- Tham gia
- 28/1/21
- Bài viết
- 86,007
- Điểm
- 113
tác giả
Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học văn nghị luận Ở TRƯỜNG THPT
YOPOVN xin gửi đến quý thầy cô Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học văn nghị luận Ở TRƯỜNG THPT. Đây là bộ Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học văn nghị luận Ở TRƯỜNG THPT rất hay.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận là thể loại văn: “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, triết học, kinh tế, văn hoá…Mục đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định…Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết - khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ…” (Từ điển thuật ngữ Văn học - NXB Đại học Quốc Gia, 4/1999)
Trên thế giới và Việt Nam văn chương nghị luận có lịch sử từ rất lâu đời, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước, thời đại như công cuộc giữ nước, dựng nước, canh tân đất nước mà cũng rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống con người. Đã có rất nhiều áng văn trở thành mẫu mực, bất hủ của từng dân tộc và trên toàn thế giới.
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho rằng văn chương chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ đến văn nghị luận. Hoặc có nghĩ đến thì lại cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến những tư tưởng cao siêu, trừu tượng, lập luận khô, diễn đạt khó nên không hấp dẫn. Do vậy văn nghị luận rất ít được đưa vào chương trình phổ thông, có chăng chỉ một vài tác phẩm nghị luận trung đại (Sông núi nước Nam, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo) và hiện đại (Tuyên ngôn độc lập) ở cả hai cấp học (theo quan điểm đồng tâm mở rộng).
Hiện nay do thấy được vai trò quan trọng của văn nghị luận. Nên các nhà nghiên cứu và biên soạn sách đã tuyển chọn một số văn bản nghị luận hay, có giá trị vào dạy trong chương trình phổ thông với nhiều thể loại và đa dạng về đề tài…. đặc biệt là trong chương trình Ngữ văn bậc THPT.
Đối với bản thân, do thấy được những giá trị to lớn của văn nghị luận, đặc biệt là văn nghị luận trung đại trong thực tế đời sống cũng như trong quá trình giảng dạy. Chính vì vậy tôi quyết định chọ vấn đề này để nghiên cứu và áp dụng
2. Mục đích nghiên cứu
- Khi thực hiện đề tài này, mục đích tôi đặt ra là để tìm một hướng tiếp cận đơn giản, dễ hiểu nhưng sâu sắc, cuốn hút đối với giáo viên trong giảng dạy và với học sinh trong quá trình các em lĩnh hội, tiếp thu kiến thức. Biến giờ dạy những tác phẩm nghị luận trung đại khô khan thành những giờ dạy văn hấp dẫn nhưng rất thực tế, sinh động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các tác phẩm văn nghị luận trung đại trong chương trình THPT.
- Các loại tài liệu tham khảo có liên quan tới phần văn nghị luận trung đại
- Đối tượng sử dụng đề tài: Các em học sinh lớp 11A6 và 11A9 năn học 2010 - 2011; lớp 10A9, 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Bá Thước năm học 2011 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng kết kinh nghiệm
- Nghiên cứu tài liệu: các loại sách tham khảo, tài liệu tham khảo về văn nghị luận trung đại, phương pháp dạy văn nghị luận ở trường THPT.
- Xác định đối tượng học sinh áp dụng đề tài
- Kiểm tra sự tiếp thu của học sinh bằng bài tập về nhà và các đề ôn tập.
- Đánh giá, đưa ra sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần 1: Cơ sở lí luận
Văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy lôgic, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư tưởng sâu sắc trước đời sống.
Văn chương trung đại là phần đã được đánh giá ổn định. Đó là những tác phẩm tiêu biểu có giá trị nhất trong lịch sử giữ nước, dựng nước thời phong kiến. Nó là “tiếng của cha ông thuở trước”, góp phần xứng đáng làm nên và hun đúc những truyền thống quý báu của dân tộc. Nó là quyền tự hào chính đáng của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Sách Ngữ văn 10 và Ngữ văn 11, phần văn học trung đại đã tăng một số lượng đáng kể những văn bản nghị luận. Coi trọng đúng mức những tác phẩm văn học chính luận, những tác phẩm có màu sắc học thuật để tăng cường, tô đậm bản chất văn hoá của văn học.
Đưa thêm văn nghị luận, tăng cường bản chất văn hoá của văn học là để giúp học sinh vận dụng văn học vào cuộc sống. Văn nghị luận gắn với học sinh giúp các em về phương pháp tư duy, cách lập luận đến cách viết bài văn nghị luận…
Phần 2: Thực trạng của vấn đề
2.1. Thực trạng chung:
Về cơ bản văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lôgíc. Nhưng vẻ đẹp của một áng văn nghị luận không chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc mà còn ở hình thức lập luận phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết phục. Hiện nay mặc dù những tác phẩm văn nghị luận trung đại đưa vào chương trình học đều là những tác phẩm có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, nhưng thực tế trong quá trình giảng dạy cả giáo viên và học sinh mới chỉ đi đúng, hiểu đúng những quan điểm tư tưởng của tác giả (chú ý khai thác nội dung) mà chưa chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của các tác phẩm. Vì thế việc dạy các tác phẩm nghị luận, đặc biệt là nghị luận xã hội thường khó, không mấy hấp dẫn đối với cả giáo viên và học sinh.
2.2. Thực trạng đối với giáo viên:
- Thực tế cho thấy, không ít giáo viên có tâm lí không mặn mà, ít hứng thú khi dạy văn bản nghị luận. Nhiều giáo viên cho rằng văn bản nghị luận khô khan, khó cảm nhận, khó truyền được hứng thú cho học sinh. Do đó, dẫn đến việc dạy sơ sài, thiếu tìm hiểu sâu, thiếu đầu tư cho tiết dạy này. Với thực tế đó, hiệu quả giờ dạy văn bản nghị luận khó đạt được như yêu cầu đặt ra.
- Khi thực hiện chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới, nhiều đồng chí giáo viên còn cảm thấy lúng túng về phương pháp dạy đọc - hiểu một số văn bản nghị luận trung đại vì có nhiều bỡ ngỡ khi gặp một số thể loại mới như : chiếu, văn bia, tựa, thư, cáo…với nhiều tác phẩm khác nhau về thời điểm ra đời, khác nhau về loại hình văn hoá. Nhưng những tác phẩm ấy đều có sức hấp dẫn đặc biệt bởi tính trí tuệ uyên bác và tình cảm sâu sắc của người cầm bút. Để vừa dạy đúng, lại vừa hay, biến những tác phẩm nghị luận thiên về lý lẽ, lập luận trở thành một văn bản văn học lôi cuốn, hấp dẫn học sinh là một điều không phải dễ đối với nhiều giáo viên. Vì vậy, việc tìm ra những biện pháp tích cực phục vụ cho quá trình giảng dạy các tác phẩm nghị luận trung đại là điều vô cùng cần thiết.
2.3. Thực trạng đối với học sinh:
Về phía học sinh, do chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá các tác phẩm; bởi việc đọc - hiểu văn bản văn học trung đại đã khó thì việc đọc - hiểu một văn bản nghị luận trung đại càng khó hơn. Vì trong văn bản nghị luận trung đại, tư tưởng của tác giả khó nắm bắt bởi cách viết hàn lâm, với hệ thống điển tích, điển cố dày đặc... Điều đó, càng đọc học sinh càng không hiểu bởi vốn kiến thức hạn chế, từ ngữ “xa lạ”.
Đặc biệt là khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh hiện nay rất yếu, nhiều em khi viết bài văn tỏ ra rất lúng túng, thậm chí chưa xác lập được một hệ thống luận điểm, luận cứ một cách rõ ràng và xác đáng, biến bài văn của mình thành một “rừng văn”, “bè văn”. Trong khi những bài văn nghị luận trung đại trong sách giáo khoa Ngữ văn có thể coi là những bài văn nghị luận mẫu mực trong cách lập luận. Việc dạy đọc - hiểu tốt các văn bản nghị luận trung đại sẽ góp phần rất lớn vào việc rèn luyện và nâng cao kĩ năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh, giúp học sinh có hứng thú học tập và tác phẩm sẽ không còn bị đóng băng trong lớp sương nghệ thuật trung đại.
Phần 3: Giải pháp và tổ chức thực hiện:
3.1. Giải pháp:
- Văn nghị luận trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá - xã hội phong kiến chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng chính thống cũng như quan niệm văn chương của thời đại. Trong quá trình dạy học, giáo viên một mặt phải tôn trọng tính chỉnh thể của văn bản, bám sát văn bản để hướng dẫn học sinh đọc – hiểu, mặt khác để hiểu thấu đáo các luận điểm và cách thức lập luận của tác giả trung đại, giáo viên phải trau dồi tri thức văn hoá đọc cho bản thân và hướng dẫn cho học sinh cách đọc tác phẩm của tiền nhân đúng với thi pháp của một thời đại, phù hợp với ngữ cảnh sản sinh văn bản. Do đó, phương pháp dạy tích hợp trở thành nguyên tắc quan trọng không thể thiếu.
Để dạy - đọc hiểu các văn bản nghị luận trung đại theo hướng tích hợp, tôi đã làm như sau :
a. Xác định trọng tâm kiến thức cần đạt trong bài dạy.
b. Xác định đặc điểm nổi bật của thể loại.
c. Xác định nội dung kiến thức cần tích hợp (Xác định kiến thức của bài có liên quan đến bài nào học sinh đó học và sắp học).
d. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp.
- Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của các văn bản nghị luận là hệ thống luận điểm, luận cứ hết sức rõ ràng, mạch lạc, lập luận rất chặt chẽ thế nhưng khi đọc xong văn bản, học rất mơ hồ về điều này. Vậy khi dạy, chúng ta phải làm thế nào để khắc phục được hiện tượng trên? Theo tôi giải pháp là sử dụng sơ đồ hoá nội dung bài học theo cấu trúc tầng bậc. Làm như vậy, vừa khái quát hoá nội dung bài học một cách ngắn gọn, khoa học vừa khiến cho học sinh dễ nhớ, khắc sâu được kiến thức.
- Các văn bản nghị luận trung đại thường mang đặc điểm của văn học trung đại: sử dụng điển tích, điển cố, ngôn từ mang tính ước lệ, tượng trưng, hệ thống từ Hán Việt xuất hiện dày đặc. Học sinh sẽ rất khó khăn khi đọc hiểu văn bản nếu không hiểu được các điển tích, điển cố và những từ khó mà tác giả đó sử dụng. Do vậy khi dạy đọc - hiểu các văn bản nghị luận trung đại, cần yêu cầu và hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu phần chú thích ở cuối mỗi trang của văn bản.
3.2. Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại theo hướng tích hợp
3.2.1.1. Thế nào là dạy đọc - hiểu theo hướng tích hợp?
- Tích hợp ngang:
Tích hợp theo cả ba phần Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một đơn vị bài học.
- Tích hợp dọc:
Tích hợp theo từng vấn đề – vấn đề đang dạy ở phần này có liên hệ đến các nội dung khác để dạy hoặc sẽ dạy ở hai phần kia hoặc vấn đề đó trong cả một giai đoạn văn học.
3.2.1.2. Vận dụng nguyên tắc dạy đọc – hiểu tích hợp vào một số văn bản nghị luận trung đại.
*/ Vì nghệ thuật đặc sắc nhất của các văn bản nghị luận chính là hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, mạch lạc và cách lập luận chặt chẽ nên khi dạy đọc - hiểu các văn bản nghị luận trung đại, tôi đặc biệt chú trọng tới việc tích hợp với phân môn Làm văn. Từ đó nhằm củng cố, rèn luyện và nâng cao khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh
- Điều này trước hết được thể hiện ở việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu bố cục của văn bản nghị luận trung đại.
Nếu trong các loại văn bản khác ta thường hỏi: “Sau khi tìm hiểu văn bản, em thấy văn bản có thể chia làm mấy phần? Nội dung của từng phần?” thì đối với các văn bản nghị luận không nên hỏi như vậy vì không khai thác được đặc điểm nổi bật của thể loại nghị luận. Vậy giáo viên phải đặt câu hỏi như thế nào đây?
Khi dạy văn bản: “Trích diễm thi tập” của tác giả Hoàng Đức Lương, tôi đặt câu hỏi như sau: Theo em, văn bản “Trích diễm thi tập” gồm mấy luận điểm? Đó là những luận điểm nào?
Có thể lúc đầu học sinh còn bỡ ngỡ trước cách hỏi như vậy nhưng nếu giáo viên có sự gợi dẫn tốt và thường xuyên sử dụng kiểu câu hỏi như vậy khi dạy đọc hiểu các văn bản nghị luận thì các em sẽ trả lời được.
- Việc tích hợp với phân môn Làm văn còn thể hiện ở bước hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết văn bản.
+ Để làm được điều này khi dạy văn bản “Trích diễm thi tập”, tôi sử dụng một hệ thống câu hỏi sau:
• Câu hỏi 1: Theo em, vấn đề nêu ra ở luận điểm một là gì?
Sau khi học trả lời : “Vấn đề mà tác giả Hoàng Đức Lương nêu ra ở luận điểm một là: Những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời”, ta sẽ đưa ra tiếp các câu hỏi sau:
• Câu hỏi 2: Ở luận điểm một, tác giả Hoàng Đức Lương đã đưa ra những lí do nào khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời ?
(Với câu hỏi này, giáo viên đã giúp học sinh phát hiện được: ở luận điểm một tác giả đã nêu ra sáu lí do làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời.
* Bốn lí do chủ quan:
+ Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca.
+ Người có học thì ít để ý đến thơ ca.
+ Người quan tâm đến thơ ca thì không đủ năng lực và kiên trì.
+ Chính sách in ấn của nhà nước còn hạn chế.
* Hai lí do khách quan:
+ Thời gian làm huỷ hoại sách vở.
+ Chiến tranh, hoả hoạn làm sách vở rách nát, mai một.)
• Câu hỏi 3: Từ việc tìm hiểu các lí do trên, em thấy tác giả chọn cách lập luận nào để luận chứng?
(Tác giả phân tích những luận cứ cụ thể về các mặt khác nhau để lí giải bản chất của hiện tượng, vấn đề.)
• Câu hỏi 4: Tại sao tác giả không bắt đầu bài tựa bằng cách trình bày những công việc sưu tầm của mình mà lại giải quyết trước luận điểm: Nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời?
(Câu hỏi này giúp học sinh nhận ra rằng: Sở dĩ tác giả mở đầu bằng luận điểm trên vì hai lí do:
- Đó chính là luận điểm quan trọng nhất của bài tựa.
- Bởi ông muốn nhấn mạnh việc làm sưu tầm, biên soạn cuốn sách là xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tế chứ không chỉ từ sở thích cá nhân và đó là công việc khó khăn vất vả nhưng nhất định phải làm.)
• Câu hỏi 5: Trước những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời, tâm trạng của tác giả ra sao? Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện tâm trạng đó?
• Câu hỏi 6: Tìm những từ ngữ thể hiện thái độ của tác giả khi sưu tầm biên soạn sách?
=> Qua việc sử dụng các câu hỏi trên khi dạy đọc hiểu văn bản “Trích diễm thi tập”, ta thấy:
+ Đặt câu hỏi tích hợp ở cả bốn câu: 1,2,3,4 không chỉ giúp cho học sinh đọc - hiểu được nội dung văn bản mà còn giúp các em thấy được nghệ thuật lập luận chặt chẽ, logic của tác giả Hoàng Đức Lương. Qua đó các em sẽ học tập được cách lập luận trong văn nghị luận.
+ Đặt câu hỏi tích hợp ở hai câu: 5, 6, đã tích hợp được với bài: “Yếu tố biểu cảm, tự sự trong văn nghị luận” mà các em đã được học ở THCS. Việc tích hợp như vậy sẽ giúp các em hiểu được: Kết hợp nghị luận với biểu cảm, tự sự, làm bài tựa có tính thuyết phục cao, tác động sâu sắc đến người đọc.
- Khi hướng dẫn học sinh phân tích văn bản nghị luận giáo viên thường đưa ra câu hỏi: Em hãy nhận xét về cách lập luận của tác giả?
Câu hỏi này sẽ giúp học sinh củng cố lại kiến thức của các bài học về lập luận trong văn nghị luận, các thao tác lập luận trong văn nghị luận...
- Cuối cùng việc tích hợp với phân môn Làm văn còn được thể hiện ở phần củng cố bài học.
VD: Sau khi dạy xong các bài văn nghị luận trung đại, tôi thường sử dụng câu hỏi: Em hãy viết lại dàn ý của bài Tựa (Chiếu, Văn bia)?
*/ Tích hợp với phân môn Tiếng Việt
- Một trong những đặc điểm của văn học trung đại nói chung và văn nghị luận trung đại nói riêng là dùng cách nói uyển ngữ, cách nói hình ảnh với nhiều điển tích, điển cố. Vì vậy khi dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại, giáo viên cần phải giúp học sinh thấy rõ được điều này.
Dạy bài “Chiếu cầu hiền” hoặc bài “Xin lập khoa luật”, ta có thể tích hợp với bài Tiếng Việt học trước đó: “Thực hành về thành ngữ, điển cố.”
VD: Trong đoạn đầu của văn bản “Chiếu cầu hiền” tác giả Ngô Thì Nhậm đã sử dụng mấy điển tích, điển cố? Đó là những điển tích, điển cố nào? ý nghĩa của việc sử dụng đó?
Hỏi như vậy chắc chắn học sinh sẽ phát hiện và cảm nhận được: Chỉ trong một đoạn văn ngắn, tác giả đó sử dụng 9 điển tích, điển cố được rút ra từ sách vở cổ xưa, hàm ý chỉ những người ẩn dật uổng phí tài năng, hoặc những người làm quan nhưng còn nghi ngại, kiêng dè, giữ mình mà không dám nói thẳng.
- Tích hợp với Tiếng Việt để giúp học sinh thấy được việc sử dụng từ ngữ chính xác, giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của văn bản nghị luận trung đại.
VD: Phân tích ý nghĩa nhan đề “Chiếu cầu hiền”, cần làm nổi bật tác dụng biểu đạt, biểu cảm của từ “cầu”: Tại sao tác giả lại sử dụng từ “cầu” chứ không phải là từ “mời” hoặc “gọi”?
Câu hỏi này giúp học sinh thấy được giá trị biểu đạt của từ ngữ: “Cầu” thể hiện sự mong mỏi đồng thời là thái độ trân trọng và đề cao đối tượng mà vua Quang Trung muốn hướng tới, còn “mời” hay “gọi” mang sắc thái tình cảm bình thường.
- Trong văn nghị luận trung đại cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật phong phú để thể hiện cảm hứng của chủ thể sáng tạo và tạo nên tính hình tượng cùng sắc thái trữ tình của tác phẩm. Tính hình tượng của văn nghị luận trung đại thường thể hiện ở cấp độ ngôn từ, ở cách diễn đạt tu từ...
Ví dụ: Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh, cường điệu để diễn tả sức mạnh của nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn. Voi uống nước, nước sông phải cạn” và sự thảm bại nhanh chóng của kẻ thù: “Cơn gió to quét sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”...
Khi phân tích văn bản giáo viên chỉ ra được điều này thì đồng nghĩa với việc giúp học sinh củng cố lại kiến thức về các biện pháp nghệ thuật tu từ mà các em đã được học ở lớp dưới.
*/ Tích hợp theo cụm thể loại
- Việc tích hợp theo cụm thể loại giúp học sinh hình thành được tri thức về thể loại và vận dụng được những tri thức đọc hiểu về thể loại đó.
- Một số ví dụ
+ VD1: Dạy bài “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm, nên yêu cầu học sinh về nhà xem trước lại bài : “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn đã được học ở Lớp 8.
Khi dạy ở trên lớp, ta có thể đặt câu hỏi: “Qua bài “Chiếu dời đô” đã được học ở Lớp 8, em hiểu như thế nào là thể chiếu?”
+ VD2: Sau khi dạy xong các văn bản nghị luận trung đại, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh rút ra những kết luận khái quát nhất về đặc trưng văn nghị luận trung đại sau đó yêu cầu:
Từ những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận trung đại đã học, em hãy so sánh với các văn bản nghị luận hiện đại đã học ở chương trình THCS. Từ đó rút ra một số kết luận cần thiết khi viết một văn bản nghị luận?
3.2.2. Sử dụng sơ đồ
- Người xưa đã nói: “Trăm nghe không bằng một thấy”. Lí luận dạy học hiện đại cũng khẳng định vai trò quan trọng của những ví dụ trực quan sinh động.
Sử dụng sơ đồ hệ thống luận điểm, luận cứ của văn bản nghị luận chính là làm cho học sinh không chỉ “nghe” mà còn “thấy”.
VD: Khi dạy bài “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” ta cho học sinh quan sát sơ đồ kết cấu của bài văn bia.
Sơ đồ kết cấu của bài văn bia “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”
Sau khi cho học sinh quan sát sơ đồ, giáo viên sẽ yêu cầu các em rút ra kết luận: Cách lập luận chặt chẽ, mạch lạc của bài văn bia.
3.2.3. Sử dụng phần chú thích ở cuối mỗi trang của văn bản
- Sử dụng phần chú thích ở cuối mỗi trang của văn bản sẽ giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa của những từ ngữ mà tác giả sử dụng, qua đó hiểu rõ hơn nội dung ý nghĩa của văn bản.
+ VD1: Dựa vào phần chú thích ở cuối trang, em hãy giải thích nhan đề văn bản: “Trích diễm thi tập”?
Nếu không dựa vào chú thích ở cuối trang, học sinh khó mà hiểu được rằng:
* Trích: trong tiếng Hán là chọn hái một bông hoa đẹp, hay tuyển chọn.
* Diễm: Chỉ sự kiều diễm, diễm lệ, chỉ cái hay, cái đẹp ở mức độ cao.
* Thi là thơ, “diễm thi” là những bài thơ hay.
Vậy “Trích diễm thi tập” là tập thơ tuyển chọn những bài thơ hay.
+ VD2: Dựa vào phần chú thích ở cuối trang, em hãy giải thích nhan đề văn bản: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”?
HS tr¶ lêi theo ®Þnh híng:
* HiÒn tµi: ngêi cã tµi, cã ®øc, tµi cao, ®øc lín.
* Nguyªn khÝ: khÝ chÊt ban ®Çu lµm nªn sù sèng cßn vµ ph¸t triÓn cña sù vËt.
-> Mối quan hÖ gi÷a hiÒn tµi víi sù thÞnh suy cña ®Êt níc.
Soạn bài mẫu
Tiết: 23+24
Đọc văn: CHIẾU CẦU HIỀN
(Cầu hiền chiếu)
- Ngô Thì Nhậm
A- Mục tiêu bài học
1. Kiến thức:
- Hiểu được tầm tư tưởng mang tính chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây dựng đất nước của vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta. Qua đó HS nhận thức được tầm quan trọng của nhân tài đối với quốc gia
- Thấy được cách diễn đạt tinh tế bằng lời lẽ vừa tâm huyết vừa có sức thuyết phục cao và lập luận chặt chẽ của tác giả.
2. Kĩ năng: - Rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản văn học.
3. Thái độ: - Có ý thức trân trọng người hiền tài.
B - Chuẩn bị
- GV: ảnh, tượng vua Quang Trung; Đọc SGK, SGV, giáo án.
- HS: Đọc lại các văn bản “Chiếu dời đô” (Lớp 8); “Hoàng Lê nhất thống chí” (Lớp 9); “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (Lớp 10)
C - Phương pháp : Nêu vấn đề , Gợi mở
D - Tiến trình lên lớp
1- Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số
2- Kiểm tra bài cũ
3- Bài mới
E – Củng cố và hướng dẫn về nhà
- Củng cố: GV yêu cầu Hs lập sơ đồ hệ thống các luận điểm của bài chiếu.
- Về nhà : + Câu hỏi: Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” - Ngô Thì Nhậm, theo em ngày nay chúng ta có còn cần chính sách “cầu hiền” như vua Quang Trung nữa không?
+ Chuẩn bị bài đọc thêm “Xin lập khoa luật”.
Phần 4: Kiểm nghiệm
- Thực tế giảng dạy ở 2 lớp 11A6 và 11A9 năm học 2010 - 2011 và 4 lớp: 11A1, 11A2, 11A3 và 10A9 năm học 2011 – 2012 tôi nhận thấy rằng, trước khi vận dụng những biện pháp như trên (dạy theo phương pháp truyền thống lâu nay) vào dạy 2 lớp 11A6 và 11A9 (2010 - 2011) và lớp 11A1 (2011 - 2012) – lớp mà có rất nhiều học sinh học tương đối tốt môn văn, thì đa số các em cũng chỉ dừng lại ở việc nắm vững những nét chính về nội dung và nghệ thuật của văn bản, chưa có sự mở rộng, liên hệ và hệ thống hoá kiến thức bài học theo sơ đồ, cùng với đó là tinh thần chưa thực sự say mê, cuốn hút vào bài học.
Nhưng đến 3 lớp 11A2, 11A3 và 10A9, tôi đã vận dụng phương pháp như trên thì kết quả thu được:
+ Học sinh đã tích cực, hăng hái tiếp thu bài mới và làm việc có hiệu quả theo sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Các em nắm được đặc điểm nổi bật của loại văn bản nghị luận trung đại.
+ Kết quả được chứng minh qua bài kiểm tra:
1. Kết luận
- Việc nghiên cứu và bàn về phương pháp dạy đọc hiểu văn chương nói chung đã được nhiều tài liệu, nhiều người nói tới song nghiên cứu và bàn riêng về phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại thì còn rất hạn chế. Trong khi loại văn này có vị trí khá quan trọng trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới. Nên việc nghiên cứu và đưa ra cách dạy đọc hiểu có hiệu quả văn bản nghị luận trung đại là rất cần thiết.
2. Đề xuất
- Đối với giáo viên: chương trình Ngữ văn ở phổ thông hiện nay đã phản ánh rõ sự chuyển biến nhận thức về vị trí, vai trò của văn chương nghị luận trong đời sống con người. Điều quan trọng và cũng là nhiệm vụ của mỗi giáo viên là cần nỗ lực tìm tòi, sáng tạo cùng trao đổi với đồng nghiệp những phương pháp dạy học tích cực khi dạy những tác phẩm nghị luận trung đại nói riêng và các tác phẩm nghị luận nói chung để đem đến sự say mê, hứng thú cho học sinh và trả lại vẻ hấp dẫn đích thực của những văn bản đó.
- Đối với học sinh: Cần thấy được giá trị, cái hay cái đẹp của những văn bản nghị luận trung đại từ đó tích cực tìm hiểu thêm những kiến thức có liên quan từ nhiều nguồn khác nhau: sách vở, tư liệu tham khảo, Internet… để có những hiểu biết đầy đủ, có thái độ học tập tích cực, chủ động.
- Nhà trường trang bị thêm các sách tài liệu cho thư viện để giáo viên và học sinh tham khảo.
Do thời gian có hạn nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong được sự góp ý của quý thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn và để được áp dụng thực hiện trong những năm học tới rộng rãi hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo Dục.
. Hoàng Thị Mai, Kiều Thọ Long, Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường phổ thông, NXB Giáo Dục.
. Đỗ Ngọc Thống, Vẻ đẹp của văn nghị luận, Văn học và tuổi trẻ.
. Từ điển thuật ngữ Văn học ( 4/1999 ), NXB Đại học Quốc Gia.
. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, 11, NXB Giáo Dục.
XEM THÊM NHỮNG CHỦ ĐỀ KHÁC.
YOPOVN xin gửi đến quý thầy cô Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học văn nghị luận Ở TRƯỜNG THPT. Đây là bộ Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học văn nghị luận Ở TRƯỜNG THPT rất hay.
MỤC LỤC Trang | |
A. ĐẶT VẤN ĐỀ | 2 |
1. lý do chọn đề tài | 2 |
2. Mục đích nghiên cứu | 2 |
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu | 2 |
4. Phương pháp nghiên cứu | 3 |
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ | 4 |
Phần 1: Cơ sở lí luận | 4 |
Phần 2: Thực trạng vấn đề | 4 |
2.1. Thực trạng chung | 4 |
2.2. Thực trạng đối với giáo viên | 4 |
2.3. Thực trạng đối với học sinh | 5 |
Phần 3: Giải pháp và tổ chức thực hiện | 5 |
3.1. Giải pháp | 5 |
3.2. Tổ chức thực hiện | 6 |
Phần 4: Kiểm nghiệm | 16 |
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT | 17 |
TÀI LIỆU THAM KHẢO | 18 |
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận là thể loại văn: “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, triết học, kinh tế, văn hoá…Mục đích của văn nghị luận là bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định…Đặc trưng cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết - khác với văn học nghệ thuật, văn chương nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ…” (Từ điển thuật ngữ Văn học - NXB Đại học Quốc Gia, 4/1999)
Trên thế giới và Việt Nam văn chương nghị luận có lịch sử từ rất lâu đời, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những vấn đề lớn lao của đất nước, thời đại như công cuộc giữ nước, dựng nước, canh tân đất nước mà cũng rất gần gũi và có ý nghĩa trong đời sống con người. Đã có rất nhiều áng văn trở thành mẫu mực, bất hủ của từng dân tộc và trên toàn thế giới.
Trước đây do quan niệm phiến diện về văn học nên nhiều người cho rằng văn chương chỉ bao gồm những sáng tác bằng tưởng tượng, hư cấu mà ít nghĩ đến văn nghị luận. Hoặc có nghĩ đến thì lại cho rằng đây là thể loại thường đề cập đến những tư tưởng cao siêu, trừu tượng, lập luận khô, diễn đạt khó nên không hấp dẫn. Do vậy văn nghị luận rất ít được đưa vào chương trình phổ thông, có chăng chỉ một vài tác phẩm nghị luận trung đại (Sông núi nước Nam, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo) và hiện đại (Tuyên ngôn độc lập) ở cả hai cấp học (theo quan điểm đồng tâm mở rộng).
Hiện nay do thấy được vai trò quan trọng của văn nghị luận. Nên các nhà nghiên cứu và biên soạn sách đã tuyển chọn một số văn bản nghị luận hay, có giá trị vào dạy trong chương trình phổ thông với nhiều thể loại và đa dạng về đề tài…. đặc biệt là trong chương trình Ngữ văn bậc THPT.
Đối với bản thân, do thấy được những giá trị to lớn của văn nghị luận, đặc biệt là văn nghị luận trung đại trong thực tế đời sống cũng như trong quá trình giảng dạy. Chính vì vậy tôi quyết định chọ vấn đề này để nghiên cứu và áp dụng
2. Mục đích nghiên cứu
- Khi thực hiện đề tài này, mục đích tôi đặt ra là để tìm một hướng tiếp cận đơn giản, dễ hiểu nhưng sâu sắc, cuốn hút đối với giáo viên trong giảng dạy và với học sinh trong quá trình các em lĩnh hội, tiếp thu kiến thức. Biến giờ dạy những tác phẩm nghị luận trung đại khô khan thành những giờ dạy văn hấp dẫn nhưng rất thực tế, sinh động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các tác phẩm văn nghị luận trung đại trong chương trình THPT.
- Các loại tài liệu tham khảo có liên quan tới phần văn nghị luận trung đại
- Đối tượng sử dụng đề tài: Các em học sinh lớp 11A6 và 11A9 năn học 2010 - 2011; lớp 10A9, 11A1, 11A2, 11A3 trường THPT Bá Thước năm học 2011 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tổng kết kinh nghiệm
- Nghiên cứu tài liệu: các loại sách tham khảo, tài liệu tham khảo về văn nghị luận trung đại, phương pháp dạy văn nghị luận ở trường THPT.
- Xác định đối tượng học sinh áp dụng đề tài
- Kiểm tra sự tiếp thu của học sinh bằng bài tập về nhà và các đề ôn tập.
- Đánh giá, đưa ra sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần 1: Cơ sở lí luận
Văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy lôgic, năng lực biểu đạt những quan niệm, tư tưởng sâu sắc trước đời sống.
Văn chương trung đại là phần đã được đánh giá ổn định. Đó là những tác phẩm tiêu biểu có giá trị nhất trong lịch sử giữ nước, dựng nước thời phong kiến. Nó là “tiếng của cha ông thuở trước”, góp phần xứng đáng làm nên và hun đúc những truyền thống quý báu của dân tộc. Nó là quyền tự hào chính đáng của mỗi người Việt Nam chúng ta.
Sách Ngữ văn 10 và Ngữ văn 11, phần văn học trung đại đã tăng một số lượng đáng kể những văn bản nghị luận. Coi trọng đúng mức những tác phẩm văn học chính luận, những tác phẩm có màu sắc học thuật để tăng cường, tô đậm bản chất văn hoá của văn học.
Đưa thêm văn nghị luận, tăng cường bản chất văn hoá của văn học là để giúp học sinh vận dụng văn học vào cuộc sống. Văn nghị luận gắn với học sinh giúp các em về phương pháp tư duy, cách lập luận đến cách viết bài văn nghị luận…
Phần 2: Thực trạng của vấn đề
2.1. Thực trạng chung:
Về cơ bản văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lôgíc. Nhưng vẻ đẹp của một áng văn nghị luận không chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc mà còn ở hình thức lập luận phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết phục. Hiện nay mặc dù những tác phẩm văn nghị luận trung đại đưa vào chương trình học đều là những tác phẩm có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật, nhưng thực tế trong quá trình giảng dạy cả giáo viên và học sinh mới chỉ đi đúng, hiểu đúng những quan điểm tư tưởng của tác giả (chú ý khai thác nội dung) mà chưa chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của các tác phẩm. Vì thế việc dạy các tác phẩm nghị luận, đặc biệt là nghị luận xã hội thường khó, không mấy hấp dẫn đối với cả giáo viên và học sinh.
2.2. Thực trạng đối với giáo viên:
- Thực tế cho thấy, không ít giáo viên có tâm lí không mặn mà, ít hứng thú khi dạy văn bản nghị luận. Nhiều giáo viên cho rằng văn bản nghị luận khô khan, khó cảm nhận, khó truyền được hứng thú cho học sinh. Do đó, dẫn đến việc dạy sơ sài, thiếu tìm hiểu sâu, thiếu đầu tư cho tiết dạy này. Với thực tế đó, hiệu quả giờ dạy văn bản nghị luận khó đạt được như yêu cầu đặt ra.
- Khi thực hiện chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới, nhiều đồng chí giáo viên còn cảm thấy lúng túng về phương pháp dạy đọc - hiểu một số văn bản nghị luận trung đại vì có nhiều bỡ ngỡ khi gặp một số thể loại mới như : chiếu, văn bia, tựa, thư, cáo…với nhiều tác phẩm khác nhau về thời điểm ra đời, khác nhau về loại hình văn hoá. Nhưng những tác phẩm ấy đều có sức hấp dẫn đặc biệt bởi tính trí tuệ uyên bác và tình cảm sâu sắc của người cầm bút. Để vừa dạy đúng, lại vừa hay, biến những tác phẩm nghị luận thiên về lý lẽ, lập luận trở thành một văn bản văn học lôi cuốn, hấp dẫn học sinh là một điều không phải dễ đối với nhiều giáo viên. Vì vậy, việc tìm ra những biện pháp tích cực phục vụ cho quá trình giảng dạy các tác phẩm nghị luận trung đại là điều vô cùng cần thiết.
2.3. Thực trạng đối với học sinh:
Về phía học sinh, do chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá các tác phẩm; bởi việc đọc - hiểu văn bản văn học trung đại đã khó thì việc đọc - hiểu một văn bản nghị luận trung đại càng khó hơn. Vì trong văn bản nghị luận trung đại, tư tưởng của tác giả khó nắm bắt bởi cách viết hàn lâm, với hệ thống điển tích, điển cố dày đặc... Điều đó, càng đọc học sinh càng không hiểu bởi vốn kiến thức hạn chế, từ ngữ “xa lạ”.
Đặc biệt là khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh hiện nay rất yếu, nhiều em khi viết bài văn tỏ ra rất lúng túng, thậm chí chưa xác lập được một hệ thống luận điểm, luận cứ một cách rõ ràng và xác đáng, biến bài văn của mình thành một “rừng văn”, “bè văn”. Trong khi những bài văn nghị luận trung đại trong sách giáo khoa Ngữ văn có thể coi là những bài văn nghị luận mẫu mực trong cách lập luận. Việc dạy đọc - hiểu tốt các văn bản nghị luận trung đại sẽ góp phần rất lớn vào việc rèn luyện và nâng cao kĩ năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh, giúp học sinh có hứng thú học tập và tác phẩm sẽ không còn bị đóng băng trong lớp sương nghệ thuật trung đại.
Phần 3: Giải pháp và tổ chức thực hiện:
3.1. Giải pháp:
- Văn nghị luận trung đại ra đời trong bối cảnh văn hoá - xã hội phong kiến chịu sự chi phối bởi hệ tư tưởng chính thống cũng như quan niệm văn chương của thời đại. Trong quá trình dạy học, giáo viên một mặt phải tôn trọng tính chỉnh thể của văn bản, bám sát văn bản để hướng dẫn học sinh đọc – hiểu, mặt khác để hiểu thấu đáo các luận điểm và cách thức lập luận của tác giả trung đại, giáo viên phải trau dồi tri thức văn hoá đọc cho bản thân và hướng dẫn cho học sinh cách đọc tác phẩm của tiền nhân đúng với thi pháp của một thời đại, phù hợp với ngữ cảnh sản sinh văn bản. Do đó, phương pháp dạy tích hợp trở thành nguyên tắc quan trọng không thể thiếu.
Để dạy - đọc hiểu các văn bản nghị luận trung đại theo hướng tích hợp, tôi đã làm như sau :
a. Xác định trọng tâm kiến thức cần đạt trong bài dạy.
b. Xác định đặc điểm nổi bật của thể loại.
c. Xác định nội dung kiến thức cần tích hợp (Xác định kiến thức của bài có liên quan đến bài nào học sinh đó học và sắp học).
d. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp.
- Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của các văn bản nghị luận là hệ thống luận điểm, luận cứ hết sức rõ ràng, mạch lạc, lập luận rất chặt chẽ thế nhưng khi đọc xong văn bản, học rất mơ hồ về điều này. Vậy khi dạy, chúng ta phải làm thế nào để khắc phục được hiện tượng trên? Theo tôi giải pháp là sử dụng sơ đồ hoá nội dung bài học theo cấu trúc tầng bậc. Làm như vậy, vừa khái quát hoá nội dung bài học một cách ngắn gọn, khoa học vừa khiến cho học sinh dễ nhớ, khắc sâu được kiến thức.
- Các văn bản nghị luận trung đại thường mang đặc điểm của văn học trung đại: sử dụng điển tích, điển cố, ngôn từ mang tính ước lệ, tượng trưng, hệ thống từ Hán Việt xuất hiện dày đặc. Học sinh sẽ rất khó khăn khi đọc hiểu văn bản nếu không hiểu được các điển tích, điển cố và những từ khó mà tác giả đó sử dụng. Do vậy khi dạy đọc - hiểu các văn bản nghị luận trung đại, cần yêu cầu và hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu phần chú thích ở cuối mỗi trang của văn bản.
3.2. Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận trung đại theo hướng tích hợp
3.2.1.1. Thế nào là dạy đọc - hiểu theo hướng tích hợp?
- Tích hợp ngang:
Tích hợp theo cả ba phần Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một đơn vị bài học.
- Tích hợp dọc:
Tích hợp theo từng vấn đề – vấn đề đang dạy ở phần này có liên hệ đến các nội dung khác để dạy hoặc sẽ dạy ở hai phần kia hoặc vấn đề đó trong cả một giai đoạn văn học.
3.2.1.2. Vận dụng nguyên tắc dạy đọc – hiểu tích hợp vào một số văn bản nghị luận trung đại.
*/ Vì nghệ thuật đặc sắc nhất của các văn bản nghị luận chính là hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, mạch lạc và cách lập luận chặt chẽ nên khi dạy đọc - hiểu các văn bản nghị luận trung đại, tôi đặc biệt chú trọng tới việc tích hợp với phân môn Làm văn. Từ đó nhằm củng cố, rèn luyện và nâng cao khả năng lập luận trong văn nghị luận của học sinh
- Điều này trước hết được thể hiện ở việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu bố cục của văn bản nghị luận trung đại.
Nếu trong các loại văn bản khác ta thường hỏi: “Sau khi tìm hiểu văn bản, em thấy văn bản có thể chia làm mấy phần? Nội dung của từng phần?” thì đối với các văn bản nghị luận không nên hỏi như vậy vì không khai thác được đặc điểm nổi bật của thể loại nghị luận. Vậy giáo viên phải đặt câu hỏi như thế nào đây?
Khi dạy văn bản: “Trích diễm thi tập” của tác giả Hoàng Đức Lương, tôi đặt câu hỏi như sau: Theo em, văn bản “Trích diễm thi tập” gồm mấy luận điểm? Đó là những luận điểm nào?
Có thể lúc đầu học sinh còn bỡ ngỡ trước cách hỏi như vậy nhưng nếu giáo viên có sự gợi dẫn tốt và thường xuyên sử dụng kiểu câu hỏi như vậy khi dạy đọc hiểu các văn bản nghị luận thì các em sẽ trả lời được.
- Việc tích hợp với phân môn Làm văn còn thể hiện ở bước hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết văn bản.
+ Để làm được điều này khi dạy văn bản “Trích diễm thi tập”, tôi sử dụng một hệ thống câu hỏi sau:
• Câu hỏi 1: Theo em, vấn đề nêu ra ở luận điểm một là gì?
Sau khi học trả lời : “Vấn đề mà tác giả Hoàng Đức Lương nêu ra ở luận điểm một là: Những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời”, ta sẽ đưa ra tiếp các câu hỏi sau:
• Câu hỏi 2: Ở luận điểm một, tác giả Hoàng Đức Lương đã đưa ra những lí do nào khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời ?
(Với câu hỏi này, giáo viên đã giúp học sinh phát hiện được: ở luận điểm một tác giả đã nêu ra sáu lí do làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời.
* Bốn lí do chủ quan:
+ Chỉ có thi nhân mới thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca.
+ Người có học thì ít để ý đến thơ ca.
+ Người quan tâm đến thơ ca thì không đủ năng lực và kiên trì.
+ Chính sách in ấn của nhà nước còn hạn chế.
* Hai lí do khách quan:
+ Thời gian làm huỷ hoại sách vở.
+ Chiến tranh, hoả hoạn làm sách vở rách nát, mai một.)
• Câu hỏi 3: Từ việc tìm hiểu các lí do trên, em thấy tác giả chọn cách lập luận nào để luận chứng?
(Tác giả phân tích những luận cứ cụ thể về các mặt khác nhau để lí giải bản chất của hiện tượng, vấn đề.)
• Câu hỏi 4: Tại sao tác giả không bắt đầu bài tựa bằng cách trình bày những công việc sưu tầm của mình mà lại giải quyết trước luận điểm: Nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời?
(Câu hỏi này giúp học sinh nhận ra rằng: Sở dĩ tác giả mở đầu bằng luận điểm trên vì hai lí do:
- Đó chính là luận điểm quan trọng nhất của bài tựa.
- Bởi ông muốn nhấn mạnh việc làm sưu tầm, biên soạn cuốn sách là xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tế chứ không chỉ từ sở thích cá nhân và đó là công việc khó khăn vất vả nhưng nhất định phải làm.)
• Câu hỏi 5: Trước những nguyên nhân làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời, tâm trạng của tác giả ra sao? Những từ ngữ, hình ảnh nào thể hiện tâm trạng đó?
• Câu hỏi 6: Tìm những từ ngữ thể hiện thái độ của tác giả khi sưu tầm biên soạn sách?
=> Qua việc sử dụng các câu hỏi trên khi dạy đọc hiểu văn bản “Trích diễm thi tập”, ta thấy:
+ Đặt câu hỏi tích hợp ở cả bốn câu: 1,2,3,4 không chỉ giúp cho học sinh đọc - hiểu được nội dung văn bản mà còn giúp các em thấy được nghệ thuật lập luận chặt chẽ, logic của tác giả Hoàng Đức Lương. Qua đó các em sẽ học tập được cách lập luận trong văn nghị luận.
+ Đặt câu hỏi tích hợp ở hai câu: 5, 6, đã tích hợp được với bài: “Yếu tố biểu cảm, tự sự trong văn nghị luận” mà các em đã được học ở THCS. Việc tích hợp như vậy sẽ giúp các em hiểu được: Kết hợp nghị luận với biểu cảm, tự sự, làm bài tựa có tính thuyết phục cao, tác động sâu sắc đến người đọc.
- Khi hướng dẫn học sinh phân tích văn bản nghị luận giáo viên thường đưa ra câu hỏi: Em hãy nhận xét về cách lập luận của tác giả?
Câu hỏi này sẽ giúp học sinh củng cố lại kiến thức của các bài học về lập luận trong văn nghị luận, các thao tác lập luận trong văn nghị luận...
- Cuối cùng việc tích hợp với phân môn Làm văn còn được thể hiện ở phần củng cố bài học.
VD: Sau khi dạy xong các bài văn nghị luận trung đại, tôi thường sử dụng câu hỏi: Em hãy viết lại dàn ý của bài Tựa (Chiếu, Văn bia)?
*/ Tích hợp với phân môn Tiếng Việt
- Một trong những đặc điểm của văn học trung đại nói chung và văn nghị luận trung đại nói riêng là dùng cách nói uyển ngữ, cách nói hình ảnh với nhiều điển tích, điển cố. Vì vậy khi dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại, giáo viên cần phải giúp học sinh thấy rõ được điều này.
Dạy bài “Chiếu cầu hiền” hoặc bài “Xin lập khoa luật”, ta có thể tích hợp với bài Tiếng Việt học trước đó: “Thực hành về thành ngữ, điển cố.”
VD: Trong đoạn đầu của văn bản “Chiếu cầu hiền” tác giả Ngô Thì Nhậm đã sử dụng mấy điển tích, điển cố? Đó là những điển tích, điển cố nào? ý nghĩa của việc sử dụng đó?
Hỏi như vậy chắc chắn học sinh sẽ phát hiện và cảm nhận được: Chỉ trong một đoạn văn ngắn, tác giả đó sử dụng 9 điển tích, điển cố được rút ra từ sách vở cổ xưa, hàm ý chỉ những người ẩn dật uổng phí tài năng, hoặc những người làm quan nhưng còn nghi ngại, kiêng dè, giữ mình mà không dám nói thẳng.
- Tích hợp với Tiếng Việt để giúp học sinh thấy được việc sử dụng từ ngữ chính xác, giàu giá trị biểu đạt, biểu cảm của văn bản nghị luận trung đại.
VD: Phân tích ý nghĩa nhan đề “Chiếu cầu hiền”, cần làm nổi bật tác dụng biểu đạt, biểu cảm của từ “cầu”: Tại sao tác giả lại sử dụng từ “cầu” chứ không phải là từ “mời” hoặc “gọi”?
Câu hỏi này giúp học sinh thấy được giá trị biểu đạt của từ ngữ: “Cầu” thể hiện sự mong mỏi đồng thời là thái độ trân trọng và đề cao đối tượng mà vua Quang Trung muốn hướng tới, còn “mời” hay “gọi” mang sắc thái tình cảm bình thường.
- Trong văn nghị luận trung đại cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật phong phú để thể hiện cảm hứng của chủ thể sáng tạo và tạo nên tính hình tượng cùng sắc thái trữ tình của tác phẩm. Tính hình tượng của văn nghị luận trung đại thường thể hiện ở cấp độ ngôn từ, ở cách diễn đạt tu từ...
Ví dụ: Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh, cường điệu để diễn tả sức mạnh của nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn. Voi uống nước, nước sông phải cạn” và sự thảm bại nhanh chóng của kẻ thù: “Cơn gió to quét sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”...
Khi phân tích văn bản giáo viên chỉ ra được điều này thì đồng nghĩa với việc giúp học sinh củng cố lại kiến thức về các biện pháp nghệ thuật tu từ mà các em đã được học ở lớp dưới.
*/ Tích hợp theo cụm thể loại
- Việc tích hợp theo cụm thể loại giúp học sinh hình thành được tri thức về thể loại và vận dụng được những tri thức đọc hiểu về thể loại đó.
- Một số ví dụ
+ VD1: Dạy bài “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm, nên yêu cầu học sinh về nhà xem trước lại bài : “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn đã được học ở Lớp 8.
Khi dạy ở trên lớp, ta có thể đặt câu hỏi: “Qua bài “Chiếu dời đô” đã được học ở Lớp 8, em hiểu như thế nào là thể chiếu?”
+ VD2: Sau khi dạy xong các văn bản nghị luận trung đại, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh rút ra những kết luận khái quát nhất về đặc trưng văn nghị luận trung đại sau đó yêu cầu:
Từ những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận trung đại đã học, em hãy so sánh với các văn bản nghị luận hiện đại đã học ở chương trình THCS. Từ đó rút ra một số kết luận cần thiết khi viết một văn bản nghị luận?
3.2.2. Sử dụng sơ đồ
- Người xưa đã nói: “Trăm nghe không bằng một thấy”. Lí luận dạy học hiện đại cũng khẳng định vai trò quan trọng của những ví dụ trực quan sinh động.
Sử dụng sơ đồ hệ thống luận điểm, luận cứ của văn bản nghị luận chính là làm cho học sinh không chỉ “nghe” mà còn “thấy”.
VD: Khi dạy bài “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” ta cho học sinh quan sát sơ đồ kết cấu của bài văn bia.
Sơ đồ kết cấu của bài văn bia “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”
Sau khi cho học sinh quan sát sơ đồ, giáo viên sẽ yêu cầu các em rút ra kết luận: Cách lập luận chặt chẽ, mạch lạc của bài văn bia.
3.2.3. Sử dụng phần chú thích ở cuối mỗi trang của văn bản
- Sử dụng phần chú thích ở cuối mỗi trang của văn bản sẽ giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa của những từ ngữ mà tác giả sử dụng, qua đó hiểu rõ hơn nội dung ý nghĩa của văn bản.
+ VD1: Dựa vào phần chú thích ở cuối trang, em hãy giải thích nhan đề văn bản: “Trích diễm thi tập”?
Nếu không dựa vào chú thích ở cuối trang, học sinh khó mà hiểu được rằng:
* Trích: trong tiếng Hán là chọn hái một bông hoa đẹp, hay tuyển chọn.
* Diễm: Chỉ sự kiều diễm, diễm lệ, chỉ cái hay, cái đẹp ở mức độ cao.
* Thi là thơ, “diễm thi” là những bài thơ hay.
Vậy “Trích diễm thi tập” là tập thơ tuyển chọn những bài thơ hay.
+ VD2: Dựa vào phần chú thích ở cuối trang, em hãy giải thích nhan đề văn bản: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”?
HS tr¶ lêi theo ®Þnh híng:
* HiÒn tµi: ngêi cã tµi, cã ®øc, tµi cao, ®øc lín.
* Nguyªn khÝ: khÝ chÊt ban ®Çu lµm nªn sù sèng cßn vµ ph¸t triÓn cña sù vËt.
-> Mối quan hÖ gi÷a hiÒn tµi víi sù thÞnh suy cña ®Êt níc.
Soạn bài mẫu
Tiết: 23+24
Đọc văn: CHIẾU CẦU HIỀN
(Cầu hiền chiếu)
- Ngô Thì Nhậm
A- Mục tiêu bài học
1. Kiến thức:
- Hiểu được tầm tư tưởng mang tính chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây dựng đất nước của vua Quang Trung, một nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta. Qua đó HS nhận thức được tầm quan trọng của nhân tài đối với quốc gia
- Thấy được cách diễn đạt tinh tế bằng lời lẽ vừa tâm huyết vừa có sức thuyết phục cao và lập luận chặt chẽ của tác giả.
2. Kĩ năng: - Rèn kĩ năng đọc - hiểu văn bản văn học.
3. Thái độ: - Có ý thức trân trọng người hiền tài.
B - Chuẩn bị
- GV: ảnh, tượng vua Quang Trung; Đọc SGK, SGV, giáo án.
- HS: Đọc lại các văn bản “Chiếu dời đô” (Lớp 8); “Hoàng Lê nhất thống chí” (Lớp 9); “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (Lớp 10)
C - Phương pháp : Nêu vấn đề , Gợi mở
D - Tiến trình lên lớp
1- Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số
2- Kiểm tra bài cũ
3- Bài mới
Hoạt động của GV - HS | Nội dung cần đạt |
v Hoạt động 1: - Thao tác 1: Tìm hiểu về tác giả Ngô Thì Nhậm + GV : Yêu cầu HS đọc phần tiểu dẫn và rút ra những nét chính về Ngô Thì Nhậm. - Thao tác 2: Tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời Mục đích viết “Chiếu cầu hiền”? Đối tượng hướng tới của “Chiếu cầu hiền” là những ai? - Thao tác 3: Tìm hiểu thể loại + GV : Qua bài “Chiếu dời đô” đã được học ở Lớp 8, em hiểu như thế nào là thể chiếu? v Hoạt động 2: - Thao tác 1: Gv hướng dẫn đọc Giọng đọc rõ ràng, mạch lạc, chú ý thể hiện tình cảm của người xuống chiếu: lời lẽ nhún nhường, tâm huyết, giàu sức thuyết phục - Gọi 1 Hs đọc văn bản - GV giải thích từ khó ở phần chú thích cuối mỗi trang của văn bản + GV: Theo em, văn bản “Chiếu cầu hiền” gồm mấy luận điểm? Vấn đề mà tác giả nêu ra ở từng luận điểm là gì? - Học sinh theo dõi văn bản và trả lời. Thao tác 2: Phân tích văn bản + GV: Để đi đến kết luận mang ý nghĩa điểm tựa cho lập luận: Hiền tài cần phải phụng sự cho đời mới là đúng ý trời, tác giả đã xuất phát từ điều gì, dẫn dắt ý ra sao? Cách nêu vấn đề như vậy có tác dụng gì? - HS trao đổi, trả lời + GV: Việc mở đầu có ý nghĩa như thế nào đối với mục đích cầu hiền? (Giáo viên gợi dẫn: Khổng tử là ai? Trong lòng các nho sĩ Bắc hà Khổng Tử có vị trí như thế nào?) + GV: Em học được điều gì bổ ích khi áp dụng viết phần mở đầu cho bài văn nghị luận của mình? - HS liên hệ + GV: Trong đoạn văn từ “Trước đây” đến “phụng sự vương hầu chăng?”, tác giả đã sử dụng bao nhiêu điển tích, điển cố? Nội dung mà chúng biểu hiện là gì? - Việc sử dụng chúng kết hợp với các câu hỏi tu từ đó đem lại hiệu quả nghệ thuật như thế nào cho bài chiếu? - HS theo dõi đoạn văn bản và phát hiện các điển tích, điển cố +GV: Tác giả có nói thẳng ra những điều trên không? Nói như vậy có ý nghĩa gì? (Gv: Trong tâm lí của nho sĩ Bắc Hà, có một số coi thường Quang Trung không biết nghi lễ, chữ thánh hiền.) +GV: Theo em tấm lòng của Quang Trung với người hiền được thể hiện qua những hình ảnh nào? - Gv hướng dẫn tìm hiểu +GV: Tại sao nhà vua, người có quyền cao nhất nhưng không lệnh, gọi, mời mà phải cầu? +GV: Tác giả đã đưa ra những lí do nào khiến vua phải cầu hiền? Em có nhận xét gì về lời lẽ của người viết và cách lập luận ở đoạn này? - HS trao đổi, trả lời +GV: Quang Trung đó đưa ra cách cầu hiền như thế nào ở luận điểm tiếp theo? Em có nhận xét gì về cách cầu hiền đó? +GV: Theo em những bậc hiền tài thời Quang Trung sẽ có thái độ ra sao sau khi đọc “Chiếu cầu hiền”? - HS thảo luận v Hoạt động 3: + GV hướng dẫn học sinh tổng kết nội dung và nghệ thuật - Gọi một HS đọc phần ghi nhớ trong SGK - HS: đọc (GV: Chiếu cầu hiền thể hiện chiến lược của một vị vua sáng. Tiếc rằng năm 1792 vua Quang Trung đã băng hà đột ngột. Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại đến năm 1802 trong cảnh hỗn chiến. Vì thế chiếu cầu hiền chỉ mang ý nghĩa như một văn kiện lịch sử, một tư liệu lịch sử của một triều đại vang bóng). | I- Tìm hiểu chung 1- Tác giả: - Ngô Thì Nhậm (1764 – 1803), hiệu Hi Doãn. - Người làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay: Thanh Trì - Hà Nội) - 1775 đỗ tiến sỹ, từng làm quan dưới thời Lê Cảnh Hưng - Khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần 2, ông đã theo giúp Tây Sơn. 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi, Ngô Thì Nhậm được cử làm Thị lang bộ lại. Là người được nhà vua tin dùng giao cho soạn thảo giấy tờ quan trọng. 2) Tác phẩm a- Hoàn cảnh sáng tác: - 1788 Quang Trung tiến quân ra Bắc, tiêu diệt quân Thanh và bọn tay sai.Nhà Lê sụp đổ. - Bề tôi nhà Lê mang nặng tư tưởng trung quân, phản ứng tiêu cực: bất hợp tác, thậm chí chống lại phong trào Tây Sơn. - Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm thay lời mình viết “Chiếu cầu hiền”- kêu gọi những người tài đức ra giúp dân giúp nước. b- Thể loại: Chiếu - Thuộc loại văn nghị luận chính trị - xã hội do vua chúa ban ra để triều đình và nhân dân thực hiện. - Có thể nhà vua đích thân viết nhưng thường do các văn tài võ lược viết thay vua. II/ Đọc – hiểu văn bản 1. Đọc: *) Giải thích từ khó: (SGK) *) Bố cục: a- Luận điểm 1: “ Từng nghe…người hiền vậy”: mối quan hệ giữa người hiền và vua. b- Luận điểm 2: “Trước đây…lẩn tránh suốt đời”: ứng xử của người hiền khi Quang Trung ra Bắc. c- Luận điểm 3: “Nay trẫm…hay sao?”: Tấm lòng của Quang Trung với hiền tài. d- Luận điểm 4: phần còn lại: Cách cầu hiền của Quang Trung. 2. Phân tích: a- Mối quan hệ giữa người hiền và nhà vua * Tác giả ví người hiền “như sao sáng trên trời”, thiên tử là sao Bắc thần. Quy luật vận động của vũ trụ là tinh tú chầu về Bắc thần. Vai trò trọng đại của người hiền. Tạo cảm giác trang trọng thiêng liêng cho lời kêu gọi hiền tài của bài chiếu. Hiền tài ra giúp vua là hợp với quy luật của vũ trụ. * Hình ảnh “người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”, lấy từ lời Khổng tử trong sách Luận ngữ: “ Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư kì sở, chúng tinh củng chi” (dùng đức để cai trị đất nước cũng giống như sao Bắc thần đứng đúng vị trí của mình mà các sao khác phải chầu về.) => Mở đầu bài chiếu bằng lời Khổng Tử có sức thuyết phục mạnh mẽ sĩ phu Bắc Hà vì: - Họ vốn am hiểu kinh điển nho gia nên nghe đến là hiểu ngay. - Trong lòng họ, Khổng Tử là vị thánh, lời Khổng Tử là chân lý, ai cũng tin và tuân theo. => Việc cầu hiền của nhà vua là có cơ sở, căn cứ, hợp lòng trời, hợp lòng người. Lời lẽ, ý tứ giàu sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ. b- Ứng xử của người hiền khi Quang Trung ra bắc - 9 điển tích, điển cố thể hiện nội dung: + Một số người bỏ đi ở ẩn. + Một số người trốn tránh giấu mình. + Những người đó ra làm quan thì sợ hãi, hoặc im lặng như bù nhìn “kiêng dè không dám lên tiếng”, hoặc làm việc cầm chừng như kẻ “gõ mõ canh cửa” + Một số lại đi tự tử, “ra biển vào sụng” -> Đa số nho sĩ Bắc Hà không đem tài năng ra phò tá triều Tây Sơn. - Tác giả không nói thẳng ra điều trên mà dùng hình ảnh hoặc lấy trong kinh điển nho gia hoặc mang ý nghĩa tượng trưng. + Cách nói ý nhị, kín đáo, có tính chất châm biếm nhẹ nhàng. + Nhà vua tỏ ra khoan dung, tha thứ (sự hoà giải mang tầm chiến lược của vua Quang Trung.) + Tỏ ra người có kiến thức sâu rộng -> người nghe phải nể trọng. + Người nghe không tự ái mà còn tự cười về thái độ ứng xử chưa đúng của chính mình. c- Tấm lòng của Quang Trung - Hình ảnh “ghé chiếu” (ngồi bên mép chiếu chứ không ngồi chính giữa vì còn đợi người hiền tài) - “Cầu hiền”-> Sự khiêm tốn, tấm lòng chân thành, khao khát người hiền tài của Quang Trung. - Hai câu hỏi đặt ra tình thế lưỡng phân hoặc thế này, hoặc thế kia. Cả 2 đều không đúng với thực tế lúc bấy giờ. Vậy thì chỉ còn cách ra giúp triều đại mới. - Lí do phải cầu hiền. + Những khó khăn và nhiệm vụ mới chồng chất, phức tạp của triều đình. + Một mình nhà vua không thể làm hết, làm tốt trọn vẹn mọi công việc. + Theo quy luật…nhất định phải có nhiều bậc hiền tài. => Lời lẽ khiêm nhường tha thiết, lập luận chặt chẽ khiến người hiền tài không thể không ra giúp triều đại mới. d - Cách cầu hiền - Tất cả mọi tầng lớp đều được phép dâng sớ tấu bày công việc. - Tự mình dâng sớ tấu bày, các quan lại văn võ tự tiến cử. => Cách cầu hiền rộng mở, tự do, dân chủ, tiến bộ. Cụ thể, dễ thực hiện. III/ Tổng kết - Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung thể hiện một chiến lược phát hiện và sử dụng người tài để xây dựng và phát triển đất nước ngày một thêm cường thịnh. - Bài chiếu còn thể hiện một tư tưởng tiến bộ của vị vua anh minh đại diện cho nông dân với chính sách chiêu mộ người tài bằng những lý lẽ thuyết phục được minh họa bằng những dẫn chứng thực tế chứ không phải bằng giọng điệu ra lệnh của kẻ bề trên. |
E – Củng cố và hướng dẫn về nhà
- Củng cố: GV yêu cầu Hs lập sơ đồ hệ thống các luận điểm của bài chiếu.
- Về nhà : + Câu hỏi: Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” - Ngô Thì Nhậm, theo em ngày nay chúng ta có còn cần chính sách “cầu hiền” như vua Quang Trung nữa không?
+ Chuẩn bị bài đọc thêm “Xin lập khoa luật”.
Phần 4: Kiểm nghiệm
- Thực tế giảng dạy ở 2 lớp 11A6 và 11A9 năm học 2010 - 2011 và 4 lớp: 11A1, 11A2, 11A3 và 10A9 năm học 2011 – 2012 tôi nhận thấy rằng, trước khi vận dụng những biện pháp như trên (dạy theo phương pháp truyền thống lâu nay) vào dạy 2 lớp 11A6 và 11A9 (2010 - 2011) và lớp 11A1 (2011 - 2012) – lớp mà có rất nhiều học sinh học tương đối tốt môn văn, thì đa số các em cũng chỉ dừng lại ở việc nắm vững những nét chính về nội dung và nghệ thuật của văn bản, chưa có sự mở rộng, liên hệ và hệ thống hoá kiến thức bài học theo sơ đồ, cùng với đó là tinh thần chưa thực sự say mê, cuốn hút vào bài học.
Nhưng đến 3 lớp 11A2, 11A3 và 10A9, tôi đã vận dụng phương pháp như trên thì kết quả thu được:
+ Học sinh đã tích cực, hăng hái tiếp thu bài mới và làm việc có hiệu quả theo sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Các em nắm được đặc điểm nổi bật của loại văn bản nghị luận trung đại.
+ Kết quả được chứng minh qua bài kiểm tra:
Điểm Lớp | Giỏi | Khá | Trung bình | Yếu |
11A2 | 10% | 50% | 35% | 5% |
11A3 | 11% | 46% | 39% | 4% |
10A9 | 14,5% | 55% | 27 % | 3,5% |
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
- Việc nghiên cứu và bàn về phương pháp dạy đọc hiểu văn chương nói chung đã được nhiều tài liệu, nhiều người nói tới song nghiên cứu và bàn riêng về phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nghị luận trung đại thì còn rất hạn chế. Trong khi loại văn này có vị trí khá quan trọng trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới. Nên việc nghiên cứu và đưa ra cách dạy đọc hiểu có hiệu quả văn bản nghị luận trung đại là rất cần thiết.
2. Đề xuất
- Đối với giáo viên: chương trình Ngữ văn ở phổ thông hiện nay đã phản ánh rõ sự chuyển biến nhận thức về vị trí, vai trò của văn chương nghị luận trong đời sống con người. Điều quan trọng và cũng là nhiệm vụ của mỗi giáo viên là cần nỗ lực tìm tòi, sáng tạo cùng trao đổi với đồng nghiệp những phương pháp dạy học tích cực khi dạy những tác phẩm nghị luận trung đại nói riêng và các tác phẩm nghị luận nói chung để đem đến sự say mê, hứng thú cho học sinh và trả lại vẻ hấp dẫn đích thực của những văn bản đó.
- Đối với học sinh: Cần thấy được giá trị, cái hay cái đẹp của những văn bản nghị luận trung đại từ đó tích cực tìm hiểu thêm những kiến thức có liên quan từ nhiều nguồn khác nhau: sách vở, tư liệu tham khảo, Internet… để có những hiểu biết đầy đủ, có thái độ học tập tích cực, chủ động.
- Nhà trường trang bị thêm các sách tài liệu cho thư viện để giáo viên và học sinh tham khảo.
Do thời gian có hạn nên đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong được sự góp ý của quý thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn và để được áp dụng thực hiện trong những năm học tới rộng rãi hơn.
Bá Thước, ngày 15 tháng 05 năm 2012
Người thực hiện
Lê Thị Nguyệt
Lê Thị Nguyệt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo Dục.
. Hoàng Thị Mai, Kiều Thọ Long, Phương pháp dạy học văn bản nghị luận ở trường phổ thông, NXB Giáo Dục.
. Đỗ Ngọc Thống, Vẻ đẹp của văn nghị luận, Văn học và tuổi trẻ.
. Từ điển thuật ngữ Văn học ( 4/1999 ), NXB Đại học Quốc Gia.
. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, 11, NXB Giáo Dục.
XEM THÊM NHỮNG CHỦ ĐỀ KHÁC.
- Giáo án sinh hoạt lớp theo công văn 2345
- KẾ HOẠCH GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG MÔN
- Giáo án sinh hoạt chủ nhiệm tiểu học
- MẪU BÁO CÁO sinh hoạt chuyên môn theo chuyên đề
- Giáo an sinh hoạt dưới cờ lớp 1
- MẪU MẪU NỘI DUNG SINH HOẠT LỚP CHỦ NHIỆM
- MẪU Sổ ghi chép sinh hoạt chuyên môn dự giờ
- Biên bản sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
- MẪU BIÊN BẢN SINH HOẠT CHỦ NHIỆM & BIÊN BẢN SINH HOẠT ...
- Powerpoint sinh hoạt chủ điểm tháng 3 ở tiểu học
- Giáo án sinh hoạt lớp khối 6
- NỘI DUNG + MẪU SỔ SINH HOẠT CHUYÊN MÔN TIỂU HỌC NĂM ...
- GIÁO ÁN HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM LỚP 6 CHỦ ĐỀ 1 TUẦN 2 ...
- Bài thu hoạch về sinh hoạt chi bộ
- Mẫu biên bản sinh hoạt tổ chuyên môn THCS
- Trình tự tiết sinh hoạt lớp ở tiểu học
- MẪU kế hoạch đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn
- Biên bản sinh hoạt rút kinh nghiệm
- Giáo án sinh hoạt chào cờ đầu tuần
- GIÁO ÁN ĐIỆN TỬ sinh hoạt lớp chủ đề 20/11
- Giáo án tiết sinh hoạt chủ nhiệm lớp 7
- MẪU Sinh hoạt lớp chủ đề 20/11
- Những trò chơi sinh hoạt trong lớp
- TRÒ CHƠI SINH HOẠT TẬP THỂ
- trò chơi powerpoint sinh hoạt lớp
- Giáo án tiết sinh hoạt lớp ở tiểu học
- MẪU sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học tiểu học
- Đáp án module 4 môn Công nghệ thông tin
- Đáp án module 4 môn KHTN
- Module 4 ngữ văn thcs
- Đáp án module 4 GVPT
- Đáp án câu hỏi tương tác module 5
- Sổ kiểm tra đánh giá giáo viên về công tác chuyên môn
- Mẫu phiếu đánh giá và phân loại viên chức
- Tài liệu minh chứng đánh giá chuẩn giáo viên tiểu học
- Bản tự đánh giá xếp loại giáo viên
- Mẫu đánh giá hiệu trưởng
- Tài liệu minh chứng Temis giáo viên
- Giáo án sinh hoạt lớp theo công văn 2345
- MẪU MẪU NỘI DUNG SINH HOẠT LỚP CHỦ NHIỆM
- Giáo án sinh hoạt lớp khối 6
- Trình tự tiết sinh hoạt lớp ở tiểu học
- MẪU Sinh hoạt lớp chủ đề 20/11
- trò chơi powerpoint sinh hoạt lớp
- sinh hoạt lớp chủ đề 20/11
- Giáo án tiết sinh hoạt lớp ở tiểu học
- Bài văn Kể lại một buổi sinh hoạt lớp
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM LỚP 9
- POWERPOINT SINH HOẠT LỚP
- SKKN giáo viên chủ nhiệm giỏi
- Mẫu nhãn vở đẹp cho học sinh
- Tải mẫu nhãn vở đẹp trên Word
- Hướng dẫn rà soát minh chứng tự đánh giá của giáo viên trên temis
- MẪU KẾ HOẠCH TƯ VẤN, HỖ TRỢ HỌC SINH TIỂU HỌC
- Phiếu chấm điểm bài thuyết trình
- Mẫu kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp tiểu học
- bảng kế hoạch học tập trong 1 tuần
- File làm kỷ yếu cho lớp
- Mẫu thiệp chúc mừng sinh nhật
- Mẫu thiệp tặng mẹ
- Mẫu sổ chủ nhiệm tiểu học
- Giáo án sinh hoạt chủ nhiệm tiểu học
- Mẫu thư khen ngợi học sinh tiểu học
- Sổ ghi chép sinh hoạt chuyên môn dự giờ
- tải mẫu powerpoint đẹp
- Mẫu kịch bản chương trình họp phụ huynh
- MẪU kế hoạch năm học mới
- MẪU SỔ CHỦ NHIỆM
- File minh chứng TEMIS
- powerpoint mẫu đẹp dùng để soạn giáo án
- Mẫu powerpoint tết
- Mẫu powerpoint dạy học
- mẫu powerpoint cho giáo dục
- Mẫu powerpoint sinh hoạt lớp
- các mẫu trò chơi trên powerpoint
- Mẫu slide powerpoint bài giảng
- Trò chơi powerpoint hay nhất
- Mẫu powerpoint họp phụ huynh đầu năm
- Mẫu powerpoint họp phụ huynh
- mẫu powerpoint marketing
- Mẫu PowerPoint họp phụ huynh
- tải mẫu powerpoint đẹp
- Mẫu powerpoint họp phụ huynh cuối năm
- FILE mẫu giấy 4 ô ly luyện viết chữ đẹp
- MẪU GIẤT VIẾT ĐẸP CHO TẾT
- MẪU GIẤY KHEN HỌC SINH XUẤT SẮC
- Mẫu giấy thi viết chữ đẹp cho học sinh tiểu học
- Mẫu giấy thi viết chữ đẹp 4 ô ly
- Mẫu giấy thi viết chữ đẹp cấp tiểu học
- Thư mời họp phụ huynh trực tuyến LỚP 1
- Mẫu giấy thi viết chữ đẹp 5 ô ly
- mẫu giấy 5 ô ly ngang
- Mẫu giấy thi viết chữ đẹp cho học sinh tiểu học
- Mẫu giấy ô ly luyện viết chữ đẹp tiểu học
- Cách trang trí bảng 20/11
- Nền bảng xanh tiểu học
- powerpoint mẫu đẹp
- Mẫu powerpoint tết
- Mẫu powerpoint dạy học đẹp
- mẫu powerpoint cho giáo dục
- Mẫu template powerpoint
- Mẫu powerpoint sinh hoạt lớp
- Trò chơi powerpoint
- Mẫu powerpoint họp phụ huynh
- tải mẫu powerpoint
- POWERPOINT SƠ KẾT KỲ 1
- Mẫu nội quy lớp học
- Mẫu giáo án ppt
- Mẫu PowerPoint trò chơi
- Mẫu template powerpoint đẹp
- hình nền đẹp cho powerpoint dễ thương
- hình nền powerpoint hoạt hình
- font chữ tiểu học
- Mẫu powerpoint vinh danh
- Powerpoint trò chơi
- Sổ khuyết tật
- CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM ONLINE
- Bài tập cuối khóa Module 9 Tiểu học
- Mẫu giấy ô li tập viết cho học sinh
- Bài thuyết trình thi giáo viên chủ nhiệm giỏi thcs
- Sổ kiểm tra đánh giá giáo viên
- Mẫu phiếu đánh giá và phân loại viên chức
- Mẫu đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên trên temis
- Hướng dẫn rà soát minh chứng tự đánh giá của giáo viên
- Tài liệu minh chứng đánh giá chuẩn giáo viên tiểu học
- minh chứng phiếu tự đánh giá của giáo viên
- File minh chứng TEMIS
- Bản tự đánh giá xếp loại giáo viên
- Tài liệu minh chứng Temis giáo viên
- Mẫu đánh giá hiệu trưởng
- Tải minh chứng temis
- SKKN giáo viên chủ nhiệm giỏi
- Bài tập cuối khóa module 9 KHTN Sinh LỚP 6
- Bài tập cuối khóa module 9 MÔN VẬT LÝ LỚP 6
- 140 trò chơi giáo dục PPT
- Tải thông tư 27 đánh giá học sinh tiểu học
- Các phương pháp dạy học ở tiểu học hiện nay
- Bài tập cuối khóa Module 9 THCS
- Sổ theo dõi tiến bộ của học sinh khuyết tật
- Nhận xét đánh giá hiệu trưởng, hiệu phó
- Mẫu đánh giá xếp loại giáo viên cuối năm
- Mẫu đánh giá, xếp loại nhân viên
- Các biểu mẫu đánh giá chuẩn hiệu trưởng
- Mẫu đánh giá xếp loại viên chức cuối năm
- Phiếu đánh giá xếp loại công chức
- Mẫu đơn xin nghỉ phép của giáo viên
- Mẫu giấy làm bài kiểm tra tiểu học
- Mẫu đơn hỗ trợ chi phí học tập mới nhất
- Mẫu đánh giá chuẩn giáo viên theo thông tư 20
- Mẫu đơn xin tình nguyện công tác
- Đơn xin dạy thêm của giáo viên
- Sáng kiến kinh nghiệm mĩ thuật tiểu học mới nhất
- Đơn xin cấp giấy phép dạy thêm ngoài nhà trường
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MĨ THUẬT TIỂU HỌC MỚI NHẤT
- Bài tập cuối khóa Module 9 môn Toán Tiểu học
- Xây dựng học liệu số
- Mẫu slide bài giảng đẹp miễn phí
- Sáng kiến kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục
- Sản phẩm cuối khóa module 9 môn đạo đức
- Sản phẩm cuối khóa module 9 môn toán tiểu học NĂM 2022
- Ôn thi violympic toán lớp 1,2,3,4,5
- Mẫu nhận xét năng lực và phẩm chất của học sinh
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM QUẢN LÝ TIỂU HỌC MỚI NHẤT
- Đáp án module 9 môn tiếng việt tiểu học nội dung 1,2,3
- Ôn thi violympic toán lớp 1,2,3,4,5
- Giáo án sinh hoạt lớp thi giáo viên chủ nhiệm giỏi
- Giáo án thi giáo viên chủ nhiệm giỏi tiểu học
- Sản phẩm cuối khóa module 9 khoa học tự nhiên TIỂU HỌC
- Sáng kiến kinh nghiệm to chức trò chơi dân gian cho học sinh tiểu học
- Nhận xét năng lực phẩm chất học sinh tiểu học
- Sáng kiến kinh nghiệm năm 2022
- Sổ kế hoạch giáo dục cá nhân trẻ khuyết tật
- Mẫu template đẹp cho powerpoint
- MẪU Powerpoint họp phụ huynh cuối năm
- Mẫu họp phụ huynh cuối năm 2022
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MÔN NGỮ VĂN 2022
- Sáng Kiến kinh nghiệm năm 2022
- Sổ chủ nhiệm tiểu học hoàn chỉnh