội đã tìm thấy Việt và đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến.
3. Nội dung:
- Nhân vật chính:
+ Việt
+ Chiến
- Chiến và Việt là hai “khúc sông” trong “dòng sông truyền thống” của gia đình.
III. Đọc hiểu:
1.Nhân vật Chiến:
- Ngoại hình:
+ “Hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy nắng” “thân người to và chắc nịch”. (Tr. 63)
Khỏe khoắn -> Đó là con người sinh ra để gánh vác, lo toan, để chịu đựng và để chiến đấu.
+ Lời nói, cử chỉ: Giống y như má
“Chị Chiến cựa mình, làm như chị nghĩ ngợi lung lắm. Phải chị thở dài rồi kêu thằng Út dậy đi đái nữa thì giống hệt như má vậy”. (Tr.62)
“Chị Chiến hứ một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi”.(Tr62).
->Không chỉ là sự thừa hưởng về huyết thống mà còn là sự thừa hưởng về truyền thống.
- Tính cách:
+ Đảm đang, tháo vát:
. Trước ngày đi tòng quân chị trăn trở, lo toan, không ngủ được
“Sắp tới đây biết bao nhiêu chuyện phải lo, ngay bây giờ cũng bao nhiêu chuyện phải nhớ”. (Tr.60,61).
. Lo toan mọi việc chu tất:
Gửi thằng Út sang nhà chú Năm.
Căn nhà cho xã mượn để làm trường học vừa có chỗ cho thằng Út em học, vừa có người quét dọn.
Nhờ chú Năm thu hoạch mấy công mía dành tiền làm giỗ cho ba má, ruộng trả cho hợp tác.
Bàn thờ ba má gửi sang chú Năm để có người hương khói… (Tr.61, tr.62).
. Sự lo toan đó làm chú Năm phải khen: “Khôn! Việc nhà nó thu gọn được thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia, thế đặng bề nước non. Con nít chúng bây đánh giặc khôn hơn chú hồi trước”.(Tr.62).Còn Việt thì đặt hết niềm tin vào chị.
+ Gan góc dũng cảm:
. Sẵn sàng nhường em tất cả nhưng việc đi tòng quân là chị Chiến không nhường: “Tao lớn tao mới đi, mày còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm…”. (Tr.59).
. Ý thức được việc ra đi lần này là đối mặt với gian nguy “chân trời mặt biển” (Tr.60). Nhưng chị quyết tâm “Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất”. (Tr.60) . Đó không chỉ là một câu trả lời dứt khoát thể hiện mối thù không đội trời chung mà còn như là một lời tuyên thệ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” -> Thể hiện tình yêu lớn lao dành cho đất nước.
+ Duyên dáng, nữ tính, giàu tình yêu thương:
. Chị đi bộ đội, trong hành trang luôn có một chiếc gương (Có thể so sánh với Nho, Thao, Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi).
. Trước ngày đi bộ đội, chị đã lo toan chu đáo cho tất cả những người thân của mình (Giục Việt viết thư cho chị Hai, gởi thằng Út em sang nhà chú Năm, gởi bàn thờ má sang nhà chú Năm)..
Là cô gái mới lớn, tính khí vẫn còn nét trẻ con nhưng cũng là người chị biết nhường em, biết lo toan, tháo vát; Chiến vừa có điểm giống má vừa có những nét riêng. Chị căm thù giặc sâu sắc, gan góc, dũng cảm, lập được nhiều chiến công nhưng cũng rất duyên dáng, nữ tính và giàu tình cảm.
2. Nhân vật Việt
a. Ngoại hình:
- Về ngoại hình, nhân vật chỉ được khắc họa lại qua một vài nét phác thảo rất ít, rất thoáng qua nhưng cũng rất đặc sắc: “Bộ mặt bầu bầu”(Tr.60). Đó là vẻ đẹp của một chàng trai mới lớn, hồn nhiên, trong trẻo.
b. Phẩm chất, tính cách:
* . Hồn nhiên, vô tư
- Tranh giành với chị: từ việc bắt ếch, việc bắn tàu Mĩ đến việc ghi tên tòng quân, việc nào Việt cũng giành phần thắng. Thậm chí còn so sánh theo kiểu rất trẻ con “mình đứng đâu có thua chị, tuy tóc chị có cao hơn mình một chút thật” (Tr. 59). Đây là tâm lý hiếu thắng của một chàng trai mới lớn.
- Vô lo, vô nghĩ: Trong khi chị Chiến sắp xếp việc nhà và bàn bạc với Việt một cách trang nghiêm Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”(Tr. 60) và ầm ừ cho qua chuyện, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” (Tr. 61) “rồi ngủ quên lúc nào không biết”(Tr.62). Trong đêm trước khi lên đường, Việt nghĩ tới má nhưng đó là suy nghĩ hết sức hồn nhiên “hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?” (Tr. 61) → Đó là sự hồn nhiên, vô tư, lộc ngộc nhưng cũng rất đáng yêu.
- Hành trang ra trận: luôn có “cái ná thun ”.
- Tính cách trẻ con còn được thể hiện ở chỗ:
+ Việt yêu quí chị đến mức vào chiến trường Việt giấu biệt mình có một người chị gái bởi sợ họ tán mất chị.
+ Khi bị thương nằm lại ở chiến trường chỉ có một mình Việt không sợ bóng tối, không sợ giặc bắn mà lại sợ ma “con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông”. (Tr.58)
+ Thậm chí Việt không hình dung nổi cái chết là gì, anh nghĩ một cách ngây thơ: chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương, người giả nằm ở dưới đất còn người thật biến lên nóc nhà chăng?
* Một chàng trai nhạy cảm và giàu tình yêu thương:
- Nhạy cảm:.Trong những lần tỉnh lại ở chiến trường.
+ Mặc dù bị thương mắt không nhìn thấy gì nhưng Việt vẫn cảm nhận được thế giới thông qua khứu giác và xúc giác: “tiếng dế gáy u u” trong màn đêm sâu thẳm.
- Giàu tình yêu thương:
+ Với quê hương: Bị thương nhưng hình ảnh quê hương vẫn hiện lên trong tâm trí anh.
+ Với gia đình: Bị thương nằm lại ở chiến trường, ngất đi tỉnh dậy nhiều lần nhưng lần nào tỉnh lại Việt cũng nhớ về kỷ niệm của những người thân (ba má, chú Năm, chị Chiến. Việt ao ước có má ở bên cạnh “Ước gì lại được gặp má.Phải, ví như lúc này má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn” (Tr.57, 58). Má áp vào báng súng mà Việt tưởng như đang ấp đầu lên tay chị Chiến. Nhớ tới tiếng bước chân bịch bịch mà thương chị lạ.
+ Với đồng đội: Thấy những khuôn mặt thân quen của anh em hiện ra cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công” (Tr. 58) nhận thấy sự động viên của đồng đội.
*Một chiến sĩ giải phóng quân quả cảm, anh hùng.
- Khi còn nhỏ: Ba bị chặt đầu, má bám theo đòi, mấy chị em Việt cũng đuổi theo. Nỗi đau đớn và sự căm thù khiến Việt không còn biết sợ và căm hận tới mức “đầu ba ở dưới đất không lượm cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một sự gan góc rất trẻ con, rất Nam Bộ mà Việt được thừa hưởng từ chính ba má.
- Khi má mất vì trúng pháo đạn của giặc: Việt biến thù nhà thành nợ nước.
+ Chị Chiến thuyết phục Việt ở nhà phụ giúp chú Năm, qua năm hãy đi, Việt phản ứng chị bằng một hành động rất mạnh mẽ “Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng- Bộ mình chị biết đi trả thù à?”( 59). Cử chỉ, thái độ và lời nói của Việt rất trẻ con nhưng quyết tâm và lòng căm thù thì rất người lớn.
+ Khi được chú Năm đồng ý, trước lời răn đe của chú “thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, Việt lăn kềnh ra ván cười khì khì và nói với chị Chiến “Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị”.Ý chí, sự kiên cường và hành động quyết tâm lên đường chiến đấu thật đáng để ta khâm phục.
+ Hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm gửi, Việt cảm nhận thấy “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng trên vai” (Tr.63)
- Khi trở thành một chiến sĩ giải phóng quân:
+ Trong một trận đọ lê dữ dội với quân Mĩ, Việt đuổi theo, nhảy lên, thả pháo thủ để tiêu diệt một chiếc xe bọc thép. Đó là tinh thần chủ động tấn công, đại diện cho cả một dân tộc Việt Nam trong thời chống Mĩ.
+ Bị thương nằm lại ở chiến trường, bị lạc đồng đội, không thể đi lại và cũng không thể nhìn thấy, Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mười ngón tay bầm dập, đau đớn chỉ còn một ngón trỏ duy nhất cử động được nhưng vẫn đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng.
+ Việt luôn lắng nghe những âm thanh của chiến trường súng to, súng nhỏ chụm vào nhau, với Việt đó là âm thanh của sự sống trong đêm vắng lặng “những tiếng nổ quen thuộc gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận”- “tiếng súng của đồng đội như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời, dậy đất hồi Đồng khởi”.
→ Nhân vật mang đến cho người đọc cảm nhận rõ nét về sự bình dị của người anh hùng. Việt là khúc sông gần biển nhất, mạnh mẽ hòa vào biển lớn, là đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Chiến và Việt là hai “khúc sông” trong “dòng sông truyền thống” của gia đình. Hai chị em là sự tiếp nối thế hệ của chú Năm và má, song lại mang dấu ấn riêng của thế hệ trẻ miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nứơc.
III. Tổng kết:
1.Nghệ thuật:
- Tình huống truyện: Việt – một chiến sĩ giải phóng- bị thương phải nằm lại chiến trường. Truyện được kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch (lúc tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất) của “người trong cuộc” làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay đổi đối tượng, không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tựơng mạnh. Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh.
2. Ý nghĩa văn bản:
Qua câu truyện về những con ngừơi trong một gia đình nông dân Nam bộ có truyền thống yêu nứớc căm thù giặc, thủy chung với quê hương, với cách mạng, nhà văn khẳng định: sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dan tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con ngừoi Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nứơc.
**************************
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
I. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu (1930-1989). Quê: Nghệ An. Trứoc năm 1975 là ngòi bút sử thi, có thiên hứơng trữ tình lãng mạn; từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh, thuộc trong số những “ngừơi mở đừơng tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) nhất của Việt Nam thời kì đổi mới.
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ Trước năm 1975: Cửa sông (tiểu thuyết), Những vùng trời khác nhau (tập truyện), Dấu chân người lính (tiểu thuyết).
+ Sau năm 1975: Bức tranh (truyện ngắn) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn), Bến quê (tập truyện ngắn).
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ:
- Sáng tác năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự, triết lí của Nguyễn Minh Châu với ngôn từ dung dị đời thường.
- Tác phẩm tiêu biêủ cho xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kì đổi mới : hứong nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thừơng.
2.Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa:
- Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên về biển và cũng là biểu tượng về cuộc sống sinh hoạt của người dân hàng chài.
- Là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về cuộc sống bấp bênh, dập dềânh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sóng nước.
- Biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Cái hồn của bức tranh nghệ thuật ấy chính là vẻ đẹp rất đỗi bình dị của những con người lam lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật.
- Còn là khoảng cách , cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng.
3.Tóm tắt:
Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Theo đề nghị của trưởng phòng, anh tìm về chiến trường xưa để chụp một tấm ảnh in lịch. Sau nhiều ngày chờ đợi, anh đã chụp được ảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong biển sớm mờ sương thật đẹp, và thấy tâm hồn mình như được gột rửa trở nên trong trẻo tinh khôi ở vẻ đẹp toàn thiện, toàn mĩ ấy.
Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một người chồng thô kệch, dữ dằn, độc ác đã đánh người vợ xấu xí mệt mỏi và cam chịu của mình một cách tàn nhẫn như để giải toả những uất ức trong lòng. Phùng chưa kịp xông ra thì thằng Phác con trai lão đã kịp tới che chở cho mẹ.
Chứng kiến cảnh này lần thứ hai, Phùng đã lao vào can ngăn và bị lão đánh cho bị thương.
Tại toá án huyện Phùng và Đẩu (chánh án toá án huyện –bạn chiến đấu của Phùng) được nghe câu chuyện của người đàn bà bị chồng đánh. Phùng thật sự ngỡ ngàng và hiểu ra nhiều điều. Người đàn bà bị chồng đánh đập hành hạ thật tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Nhưng trước toà chị vẫn kiên quyết gắn bó không chịu từ bỏ người chồng vũ phu vì nhiều lẽ.
Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy. Tuy nhiên khi đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra .
III. Kiến thức:
1.Hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng (Tình huống nhận thức)
a. Phát hiện 1 : Cảnh chiếc thuyền ngoài xa
- Hình ảnh:
+ Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
+ Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ.
-> Hình ảnh đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
- Điểm nhìn của người nghệ sĩ:
Nhìn từ xa, nhìn qua màn sương mờ.
-Cảm nhận của người nghệ sĩ:
+ “Một cảnh đắt trời cho”: Khoảnh khắc vô giá.
+ “Bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.
+ “Từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”: bố cục hài hòa, tinh tế.
=>Một cảnh tượng tuyệt đẹp, một bức họa diệu kỳ của thiên nhiên và cuộc sống.
- Tâm trạng của người nghệ sĩ:
+ Bối rối.
+ Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào
+ Hạnh phúc tràn ngập tâm hồn.
+ Anh nghĩ đến lời đúc kết của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
+ Khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự toàn thiện”
-> Người nghệ sĩ hân hoan, xúc động, say đắm ca tụng cái đẹp. Chính cái đẹp của ngoại cảnh đã làm dấy lên trong anh những cảm xúc thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.
Với người nghệ sĩ, không có niềm vui nào bằng việc khám phá được những vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên và cuộc sống.
Nhưng để có được một tác phẩm nghệ thuật độc đáo người nghệ sĩ phải phải lao động nghiêm túc, lâu dài và gian khổ.
b. Phát hiện thứ 2: Cảnh bạo lực gia đình
- Một cảnh tượng phi thẩm mĩ và phi nhân tính:
+ Cảnh tượng phi thẩm mĩ:
. Một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, gã đàn ông to lớn, dữ dằn (Tr. 71)
+ Cảnh tượng phi nhân tính
. Ngừơi chồng đánh vợ một cách thô bạo (Tr71, 72)
. Đứa con thương mẹ đã đánh lại cha.(Tr.72)
- Điểm nhìn của người nghệ sĩ:
Cận cảnh, rõ nét, chân thực.
- Thái độ của người nghệ sĩ
+ Kinh ngạc
+ Há mồm ra mà nhìn.
-> Hiện thực trần trụi, tàn nhẫn - một nỗi đời khủng khiếp. Phùng không tin vào mắt mình.
+ Vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
-> Đặt cuộc đời lên trên nghệ thuật.
=>Tình huống có ý nghĩa khám phá, phát hiện.
- Thông điệp của nhà văn:
Cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn, không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu, tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.
c.Ý nghĩa của hai phát hiện:
Sức mạnh của nghệ thuật chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người, hướng con người đến chân, thiện, mĩ.
Sứ mệnh của người nghệ sĩ là mang cái đẹp đến cho cuộc đời nhưng phải khám phá, phát hiện ra những góc khuất của đời sống để cải tạo cái ác, cái xấu, làm đẹp cuộc sống.
Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để có cái nhìn khách quan về cuộc sống.
2. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện
Thái độ, cảm xúc, câu chuyện cuộc đời của chị:
Lý do chị đến tòa án huyện:
Chánh án Đẩu mời tới để giải quyết việc gia đình.
Ban đầu: chị sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường đẻ ngồi, xưng hô “con-quí tòa”
Khi lấy lại được tự tin, chị mạnh dạn hơn và đột ngột thay đổi cách xưng hô “chị – các chú” -> cảm nhận được thiện ý của Phùng và chánh án Đẩu và cũng thông cảm cho sự ngây thơ của họ.
Câu chuyện cuộc đời chị:
+ Ngoại hình xấu xí
. Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt.
-> Chịu nhiều thua thiệt, bất hạnh.
+ Nghèo túng, đông con, thuyền chật:
. Từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối. (T.75).
-> Nỗi khổ về vật chất, nỗi đau về tinh thần.
. Đông con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa.(T.76)
. Không gian sống: trên con thuyền lưới vó chật hẹp.
=> Hoàn cảnh đáng thương của người đàn bà vùng biển
+ Bị đánh đạp, hành hạ thường xuyên
. Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh.
-> Đau đớn vô hạn về thể xác, nhục nhã về tâm hồn
=> Người đàn bà hàng chài là hiện thân sinh động của một kiếp người đầy bất hạnh.
+ Lí do chị không bỏ chồng:
. Vì cuộc sống trên biển cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề làm ăn để nuôi con.
. Vì đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình.
. Vì cũng có lúc vợ chồng con cái chị sống hòa thuận, vui vẻ.
-> Hi sinh cho cả gia đình
b. Sự nhận thức của nghệ sĩ Phùng
* Về người đàn bà:
-Chị cam chịu nhẫn nhục
Nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng mọi đớn đau khi bị chồng hành hạ, chị “cam chịu, nhẫn nhục, không kêu, không chống trả, cũng không chạy trốn”.
-> Chị không cam chịu một cách vô lí, mù quáng. Đó là đức hi sinh của người phụ nữ vì con.
- Có lòng tự trọng:
. Khi biết chuyện mình bị chồng hành hạ, đánh đập đã bị Phác (con trai chị) và nghệ sĩ Phùng (người khách lạ) chứng kiến, chị “vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã”
. Giọt nước mắt đau khổ đã trào ra.
- > Nỗi đau của người có nhân cách, có lòng tự trọng.
- Thương con vô bờ bến
. Khi con cái lớn lên, chị xin chồng đưa chị lên bờ mà đánh -> Sợ làm các con bị tổn thương, bị nhiễm thói vũ phu, hận thù cha -> cách ứng xử rất nhân bản.
. Gởi thằng Phác lên rừng ở với ông bà ngoại
. Niềm vui lớn nhất của chị là “ nhìn thấy đàn con được ăn no”
. Khi thằng Phác phát hiện bi kịch gia đình chị đã “ôm chầm lấy nó”,
chắp tay vái lấy vái để” -> Đau đớn vì rốt cuộc cũng không tránh được cho con khỏi bị tổn thương.
- Thấu hiểu lẽ đời:
. Cảm nhận được thiện ý của Phùng và chánh án Đẩu và cũng thông cảm cho sự ngây thơ của họ.
. Khi nói về bản thân mình, chị cho rằng “ Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con khôn lớn”
. Khi nói về chồng chị luôn mang mặc cảm có lỗi, nhìn nhận chồng với thái độ thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ ( dc)
-> Chị hiểu con người, hiểu cuộc sống, hiểu thiên chức làm mẹ, hiểu sự khốn khổ và bế tắc của chồng. Câu chuyện của chị làm cho Phùng và Đẩu thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều.
-> Cái hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn người đàn bà là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, cam chịu, cảm thông, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.
* Về chính mình và Đẩu:
Sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng.
Đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ.
Thông điệp nhà văn gửi gắm: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc hiện tượng trong các mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều.
Nghệ thuật:
- Tạo tình huống độc đáo “tình huống nhận thức” có ý nghĩa khám phá, phát hiện chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật.
- Truyện được kể qua lời kể nhân vật -> câu truyện trở nên gần gũi, khách quan, chân thực, giàu tính thuyết phục.
- Khắc họa nhân vật sắc sảo, giọng kể thủ thỉ, trầm tĩnh, lời văn giản dị, sâu sắc, dư ba.
**********************
Đề 1:
Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr.71,72)
Phân tích vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật Phùng thể hiện ở đoạn trích trên.
*****************************
Đề 2
“Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quả đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói cho lên thuyền như quát: Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ. Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trục ngoài bốn mươi, một thân quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lung áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe và phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một khoảng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hồ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của linh ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiên ken két, củ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên ri đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhỏ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!"
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.
(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, (Trích NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr73).
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn về tình huống truyện.
******************
Đề 3: THPT 2015
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.75-76)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
1. Tác giả:
- Lưu Quang Vũ (1948- 1988) ,
- Quê: Đà Nẵng
- Ông được coi la một hiện tựơng đặc biệt của sân khấu , một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
2.Tác phẩm
+ Được viết từ năm 1981 mãi đến năm 1984 mới được công chúng biết đến
+ Lấy cốt truyện dân gian nhưng có nhiều sáng tạo.
3. Tóm tắt: SGK
4. Kiến thức:
a. Bi kịch tha hoá (Màn đối thoại giữa hồn Trương ba và xác hàng thịt)
* Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Hồn Trương Ba
+ Ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy
+ Độc thoại đầy khẩn thiết: “Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi”
-> Tâm trạng bức bối, đau khổ, tuyệt vọng.
* Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt
- Xác hàng thịt:
+ Gợi lại tất cả những sự thật:
. Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với“tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…“.
. Ông “xao xuyến” trước những món ăn
. Ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi
-> Xác có khả năng sai khiến linh hồn.
-> Hồn cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.
+ Cười nhạo vào cái lí lẽ mà hồn đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”.
-> Khẳng định linh hồn không thể có sự nguyên vẹn, trong sạch nếu tồn tại nhờ và chiều theo đòi hỏi của xác thịt.
-> Xác thắng thế với chất giọng khi thì mỉa mai, châm chọc khi thì lên mặt dạy đời,.
Hồn Trương Ba:
+ Ở vào thế yếu, đuối lí, cay đắng, uất ức, tuyệt vọng.
. Hành động : bịt tai lại
. Thay đổi cách xưng hô với xác hàng thịt: Từ mày sang anh.
=> Nhận ra những điều xác hang thịt nói đều đúng cả.
+ Bi kịch của Trương Ba:
. Được sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn - sống chung với phần thể xác dung tục và bị sự dung tục đồng hóa.
. Những phẩm chất tốt đẹp của Trương Ba đang dần bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá.
Tác giả cảnh báo:
Khi con người phải sống trong dung tục thì sớm hay muộn những phẩm chất tốt đẹp cũng sẽ bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá.
Vì thế, phải đấu tranh loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
b. Bi kịch bị từ chối (Màn đối thoại với người thân)
- Vợ Trương Ba:
Nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Vì “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
-> Buồn bã, đau khổ, pha lẫn ghen tuông.
- Cái Gái – Cháu nội Trương Ba :
+ Một mực khước từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi.
+ Nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó.
+ Nó ghét ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền.
+ Nó xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
Chị con dâu
+ Là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt.
+ Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu.
+ Nhưng vẫn buồn đau trước sự thay đổi của bố chồng.
=> Tất cả đều xa lánh, sợ hãi, thậm chí ghét bỏ, ghê tởm, từ chối ông, khiến ông rơi vào sự hụt hẫng, cô đơn và phải lựa chọn một thái độ dứt khoát.
Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng
+ Lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? … Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.
+ Hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
=> Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba quyết định không sống chung với thể xác anh hang thịt.
c. Bi kịch bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo (Màn đối thoại với Đế Thích)
- Hồn Trương Ba:
+ Ý thức được tình cảnh trớ trêu là phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
+ Thái độ kiên quyết, dứt khoát của nhân vật “không thể tiếp tục, không thể được, không thể”
-> Thấm thía nỗi đau khổ và không chấp nhận tình trạng vênh lệch giữa hồn và xác.
=> Khát vọng được thoát ra khỏi nghịch cảnh phải sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt.
+ Muốn là mình một cách toàn vẹn; thể xác và linh hồn hòa hợp; bên trong và bên ngoài, suy nghĩ và hành động thống nhất.
=> Khát vọng được sống là chính mình.
+ Chỉ ra sai lầm của Đế Thích “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.
-> Lòng tốt hời hợt, sự vô tâm đôi khi đẩy người khác vào nghịch cảnh, bi kịch.
+ Từ chối nhập vào xác cu Tị sau một hồi suy nghĩ, đấu tranh tư tưởng
-> Từ chối cảnh sống chỉ có lợi cho bọn chức sắc.
+ Triết lí của Trương Ba: Có những cái sai không bao giờ sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.
=> Đừng để phạm phải sai lầm.
=> Lời thoại của Trương Ba thể hiện
+ Vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo.
+ Bảo vệ quyền được sống là chính mình.
+ Hướng đến sự hoàn thiện nhân cách.
Đế Thích:
+ Khuyên Trương Ba chấp nhận vì dưới đất, trên trời đều thế cả.
+ Quan điểm của Đế Thích: sống có nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải quy thuận.
-> Đây là quan niệm sống sai lầm đáng lên án.
d. Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :
- Trương Ba không chấp nhận buông xuôi.
- Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình .
+ Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
-> Nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại.
+ Đặt ra vấn đề“sống như thế nào”
-> ý thức cao về sự sống và cách sống để cuộc sống có ý nghĩa.
- Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch.
+ Hồn Trương Ba hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na,
+ Ở cạnh người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu.
-> Hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời
=> Hồn Trương Ba chấp nhận cái chết, một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực.
a. Nghệ thuật:
- Sáng tạo lại cốt truyện dân gian .
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại sinh động, hấp dẫn.
**********************************
Đề 1:
Trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã xây dựng đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt:
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là than xác…
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, …
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông đứng ở bên nhà tôi … Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại … Đêm hôm đó, suýt nữa thì …
Hồn Trương Ba: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày …
Xác hàng thịt: […] Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao? Để thỏa mãn thôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời!
Hồn Trương Ba: Ta … ta … đã bảo mày im đi!
Xác hàng thịt: Rõ ràng là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được! Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!
Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn …
Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.144 – 145)
Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt qua đoạn trích trên và rút ra ý nghĩa triết lí được gửi gắm qua màn đối thoại đó.
************************
Đề 2: THPTQG 2014
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
(…)
Hồn Trương Ba (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ… (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sữa bằng cách làm cho hồn ông được sống.
Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn…
Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào…
Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không thể trả được… Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…
Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.
Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.
(Trích cảnh VII, Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.149)
ĐỀ 3:
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Vườn cây rung rinh ánh sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quýt vuốt ve con. Bà vợ Trương Ba xuất hiện ở phía trước sân khấu.
Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?
(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện)
Trương Ba: Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.
(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)
Cái Gái: (Tay cầm một trái na) Cây na này, ông nội tớ trồng đấy. Quả to mà ngon lắm. Ta ăn chung nhé!
(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na vùi xuống đất.)
Cu Tị: Cậu làm gì thế?
Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr.153)
Phân tích nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó nêu lên ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân sinh sâu sắc Mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
XEM THÊM:
YOPOVN xin gửi đến quý thầy cô, các em Đề cương ôn tập văn thpt quốc gia NĂM 2022 MỚI NHẤT. Đây là bộ Đề cương ôn tập văn thpt quốc gia.
Tìm kiếm có liên quan
Download tài liệu ôn thi đại học môn văn
Tài liệu ôn Văn thi THPT Quốc gia 2021
Tài liệu on thi THPT Quốc gia môn Văn
Tài liệu ôn Văn thi THPT Quốc gia 2022
FULL tài liệu văn 12
Bộ đề ôn thi THPT Quốc gia môn Văn 2021
Download tài liệu văn học 12
Bộ de ôn thi THPT Quốc gia môn Văn 2020
1. TÂY TIẾN (Quang Dũng) (2021- đợt 2)
1.Tác giả:
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
- Một hồn thơ giàu chất lãng mạn, tinh tế, tài hoa: nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ giàu chất nhạc,chất họa.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: In trong tập Mây đầu ô (1986)
b. Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ Tây Tiến:
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Phápở thượng Lào cũng như ở miền tâ Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt độngcủa đoàn quân Tây Tiến khá rộng: Thượng Lào & Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh sinh viên (như Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về hòa bình thành lập trung đoàn 52. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rờixa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên là Tây Tiến.
- Cảm hứng chính: cảm hứng lãng mạn.
- Tình thần chung: tinh thần bi tráng.
c. Nghệ thuật:
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt…
- Kết hợp chất nhạc và chất hoạ.
d. Ý nghĩa văn bản: Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta.
( Học thuộc bài thơ)
*********
LUYỆN ĐỀ:
Đề 1: Phân tích đoạn thơ: Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
.....................................................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
1.Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích đoạn thơ.
2. Thân bài: Giới thiệu sơ lược nội dung đoạn thơ
a. Cảm xúc bao trùm là nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Sông Mã: Là hiện thân của thiên nhiên Tây Bắc, gắn bó với đoàn quân Tây Tiến trong suốt cuộc trường chinh.
+ Xa rồi: mang âm hưởng ngậm ngùi, nuối tiếc.
+ Tây Tiến ơi : thổ lộ tâm sự, gợi nhắc. Cách nói như Tây Tiến đang còn bên cạnh.
+ Điệp từ nhớ : Khắc sâu, nhấn mạnh, bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ.
+ Từ láy chơi vơi: Cách dùng từ sáng tạo, vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ.
-> Câu cảm thán, âm ơi nằm ở cuối câu thơ kéo dài ra da diết -> Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng không kìm nén nổi đã bật lên thành lời, thành tiếng gọi thiết tha.
b.Nỗi nhớ được khắc sâu qua nhiều kỉ niệm:
* Kỉ niệm với Sài Khao, Mường Lát:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Sài Khao, Mường Lát gắn với nhiều địa danh khác...
-> Gợi lên nhiều phạm vi không gian, nhiều địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến.
- Hình ảnh "Sương lấp đoàn quân mỏi"
+ Tả thực: Sương mù vùng cao như che lấp, nuốt chửng đoàn quân mỏi.
+ Bút pháp lãng mạn: gợi không gian huyền ảo: cảnh vật về khuya phủ đầy hơi sương lạnh giá.
- Hình ảnh "Hoa về trong đêm hơi":
+ Ngàn hoa của núi rừng Tây Bắc.
+ Hình ảnh của những bông hoa lửa bập bùng trên đầu ngọn đuốc trong đêm đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát.
=> Vừa lãng mạn vừa hào hùng của một thời Tây Tiến.
* Kỉ niệm về những chặng đường hành quân (Bức tranh thiên nhiên Tây Bắc)
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
-Điệp từ “Dốc” : Dốc tiếp dốc gần như không có điểm dừng diễn tả độ cao ngất trời của núi đèo và độ sau hun hút của vực thẳm.
-Từ láy “Khúc khuỷu” giàu giá trị tạo hình, miêu tả sự hiểm trở, lắt léo, quanh co, gập ghềnh.
-Từ láy “heo hút”, nghệ thuật đảo cấu trúc câu gợi tả sự xa xôi, hoang vắng.
-Hình ảnh “Súng ngửi trời” -> Nghệ thuật nhân hóa -> Một cách nói vui , dí dỏm về độ cao của Tây Bắc.
- Điệp từ “Ngàn thước” kết hợp với nghệ thuật tương phản -> câu thơ như bị bẻ đôi ra diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
- “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”-> câu thơ toàn thanh bằng, mở ra một không gian thoáng đãng, một chốn bình yên nơi bản làng, có sự giăng mắc của sương rừng, mưa núi.
=> Sự kết hợp thanh bằng trắc một cách khéo léo làm cho những câu thơ giàu chất nhạc.
=> Một không gian vừa cao sâu vừa xa rộng, rất hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng của núi rừng Tây Bắc làm nổi bật lên tầm vóc của người lính Tây Tiến.
* Hồi ức về sự hi sinh
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
- Anh bạn: cách gọi thân thiết, trìu mến.
- Không bước nữa: Nghệ thuật nói giảm nhằm chỉ sự sinh nhưng nó giảm bớt đau thương.
- Gục lên súng mũ: Tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm.
-> Chân thực, không giấu giếm sự vất vả của những chặng đường hành quân, nhưng chắc chắn là họ không gục ngã. Bởi hòa cùng với sự oai linh của thiên nhiên là sự oai hùng của họ được tô đậm ở phần cuối bài thơ.
* Hồi ức về cuộc sống ở Tây Bắc
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi, Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
- Chiều chiều, đêm đêm: chỉ phạm trù thời gian, sự lặp lại hằng ngày.
- Âm thanh: “thác gầm thét”, “cọp trêu người” được đặt trong những khoảng thời gian “chiều chiều, đêm đêm”
-> Tô đậm sự hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật, luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người.
- Nhớ ôi: Nhớ đến da diết, nhớ đến nao lòng.
- Hình ảnh “Cơm lên khói” “thơm nếp xôi”
-> Tạo cảm giác êm dịu, ấm áp. Chứa đựng một nỗi nhớ da diết của người lính về một Tây Bắc đằm thắm ân tình.
=> Vừa hoang sơ, dữ dội, vừa đầm thắm ân tình.
* Nghệ thuật
- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt…
- Kết hợp chất nhạc và chất hoạ.
3. Kết bài:
*************************************
Đề 3: Phân tích hình tượng người lính trong đoạn thơ sau đây:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Dàn bài
1. Mở bài : tham khảo đề 1
2. Thân bài: Tượng đài người lính Tây Tiến bất tử trước thời gian:
a. Ngoại hình:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá...
Mắt trừng...
- Tây Tiến: Nhan đề bài thơ, là tên của đoàn quân, được lặp đi lặp lại để giữ nhịp cho bài thơ.
- Đoàn binh: Gợi lên một tập thể đông đảo, hùng hậu.
- Không mọc tóc:
+ Quyết tâm chiến đấu đến cùng (cạo đầu trọc).
+ Dấu ấn của căn bệnh sốt rét rừng
+ Cách nói chủ động, ngang tàng (Không mọc tóc)
-Quân xanh màu lá
+ Màu xanh áo lính (Chưa chắc)
+ Màu xanh lá ngụy trang
+ Màu da – do sốt rét.
-Mắt trừng: Đôi mắt mở to với cái nhìn dữ dội. Còn gợi tả khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn, thiếu ngủ.
=> Toát lên vẻ đẹp cứng cỏi, gân guốc.
b. Vẻ oai phong lẫm liệt:
“Dữ oai hùm” (Liên hệ với Nhớ rừng- Thế Lữ).
-> Dữ dội, lẫm liệt, mang oai của loài chúa sơn lâm.
=> Lính Tây Tiến không chỉ là đối thủ xứng tầm với thiên nhiên mà còn là chúa tể của núi rừng Tây Bắc.
c. Tâm hồn hào hoa, phong nhã
“... gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- Lính Tây Tiến có tâm hồn lãng mạn, nhiều mơ mộng “gởi mộng, đêm mơ”
- Biên giới: Gợi địa bàn hoạt động xa xôi của người lính trẻ.
- Hà Nội:
+ Khung trời hoa lệ.
+ Thủ đô của nước Việt Nam.
+ Quê hương của phần đông lính Tây Tiến.
=>Tình cảm gắn bó với đất nước, với quê hương của người lính Tây Tiến.
- Dáng kiều thơm
+ Hình ảnh ước lệ, gợi hình ảnh người con gái đẹp.
+ Hình ảnh người thiếu nữ Hà Nội.
=>Trong tâm hồn người lính Tây Tiến luôn có một bóng hồng. Đó chính là nét đẹp đa tình, lãng mạn, hào hoa của người lính trẻ.
(Liên hệ: Anh bộ đội trong Đồng chí nhớ "giếng nước, gốc đa, trong Nhớ của Hồng Nguyên nhớ
" Mái nhà gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"
Người lính TT mơ về "Dáng kiều thơm".... Những giấc mơ ít nhiều thơm tho mùi sách vở học trò).
->Bút pháp lãng mạn khi khắc họa hình ảnh người tráng sĩ, hiệp khách xưa thường thấp thoáng một bóng hình người đẹp như vậy. Trong TT dường như đoạn nào cũng vấn vương một bóng dáng thướt tha.
d. Lí tưởng khát vọng của người lính TT “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
+ Tình yêu tổ quốc mãnh liệt
+ Hào khí thời đại đã ùa vào chắp cánh cho câu thơ này
+ Nó gợi cái âm vang hào sảng của một thời "Quyết tử...."
+ Nó mang tinh thần "Nhất khứ bất phục phản" của những tráng sĩ thời xưa (Kinh Kha)...
e.Sự hi sinh của người lính:
+ Rải rác biên cương mồ viễn xứ -> Những nấm mồ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi.
+ Áo bào thay chiếu -> Sang trọng hóa sự hi sinh, ...
+ Về đất-> Nghệ thuật nói giảm.
=> Sự hi sinh càng thầm lặng càng cao cả. Viết về điều này, QD sử dụng nhiều từ Hán Việt để nói một cách trang trọng về sự hi sinh thầm lạng của đồng đội. Con người thì đau thương kính cẩn cúi đầu còn thiên nhiên thì gầm thét "Sông Mã...". Con sông Mã gắn bó với hành trình TT, chia sẻ buồn vui, đau thương nên khi nhớ về TT là nhắc về Sông Mã.
=> Bút pháp lãng mạn chủ yếu được bộc lộ qua vẻ đẹp dữ dội phi thường, hay sử dụng thủ pháp đối lập qua hình tượng người lính TT. Còn cái bi được hiện lên qua hính ảnh những nấm mồ hoang lạnh dọc đường hành quan và nơi biên giới xa xôi lạnh lẽo. Buồn đau, mất mát nhưng không ủy mị, yếu đuối. Cái tráng là lí tưởng, khát vọng cống hiến đời xanh cho tổ quốc, là âm hưởng hào hùng của thiên nhiên.
* Nghệ thuật:
- Với hồn thơ lãng mạn, một bút pháp tài hoa và độc đáo, Quang Dũng đã thể hiện thành công đoạn thơ.
- Bên cạnh đó tác giả còn bộc lộ tài năng của mình trong việc xây dựng những hình ảnh tuyệt đẹp về người lính Tây Tiến, nghệ thuật nói giảm, nói tránh, đảo ngữ...
3. Kết bài: Cảm hứng lãng mạn và sắc thái bi tráng tạo nên tính chất sử thi đặc biệt của bài thơ “Tây Tiến”. Hồn thơ Quang Dũng đã làm ngời sáng lên hình ảnh đẹp nhất của một thời: hình ảnh người lính “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
************************************
2. VIỆT BẮC (Tố Hữu) (2020- đợt 2)
1. Nhan đề:Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của dân tộc (nơi có Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ).
2. Hoàn cảnh ra đời:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7 – 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết. Hoà bình lập lại, miền Bắcnước ta được giải phóng và bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới được mở ra.
- Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, và trong tình cảm lưu luyến giữa kẻ ở người đi, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
3. Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên Việt Bắc (1946-1954).
4. Nghệ thuật: bài thơ đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Thể thơ lục bát, lối đối đáp, cách xưng hô mình- ta, ngôn từ mộc mạc, giàu sức gợi.
5. Ý nghĩa văn bản: Bản hùng ca về cuộc kháng chiến; bản tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.
*************************************
Đề 1: Em hãy phân tích đoạn thơ sau:
“ Mình về mình có nhớ ta
……………………………………………………………………..
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
( Việt Bắc – Tố Hữu)
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Trích nguyên văn đoạn thơ.
II. Thân bài: Khung cảnh chia tay và tâm trạng của con người.
- Với kẻ ở: Thương nhớ bật lên thành lời
- Cách xưng hô: Mình- ta
+ Đậm tính dân tộc
+ Gợi mối quan hệ thân thiết, gắn bó.
- Câu hỏi: “ có nhớ ta”, “có nhớ không”
-> Tạo âm hưởng da diết, thể hiện nỗi băn khăn, trăn trở, không biết người đi có nhớ mình không.
- Thời gian “mười lăm năm”
-> Thời gian thực (tính từ khởi nghĩa Bắc Sơn). Đó chính là ngọn nguồn tình nghĩa, tạo nên mối keo sơn gắn bó “thiết tha mặn nồng” giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.
- Không gian: “ Cây, núi, sông, nguồn”
-> Không gian Việt Bắc, không gian của cội nguồn cách mạng, nhắc nhớ về Việt Bắc đồng thời đánh thức những kỉ niệm ở nơi này.
=> Nỗi nhớ tràn ngập cả thời gian “ Mười lăm năm”, cả không gian “cây, núi, sông, nguồn”
- Với người đi:
+ Im lặng để lắng nghe “tiếng ai tha thiết” -> hợp với tâm lí người đi xa, cũng là sắc thái tâm lí kín đáo của anh bộ đội miền xuôi. Kẻ ở nói “ thiết tha”, người đi nghe “tha thiết” -> lắng nhận được nỗi niềm kẻ ở.
+ Tâm trạng: những từ láy “bâng khuâng”, “ bồn chồn” đứng gần nhau như những vòng sóng cảm xúc lan tỏa nhiều cung bậc -> sự lưu luyến, bịn rịn không nỡ xa rời.
. Hình ảnh “áo chàm” là một hoán dụ, màu áo xanh đặc trưng của người Việt Bắc -> tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm” – chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc nhưng sâu nặng nghĩa tình đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
. Hành động: “ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” -> tính biểu cảm “biết nói gì” không phải không có gì để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói không biết phải nói điều gì. Dấu chấm lửng ở cuối câu thơ như khoảng lặng để tình cảm sâu lắng, ngân dài…
- Nghệ thuật:
+ Chất dân tộc đậm đà.
+ Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
+ Xây dựng nhiều hình ảnh chọn lọc, có sức gợi cảm cao.
=> Chuyện ân tình cách mạng được tác giả khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu đôi lứa. Diễn biến tâm trạng được tổ chức theo lối đối đáp cuả ca dao dân ca. Thực ra chính là lời độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của nhà thơ, của chính những người tham gia kháng chiến.
III. Kết bài: (Đánh giá chung về đoạn thơ).
*************************************
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau:
“Mình đi, có nhớ những ngày
...........................................
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa…”
(Trích “Việt Bắc” - Tố Hữu)
DÀN BÀI
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn thơ.
2.Thân bài: Lời của Việt Bắc chỉ có 12 câu lục bát – câu hỏi nhưng tất cả đều xoáy vào kỉ niệm không thể nào quên của những ngày kháng chiến gian khổ mà hào hùng
* Điệp khúc “Mình về có nhớ”
- Mình: Gọi người cán bộ về xuôi.
- Có nhớ -> Gợi nhắc, gợi nhớ. Dùng kỉ niệm để lay động nỗi nhớ. Sau từ “Có nhớ” là kỉ niệm.
-> Hỏi người về xuôi, cũng là nỗi lo âu, phấp phỏng của người dân Việt Bắc.
* Những kỉ niệm được nhắc đến:
- Kỉ niệm về một thời gian nan, khổ cực nhưng vẻ vang, oanh liệt:
+ Những ngày - mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.
. Tả thực về sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên Việt Bắc.
. Tượng trưng cho những khó khăn, thử thách cơ cực mà đồng bào và cán bộ đã phải chịu đựng và vượt qua.
+ Khi kháng Nhật thuở còn Việt minh
-> Những ngày đầu kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng.
=> Gợi nhắc những tháng ngày người cán bộ kháng chiến sống, chiến đấu ở Việt Bắc.
- Kỉ niệm về không gian Việt Bắc:
+ Chiến khu: quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến.
+ Những nhà – hắt hiu lau xám
. Gợi hình ảnh mái tranh nghèo của đồng bào Việt Bắc.
. Gợi thiên nhiên Việt Bắc hoang sơ, hiu hắt nhưng vẫn thi vị, trữ tình.
+ Núi non –> Thiên nhiên hùng vĩ, trùng điệp.
+ Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào -> những địa danh đóng vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
=>Không gian tiêu biểu, gắn liền với cuộc kháng chiến ở Việt Bắc.
Kỉ niệm về cuộc sống, con người ở Việt Bắc:
+ Khó khăn, gian khổ “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
-> Hiện tượng tiểu đối vừa gợi sự gian khổ vừa cụ thể hóa mối thù của dân tộc như đang đề nặng trên vai.
+ Giàu tình nghĩa:
. Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
->Nghệ thuật nhân hóa. Mượn hình ảnh rừng núi để nói lên nỗi nhớ của người Việt Bắc.
. Đậm đà lòng son
-> Tấm lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với Đảng.
=> Khéo léo gợi lại những kỉ niệm ở Việt Bắc, nhắc nhở người cán bộ về xuôi đừng quên Việt Bắc.
* Triết lý nhân sinh: Mình đi mình có nhớ mình
- Nhắc nhở vấn đề quên nhớ
- Cách ứng xử với quá khứ với cội nguồn.
* Đặc sắc nghệ thuật:
- Điệp từ “nhớ”, đại từ xưng hô “mình-ta” tạo nên âm điệu du dương cho cả đoạn thơ.
- Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết của ca dao, dân ca, của điệu thơ lục bát đậm đà bản sắc dân tộc,
=> Vượt ra ngoài những câu hỏi, nó còn diễn tả một vấn đề mang màu sắc nhân sinh - vấn đề quên , nhớ, thái độ ứng xử của mỗi người đối với quá khứ, cội nguồn.
3. Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ.
************************
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau đây: “Ta với mình, mình với ta… đều đều suối xa”.
DÀN BÀI
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Trích dẫn thơ.
II.Thân bài:
1. Người ra đi khẳng định lòng chung thủy của mình:
“Ta với mình, mình với ta....
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
- Mượn cách so sánh, ví von quen thuộc của ca dao để khẳng định nghĩa tình thủy chung son sắt giãi “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
2. Nỗi nhớ Việt Bắc được diễn tả cụ thể:
- Nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:
+ Nghệ thuật so sánh “…như nhớ người yêu” -> Cách so sánh mới lạ, sáng tạo thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. Người đọc có thể thấy tình cảm của người ra đi dào dạt biết chừng nào.
+ Hình ảnh gợi cảm, đầy thi vị, hiện lên trong những khoảng không gian và thời gian khác nhau “…bản cùng sương”, “…bếp lửa”, “trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương…” “ngòi Thia”, “sông Đáy”…Mở ra một không khí thanh bình, địa danh gắn liền với Việt Bắc.
- Nhớ cuộc sống khó khăn, gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa được tác giả thể hiện bằng những hình ảnh tượng trưng “củ sắn lùi”, “bát cơm”, “chăn sui”… kết hợp với các từ gần nghĩa “chia”, “sẻ”, “cùng” cho người đọc cảm nhận được sự “chia ngọt sẻ bùi” của người dân Việt Bắc với người cán bộ về xuôi.
- Nhớ người mẹ Việt Bắc:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫybẻ từng bắp ngô”
Gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã cưu mang đùm bọc người chiến sĩ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình không thể phai nhòa trong kí ức người về xuôi.
- Khung cảnh sinh hoạt cơ quan và những âm thanh quen thuộc:
+ Khung cảnh quen thuộc với những hình ảnh quen thuộc, tiêu biểu cho sinh hoạt trong kháng chiến “…lớp học i tờ”, “ Đồng khuya đuốc sáng, những giờ liên hoan”
+ Câu thơ đối ý “Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn gian khổ khó khăn.
+ Âm thanh “ tiếng mõ”, “ chày đêm” đặc trưng của Việt Bắc phản ánh cuộc sống, sinh hoạt yên ả thanh bình nơi núi rừng.
- Nghệ thuật:
+ Điệp từ “ nhớ gì, nhớ từng, nhớ sao “ được lặp đi , lặp lại đã nhấn mạnh, khắc sâu nỗi nhớ trong tâm tư của người ra đi.
+ Hình ảnh, âm thanh gợi cảm được chắt lọc từ cuộc sống.
+ Giọng thơ bồi hồi, xao xuyến của một dòng hoài niệm chứa chất ân tình.
* Kết bài: (Đánh giá chung về đoạn thơ
Đề 4: Phân tích đoạn thơ sau: “Ta về mình có nhớ ta
…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
DÀn bÀi
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn thơ.
2. Thân bài : Đoạn thơ chỉ có mười câu nhưng đã thu gọn sắc màu bốn mùa, cả âm thanh, con người Việt Bắc.
a. Hai câu mở đầu thâu tóm nội dung, cảm hứng của cả đoạn
+ Câu hỏi tu từ: vừa là lời thoại, vừa là cầu nối để chuyển sang câu sau. Đây cũng chính là cái cớ để bày tỏ nỗi nhớ của mình “ nhớ hoa cùng người”.
+ Cách giới thiệu mang tính chất khái quát về hai hình ảnh không thể tách rời trong búc tranh Việt Bắc.
. Hoa: là vẻ đẹp tinh túy nhất của thiên nhiên được kết tinh từ hương đất, sắc trời. Hoa ở còn mang nghĩa ẩn dụ cho thiên nhiên Việt Bắc
. Người là con người Việt Bắc sâu nặng nghĩa tình .
b. Bức tranh bốn mùa ở Việt Bắc:
* Mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Gam màu chủ đạo : màu xanh
+ Màu xanh lặng lẽ của rừng già.
+ Màu xanh ngằn ngặt tràn đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá.
+ Màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn – màu xanh của núi rừng “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.
-> Thâm u, trầm mặc.
- Hình ảnh những bông hoa chuối “đỏ tươi”
+ Như những bó đuốc thắp sáng, làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người, xua tan cái lạnh lẽo, hoang vu của núi rừng.
+ Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ màu sắc mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng.
- Hình ảnh con người:
+ Con người gắn với lao động.
+ Tư thế khỏe khoắn, hiên ngang đứng trên đỉnh đèo tỏa sáng cùng thiên nhiên.
-> Sự hòa sắc tài tình làm cho mùa đông Việt Bắc không lạnh lẽo, hoang vu mà vẫn tươi tắn và ấm áp.
* Mùa xuân:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
- Hình ảnh “Mơ nở trắng rừng”
+ Màu trắng bạt ngàn
+ Màu trắng bung nở
+ Màu trắng trải dài, bao phủ không gian núi rừng VB.
-> Rừng chuyển từ xanh sang trắng, sắc trắng tinh khiết, sáng trong tràn đầy sức sống.
-> Cảnh đẹp lãng mạn, tươi mới.
- Hình ảnh con người gắn với lao động nhẹ nhàng ‘Đan nón chuốt từng sợi giang”
-> Cần cù, khéo léo, tỉ mỉ, tài hoa.
=> Để thương để nhớ cho người ra đi.
* Mùa hè:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thiên nhiên:
+ Âm thanh: Tiếng ve kêu -> Ấn tượng về thính giác.
+ Màu sắc: Rừng phách đổ vàng -> Ấn tượng về thị giác.
-> Sự chuyển đổi cảm giác thật thú vị.
-> Màu vàng của rừng phách hòa quyện với màu vàng của nắng hè tạo nên một không gian tươi sáng, rực rỡ.
+ Chữ “đổ”
. Gợi sự chuyển biến mau lẹ của màu sắc.
. Thể hiện chính xác khoảnh khắc hè sang.
- Con người:
+ Cách xưng gọi: Cô em gái -> Thân gần như tình ruột thịt.
+ Công việc “hái măng một mình” ->Sự cống hiến thầm lặng, biểu tượng cho hậu phương vững chắc.
=> Tươi đẹp, có âm thanh rộn rã, màu sắc tươi sáng, hài hòa.
*Mùa thu:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên vào ban đêm
+ Có ánh trăng thu tròn đầy, viên mãn, sáng vằng vặc.
+ Có cánh rừng VB tắm dưới ánh trăng thu.
+ Trăng rọi qua kẽ lá tạo nên thảm trăng lung linh, huyền ảo, đẹp mơ màng.
+ Cụm từ “Trăng rọi hòa bình” giàu sức gợi. Trăng không chỉ ban phát ánh sáng mà còn biểu tượng cho hòa bình.
Hình ảnh con người:
+ Cất cao tiếng hát “ân tình, thủy chung”
-> Con người VB son sắt, thủy chung.
+ Đại từ “ai” mở rộng đối tượng, tạo nên sự tình tứ cho câu thơ.
=> Mùa thu đẹp, thanh bình, yên ả
- Nghệ thuật:
+ Câu lục tả cảnh, câu bát tả người, thiên nhiên và con người như hòa quyện vào nhau.
+ Điệp từ “nhớ”
+ Cách xưng hô “ta-mình”.
3. Kết bài: (Đánh giá chung về đoạn thơ)
**************************
3. ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm) (2020- đợt 1)
3. ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm) (2020- đợt 1)
1. Tác giả:
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giàu chất trí tuệ.
2. Bài thơ:
a. Xuất xứ: Đất nước là phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng (được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971).
b. Nghệ thuật:
+ Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi.
+ Giọng điệu biến đổi linh hoạt.
+ Sức truyềncảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
b. Ý nghĩa văn bản: Một cách cảm nhận mới về đất nứơc, qua đó khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.
3. Luyện đề:
Đề 1: Phân tích đoạn thơ sau:“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.... muôn đời”
* Mở bài:
- Giới thiệu đoạn thơ
- Trích nguyên văn đoạn thơ.
* Thân bài: Cách cảm nhận độc đáo của tác giả về quá trình hình thành, phát triển của đất nước.
a. Đất nứơc được hình thành từ những gì bé nhỏ, gần gũi, riêng tư trong cuộc sống của mỗi người.
- Đất nước có từ lâu đời:
+ Cách xưng hô: Ta
+ Lời thơ “ngày xửa ngày xưa”
+ Những từ “có trong”, “bắt đầu”, “lớn lên”Tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước.
- Đất nước được hình thành từ những truyền thống cao đẹp của dân tộc:
+ Truyền thống văn hóa, phong tục lâu đời của nhân dân: ăn trầu, bới tóc, cách gọi tên cái kèo, cái cột dân dã.
+ Truyền thống yêu nước bền bỉ, kiên cường, được gợi lại qua truyền thuyết Thánh Gióng, nhổ tre mà đánh giặc.
+ Truyền thống lao động cần cù làm ra hạt gạo
Đất nước được cảm nhận rất cụ thể trong những cái gần gũi hằng ngày, trong những gương mặt dung dị đời thường của nhân dân, trong mối qua hệ ruột thịt thân thương gần gũi.
- Đất Nước được cảm nhận theo chiều rộng của không gian, chiều dài của thời gian và chiều sâu của lịch sử: Mượn hình thức tâm tình với người con gái yêu thương, tác giả đã định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, cách đặc biệt của thơ.
+ Đất nước trở nên gần gũi, thân thương gắn bó. Đó là: con đường làng, mái trường anh học, dòng sông em tắm, góc phố, đình làng, cây đa, bến nước,... nơi lứa đôi hò hẹn, là câu ca dao quen thuộc “khăn thương nhớ ai...”.
+ Đất nước mênh mông, giàu đẹp:
. Những từ núi bạc, biển khơi, mang âm hưởng của thành ngữ dân gian, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp.
. Thời gian đằng đẵng: dài lâu, liên tục, bền bỉ nhân dân dựng nước và giữ nước.
. Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ : thể hiện niềm yêu thương, tự hào.
+ Đất nước có cội nguồn văn hóa, phong tục lâu đời
. Những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết: chim, rồng, Lạc Long Quân, bọc trăm trứng, cùng tụ về trong trừơng liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên tầm khái quát của ý thơ:
Dân tộc ta con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc;
Đất nước ta là nơi đất lành chim về, nước thiêng rồng ở
Dân tộc Việt là anh em một nhà.
+ Đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân:
. Ở mọi phương diện: Địa lý, lịch sử, văn hóa,..
. Đất nước còn là sự kết tinh thống nhất sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ “đã khuất” đến hiện tại “bây giờ” và tương lai “sinh con đẻ cái”
. Trách nhiệm của thế hệ hôm nay “gánh vác phần người đi trước để lại, dặn dò con cháu chuyện mai sau”, “mang đất nước đi xa” -> Nặng nề mà vinh quang – mang đất nước đến chân trời hòa bình, ấm no, hạnh phúc.
. Lời nhắn nhủ “ Hằng năm... giỗ tổ” -> Nhắc nhở chúng ta phải biết nhớ về nguồn cội với tình yêu thành kính, thiêng liêng.
b. Đất Nước là sự hòa quyện không thể tách rời giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc:
- Đất Nước có trong mỗi chúng ta:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Xưng hô “anh - em” tha thiết-> nhà thơ nhắn nhủ: Đất nước không chỉ tồn tại khách thể mà đã hóa thân trong mỗi người trở thành một phần trong tâm hồn, trí tuệ của mỗi người của anh và em.
- Đất Nước là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung:
+ Đất Nước có trong tình yêu đôi lứa:
“Khi hai đứa cầm tay nhau
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”
® tình yêu đôi lứa riêng tư đã tự mang trong nó vẻ đẹp hài hòa nồng thắm của tâm hồn dân tộc.
+ Đất Nước có trong tình yêu cộng đồng:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn”
® Cái riêng của tình yêu đôi lứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước, mỗi chúng ta đã nối vòng tay lớn với cộng đồng tạo thành khối đại đoàn kết làm nên đất nước vẹn tròn to lớn, trường tồn, phát trưởng.
+ Trách nhiệm đối với đất nước cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân bởi
“ Đất Nước là máu xương của mình”
->Phải biết – “Gắn bó” bằng tình yêu tha thiết, “san sẻ” bằng ý thức trách nhiệm và khi cần có thể “hóa thân” bằng hành động hi sinh cho đất nước, dâng hiến trọn vẹn cho đất nước.
-> Điệp ngữ “phải biết”vừa là một mệnh lệnh vừa là tiếng nói của con tim tạo thành chất trữ tình chính luận sâu sắc của chương thơ.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi.
+ Giọng điệu biến đổi linh hoạt.
+ Sức truyềncảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
* Kết bài: Đánh giá chung về đoạn thơ.
*************************************
4. Sóng (Xuân Quỳnh) (2021- đợt 1)
4. Sóng (Xuân Quỳnh) (2021- đợt 1)
1.Tác giả:
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn, vùa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.
2.Bài thơ:
a. Xuất xứ:
Bài thơ sóng được Xuân Quỳnh sáng tác trong một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình) năm 1967, in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào (1968).
b.Đề tài: Tình yêu
c. Chủ đề:mượn hình tượng sóngđể diễn tả tình yêu của người phụ nữ. Sóng là ẩn dụ cho tâm hồn người phụ nữ đang yêu – một hình ảnh đẹp và xác đáng.
d. Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ truyền thống; cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo, giàu sức liên tưởng.
Xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết.
e. Ý nghĩa văn bản:Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng:tình yêu tiết tha, nồng nàn, đầy khát vọngvà sắt son chung thủy, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
4. Luyện đề: Tự học vở ghi
*************************************
5. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
5. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
1. Tác giả:
Nguyễn Tuân là nhà văn tài hoa, uyên bác, độc đáo. Ông là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp.
=> Là nhà văn lớn, có vị trí rất quan trọng , đóng góp lớn cho VHVN hiện đại.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ: Rút từ tập tùy bút Sông Đà (1960) - kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân.
b. Tóm tắt tác phẩm: Bài tuỳ bút viết về ông lái đò Lai Châu – Tây Bắc và con sông Đà. Ông lái đò là một người lão luyện, từng trải hiểu biết và giỏi giang trong nghề lái đò. Ông là người lái đò tài hoa nghệ sĩ, đã từng xuôi ngược hơn một trăm lần trên sông Đà. Ông rất gan dạ và thông minh. Trên dòng sông Đà ông như một viên tướng xung trận oai phong, linh hoạt, bình tĩnh, tỉnh táo để đối đầu với những thác ghềnh cuồng bạo của sông Đà.
Qua bài tuỳ bút này, người đọc cũng thấy được sự hùng vĩ dữ dội của con sông Đà, thế nhưng sông Đà cũng rất thơ mộng và gợi cảm, nó tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Hai bên bờ sông cảnh trí rất nên thơ, màu sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ , đặc biệt sông Đà đầy triển vọng trong cuộc sống tương lai.
c. Nghệ thuật:
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ, thú vị.
- Từ ngữ phong phú,sống động,giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu,lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình.
d.Ý nghĩa văn bản : Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc ; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với đất nước và con người Việt Nam.
3. Kiến thức cơ bản:
* Hình tượng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Sông Đà nằm ở vùng Tây Bắc nước ta. Nó hiện lên trên trang văn của Nguyễn Tuân như một “nhân vật” có hai nét tính cách trái ngược nhau:
Sông Đà hung bạo, dữ dằn
* Lời đề từ:
“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”(Bronlewski)
-> Gợi nhiều liên tưởng thú vị:
+ Tiếng hát của những người lao động trên sông.
+ Tiếng của sông Đà, là tiếng sóng, tiếng gió, tiếng thác nước trên mặt dòng sông.
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” (Mọi dòng sông đều chảy về phía Đông, chỉ có sông Đà chạy về hướng Bắc).
+ Cá tính mạnh mẽ, riêng biệt của sông Đà.
+ Hé mở cho người đọc về một vẻ đẹp độc đáo của sông Đà.
* Cảnh đá bờ sông:
“Dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
+ Liên tưởng đến hai bên bờ sông là những khối đá, núi đá trùng điệp dựng đứng.
+ “vách thành” còn gợi lên sự vững chãi kiên cố.
+ “Đúng ngọ mới có mặt trời”
-> Không chỉ có vách đá cao mà nó còn lạnh lẽo, tăm tối, âm u.
-“Vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”. ..
+ Động từ “chẹt” kết hợp với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”
+ Hình ảnh “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” và “Có quãng con nai, con hổ...”
-> Diễn tả một cách hình ảnh sự nhỏ hẹp đến nghẹt thở của dòng chảy.
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
+ Nghệ thuật tương phản “mùa hè - lạnh”
-> Sự lạnh lẽo, âm u đến ghê người của khúc sông này.
+ Nghệ thuật so sánh
. “Ngồi trên khoang đò” giống “ đứng ở hè một cái ngõ”
. Ngóng vọng lên vách đá bờ sông với giống ngóng vọng lên “khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”
. Cách dùng từ “cửa sổ nào”, “tầng nhà thứ mấy nào”
-> Độ sâu hun hút của quãng sông này
-> Nghệ thuật so sánh, liên tưởng đã thể hiện độ cao của vách đá, sự lạnh lẽo, âm u, tối tăm của đoạn sông và sự nhỏ hẹp của dòng chảy.
* Quãng mặt ghềnh Hát Lóong
Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy.
+ Điêp từ, điệp cấu trúc câu.
+ Câu văn trùng điệp, móc xích đang nhịp ngắn bỗng duỗi dài ra theo lối tăng tiến.
+ Sử dụng nhiều thanh trắc.
+ Nghệ thuật nhân hóa.
+ Âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập
-> Sự hợp sức của gió, sóng, đá khiến cả ghềnh sông cuộn chảy dữ dằn, tạo nên mối đe dọa đối với bất cứ người lái đò nào qua đây "Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra".
* Cái hút nước
- Giống như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
- Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
- Thuyền bè không dám men gần, nó hút, nó dìm, nó đánh cho tan xác.
… như ô tô sang số ấn ga …
… quay phim, thước phim…
+ Nghệ thuật so sánh và nhân hóa, kể và tả.
+ Liên tưởng và tưởng tượng
+ Vận dụng kiến thức giao thông, điện ảnh.
-> Giúp người đọc cảm nhận được tất cả sức mạnh ghê gớm và sự “độc ác” của những cái hút nước trên song Đà.
* Thác sông Đà:
- Khi ở xa “còn xa lắm mới đến cái thác dưới” đã nghe được tiếng nước thác:
+ Nghe như oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
. Nghệ thuật nhân hóa, biến con sông thành một sinh thể dữ dằn, hung hãn.
. Từ ngữ được sắp xếp theo trình tự tăng dần cả về âm lượng lẫn thái độ.
-> Khoảng cách của tác giả với sông Đà càng lúc càng gần, sự dữ dội của sông Đà càng lúc càng tăng.
+ Rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”.
. Từ “rống” làm ta liên tưởng đến một con quái thú khổng lồ, hung tợn
. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy hình ảnh đàn trâu để tả tiếng của nước, thác, đá.
-> Tất cả đã tạo nên một chuỗi âm thanh hỗn loạn, xô bồ tô đậm sự cuồng nộ của Sông Đà.
- Khi đến gần:“Tới cái thác rồi”.
+ Sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá.
-> Không gian mênh mông, hùng vĩ với sóng, nước, đá.
+ Hình ảnh lũ đá:
. Hành động: mai phục, nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, bày thạch trận, dụ cái thuyền đối phương.
. Diện mạo: "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó"
. Thái độ thì “ hất hàm”, “thách thức”.
-> NT nhân hóa, bút pháp miêu tả độc đáo, sử dụng thuật ngữ của nhiều ngành, Nguyễn Tuân như thổi hồn vào từng thớ đá làm cho chúng vừa xấu xí vừa mang thói du côn của thiên nhiên man dại.
-> Góp phần tô đậm thêm sự hung bạo, dữ dằn của sông Đà - kẻ thù số một của con người Tây Bắc.
=>Hình ảnh sông Đà hung bạo dữ dằn là biểu tượng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Điều đó còn dự cảm về vai trò, vị trí của nó trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
b. Sông Đà thơ mộng, trữ tình:
*Dáng vẻ:
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
- Câu văn dài, mượt mà, giàu chất thơ đã mang lại vẻ đẹp yên ả, nên thơ của dòng sông.
- Điệp từ “tuôn dài”, nghệ thuật so sánh
-> Một con sông đẹp – một vẻ đẹp trẻ trung, duyên dáng, tràn đầy sức sống.
- Con sông được đặt trong không gian núi rừng TB với mây trời, hoa, khói.
-> Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh thủy mặc làm say đắm lòng người.
*Màu nước sông Đà:
- Mùa xuân: dòng xanh ngọc bích.
- Mùa thu: nước sông Đà lại lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
-> Nhà văn nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau để không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của nó mà còn bày tỏ tình cảm yêu mến, tự hào .
* Cái gợi cảm của sông Đà:
- Là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh – Thủy Tinh.
-> Gợi nhiều liên tưởng thú vị.
- Sông Đà như một cố nhân.
-> Cái nhìn nhân hóa, xem con sông như người bạn, người quen cũ thân tình, mang lại cảm giác “đằm đằm ấm ấm” rất bình yên.
- Có khi mang chất Đường thi cổ kính “yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Có khi mang vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Tản Đà “ Dải sông Đà bọt nước lênh bênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
=> Dưới cái nhìn của một nghệ sĩ tài hoa, mải mê đi tìm cái đẹp sông Đà hiện lên thật gợi cảm.
* Phong cảnh đôi bờ:
- Vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn in dấu của lịch sử cha ông: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
- Vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống : “Nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
- Vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
-> Giọng điệu êm ái, trữ tình, vừa cho thấy vẻ đẹp của đời sống hiện đại vừa đưa người đọc về những miền kí ức xa xăm.
=> Khác với vẻ hung bạo, dữ dằn, ở phương diện này, Nguyễn Tuân nhìn ra một con sông đẹp, hiền hòa và đầy chất thơ.
=> Những hình ảnh trái ngược nhau đã hợp lại dựng lên một cảnh sông Đà độc đáo vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng. Đặc biệt với cái nhìn nhân hóa, sông Đà hiện lên như có linh hồn, cá tính của một con người.
c. Nghệ thuật: bút pháp tài hoa uyên bác.
+ Sử dụng linh hoạt nhiều biện pháp tu từ : so sánh, liên tưởng, nhân hóa.
+ Vận dụng kiến thức của nhiều ngành
+ Ngôn ngữ giàu chất thơ.
*************************************
* Hình tượng Người lái đò sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
a. Cuộc đấu tranh với thiên nhiên và tương quan lực lượng:
- Ông lái đò vượt thác là chiến đấu với thiên nhiên:
+ Giành sự sống “giành sự sống từ tay nó về tay mình”.
+ Đó là cuộc chiến đấu gian lao.
-> Được Nguyễn Tuân miêu tả từ góc độ quân sự.
- Tương quan lực lượng:
+ Sông Đà:
. Đông đảo, hùng hậu, hiếu chiến (Sóng, thác, đá, hút nước...)
. Luôn giữ thế chủ động.
+ Ông lái đò:
. Đơn độc trên con thuyền mong manh.
. Hoàn toàn bị động.
-> Cuộc chiến không cân sức giữa con người với thiên nhiên.
b. Nghệ thuật vượt thác của ông lái đò:
*Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất:
Sông Đà:
+ Có bốn cửa tử một cửa sinh.
+ Thách thức, chủ động nghênh chiến.
+ Bủa vây tấn công từ nhiều phía.
+ Tạo không khí căng thẳng, dồn dập, quyết liệt của một trận đánh.
-> Hung hãn, hiểm ác.
- Ông đò:
+ Quyết tâm, kiên cường chiến đấu, không hề nao núng.
+ Cố vượt qua nỗi đau thể xác để tỉnh táo điều khiển con thuyền.
=> Ông đò hiện lên như một chiến binh quả cảm, gan góc, phi thường, phá xong vòng vây thứ nhất.
*Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất:
Sông Đà:Tăng thêm nhiều cửa tử
Sự xảo quyệt của thiên nhiên man dại
Ông đò:
+ Không tự mãn với chiến thắng ở vòng thứ nhất.
+ Dự đoán tình hình, có quyết định sáng suốt.
+ Sông Đà như một con thủy quái , cần có sự kiên cường để thuần phục nó.
+ Bị mai phục, chặn đánh bất ngờ, ông đò bình tĩnh chiến đấu, đưa con thuyền phóng nhanh vào cửa sinh.
=> Người lái đò hiện lên như một vị tướng tài ba điều khiển thế trận, có chiến lược, chiến thuật rõ ràng, chặt chẽ “Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền để thằng đá tướng phải tiu nghỉu cái mặt xanh lè that vọng”.
* Trùng vi thạch trận vòng thứ ba:
+ Sông Đà: “Bên phải bên trái đều là luồng chết cả”
+ Ông đò: “ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa”, “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” ->. Từ chỗ “nắm lấy cái bờm sóng”, “cưỡi lên thác”, “đè sấn lên…”, xé toang hết lớp này đến lớp khác của trùng vi thạch trận mà thuần phục dòng sông… Lái đò như vậy đã đạt đến trình độ siêu phàm không phải là một người lái đò bình thường mà đã đạt đến trình độ của một nghệ sĩ tài hoa. Nổi bật tư thế chiến thắng của con người trước thiên nhiên, một thiên nhiên dữ dội và nghiệt ngã.
- Nguyên nhân chiến thắng của ông lái đò: sự ngoan cường, dũng cảm và nhất là kinh nghiệm sông nước.
Hình ảnh ông lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đã tìm được nhân vật mới: những con người đáng trân trọng, ngợi ca, không thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một thời” mà là những người lao động bình thương – chất “vàng mười của tây Bắc”. Qua đây, nhà văn muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu, mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
* Kết bài: (đánh giá chung về người lái đò).
*************************************
Đề 1:
…Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới….
…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, T.186)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng Sông Đà qua các đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân?
*******************************
Đề 2
Anh / chị hãy cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà trong đoạn trích sau:
…Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trọng nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một. Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận Sông Đà…
…Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòe sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.
Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
ĐỀ 3
Anh / chị hãy cảm nhận hình tượng sông Đà trong đoạn trích sau:
…Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà. Cũng không ai nghĩ rằng đó là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven song ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hưu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà).
************************
6. AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
1.Tác giả:
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở Quảng Trị. Là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực; chuyên về bút kí, là "một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay" (Nguyên Ngọc). Sáng tác luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, nghị luận và tư duy đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài hoa.
2.Tác phẩm:
a. Xuất xứ: Viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm gồm ba phần, đoạn trích học trong SGK nằm ở phần thứ nhất của tác phẩm.
*******************
3. Kiến thức cơ bản
Vẻ đẹp của Sông Hương trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Thủy trình của sông Hương:
a. Ở nơi khởi nguồn – Có quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: (THPT 2019)
Là "bản trường ca của rừng già” với nhiều cung bậc
Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
+ Mạnh mẽ, hùng tráng:
. Câu văn dài được chia làm nhiều vế như gợi dậy cái dư vang của trường ca.
. Thủ pháp điệp cấu trúc, với nhiều tính từ, động từ mạnh.
Con sông toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, mạnh mẽ.
+ Nên thơ, tình tứ:
“dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”
->Con sông toát lên vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng và đầy mê đắm.
=> Sông Hương như một bản trường ca với nhiều cung bậc vừa hung vĩ, mạnh mẽ vừa dịu dàng, mềm mại.
Là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.
+ Nghệ thuật so sánh như một cô gái Digan phóng khoáng và man dại tạo ấn tượng về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất tình tứ của con sông.
+ Nghệ thuật nhân hóa Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sang khiến con sông hiện lên như một con người có cá tính, tâm hồn.
=> So sánh, liên tưởng thú vị và độc đáo.
Là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
“Khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
+ Sông Hương đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa Huế.
+ Nhưng “dòng sông hình như không muốn bộc lộ” cái công lao to lớn ấy. Nó âm thầm chảy và lặng lẽ cống hiến nhiều thế kỉ qua.
=> Ở nơi khởi nguồn sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống vừa mãnh liệt, hoang dại; vừa dịu dàng, say đắm, trí tuệ.
b. Đến ngoại vi thành phố Huế (Tham khảo 2021)
- Sông Hương- người gái đẹp:
+ Bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài
+ Đến với thành phố Huế như “một cuộc tìm kiếm có ý thức” người tình nhân đích thực.
-> Gợi lại câu chuyện tình yêu lãng mạn nhuốm màu cổ tích.
-> Hành trình đến với Huế là một hành trình gian truân, vượt qua rất nhiều thử thách.
- Sông Hương phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình:
+ Dòng chảy:
. Chuyển dòng lên tục, vòng, uốn mình, chuyển hướng, vẽ, ôm, xuôi dần,...
. Mềm như một tấm lụa kết nối những địa danh của xứ Huế
-> Lời văn giàu chất họa, sử dụng một loạt động từ, gợi lên vẻ đẹp trẻ trung, sống động với những đường cong tuyệt mĩ của người gái.
+ Màu nước:
Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím
-> Vẻ đẹp độc đáo vơi sắc màu biến ảo, đó là niềm tự hào của người dân xứ sở.
+ Cảnh vật đôi bờ
. Hai dãy đồi sừng sững như thành quách.
. Rừng thông u tịch
. Lăng tẩm đồ sộ
. Chuông chùa ngân nga
-> Vẻ đẹp trầm mặc “như triết lý, như cổ thi”.
=> Quan sát tinh tế, kiến thức sâu rộng, kết hợp tả - kể, Sông Hương hiện lên mềm mại, hữu tình, êm ả, trầm mặc, hài hòa với cảnh quan Huế.
c. Sông Hương chảy vào thành phố:
* Khi gặp được Huế:
+ Sông Hương quyến rũ đầy nữ tính, đậm nét Á Đông:
. Sông Hương vui tươi hẳn lên … kéo một nét thẳng thực yên tâm…
-> Nghệ thuật nhân hóa, sông Hương như mang tâm trạng của người đi xa tìm về, náo nức, bồi hồi giữa bờ bãi thân thuộc.
. Sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu.
-> So sánh lạ, dùng tiếng vâng vốn trừu tượng, e ấp, ngập ngừng để tả hình dáng mềm mại của sông Hương.
. Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình: Huế ... Vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ,...cây đa cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền thuyền xúm xít... Lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài,...
-> Sông Hương đẹp nguyên sơ, cổ kính.
+ Sông Hương – điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế:
. Lưu tốc sông Hương “Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”.
. So sánh với sông Nê – va “Sông Nê-va chảy nhanh quá”
. Mượn hình ảnh Hê-ra-clít “đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh”
=> Điệu chảy lặng lờ cũng chính là tình cảm của sông Hương với Huế hay đó cũng chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương.
+ Sông Hương – người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya:
“ Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
-> Cái thú vị trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế trên không gian sông nước, cho thấy sự gắn bó giữa sông Hương và văn hóa Huế
=> Sông Hương nhẹ nhàng, cổ kính, êm ả, dịu dàng giữa long thành phố Huế.
* Khi rời thành phố:
Sông Hương chếch về hướng chính bắc.
“Đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trán Bao Vinh xưa cổ”. Tác giả gọi đó là:
+ Nỗi vấn vương
+ Một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.
+ Con sông “như nàng Kiều trong đêm tình tự”, “trở lại tìm Kim Trọng của nó để nói một lời thề trước khi về biển cả”.
-> Liên tưởng bất ngờ, độc đáo và thú vị.
=> Sông Hương - người tình dịu dàng chung thủy, lưu luyến từ biệt thành phố Huế - người yêu của nó.
d. Dòng sông của lịch sử và thi ca:
- Trong lịch sử:
+ Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc.
+ Sông Hương như một công dân sẵn sàng dâng hiến cuộc đời cho đất nước.
-Trong đời thường:
+ Sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của “một người con gái dịu dàng của đất nước”
-Trong thi ca:
Sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho các văn nghệ sĩ.
Sông Hương được cảm nhận như một người con gái:
Chung thủy trong tình yêu.
Anh dũng trong chiến đấu.
Tài hoa trong nghệ thuật.
Khiêm nhường, lặng lẽ trong đời thường.
- Nghệ thuật:
+ Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
+ Ngôn từ phong phú, gợi hình, gợi cảm; câu văn giàu nhạc điệu.
+ Các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, so sánh được sử dụng một cách hiệu quả…
********************
Đề 1: THPTQ - Năm 2019
Anh/ chị hãy cảm nhận hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét
[…] Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà hình như dòng sông không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
Anh/ chị hãy cảm nhận hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Để 2: Đề tham khảo năm 2021
“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cánh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam của thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chú được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất chả sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đề 3
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Đa- nuýp của Bu- đa- pét; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông.Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh… Đấy là điệuslow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
“Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến rạ đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ...”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm long người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.”
Phân tích hình tượng sông Hương trong đoạn trích trên, từ đó nhận xét về tính trữ tình của bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường.
*********************************
8. VỢ CHỒNG A PHỦ
Tô Hoài
I.Tiểu dẫn:
1. Tác giả
- Tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh năm 1920
- Quê : Hà Đông cũ (nay thuộc Hà Nội).
- Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau của đất nứơc.
- Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), O Chuột (1942), Truyện Tây Bắc (1953).2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: Vợ chồng A Phủ (1952) là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài, in trong tập Truyện Tây Bắc (1953), đựoc giải Nhất giải thửơng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Tác phẩm gồm hai phần, đoạn trích trong SGK là phần một.
b. Tóm tắt: Truyện kể về một đôi vợ chồng người Mèo ở vùng Tây Bắc: Mị và A Phủ.
Ngày xưa bố mẹ Mị lấy nhau không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí. Đến khi mẹ Mị qua đời, bố Mị già yếu mà món nợ vẫn còn (mặc dù mỗi năm đã trả lãi một nương ngô). Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai nhà thống lí Pá Tra lừa bắt cóc Mị về làm vợ. Cúng trình ma xong, Mị trở thành con dâu gạt nợ ở nhà thống lí, khổ hơn con trâu, con ngựa. Mị sống lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa. Mị toan ăn lá ngón để tự tử. Thương cha già, Mị không đành chết, ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Một cái tết nữa lại đến. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị thấy lòng phơi phới. Cô uống rượu ừng ực từng bát, rồi chuẩn bị lấy váy áo đi chơi. Nhưng A Sử đã trói đứng Mị bằng một thúng sợi đay. Ngày hôm sau, Mị được chị dâu cởi trói để đi lấy thuốc cho chồng.
A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Anh là người lao động giỏi, gái trong làng nhiều người mê nhưng anh không cưới được vợ vì tập tục cưới xin của làng. Tết đến, A phủ đi chơi, thấy A Sử con trai nhà thống lí Pá Tra đến phá cuộc chơi. A Phủ đã đánh A Sử, vì vậy anh bị Thống lí Pá Tra bắt, bị đánh đập và bị phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. A Phủ phải vay nợ của thống lí và ở làm việc để trừ nợ. Ở nhà Thống lí, A Phủ lao động rất giỏi nhưng do sơ ý bị hổ bắt mất một con bò. Anh bị Thống lí trói đứng và bỏ đói đến suýt chết. Lúc đầu nhìn cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên. Nhưng một đêm, nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị xúc động, thương cảm, Mị đã cắt đứt dây trói cứu A Phủ, cả hai cùng trốn sang Phiềng Sa. Họ đã thành vợ chồng. Ở đây nhờ sự giác ngộ Cách mạng, cả hai trở thành du kích góp phần đánh giặc bảo vệ dân làng.
3. Nội dung:
- Nhân vật Mị:
- Cuộc sống thống khổ
- Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc.
- Sức phản kháng mạnh mẽ
- Nhân vật A Phủ
- Số phận éo le
- Phẩm chất tốt đẹp.
- Giá trị của tác phẩm :
a. Giá trị hiện thực:
+ Miêu tả chân thực số phận của người dân nghèo miền núi
+ Phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị.
b. Giá trị nhân đạo:
+ Thể hiện tình yêu thương, thông cảm, đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi.
+ Tố cáo, lên án, phơi bày bản chất xấu xa, tàn bạo của giai cấp thống trị.
+ Trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt.
+ Tin tưởng khả năng cách mạng của nhân dân Tây Bắc,…
II. Kiến thức: Phân tích nhân vật Mị
a.Cuộc sống thống khổ:
* Trước khi bị bắt làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí:
- Mị là cô gái trẻ, đẹp, tài hoa, yêu đời
- Khát khao tự do.
- Hiếu thảo.
–> Bông hoa rực rỡ của núi rừng Tây Bắc.
* Khi bị bắt làm con dâu gạt nợ ở nhà thống lí:
- Ban đầu:
+ Mị đau đớn, uất ức, “có đến hàng mấy tháng đêm nào Mị cũng khóc”.
+ Phản ứng quyết liệt : trốn về nhà với nắm lá ngón hái trong rừng, lạy cha để tìm đến cái chết -> Sự tuyệt vọng, bế tắc, ý thức về giá trị của bản thân, ý thức phản kháng cuộc sống không ra sống.
- Nỗi đau thể xác:
+ Bị bóc lột sức lao động: Trong thân phận người con dâu gạt nợ, Mị chỉ là một công cụ lao động: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”
+ Bị đánh đập tàn nhẫn: Bị trói“A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mỹ xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột”. Bị đạp “Mị cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc dấu cho A Sử. Lúc nào Mị mỏi quá, cựa mình, những chỗ lằn trói trong người lại đau ê ẩm. Mị lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp chân vào mặt Mị”. Bị đánh: Có đêm A Sử chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử ngứa tay đánh Mị ngã xuống cửa bếp”
->Mối quan hệ giữa Mị và A Sử là quan hệ giữa nô lệ và ông chủ.
Nỗi đau tinh thần:
+ Câm lặng, âm thầm, lẻ loi:
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy,…, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.(Tr4) “Mỗi ngày Mỵ càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.(Tr.6)
+ Bị tê liệt cả tinh thần phản kháng, lòng yêu đời, yêu sống, tâm hồn trở nên chai sạn, vô cảm
“ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.(Tr.6)
+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian
“Cái buồng Mị nằm kín mít…” (Tr.6)
+ Bị trói buộc bởi những hủ tục lạc hậu
“Cúng trình ma” (Tr.13)
-> Tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi. Người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn.
b. Sức sống tiềm tàng và khát vọng hạnh phúc:
* Không khí rạo rực của mùa xuân ở Hồng Ngài
- Thời tiết:
“gió và rét dữ dội”.
- Âm thanh:
“trẻ con chơi đùa, tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa”
- Màu cỏ tranh vàng ửng, màu sắc sặc sỡ của váy áo phơi trên những mỏm đá.
=> Thiên nhiên, đất trời thay đổi, không khí đón tết náo nức, khiến sức sống trong Mị trỗi dậy.
* Đêm tình mùa xuân:
Khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình
+ Tâm trạng của Mị:
. Ý thức về thời gian – Cảm nhận được ngày tết.
. Kỉ niệm sống dậy
“Lòng Mị đang sống về ngày trước”
“ Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi...Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”
-> Vượt ra khỏi trạng thái thờ ơ, nguội lạnh lâu nay, sống lại với những hồi ứ đẹp
. Ý thức về tuổi xuân và bừng tỉnh niềm ham sống của tuổi trẻ.
“ Mị thấy phơi phới,..vui sướng, Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ...”
-> Sự vui tươi đầy sức sống đang dâng lên mạnh mẽ.
. Ý thức về thân phận:
“A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay... Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”
-> Biểu hiện của sự phản kháng với hoàn cảnh,
những giọt nước mắt chứng tỏ tâm hồn Mị thật sự đã hồi sinh
và ý thức rất rõ về hoàn cảnh đau xót của mình.
. Mị muốn đi chơi
-> Khát khao tự do, khát khao được sống .
=> Từ một cô gái bị vùi dập, sống như một cái xác không hồn, tâm hồn Mị đã hồi sinh trong đêm tình mùa xuân với tâm trạng bồi hồi, xúc động, thức tỉnh.
+ Hành động:
. Nhẩm thầm theo bài hát của người đang thổi sáo.
-> Chứng tỏ tâm hồn đang yên ngủ, an phận của Mị đã bắt đầu hồi sinh với nhiều khát vọng.
. Uống rượu “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ực từng bát”
-> Uống như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng hay chính là sự tìm quên hiện thực.
. Xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng
-> Như muốn thắp sáng, muốn thay đổi cuộc đời mình.
. Chuẩn bị đi chơi “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa”.
-> Câu văn ngắn, miêu tả những hành động dứt khoát như đang có gì thôi thúc ở bên trong.
=> Hành động khác thường, thể hiện trạng thái vùng lên mạnh mẽ.
Khi bị A Sử trói một cách dã man “…”
+ Tâm trạng:
. Khát vọng sống vẫn mãnh liệt
“Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” .
-> Tiếng sáo vẫn trỗi dậy lặp đi lặp lại như bài ca về sức sống bất diệt.
. Đau khổ
“Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”
-> Đau xót cho thân phận.
. Chập chờn giữa quá khứ với hiện tại.
“Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ”. “Mị lúc mê, lúc tỉnh”
-> Quá khứ tươi đẹp, hiện tại phũ phàng đau đớn cứ đan xen trong tâm hồn Mị.
. Mị sợ chết “Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết”
-> Lòng yêu đời, ham sống đã thực sự trỗi dậy trong Mị.
+ Hành động:
. “Mị vùng bước đi”
-> Hành động quyết liệt, mạnh mẽ .
=> Diễn biến tâm lí và hành động của Mị đã thể hiện:
- Một tâm hồn khao khát hạnh phúc,
- Một sức sống tiềm tàng mãnh liệt;
- Tình cảm nhân đạo của nhà văn.
c. Sức phản kháng mạnh mẽ: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói (Lí giải việc A Phủ bị trói)
- Mị khởi đầu trong trạng thái dửng dưng đáng sợ: “Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay”
-> Phản ứng này của Mị cũng là hiển nhiên vì những cảnh trói người đến chết ở nhà thống lí Pá Tra là chuyện bình thường. Và có lẽ “Mị quen khổ rồi” nên cái khổ của người khác cũng thế thôi.
- Khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ “chảy xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước “Mị cũng phải trói đứng thế kia”
-> Từ đồng cảm, thương thân đẩy Mị tới xúc cảm thương người.
- Thương mình, thương người, Mị càng nhận rõ tội ác của cha con thống lí : “Chúng nó thật độc ác”.
- Lòng thương người lấn át cả nỗi thương thân, đó là quy luật của lòng nhân hậu. Chính điều này làm Mị chiến thắng nỗi sợ , dẫn Mị đến hành động đột ngột mà tất yếu: rút dao cắt dây mây cứu A Phủ.
- Cái sợ lại ập xuống thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực của Mị: chạy theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài. Mị giải thích điều này thật gọn, chắc : “Ở đây thì chết mất”.
-> Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát mình khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.
Nghệ thuật :
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật có nhiều điểm đặc đặc sắc (A Phủ được miêu tả qua hành động, Mị chủ yếu khắc họa tâm tư,…).
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt ; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng ; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo.
- Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán của người dân miền núi.
- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ,…
****************************
Đề 1:
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:
-Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngô, nhưng cũng lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:
-Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị được thể hiện trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm?
****************************
Đề 2:
Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử. Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.
Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đoạn văn trên. Từ đó rút ra nhận xét giá trị hiện thực và nhân dạo của tác phẩm?
****************************
Đề 3:
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị .
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà.Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường. Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu,quả pao rơi rồi...
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
***************************
Đề 4:
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần. Thường khi đến gà gáy sáng, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp.Nhưng đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. trong nhà ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng MỊ tưởng A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào một tiếng “Đi ngay…”, rồi nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc…
Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về giá trị nhân đạo được nhà văn Tô Hoài gửi gắm qua đoạn trích.
*********************
VỢ NHẶT
VỢ NHẶT
Kim Lân
I.Tiểu dẫn:
1. Tác giả
Kim Lân (1920-2007): Thành công về đề tài nông thôn và người nông dân; có một số tác phẩm có giá trị về đề tài này.
2.Tác phẩm
a. Xuất xứ: Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí, 1962) được viết dựa trên một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
b. Bối cảnh của truyện: Nạn đói năm 1945.
c. Nhan đề: Vợ nhặt hiểu theo nghĩa đen là nhặt được vợ. Nhan đề - Tạo ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc, đó là nhặt được vợ như người ta nhặt một món đồ vật vô chủ rơi vãi.
- Nói lên cảnh ngộ, số phận của Tràng và người đàn bà xa lạ. Cái giá của con người chưa bao giờ rẻ rúng đến vậy. Đồng thời thể hiện tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945.
d. Tóm tắt: Một buổi chiều, giữa cảnh tối sầm lại vì đói khát, anh Tràng dẫn theo một người đàn bà về xóm ngụ cư. Mặt hắn có vẻ phớn phở khác thường còn người đàn bà đi sau đầu hơi cúi xuống, rón rén, e thẹn. Lũ trẻ con và người dân trong xóm ngụ cư nhìn theo, trêu chọc và cám cảnh. Trên đường về nhà, người đàn bà thì ngượng nghịu, còn Tràng thì tỏ ra thích chí và tự đắc. Thỉnh thoảng họ nói với nhau những lời vụng về, lúng túng.
Dẫn thị vào cái nhà vắng teo, đúng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, tự nhiên Tràng thấy sờ sợ. Hắn bước ra sân ngóng mẹ và nhớ lại sự việc chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận ấy thế mà thành vợ chồng. Lần trước khi kéo xe bò thóc lên dốc tỉnh, hắn hò lên một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này- Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”, cô nàng đã ton ton chạy ra đẩy xe cho hắn. Lần thứ hai, hắn gặp thị ở cổng chợ, thị rách lắm, áo quần tả tơi như tổ đỉa, hắn mời thị ăn giầu, nhưng thị ngồi xuống ăn một chặp hết bốn cái bánh đúc, rồi sau đó vin vào câu nói “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” của Tràng, thị “về thật”
Bà cụ Tứ khi trở về nhà, không tin vào mắt mình vì có một người đàn bà ngồi ở đầu giường thằng con, lại gọi mình là u. Khi hiểu ra cơ sự, bà lão “cúi đầu nín lặng”, rồi “đăm đăm nhìn người đàn bà”, từ tốn, nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: “các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nghĩ đến ông lão đã mất, đến đứa con gái, đến cuộc đời đau khổ dằng dặc của bà mà lo lắng cho tương lai của đôi trẻ. Tiếng hờ khóc trong đêm vắng đến từ những nhà có người chết đói về khuya càng rõ.
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng sào, Tràng mới trở dậy. Nhà cửa sân vườn đều được dọn dẹp. Bà cụ Tứ đang giẫy những búi cỏ mọc nham nhở ngoài vườn, chị vợ nhặt đang quét sân. Họ cùng ăn sáng với “chè khoán”. Bà cụ Tứ nói đến tương lai. Tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Người vợ nhặt ngạc nhiên khi biết ở đây vẫn phải đóng thuế. Câu nói của chị gợi lại trong Tràng hình ảnh đoàn người đói đi trên đê Sộp với lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
II. KIẾN THỨC:
1.Tình huống truyện: Tràng nhặt vợ giữa bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm các nhân vật vừa ngạc nhiên vừa lo lắng
- Ngạc nhiên: Vì Tràng nghèo, xấu trai, dân ngụ cư mà lại có được vợ - vợ theo, vợ nhặt.
- Lo lắng: Vì giữa nạn đói khủng khiếp, con người đang dở sống dở chết vậy mà Tràng có vợ.
=> Nhan đề đã gói trọn tình huống truyện. - Nhà văn để cho nhân vật tự bộc lộ tính cách và họ vẫn không mất niềm tin vào sự sống, vẫn cưu mang, đùm bọc nhau cùng xây dựng gia đình, hi vọng vào ngày mai tươi sáng.
=> KL đã xây dựng được một tình huống truyện vừa lạ vừa hết sức éo le, vừa bi thảm vừa thấm đẫm tình người. Tình huống truyện cũng tạo cho nhà văn tiếng nói riêng tố cáo thực dân phong kiến đã gây nên cái đói khủng khiếp, đã hạ phẩm giá con người thấp đến mức rẻ mạt, vợ theo, “nhặt” được vợ chỉ với vài bát bánh đúc.
2. Nhân vật Tràng:
- Là người làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già, căn nhà thì rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
- Có phẩm chất hiền lành, tốt bụng và cởi mở - hay đùa vui với lũ trẻ trong xóm ngụ cư, giữa lúc đói, anh sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ.
- Trong hoàn cảnh khốn cùng vẫn khát khao hạnh phúc (Tóm lược việc gặp cô vợ nhặt của Tràng):
+ Câu “Nói đùa chứ, có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình ở nhân vật Tràng.
+ Lúc đầu khi có ý định đưa người đàn bàn xa lạ về nhà Tràng cũng bâng khuâng do dự “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”
->Quyết định và hành động của Tràng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc gia đình của người nông dân nghèo khổ này và đã cụ thể hóa ý đồ nghệ thuật cùa nhà văn “khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”.
+ Trên đường dẫn vợ về nhà: Nét mặt “phớn phở, tủm tỉm cười nụ”, Khi người trong xóm ngạc nhiên, bàn tán “hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình.
->Kim Lân đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động niềm khao khát mái ấm đình và tình thương giữa những con người nghèo khổ đã vượt lên trên hết bất chấp cả cái đói và cái chết.
+ Trong đêm ra mắt mẹ
. Tâm trạng nôn nóng, trông chờ
. Khi được mẹ đồng ý, Tràng “thở đánh phào một cái ngực nhẹ hẳn đi.
->Nhà văn diễn tả thật xúc động tâm trạng của Tràng.
- - Ý thức xây dựng hạnh phúc:
- + Có ý thức chăm sóc vợ.
- + Trân trọng người vợ nhặt, nâng niu hạnh phúc mình có được.
- -Ý thức trách nhiệm với gia đình:
- + Thấy cuộc đời mình từ đây đã đổi khác: “Xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”
- + Niềm vui sướng, hạnh phúc của Tràng đã gắn liền với ý thức về bổn phận, trách nhiệm “hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”, “hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”
- -Nghĩ tới sự đổi thay cho dù vẫn chưa ý thức thật đầy đủ:
- + Tiếng trống thúc thuế vang lên ở đấu ngõ:“Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi”, “Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”
+ Mở đầu và kết thúc truyện thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng.
- Số phận
- + Cuộc đời Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Nếu không có sự thay đổi sẽ phải sống mãi trong sự tăm tối và đói khát.
- + Ở Tràng tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tất yếu.
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tràng nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kề lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
3. Người vợ nhặt:
* Lai lịch, ngoại hình:
- Chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp, và khi xuất hiện lúc thì được gọi bằng “thị”, là cô ả, lúc thì người đàn bà.
- Chân dung thảm thương:
+ Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới gầy yếu xanh xao.
+ Lần thứ hai gặplại, Tràng không nhận ra “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” -> Nạn nhân của nạn đói khủng khiếp.
* Tính cách:
- Khi mới gặp Tràng: Nghe anh hò một câu cho đỡ nhọc, thị đã vùng đứng dậy ton ton chạy ra đẩy xe cho Tràng.
- Gặp lần thứ hai: Sưng sỉa, cong cớn, ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc -> Những xô đẩy của hoàn cảnh đã khiến thị chao chát và chấp nhận làm vợ nhặt.
- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+ Trên đừong về nhà Tràng, thị đã thay đổi hẳn:
. Thị đi sau hắn chừng ba bốn bứơc... -> Thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là ngừơi vợ theo không.
. Có ý thức về giá trị của bản thân. Trứơc cảnh trẻ con chọc ghẹo, người lớn tò mò, thị “khó chịu lắm”, “đôi lông mày nhíu lại”, “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”.
+ Về nhà của Tràng:
. Thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường “Hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.
. Khi bà cụ Tứ về, thị chủ động chào bà bằng u. Trứơc mặt mẹ chồng, thị càng rụt rè “Khẽ nhúc nhích” “Vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ” -> Sự ý tứ, biết lễ nghĩa của cô dâu mới.
. Sáng hôm sau, thị đã trở thành ngừoi vợ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan “Tràng nom thị hôm nay khác lắm...”
=> Từ trong sâu thẳm con ngừơi này vẫn khát khao một mái ấm. Khi đựoc sống trong tình yêu thưong trong mái ấm gia đình, ngừơi đàn bà ấy đã sống đúng với bản chất tốt đẹp của mình.
+ Câu chuyện của chị kể “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang,...” đã mang lại cho Tràng nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ về sự đổi thay dù chưa ý thức thật đầy đủ.
*Vẻ đẹp khuất lấp:
- Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vửong là một lòng ham sống mãnh liệt.
- Phía sau vẻ nhếch nhác lại là một ngừoi biết điều, ý tứ.
- Bên trong vẻ chao chác, chỏng lỏn lại là một ngừơi nhân hậu, đúng mực, biết lo toan.
* Số phận:
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những ngừoi phụ nữ trong nạn đói năm 1945 nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi ngừơi dàn bà ấy đựoc sống trong tình yêu thưong thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
*Nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tràng nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư, giữa lúc đói khát nhất, khi cái chết đang cận kề lại “nhặt” được vợ, có vợ theo. Tình huống éo le này là đầu mối cho sự phát triển của truyện, tác động đến tâm trạng, hành động của các nhân vật và thể hiện chủ đề của truyện.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn; dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, ấn tượng, thể hiện tâm lí tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
***************************
RỪNG XÀ NU –
Nguyễn Trung Thành
I. Tác giả:
- Tên thật Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam Đà Nẵng.
- Bút danh: Nguyên Ngọc, Nguyễn Trung Thành.
- Là nhà văn trửơng thành trong hai cuộc khàng chiến, gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên
- Tác phẩm tiêu biểu: Đất nước đứng lên, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ: Truyện Rừng xà nu được viết năm 1965 đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Trung Trung bộ (số 2, 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2. Ý nghĩa Nhan đề:
- Nhan đề Rừng xà nu là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, có ý nghĩa biểu tựơng cho con người Tây Nguyên.
- Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi của truyện.
3.Tóm tắt
Rừng xà nu trong tầm đại bác của giặc, đang che chở cho dân làng.
Sau ba năm đi lực lượng, Tnú được phép về thăm làng. Đêm đó, tại nhà cụ Mết, cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời của Tnú và dân làng Xô Man trong kháng chiến.
Hồi Mĩ - Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt, Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ trong rừng.Một lần đi liên lạc, Tnú bị giặc bắt và tra tấn dã man nhưng anh không khai báo điều gì. Ba năm sau, anh vượt ngục trở về làng và lập gia đình với Mai.Theo lời động viên của anh Quyết trước lúc hi sinh, Tnú và dân làng chuẩn bị chiến đấu.Nghe tin, bọn giặc kéo về làng đúng lúc đứa con trai đầu lòng của Tnú ra đời. Bắt không được Tnú, bọn chúng bắt vợ con anh tra tấn tàn khốc. Chứng kiến cảnh tượng đó, bất kể lời can ngăn của cụ Mết, Tnú xông ra, nhưng không cứu được vợ con.Giặc bắt Tnú, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay.
Theo lệnh cụ Mết, dân làng nhất tề vùng lên giết bọn giặc và cứu được Tnú. Tnú ra đi, gia nhập lực lượng và chiến đấu rất dũng cảm bằng chính đôi tay tàn tật.
Sáng hôm sau, Tnú từ biệt dân làng để trở lại đơn vị. Cụ Mết và Dít tiễn Tnú trước cảnh rừng xà nu nối tiếp bất tận
4. Nội dung:
Hình tượng cây xà nu
Hình tượng nhân vật Tnú
5. Tính sử thi của tác phẩm:
- Chủ đề mà tác phẩm đặt ra là vấn đề có ý nghĩa sinh tử đối với cách mạng miền Nam lúc đó: phải dùng bạo lực cách mạng để trấn át bạo lực phản cách mạng.
- Cuộc đời đầy bi tráng của nhân vật chính.
- Bức tranh thiên nhiên được miêu tả tạo nên bối cảnh hùng vĩ, hoành tráng cho câu chuyện.
- Giọng kể, ngôn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng, có sức ngân vang.
II. KIẾN THỨC:
1. Hình tựơng cây xà nu:
- Cảm nhận chung: Hình tượng cây xà nu là hình tượng xuyên suốt được miêu tả công phu đậm nét trong toàn bộ tác phẩm (đặc biệt là mở đầu và kết thúc tác phẩm) => Rừng xà nu hùng tráng đầy chất thơ.
- Gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân làng Xôman
+ Trong những sinh hoạt hằng ngày (Tnú cầm đuốc xà nu soi cho Dít gằn gạo, lũ trẻ làng Xôman mặt lem luốc khói xà nu, Tnú và Mai đốt khói xà nu xông bảng nứa để học chữ…).
+ Trong những sự kiện trọng đại
. Giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu -> thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú.
. Ngọn lửa xà nu soi rõ xác những tên lính -> tham dự vào niềm vui chiến thắng của nhân dân nơi đây.
.Đuốc xà nu bùng sáng lên trong đêm đồng khởi của dân làng -> chứng kiến lòng dũng cảm và ý chí quật khởi của dân làng Xô man
=> Cây xà nu gắn bó với dân làng Xô man từ bao đời nay như một lẽ tự nhiên và khi cần “rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”
- Cây xà nu là biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất cao đẹp của người Xôman:
+ Cây xà nu chịu nhiều đau thương bởi quân thù tàn bạo (hàng vạn cây xà nu không cây nào là không bị thương) cũng như dân làng Xôman nhiều người bị chúng giết hại (anh Xút , bà Nhan, anh Quyết…)
+ Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời (phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng) cũng như dân làng Xôman ham tự do).
+ Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, không gì tàn phá nổi (cạnh một cây mới ngã gục ngã có bốn năm cây con mọc lên) cũng như các thế hệ dân làng Xôman kế tiếp nhau đứng dậy chiến đấu.
+ Những cây xà nu cổ thụ ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng cũng giống như cụ Mết chỗ dựa tinh thần vững chắc, che chở cho dân làng Xô man.
+ Cây xà nu luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Cũng như dân làng Xô man mài giáo, mài rựa sẵn sàng chiến đấu
Nghệ thuật:
- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng, khi đặc tả cận cảnh một số cây.
- Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêutả những cây xà nu với vóc dáng đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng…
- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức nhân hóa, ẩn dụ, tường trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
- Giọng văn đầy biều cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn giống như một đoạn thơ trữ tình.
2. Nhân vật Tnú
- Tnú gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Từ nhỏ, mặc cho giặc khủng bố ác liệt, Tnú vẫn hăng hái vào rừng nuôi cán bộ.
+ Khi làm liên lạc, vì sự an toàn của cán bộ, Tnú chọn phương án khó khăn, gian khổ nhất (Không đi theo đường mòn, vượt sông không chọn chỗ nước êm).
+ Khi bị giặc bắt, Tnú nuốt luôn cái thư.
+ Bị trói chớ hành hình, trong giớ khắc ngắn ngủi giữa sự sống và cái chết, Tnú bình thản lạ thường.
+ Bị giặc đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tẩm nhựa xà nu, trước sự tàn ác của kẻ thù Tnú không kêu van “mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”.
- Tnú tuyệt đối trung thành với cách mạng, có tính kỷ luật cao:
+ Tâm niệm lời nói của cụ Mết “Cán bộ là đảng, đảng còn thì núi nứơc này còn”
+ Khi bị bắt, dù bị giặc tra tấn dã man Tnú vẫn kiên quyết không khai. Tuyệt đối giữ bí mật. Thể hiện tấm lòng thủy chung với Đảng, với cách mạng.
+ Vượt qua lòng tự ái, học chữ để sau này thay anh Quyết làm cán bộ giúp dân làng.
+ Với hai bàn tay tàn nhưng không phế Tnú tham gia quân giải phóng trực tiếp bóp chết kẻ thù bằng bàn tay đầy sức mạnh căm thù.
+ Đựơc phép về thăm làng trong một đêm, Tnú đi đúng một đêm. Luôn chấp hành đúng mệnh lệnh của cấp trên.
- Tnú có một trái tim yêu thương và sục sôi căm thù giặc.:
+ Là một người chồng, một người cha rất mực yêu thương vợ con: chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn dã man, Tnú nấp sau gốc cây vả đầu làng, anh bứt đứt hàng chục trái vả mà không biết, “ở chỗ mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”, vì thương vợ con, anh đã nhảy xổ vào bọn giặc dù chỉ với hai bàn tay không.
+ Là một người con tình nghĩa với buôn làng: Khi về thăm làng nghe tiếng chày rộn rã Tnú bồi hồi xúc động, “nỗi nhớ day dứt trong lòng anh suốt 3 năm”. Về đến làng, anh nhớ rõ từng người , nhắc tên từng người Khi cụ Mết dẫn ra máng nước đầu làng Tnú xúc động để cho vòi nước giội lên khắp người như ngày trước.
+ Luôn mang trong tim ba mối thù lớn:
. Thù của bản thân : chịu đớn đau tột cùng về thể xác khi bị bọn giặc tàn ác đốt hai bàn tay.
. Thù của gia đình: Vợ con bị giặc tra tấn dã man cho đến chết.
. Thù của buôn làng: bọn giặc giết hại dân làng, giày xéo cả lên lá cây, ngọn cỏ.
-> Nhân vật Tnú tiêu biểu cho sức sống, tinh thần dũng cảm, bất khuất của dân làng Xô Man.
- Cuộc đời bi tráng và con đừơng đến với cách mạng của Tnú điển hình cho con đừơng đến với cách mạng của ngừoi dân Tây Nguyên, góp phần làm sáng tỏ chân lí thời đại: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng; đấu tranh vũ trang là con đừơng tất yếu để tự giải phóng.
- Nghệ thuật:
+ Không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở tâm lí, hành động của nhân vật.
+ Xây dựng thành công nhân vật vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát tiêu biểu.
3. Các nhân vật cụ Mết, Dít, bé Heng
Dù không phải là nhân vật trung tâm nhưng cụ Mết, Dít, bé Heng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự phát triển của cốt truyện. Và các nhân vật này được sắp xếp có chủ đích thành ba thế hệ.
* Cụ Mết: già làng, được nhân dân kính trọng , tin tưởng.
- Ngoại hình: quắc thước, rắn rỏi, dẻo dai
- Tính cách: trầm tĩnh, sáng suốt, mạnh mẽ, cứng cỏi.
- Yêu buôn làng, yêu nước, yêu cách mạng.
=> Được hình dung như một cây xà nu lớn vững chãi, hiện thân cho truyền thống thiêng liêng của bao thế hệ người dân làng Xô man. Nhân vật cụ Mết được xây dựng mang dáng dấp của nhân vật sử thi. Chính cụ Mết là người định hướng cho dân làng Xô Man đi đến chân lí tất yếu “ Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!” (Phải dùng bạo lực cách mạng để trấn áp bạo lực phản cách mạng).
* Dít: Sự hiện thân tiếp nối của Mai.
- Lúc nhỏ: gan góc, lanh lợi.
- Lớn lên: làm bí thư kiêm chính trị viên xã đội, rất gương mẫu, nhiệt tình, có trách nhiệm, nguyên tắc
- Đôi mắt:. mở to, bình thản trước quân thù.
Ráo hoảnh khi mọi ngừoi khóc Mai
Nghiêm khắc khi nhìn Tnú.
-> Đại diện cho thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ – lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến, lực lượng nối tiếp truyền thống anh hùng của dân tộc, đại diện cho sự tiêu biểu mẫu mực của hậu phương.
* Heng: đại diện cho thế hệ tương lai của dân làng Xô Man. Tuy còn nhỏ nhưng Heng có nhiều nét giống Tnú : gan dạ và sắc sảo. Đó là những phẩm chất cần có của một người chiến sĩ cách mạng. Tượng trưng cho lớp người kế tiếp đầy sinh lực, đầy nhựa sống, hứa hẹn một thế hệ Cách mạng mới vững vàng.
* Nghệ thuật:
- Không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh thiên nhiên; ở ngôn ngữ, tâm lí, hành động của các nhân vật.
- Xây dựng thành công các nhân vật vừa có nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tình khái quát, tiêu biểu.
- Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu- một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc – tạo nên màu sắc sử thi và sự lãng mạn bay bổng cho thiên truyện
- Lời văn giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu, khi thâm trầm, khi tha thiết, trang nghiêm,…
*************************
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
– Nguyễn Thi-
– Nguyễn Thi-
I. Tác giả:
- Nguyễn Thi (1928 – 1968), Tên khai sinh: Nguyễn Hoàng Ca, Bút danh khác: Nguyễn Ngọc Tấn, Quê: tỉnh Nam Định, là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nứơc. Ông gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam Bộ và thực sự trở thành nhà văn của ngừơi nông dân Nam Bộ. Nguyễn Thi cũng là cây bút có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo.
- Tác phẩm tiêu biểu: Hai tập truyện ngắn: Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962), Nguyễn Ngọc Tấn-Nguyễn Thi toàn tập (1996).
II. Tác phẩm:
1.Hoàn cảnh sáng tác: Những đứa con trong gia đình là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Thi đựoc sáng tác trong những ngày chiến đấu ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nứơc.
2. Tóm tắt: Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mối thù sâu nặng với Mĩ – ngụy: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải nuôi con vừa phải đương đầu với những đe dọa hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại Việt, Chiến, thằng Út em, chú Năm và một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình và những đau thương mất mát nặng nề do tội ác của Mĩ- ngụy gây ra đối với gia đình Việt đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình.
Việt và Chiến hăng hái tòng quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là cậu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị, đặc biệt là với tiểu đội trưởng Tánh, như tình ruột thịt. Ở anh luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, quyết lập được nhiều chiến công để cùng chị Chiến trả thù cho ba má.
Trong trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và anh Tánh,..
Lần thứ tư, Việt tỉnh lại... cảnh chiến trường và tiếng súng, anh nhớ tới ngày cùng chị Chiến giành nhau đi bộ đội. Chú Năm cho phép cả hai lên đường và ghi vào cuốn sổ gia đình sự kiện này. Hai chị em tính toán thu xếp việc nhà, khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm rồi ra trận.
Sau đó anh Tánh và đồng đội đã tìm thấy Việt và đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến.
3. Nội dung:
- Nhân vật chính:
+ Việt
+ Chiến
- Chiến và Việt là hai “khúc sông” trong “dòng sông truyền thống” của gia đình.
III. Đọc hiểu:
1.Nhân vật Chiến:
- Ngoại hình:
+ “Hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy nắng” “thân người to và chắc nịch”. (Tr. 63)
Khỏe khoắn -> Đó là con người sinh ra để gánh vác, lo toan, để chịu đựng và để chiến đấu.
+ Lời nói, cử chỉ: Giống y như má
“Chị Chiến cựa mình, làm như chị nghĩ ngợi lung lắm. Phải chị thở dài rồi kêu thằng Út dậy đi đái nữa thì giống hệt như má vậy”. (Tr.62)
“Chị Chiến hứ một cái “cóc” rồi trở mình. May mà chị không bẻ tay rồi đập vào bắp vế than mỏi”.(Tr62).
->Không chỉ là sự thừa hưởng về huyết thống mà còn là sự thừa hưởng về truyền thống.
- Tính cách:
+ Đảm đang, tháo vát:
. Trước ngày đi tòng quân chị trăn trở, lo toan, không ngủ được
“Sắp tới đây biết bao nhiêu chuyện phải lo, ngay bây giờ cũng bao nhiêu chuyện phải nhớ”. (Tr.60,61).
. Lo toan mọi việc chu tất:
Gửi thằng Út sang nhà chú Năm.
Căn nhà cho xã mượn để làm trường học vừa có chỗ cho thằng Út em học, vừa có người quét dọn.
Nhờ chú Năm thu hoạch mấy công mía dành tiền làm giỗ cho ba má, ruộng trả cho hợp tác.
Bàn thờ ba má gửi sang chú Năm để có người hương khói… (Tr.61, tr.62).
. Sự lo toan đó làm chú Năm phải khen: “Khôn! Việc nhà nó thu gọn được thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia, thế đặng bề nước non. Con nít chúng bây đánh giặc khôn hơn chú hồi trước”.(Tr.62).Còn Việt thì đặt hết niềm tin vào chị.
+ Gan góc dũng cảm:
. Sẵn sàng nhường em tất cả nhưng việc đi tòng quân là chị Chiến không nhường: “Tao lớn tao mới đi, mày còn nhỏ, ở nhà phụ làm với chú Năm…”. (Tr.59).
. Ý thức được việc ra đi lần này là đối mặt với gian nguy “chân trời mặt biển” (Tr.60). Nhưng chị quyết tâm “Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất”. (Tr.60) . Đó không chỉ là một câu trả lời dứt khoát thể hiện mối thù không đội trời chung mà còn như là một lời tuyên thệ “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” -> Thể hiện tình yêu lớn lao dành cho đất nước.
+ Duyên dáng, nữ tính, giàu tình yêu thương:
. Chị đi bộ đội, trong hành trang luôn có một chiếc gương (Có thể so sánh với Nho, Thao, Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi).
. Trước ngày đi bộ đội, chị đã lo toan chu đáo cho tất cả những người thân của mình (Giục Việt viết thư cho chị Hai, gởi thằng Út em sang nhà chú Năm, gởi bàn thờ má sang nhà chú Năm)..
Là cô gái mới lớn, tính khí vẫn còn nét trẻ con nhưng cũng là người chị biết nhường em, biết lo toan, tháo vát; Chiến vừa có điểm giống má vừa có những nét riêng. Chị căm thù giặc sâu sắc, gan góc, dũng cảm, lập được nhiều chiến công nhưng cũng rất duyên dáng, nữ tính và giàu tình cảm.
2. Nhân vật Việt
a. Ngoại hình:
- Về ngoại hình, nhân vật chỉ được khắc họa lại qua một vài nét phác thảo rất ít, rất thoáng qua nhưng cũng rất đặc sắc: “Bộ mặt bầu bầu”(Tr.60). Đó là vẻ đẹp của một chàng trai mới lớn, hồn nhiên, trong trẻo.
b. Phẩm chất, tính cách:
* . Hồn nhiên, vô tư
- Tranh giành với chị: từ việc bắt ếch, việc bắn tàu Mĩ đến việc ghi tên tòng quân, việc nào Việt cũng giành phần thắng. Thậm chí còn so sánh theo kiểu rất trẻ con “mình đứng đâu có thua chị, tuy tóc chị có cao hơn mình một chút thật” (Tr. 59). Đây là tâm lý hiếu thắng của một chàng trai mới lớn.
- Vô lo, vô nghĩ: Trong khi chị Chiến sắp xếp việc nhà và bàn bạc với Việt một cách trang nghiêm Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”(Tr. 60) và ầm ừ cho qua chuyện, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay” (Tr. 61) “rồi ngủ quên lúc nào không biết”(Tr.62). Trong đêm trước khi lên đường, Việt nghĩ tới má nhưng đó là suy nghĩ hết sức hồn nhiên “hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?” (Tr. 61) → Đó là sự hồn nhiên, vô tư, lộc ngộc nhưng cũng rất đáng yêu.
- Hành trang ra trận: luôn có “cái ná thun ”.
- Tính cách trẻ con còn được thể hiện ở chỗ:
+ Việt yêu quí chị đến mức vào chiến trường Việt giấu biệt mình có một người chị gái bởi sợ họ tán mất chị.
+ Khi bị thương nằm lại ở chiến trường chỉ có một mình Việt không sợ bóng tối, không sợ giặc bắn mà lại sợ ma “con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông”. (Tr.58)
+ Thậm chí Việt không hình dung nổi cái chết là gì, anh nghĩ một cách ngây thơ: chết là gì nhỉ? Chắc là đau gấp mấy lần bị thương, người giả nằm ở dưới đất còn người thật biến lên nóc nhà chăng?
* Một chàng trai nhạy cảm và giàu tình yêu thương:
- Nhạy cảm:.Trong những lần tỉnh lại ở chiến trường.
+ Mặc dù bị thương mắt không nhìn thấy gì nhưng Việt vẫn cảm nhận được thế giới thông qua khứu giác và xúc giác: “tiếng dế gáy u u” trong màn đêm sâu thẳm.
- Giàu tình yêu thương:
+ Với quê hương: Bị thương nhưng hình ảnh quê hương vẫn hiện lên trong tâm trí anh.
+ Với gia đình: Bị thương nằm lại ở chiến trường, ngất đi tỉnh dậy nhiều lần nhưng lần nào tỉnh lại Việt cũng nhớ về kỷ niệm của những người thân (ba má, chú Năm, chị Chiến. Việt ao ước có má ở bên cạnh “Ước gì lại được gặp má.Phải, ví như lúc này má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn” (Tr.57, 58). Má áp vào báng súng mà Việt tưởng như đang ấp đầu lên tay chị Chiến. Nhớ tới tiếng bước chân bịch bịch mà thương chị lạ.
+ Với đồng đội: Thấy những khuôn mặt thân quen của anh em hiện ra cái cằm nhọn hoắt của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công” (Tr. 58) nhận thấy sự động viên của đồng đội.
*Một chiến sĩ giải phóng quân quả cảm, anh hùng.
- Khi còn nhỏ: Ba bị chặt đầu, má bám theo đòi, mấy chị em Việt cũng đuổi theo. Nỗi đau đớn và sự căm thù khiến Việt không còn biết sợ và căm hận tới mức “đầu ba ở dưới đất không lượm cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một sự gan góc rất trẻ con, rất Nam Bộ mà Việt được thừa hưởng từ chính ba má.
- Khi má mất vì trúng pháo đạn của giặc: Việt biến thù nhà thành nợ nước.
+ Chị Chiến thuyết phục Việt ở nhà phụ giúp chú Năm, qua năm hãy đi, Việt phản ứng chị bằng một hành động rất mạnh mẽ “Việt đá trái dừa rụng dưới chân xuống mương cái đùng- Bộ mình chị biết đi trả thù à?”( 59). Cử chỉ, thái độ và lời nói của Việt rất trẻ con nhưng quyết tâm và lòng căm thù thì rất người lớn.
+ Khi được chú Năm đồng ý, trước lời răn đe của chú “thù cha mẹ chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu”, Việt lăn kềnh ra ván cười khì khì và nói với chị Chiến “Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị”.Ý chí, sự kiên cường và hành động quyết tâm lên đường chiến đấu thật đáng để ta khâm phục.
+ Hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm gửi, Việt cảm nhận thấy “mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng trên vai” (Tr.63)
- Khi trở thành một chiến sĩ giải phóng quân:
+ Trong một trận đọ lê dữ dội với quân Mĩ, Việt đuổi theo, nhảy lên, thả pháo thủ để tiêu diệt một chiếc xe bọc thép. Đó là tinh thần chủ động tấn công, đại diện cho cả một dân tộc Việt Nam trong thời chống Mĩ.
+ Bị thương nằm lại ở chiến trường, bị lạc đồng đội, không thể đi lại và cũng không thể nhìn thấy, Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Mười ngón tay bầm dập, đau đớn chỉ còn một ngón trỏ duy nhất cử động được nhưng vẫn đặt ở cò súng, đạn đã lên nòng.
+ Việt luôn lắng nghe những âm thanh của chiến trường súng to, súng nhỏ chụm vào nhau, với Việt đó là âm thanh của sự sống trong đêm vắng lặng “những tiếng nổ quen thuộc gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận”- “tiếng súng của đồng đội như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời, dậy đất hồi Đồng khởi”.
→ Nhân vật mang đến cho người đọc cảm nhận rõ nét về sự bình dị của người anh hùng. Việt là khúc sông gần biển nhất, mạnh mẽ hòa vào biển lớn, là đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Chiến và Việt là hai “khúc sông” trong “dòng sông truyền thống” của gia đình. Hai chị em là sự tiếp nối thế hệ của chú Năm và má, song lại mang dấu ấn riêng của thế hệ trẻ miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nứơc.
III. Tổng kết:
1.Nghệ thuật:
- Tình huống truyện: Việt – một chiến sĩ giải phóng- bị thương phải nằm lại chiến trường. Truyện được kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch (lúc tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất) của “người trong cuộc” làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay đổi đối tượng, không gian, thời gian, đan xen tự sự và trữ tình.
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tựơng mạnh. Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam bộ.
- Giọng văn chân thật, tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh.
2. Ý nghĩa văn bản:
Qua câu truyện về những con ngừơi trong một gia đình nông dân Nam bộ có truyền thống yêu nứớc căm thù giặc, thủy chung với quê hương, với cách mạng, nhà văn khẳng định: sự hòa quyện giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dan tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con ngừoi Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nứơc.
**************************
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
– Nguyễn Minh Châu
I. Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu (1930-1989). Quê: Nghệ An. Trứoc năm 1975 là ngòi bút sử thi, có thiên hứơng trữ tình lãng mạn; từ đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh, thuộc trong số những “ngừơi mở đừơng tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc) nhất của Việt Nam thời kì đổi mới.
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ Trước năm 1975: Cửa sông (tiểu thuyết), Những vùng trời khác nhau (tập truyện), Dấu chân người lính (tiểu thuyết).
+ Sau năm 1975: Bức tranh (truyện ngắn) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn), Bến quê (tập truyện ngắn).
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ:
- Sáng tác năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự, triết lí của Nguyễn Minh Châu với ngôn từ dung dị đời thường.
- Tác phẩm tiêu biêủ cho xu hướng chung của văn học Việt Nam thời kì đổi mới : hứong nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thừơng.
2.Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa:
- Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên về biển và cũng là biểu tượng về cuộc sống sinh hoạt của người dân hàng chài.
- Là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về cuộc sống bấp bênh, dập dềânh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sóng nước.
- Biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Cái hồn của bức tranh nghệ thuật ấy chính là vẻ đẹp rất đỗi bình dị của những con người lam lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật.
- Còn là khoảng cách , cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng.
3.Tóm tắt:
Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Theo đề nghị của trưởng phòng, anh tìm về chiến trường xưa để chụp một tấm ảnh in lịch. Sau nhiều ngày chờ đợi, anh đã chụp được ảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong biển sớm mờ sương thật đẹp, và thấy tâm hồn mình như được gột rửa trở nên trong trẻo tinh khôi ở vẻ đẹp toàn thiện, toàn mĩ ấy.
Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một người chồng thô kệch, dữ dằn, độc ác đã đánh người vợ xấu xí mệt mỏi và cam chịu của mình một cách tàn nhẫn như để giải toả những uất ức trong lòng. Phùng chưa kịp xông ra thì thằng Phác con trai lão đã kịp tới che chở cho mẹ.
Chứng kiến cảnh này lần thứ hai, Phùng đã lao vào can ngăn và bị lão đánh cho bị thương.
Tại toá án huyện Phùng và Đẩu (chánh án toá án huyện –bạn chiến đấu của Phùng) được nghe câu chuyện của người đàn bà bị chồng đánh. Phùng thật sự ngỡ ngàng và hiểu ra nhiều điều. Người đàn bà bị chồng đánh đập hành hạ thật tàn nhẫn “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Nhưng trước toà chị vẫn kiên quyết gắn bó không chịu từ bỏ người chồng vũ phu vì nhiều lẽ.
Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm ảnh được chọn vào bộ lịch năm ấy. Tuy nhiên khi đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra .
III. Kiến thức:
1.Hai phát hiện của người nghệ sĩ Phùng (Tình huống nhận thức)
a. Phát hiện 1 : Cảnh chiếc thuyền ngoài xa
- Hình ảnh:
+ Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
+ Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ.
-> Hình ảnh đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
- Điểm nhìn của người nghệ sĩ:
Nhìn từ xa, nhìn qua màn sương mờ.
-Cảm nhận của người nghệ sĩ:
+ “Một cảnh đắt trời cho”: Khoảnh khắc vô giá.
+ “Bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.
+ “Từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”: bố cục hài hòa, tinh tế.
=>Một cảnh tượng tuyệt đẹp, một bức họa diệu kỳ của thiên nhiên và cuộc sống.
- Tâm trạng của người nghệ sĩ:
+ Bối rối.
+ Trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào
+ Hạnh phúc tràn ngập tâm hồn.
+ Anh nghĩ đến lời đúc kết của ai đó “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
+ Khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự toàn thiện”
-> Người nghệ sĩ hân hoan, xúc động, say đắm ca tụng cái đẹp. Chính cái đẹp của ngoại cảnh đã làm dấy lên trong anh những cảm xúc thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.
Với người nghệ sĩ, không có niềm vui nào bằng việc khám phá được những vẻ đẹp bất ngờ của thiên nhiên và cuộc sống.
Nhưng để có được một tác phẩm nghệ thuật độc đáo người nghệ sĩ phải phải lao động nghiêm túc, lâu dài và gian khổ.
b. Phát hiện thứ 2: Cảnh bạo lực gia đình
- Một cảnh tượng phi thẩm mĩ và phi nhân tính:
+ Cảnh tượng phi thẩm mĩ:
. Một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, gã đàn ông to lớn, dữ dằn (Tr. 71)
+ Cảnh tượng phi nhân tính
. Ngừơi chồng đánh vợ một cách thô bạo (Tr71, 72)
. Đứa con thương mẹ đã đánh lại cha.(Tr.72)
- Điểm nhìn của người nghệ sĩ:
Cận cảnh, rõ nét, chân thực.
- Thái độ của người nghệ sĩ
+ Kinh ngạc
+ Há mồm ra mà nhìn.
-> Hiện thực trần trụi, tàn nhẫn - một nỗi đời khủng khiếp. Phùng không tin vào mắt mình.
+ Vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
-> Đặt cuộc đời lên trên nghệ thuật.
=>Tình huống có ý nghĩa khám phá, phát hiện.
- Thông điệp của nhà văn:
Cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn, không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu, tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.
c.Ý nghĩa của hai phát hiện:
Sức mạnh của nghệ thuật chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người, hướng con người đến chân, thiện, mĩ.
Sứ mệnh của người nghệ sĩ là mang cái đẹp đến cho cuộc đời nhưng phải khám phá, phát hiện ra những góc khuất của đời sống để cải tạo cái ác, cái xấu, làm đẹp cuộc sống.
Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để có cái nhìn khách quan về cuộc sống.
2. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện
Thái độ, cảm xúc, câu chuyện cuộc đời của chị:
Lý do chị đến tòa án huyện:
Chánh án Đẩu mời tới để giải quyết việc gia đình.
Ban đầu: chị sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường đẻ ngồi, xưng hô “con-quí tòa”
Khi lấy lại được tự tin, chị mạnh dạn hơn và đột ngột thay đổi cách xưng hô “chị – các chú” -> cảm nhận được thiện ý của Phùng và chánh án Đẩu và cũng thông cảm cho sự ngây thơ của họ.
Câu chuyện cuộc đời chị:
+ Ngoại hình xấu xí
. Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt.
-> Chịu nhiều thua thiệt, bất hạnh.
+ Nghèo túng, đông con, thuyền chật:
. Từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối. (T.75).
-> Nỗi khổ về vật chất, nỗi đau về tinh thần.
. Đông con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa.(T.76)
. Không gian sống: trên con thuyền lưới vó chật hẹp.
=> Hoàn cảnh đáng thương của người đàn bà vùng biển
+ Bị đánh đạp, hành hạ thường xuyên
. Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh.
-> Đau đớn vô hạn về thể xác, nhục nhã về tâm hồn
=> Người đàn bà hàng chài là hiện thân sinh động của một kiếp người đầy bất hạnh.
+ Lí do chị không bỏ chồng:
. Vì cuộc sống trên biển cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề làm ăn để nuôi con.
. Vì đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình.
. Vì cũng có lúc vợ chồng con cái chị sống hòa thuận, vui vẻ.
-> Hi sinh cho cả gia đình
b. Sự nhận thức của nghệ sĩ Phùng
* Về người đàn bà:
-Chị cam chịu nhẫn nhục
Nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng mọi đớn đau khi bị chồng hành hạ, chị “cam chịu, nhẫn nhục, không kêu, không chống trả, cũng không chạy trốn”.
-> Chị không cam chịu một cách vô lí, mù quáng. Đó là đức hi sinh của người phụ nữ vì con.
- Có lòng tự trọng:
. Khi biết chuyện mình bị chồng hành hạ, đánh đập đã bị Phác (con trai chị) và nghệ sĩ Phùng (người khách lạ) chứng kiến, chị “vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã”
. Giọt nước mắt đau khổ đã trào ra.
- > Nỗi đau của người có nhân cách, có lòng tự trọng.
- Thương con vô bờ bến
. Khi con cái lớn lên, chị xin chồng đưa chị lên bờ mà đánh -> Sợ làm các con bị tổn thương, bị nhiễm thói vũ phu, hận thù cha -> cách ứng xử rất nhân bản.
. Gởi thằng Phác lên rừng ở với ông bà ngoại
. Niềm vui lớn nhất của chị là “ nhìn thấy đàn con được ăn no”
. Khi thằng Phác phát hiện bi kịch gia đình chị đã “ôm chầm lấy nó”,
chắp tay vái lấy vái để” -> Đau đớn vì rốt cuộc cũng không tránh được cho con khỏi bị tổn thương.
- Thấu hiểu lẽ đời:
. Cảm nhận được thiện ý của Phùng và chánh án Đẩu và cũng thông cảm cho sự ngây thơ của họ.
. Khi nói về bản thân mình, chị cho rằng “ Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con khôn lớn”
. Khi nói về chồng chị luôn mang mặc cảm có lỗi, nhìn nhận chồng với thái độ thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ ( dc)
-> Chị hiểu con người, hiểu cuộc sống, hiểu thiên chức làm mẹ, hiểu sự khốn khổ và bế tắc của chồng. Câu chuyện của chị làm cho Phùng và Đẩu thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều.
-> Cái hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn người đàn bà là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, cam chịu, cảm thông, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.
* Về chính mình và Đẩu:
Sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng.
Đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ.
Thông điệp nhà văn gửi gắm: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc hiện tượng trong các mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều.
Nghệ thuật:
- Tạo tình huống độc đáo “tình huống nhận thức” có ý nghĩa khám phá, phát hiện chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật.
- Truyện được kể qua lời kể nhân vật -> câu truyện trở nên gần gũi, khách quan, chân thực, giàu tính thuyết phục.
- Khắc họa nhân vật sắc sảo, giọng kể thủ thỉ, trầm tĩnh, lời văn giản dị, sâu sắc, dư ba.
**********************
Đề 1:
Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr.71,72)
Phân tích vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa và nhân vật Phùng thể hiện ở đoạn trích trên.
*****************************
Đề 2
“Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quả đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói cho lên thuyền như quát: Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ. Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trục ngoài bốn mươi, một thân quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lung áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía trong có một chiếc xe và phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một khoảng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hồ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của linh ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiên ken két, củ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên ri đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhỏ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!"
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác – thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát.
(Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, (Trích NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr73).
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét ngắn gọn về tình huống truyện.
******************
Đề 3: THPT 2015
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối...
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.75-76)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT
Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ
1. Tác giả:
- Lưu Quang Vũ (1948- 1988) ,
- Quê: Đà Nẵng
- Ông được coi la một hiện tựơng đặc biệt của sân khấu , một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
2.Tác phẩm
+ Được viết từ năm 1981 mãi đến năm 1984 mới được công chúng biết đến
+ Lấy cốt truyện dân gian nhưng có nhiều sáng tạo.
3. Tóm tắt: SGK
4. Kiến thức:
a. Bi kịch tha hoá (Màn đối thoại giữa hồn Trương ba và xác hàng thịt)
* Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Hồn Trương Ba
+ Ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy
+ Độc thoại đầy khẩn thiết: “Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi”
-> Tâm trạng bức bối, đau khổ, tuyệt vọng.
* Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt
- Xác hàng thịt:
+ Gợi lại tất cả những sự thật:
. Cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với“tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì…“.
. Ông “xao xuyến” trước những món ăn
. Ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mũi
-> Xác có khả năng sai khiến linh hồn.
-> Hồn cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.
+ Cười nhạo vào cái lí lẽ mà hồn đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”.
-> Khẳng định linh hồn không thể có sự nguyên vẹn, trong sạch nếu tồn tại nhờ và chiều theo đòi hỏi của xác thịt.
-> Xác thắng thế với chất giọng khi thì mỉa mai, châm chọc khi thì lên mặt dạy đời,.
Hồn Trương Ba:
+ Ở vào thế yếu, đuối lí, cay đắng, uất ức, tuyệt vọng.
. Hành động : bịt tai lại
. Thay đổi cách xưng hô với xác hàng thịt: Từ mày sang anh.
=> Nhận ra những điều xác hang thịt nói đều đúng cả.
+ Bi kịch của Trương Ba:
. Được sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn - sống chung với phần thể xác dung tục và bị sự dung tục đồng hóa.
. Những phẩm chất tốt đẹp của Trương Ba đang dần bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá.
Tác giả cảnh báo:
Khi con người phải sống trong dung tục thì sớm hay muộn những phẩm chất tốt đẹp cũng sẽ bị cái dung tục ngự trị, lấn át và tàn phá.
Vì thế, phải đấu tranh loại bỏ sự dung tục, giả tạo để cuộc sống trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
b. Bi kịch bị từ chối (Màn đối thoại với người thân)
- Vợ Trương Ba:
Nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Vì “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
-> Buồn bã, đau khổ, pha lẫn ghen tuông.
- Cái Gái – Cháu nội Trương Ba :
+ Một mực khước từ tình thân : tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi.
+ Nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó.
+ Nó ghét ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền.
+ Nó xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
Chị con dâu
+ Là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt.
+ Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu.
+ Nhưng vẫn buồn đau trước sự thay đổi của bố chồng.
=> Tất cả đều xa lánh, sợ hãi, thậm chí ghét bỏ, ghê tởm, từ chối ông, khiến ông rơi vào sự hụt hẫng, cô đơn và phải lựa chọn một thái độ dứt khoát.
Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng
+ Lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? … Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.
+ Hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
=> Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba quyết định không sống chung với thể xác anh hang thịt.
c. Bi kịch bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo (Màn đối thoại với Đế Thích)
- Hồn Trương Ba:
+ Ý thức được tình cảnh trớ trêu là phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
+ Thái độ kiên quyết, dứt khoát của nhân vật “không thể tiếp tục, không thể được, không thể”
-> Thấm thía nỗi đau khổ và không chấp nhận tình trạng vênh lệch giữa hồn và xác.
=> Khát vọng được thoát ra khỏi nghịch cảnh phải sống nhờ trong thân xác anh hàng thịt.
+ Muốn là mình một cách toàn vẹn; thể xác và linh hồn hòa hợp; bên trong và bên ngoài, suy nghĩ và hành động thống nhất.
=> Khát vọng được sống là chính mình.
+ Chỉ ra sai lầm của Đế Thích “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.
-> Lòng tốt hời hợt, sự vô tâm đôi khi đẩy người khác vào nghịch cảnh, bi kịch.
+ Từ chối nhập vào xác cu Tị sau một hồi suy nghĩ, đấu tranh tư tưởng
-> Từ chối cảnh sống chỉ có lợi cho bọn chức sắc.
+ Triết lí của Trương Ba: Có những cái sai không bao giờ sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác.
=> Đừng để phạm phải sai lầm.
=> Lời thoại của Trương Ba thể hiện
+ Vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo.
+ Bảo vệ quyền được sống là chính mình.
+ Hướng đến sự hoàn thiện nhân cách.
Đế Thích:
+ Khuyên Trương Ba chấp nhận vì dưới đất, trên trời đều thế cả.
+ Quan điểm của Đế Thích: sống có nghĩa là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì còn do hoàn cảnh, điều kiện mà con người buộc phải quy thuận.
-> Đây là quan niệm sống sai lầm đáng lên án.
d. Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :
- Trương Ba không chấp nhận buông xuôi.
- Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình .
+ Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
-> Nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu cầu tồn tại.
+ Đặt ra vấn đề“sống như thế nào”
-> ý thức cao về sự sống và cách sống để cuộc sống có ý nghĩa.
- Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch.
+ Hồn Trương Ba hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na,
+ Ở cạnh người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu.
-> Hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời
=> Hồn Trương Ba chấp nhận cái chết, một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực.
a. Nghệ thuật:
- Sáng tạo lại cốt truyện dân gian .
- Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại sinh động, hấp dẫn.
**********************************
Đề 1:
Trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã xây dựng đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt:
Xác hàng thịt: (bắt đầu) Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là than xác…
Hồn Trương Ba: A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…
Xác hàng thịt: Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!
Hồn Trương Ba: Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!
Xác hàng thịt: Có thật thế không?
Hồn Trương Ba: Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, …
Xác hàng thịt: Tất nhiên, tất nhiên. Sao ông không kể tiếp: Khi ông đứng ở bên nhà tôi … Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại … Đêm hôm đó, suýt nữa thì …
Hồn Trương Ba: Im đi! Đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày …
Xác hàng thịt: […] Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao? Để thỏa mãn thôi, chẳng lẽ ông không tham dự vào chút đỉnh gì? Nào hãy thành thật trả lời!
Hồn Trương Ba: Ta … ta … đã bảo mày im đi!
Xác hàng thịt: Rõ ràng là ông không dám trả lời. Giấu ai chứ không thể giấu tôi được! Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi!
Hồn Trương Ba: Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn …
Xác hàng thịt: Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr.144 – 145)
Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt qua đoạn trích trên và rút ra ý nghĩa triết lí được gửi gắm qua màn đối thoại đó.
************************
Đề 2: THPTQG 2014
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
(…)
Hồn Trương Ba (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ… (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sữa bằng cách làm cho hồn ông được sống.
Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn…
Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào…
Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không thể trả được… Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…
Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.
Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Họa chăng chỉ có lão lí trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.
(Trích cảnh VII, Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.149)
Phân tích khát vọng của nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó trình bày suy nghĩ của anh chị về vấn đề con người cần được sống là chính mình.
*****************ĐỀ 3:
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Vườn cây rung rinh ánh sáng. Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quýt vuốt ve con. Bà vợ Trương Ba xuất hiện ở phía trước sân khấu.
Vợ Trương Ba: Ông ở đâu? Ông ở đâu?
(Giữa màu xanh cây vườn, Trương Ba chập chờn xuất hiện)
Trương Ba: Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ… Không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.
(Dưới một gốc cây, hiện lên cu Tị và cái Gái)
Cái Gái: (Tay cầm một trái na) Cây na này, ông nội tớ trồng đấy. Quả to mà ngon lắm. Ta ăn chung nhé!
(Bẻ quả na đưa cho cu Tị một nửa. Đôi trẻ ăn ngon lành. Cái Gái lấy những hạt na vùi xuống đất.)
Cu Tị: Cậu làm gì thế?
Cái Gái: Cho nó mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…
(Trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, tr.153)
Phân tích nhân vật Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó nêu lên ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân sinh sâu sắc Mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
XEM THÊM:
- Đề Thi HSG Ngữ Văn 12
- Đề thi ngữ văn lớp 12 học kì 1
- Đề Thi HSG Ngữ Văn 12 Cấp Trường
- GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ LỚP 12 MÔN NGỮ VĂN
- Tài liệu ôn tập ngữ văn 12
- Đề thi học sinh giỏi ngữ văn 12
- trắc nghiệm môn ngữ văn lớp 12
- ĐỀ KIỂM TRA LỚP 12 NGỮ VĂN HỌC KÌ 1
- Đề thi HSG Văn 12 mới nhất
- Giáo án ngữ văn 12 cơ bản cả năm
- Phân tích bản tuyên ngôn độc lập văn 12
- Giáo án bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 12
- Đề Khảo Sát Chất Lượng Ngữ Văn 12
- Đề Thi HSG Ngữ Văn 12 NĂM 2021
- Giáo án tự chọn ngữ văn 12
- những đoạn văn nghị luận xã hội hay lớp 12
- Giáo Án Bồi Dưỡng Học Sinh Giỏi Văn 12
- đề cương ôn tập môn ngữ văn lớp 12
- Giáo án ngữ văn 12 nâng cao học kì 1
- Giáo án ngữ văn lớp 12 học kì 2
- Đề khảo sát chất lượng văn lớp 12
- Đề cương ôn tập môn ngữ văn lớp 12
- đề thi học kì 2 môn ngữ văn lớp 12
- Đề thi giữa học kì 2 môn văn lớp 12
- Đề kiểm tra giữa học kì 2 môn ngữ văn lớp 12
- Đề thi giữa học kì 2 môn văn lớp 12
- Đề thi chọn HSG ngữ văn 12
- Đề thi chọn hsg ngữ văn 12 tỉnh LẠNG SƠN
- Đề Thi HSG Ngữ Văn 12 CÓ ĐÁP ÁN
- Đề kiểm tra học kì 1 văn 12
- Tài liệu ôn thi thpt quốc gia môn ngữ văn
- GIÁO ÁN NGỮ VĂN LỚP 12 HỌC KÌ 2
- Download tài liệu văn học 12
- Đề kiểm tra giữa kì ii ngữ văn 12
- Đề thi ngữ văn giữa học kì 2 lớp 12
- Powerpoint Ngữ văn 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông giáo án điện tử E-Learning Dự thi
- Giáo án điện tử lớp 12 môn ngữ văn
- Đề thi hk2 môn ngữ văn lớp 12
- Đề thi học kì 2 lớp 12 môn văn có đáp án
- Đề thi ngữ văn lớp 12 học kì 2
- Đề kiểm tra 1 tiết môn ngữ văn lớp 12